Khái niệm sắc không là một trong những khái niệm trừu tượng nhất của triết học Phật giáo. Khái niệm này dựa trên bản chất vô ngã (không thật tướng) và vô thường của sự vật.
Sắc tức thị Không, Không tức thị Sắc Sự sống hằng ngày cho chúng ta thấy rõ sự phụ thuộc của chúng ta vào môi trường chung quanh như thế nào. Nhưng phải chăng mọi sự vật trong vũ trụ đều ảnh hưởng lẫn nhau, chẳng hạn trái đất và một hành tinh xa xôi nào đó trong Ngân Hà hay trong một thiên hà nào khác? Lý thuyết tương đối tổng quát khẳng định rằng tất cả sự vật kể cả không gian và thời gian đều liên đới phụ thuộc lẫn nhau. Trong bài ‘Thời gian và không gian tương quan phụ thuộc với sự vật như thế nào' (Chuyển Luân số 10) tôi đã trích dẫn chứng minh điều này. Tính liên đới phụ thuộc của sự vật chứng minh hùng hồn rằng mỗi "cái tôi" phải phụ thuộc vào tất cả những "cái không tôi" để tồn tại. Cho dù một ẩn sĩ ở rừng sâu cũng không thể sống độc lập, trái lại phải nhờ cây cỏ thú rừng để tồn tại. Như vậy mỗi ‘cái tôi’ đều do những ‘cái không tôi’ tạo thành. Phật Giáo được hình thành bằng những cái không Phật Giáo. Ky-Tô Giáo hay bất cứ một tôn giáo nào khác cũng tương tự như vậy. Do đó Phật Giáo có (bởi vì Phật Giáo đang là một tôn giáo sờ sờ trước mắt chúng ta) mà đồng thời cũng không có (bởi vì Phật Giáo thật ra hình thành từ những cái không Phật Giáo), và ngược lại. Tương tự, cái tôi (hay bản ngã) cũng vậy, có mà không, không mà có. Trên đây là ý nghĩa trừu tượng của câu nói ‘Sắc tức thị không, không tức thị sắc’. Đối với nghĩa đen cụ thể của câu nói, nhiều tu sĩ Phật Giáo cũng đã bàn đến. Thiền Sư Đại Hàn, Mu Soeng Sunim, tác giả quyển ‘Heart Sutra, Ancient Buddhist Wisdom in the light of Quatum Reality’, đã nêu lên sự song song về khái niệm hư vô của Phật Giáo với lý thuyết vật lý nguyên lượng. Trong bài viết này tôi xin nêu lên một ví dụ cụ thể khác: Năng lượng của vũ trụ thật ra có mà không, không mà có.
Mỗi chúng ta hẳn đã hình dung đến sự bao la của vũ trụ. Chỉ du hành vòng quanh trái đất khoảng 25 ngàn dặm, chẳng bao nhiêu người đã thực hiện được. Mặt trăng là nơi xa xôi nhất một vài phi hành gia đã đặt chân đến, cách trái đất 240 ngàn dặm. Nếu muốn thám hiểm mặt trời chúng ta phải du hành một khoảng cách 400 lần xa hơn mặt trăng. Mặt đất nếu được trải rộng lên bề mặt trên mặt trời chỉ chiếm một phần diện tích nhỏ bé của mặt trời mà thôi. Mặt trời của chúng ta không phải duy nhất, trái lại chỉ là một trong khoảng 100 tỷ tinh tú khác trong dải Ngân Hà. Nếu chúng ta muốn du hành đến hệ ba sao Alpha Centauri là những láng giềng kế cận chúng ta nhất, phi hành gia phải du hành một khoảng cách 100 triệu lần xa hơn khoảng cách từ trái đất đến mặt trăng, một khoảng cách mà ngay cả ánh sáng cũng phải mất 4 năm mới đến nơi. Nếu muốn du hành liên hành tinh trong Ngân Hà, phải hình dung đến cái đường kính khổng lồ gấp 20 ngàn lần khoảng cách từ chúng ta đến Alpha Centauri. Hơn nữa, Ngân Hà của chúng ta chỉ là một chấm nhỏ trong vũ trụ. Với kỹ thuật viễn vọng ngày nay, chúng ta đã quan sát được khoảng 100 tỷ thiên hà na ná giống Ngân Hà chúng ta, với mỗi thiên hà có khoảng 100 tỷ tinh tú. Chỉ trong tầm nhìn của chúng ta, vũ trụ đã bao la như thế, chứa đựng một khối vật chất khổng lồ như thế. Theo Einstein, một khối lượng vật chất m tương đương với một năng lượng khổng lồ E = mc2 trong đó c là tốc độ ánh sáng. (Nếu m đo bằng grams và c = 30 tỷ centimeters cho mỗi giây đồng hồ thì E sẽ đo bằng ergs). Nói tóm lại vũ trụ chúng ta đang có một năng lượng khổng lồ, cho dù chúng ta chỉ kể đến phần quan sát được của vũ trụ mà thôi. Như vậy nói vũ trụ vô năng phải chăng là một nghịch lý?
Khó khăn trong việc xây dựng một lý thuyết khoa học về nguồn gốc của sự vật bắt nguồn từ những định luật bảo toàn, ví dụ định luật bảo toàn năng lượng. Có lẽ những định luật bảo toàn của khoa học ngày nay xuất phát từ những tư tưởng triết học từ thời cổ Hy-Lạp. Vào khoảng 500 năm trước công nguyên, triết gia Parmenides đã cho rằng sự vật là bất sinh bất diệt. Sự vật không thể biến hiện một cách không tiên đoán được, trái lại chúng biến hóa một cách liên tục và không ngừng tuân theo những nguyên lý của tạo hóa. Khái niệm bất sinh bất diệt này được cụ thể hóa một thế kỷ sau đó qua lý thuyết nguyên tử khởi xướng bởi Leucippus và Democritus, cho rằng vạn vật là kết hợp của những nguyên tử tồn tại vĩnh viễn và không thể phân chia. Những tư tưởng này được phản ảnh một cách mạnh mẽ bởi Lucretius vào thế kỷ thứ nhất trước công nguyên. Trong quyển ‘On the Nature of Things’ Lucretius viết rằng không có sự vật gì có thể tạo thành từ hư không (Nothing can be created from nothing). Ông lập luận rằng vật chất bao gồm hai loại, những nguyên tử và những kết hợp của những nguyên tử. Nguyên tử có độ rắn chắc tuyệt đối nên không thể bị phá vỡ và do đó được duy trì vĩnh viễn. Mãi cho đến thế kỷ 18 những tư tưởng triết học trên mới trở thành những định luật bảo toàn của khoa học.
Khởi đầu là Lavoisier (1743 - 1794), nhà hóa học người Pháp, khám phá rằng khi sulphur hoặc phosphorus được đốt cháy, sản phẩm nhận được có trọng lượng nặng hơn những vật liệu đã dùng. Ban đầu ông tưởng rằng điều này chứng minh vật chất không bảo toàn trọng lượng. Tuy nhiên vì sự cháy cần oxygen, và trọng lượng khí oxygen đã dùng vừa vặn bằng trọng lượng thừa ra của sản phẩm. Kết luận về sự bảo toàn khối lượng của vật chất được củng cố bởi Dalton (1766 - 1844), nhà hóa học Anh Quốc. Dalton đã đưa ra bản trọng lượng của một số nguyên tử. Trong khoảng thời gian này tuy người ta chưa biết sự tương đương giữa vật chất và năng lượng, các nhà bác học cũng đã nghiên cứu đến vấn đề bảo toàn năng lượng. Nói nôm na, năng lượng là khả năng làm việc của một hệ thống, do đó khái niệm về năng lượng liên hệ mật thiết với sự chuyển động của vật thể. Mọi vật chuyển động đều có một loại năng lượng gọi là động năng. Khi vật đứng yên, động năng triệt tiêu. Khi thả một viên sỏi (giả sử có khối lượng 1 gram), động năng của viên sỏi tăng dần từ số không, và tùy thuộc vào độ cao của nó đến mặt đất. Hẳn động năng của viên sỏi đã được cung cấp bởi trường trọng lực của trái đất, và năng lượng cung cấp này gọi là thế năng.
Người ta đo được rằng cứ mỗi centimeter viên sỏi rơi xuống, động năng của nó tăng lên 980 ergs trong lúc thế năng cũng giảm xuống 980 ergs. Như vậy tổng số năng lượng của viên sỏi vẫn giống nhau ở mọi độ cao, nghĩa là năng lượng của viên sỏi được bảo toàn. Tất nhiên năng lượng của một hệ thống có thể ở dưới những dạng khác hơn thế năng và động năng, ví dụ khi có sự hiện diện của lực ma sát, nhiệt năng sẽ xuất hiện. Nói tóm lại dù ở bất cứ dưới dạng nào, năng lượng của một hệ thống kín không bao giờ thay đổi. Ngày nay với phương trình Einstein, E = mc2, vật chất và năng lượng tuy hai mà một (và đồng thời cũng tuy một mà hai). Vì tốc độ ánh sáng c rất lớn nên chỉ một khối lượng nhỏ bé tương đương với một năng lượng rất lớn. Nếu một cân Anh (pound) vật chất có thể biến hết thành năng lượng (11 tỷ kilowatt giờ), số năng lượng này sẽ đủ để cung cấp điện lực cho hằng triệu gia đình. Đối với những lò hạt nhân tuy chỉ khoảng một phần nghìn khối lượng uranium biến thành năng lượng, số năng lượng này cũng đã rất lớn. Trở lại câu hỏi về năng lượng của vũ trụ. Nếu vũ trụ hình thành theo đúng những định luật khoa học tự nhiên trong đó có định luật bảo toàn năng lượng thì tổng số năng lượng của vũ trụ lúc nào cũng phải như nhau. Chúng ta hãy phiêu lưu đi tìm cái hằng số bí ẩn đó của vũ trụ.
Ngày nay hầu hết giới khoa học đều chấp nhận vũ trụ của chúng ta đã được hình thành từ vụ nổ lớn (the big bang). Nhưng khi ngược dòng thời gian đi tìm cội nguồn, khoa học không thể đi xa hơn một giây đồng hồ sau vụ nổ lớn. Khoảng thời gian từ vụ nổ lớn đến 10-43 giây sau đó, lý thuyết tương đối tổng quát mất hiệu lực. Một lý thuyết mới, phối hợp với thuyết nguyên lượng, cần phải được thiết lập để có thể tìm hiểu vũ trụ trong khoảng thời gian này. Từ 10-43 giây đến 1 giây đồng hồ, nhiệt độ của vũ trụ rất cao, ngoài tầm tay của ngành vật lý lý thuyết về hạt, do đó tuy lý thuyết tương đối tổng quát áp dụng được trong khoảng thời gian này, kết quả vẫn không đáng tin cậy. Chỉ từ một giây đồng hồ trở về sau, nhiệt độ vũ trụ xuống thấp hơn, các định luật khoa học trở nên có hiệu lực, những kết quả tìm được có thể tin cậy. Tuy nhiên vẫn còn ba mâu thuẫn chính chưa được giải thích rõ ràng. Mâu thuẫn thứ nhất là tuổi của vũ trụ. Kết quả lý thuyết cho biết tuổi vũ trụ hiện tại ở trong khoảng từ 10 đến 20 tỷ năm, một khảng sai số quá lớn.
Một vài kết quả cụ thể đã chứng tỏ một cách mâu thuẫn rằng tuổi vũ trụ còn trẻ hơn tuổi của một số vì sao! Mâu thuẫn thứ hai là về khoảng cách đường chân trời. Khoảng cách đường chân trời vào một thời điểm nào đó là khoảng cách tối đa mà ánh sáng đã di chuyển từ vụ nổ lớn đến thời điểm đó. Vệ tinh COBE (Cosmic Background Explorer) được phóng năm 1989 để đo phóng xạ vũ trụ, và biết được rằng phóng xạ này bắt nguồn từ khi vũ trụ mới 300000 tuổi. Nhưng khi tính khoảng cách từ thời điểm đó đến hiện tại, khoảng cách này bằng 100 lần khoảng cách đường chân trời, nghĩa là dài hơn 100 lần kích thước hiện tại của vũ trụ! Mâu thuẫn thứ ba là về những nam châm đơn cực. Như chúng ta biết mỗi nam châm thông thường có hai cực Bắc và Nam với những từ lực mạnh như nhau. Tuy nhiên những lý thuyết GUT (Grand Unified Theories) tiên đoán sự tồn tại của những nam châm đơn cực, chỉ có cực Bắc hoặc cực Nam mà thôi. Cho đến nay sự tồn tại của nam châm đơn cực vẫn chưa được kiểm chứng. Nhưng nếu phối hợp thuyết vụ nổ lớn với GUT người ta chứng minh được rằng có quá nhiều nam châm đơn cực vào thời thơ ấu của vũ trụ!
Bí mật của vũ trụ trước thời gian 10-43 giây cộng thêm những mâu thuẫn trên đây là lý do để lý thuyết vũ trụ gia tốc bành trướng (Inflationary Universe) ra đời. Lý thuyết này đã giải quyết được mâu thuẫn thứ hai và thứ ba. Hơn nữa đã có thể giải thích được nguồn gốc của vật chất trong phần vũ trụ chúng ta quan sát được. Theo lý thuyết này, vũ trụ chúng ta quan sát được thật ra chỉ là một phần rất nhỏ bé mà thôi. Khi một vùng giả chân không thoái hóa, một vũ trụ tí hon có thể hình thành, ban đầu như một bong bóng nhỏ, dần dần bành trướng ra. (Giả chân không là một dạng vật chất đặc biệt, có áp suất âm do đó tạo ra một sức đẩy thay vì sức hút. Vật lý lý thuyết đã chứng minh sự tồn tại của loại vật chất đặc biệt này). Sự thoái hóa của giả chân không không chỉ tạo ra một bong bóng mà trái lại có thể tạo ra vô số bong bóng. Nói một cách khác vũ trụ của chúng ta có thể chỉ là một trong vô số những vũ trụ khác ngoài tầm quan sát của chúng ta. Sự thoái hóa của giả chân không cũng không phải đồng loạt hay theo một thứ tự thời gian đều đặn nào đó, trái lại sự thoái hóa là ngẫu nhiên. Vũ trụ của chúng ta hình thành do một trong rất nhiều sự ngẫu nhiên đó. Có thể có nhiều vũ trụ khác già nua hơn vũ trụ chúng ta nhiều. Cũng có thể có những vũ trụ trẻ hơn hoặc sẽ hình thành trong tương lai. Khi những vũ trụ này hết tuổi thọ (thoái hóa hoặc thu nhỏ lại) những vũ trụ mới sẽ thay thế. Và như vậy vũ trụ (đúng ra phải nói toàn bộ vũ trụ) sẽ mãi mãi còn đó.
Có một câu hỏi thường vẫn được tranh luận: Mãi mãi tồn tại trong tương lai phải chăng cũng hàm ý mãi mãi tồn tại trong quá khứ? Quan niệm về vũ trụ không có bắt đầu không có kết thúc được bảo vệ bởi hai lý thuyết trước đây. Thứ nhất là lý thuyết về trạng thái (vĩnh viễn) ổn định của vũ trụ: Vũ trụ là vô hạn, và để giữ mật độ vật chất không thay đổi khi vũ trụ bành trướng, vật chất mới liên tục được hình thành. Vũ trụ chỉ có một nhưng mãi mãi còn đó, không có bắt đầu cũng không có kết thúc. Thứ hai là lý thuyết về một vũ trụ tuần hoàn, hình thành, bành trướng rồi thoái hóa, chuẩn bị tái sinh cho một chu kỳ khác. Ngày nay đã có bằng chứng thực nghiệm để bác bỏ lý thuyết thứ nhất, trong lúc nhiều nhà khoa học vẫn nghi ngờ lý thuyết thứ hai. Như vậy khi tranh luận về một vũ trụ không có khởi điểm, chỉ có thuyết vũ trụ gia tốc bành trướng là một hy vọng. Tuy lý thuyết này khẳng định toàn bộ vũ trụ (nghĩa là tập hợp tất cả những vũ trụ có thể có) mãi mãi tồn tại trong tương lai, người ta vẫn không biết vũ trụ có mãi mãi tồn tại trong quá khứ không, trừ phi giả chân không vĩnh viễn tồn tại, một điều mà chưa ai có thể chứng minh được.
Giả sử vũ trụ có một điểm bắt đầu (và đây là giả thuyết đang được nhiều nhà khoa học tích cực nghiên cứu), toàn bộ vũ trụ đã bắt đầu như thế nào? Theo lý thuyết nguyên lượng, chân không không yên lặng như chúng ta hình dung, trái lại là nơi thế giới những hạt cực bé vẫn tích cực hoạt động. Chẳng cặp electron và positron có thể va chạm trong chân không và biến thành năng lượng. Một dao động như thế trong chân không thường kéo dài khoảng 10-21 giây đồng hồ. Thông thường thời gian dao động nguyên lượng tùy thuộc vào khối lượng của vật thể. Vật có khối lượng lớn hơn, thời gian dao động sẽ ngắn hơn. Để một dao động có thể tồn tại 15 tỷ năm như vũ trụ của chúng ta, khối lượng của hạt phải không quá 10-65 grams (1038 lần nhỏ hơn khối lượng của một electron). Nếu lý thuyết vũ trụ gia tốc bành trướng là đúng, nghĩa là toàn bộ vũ trụ mãi mãi tồn tại trong tương lai, thì khối lượng của hạt phải bằng không, nghĩa là vũ trụ phải bắt đầu từ hư không. Do đó tổng số năng lượng của toàn bộ vũ trụ phải bằng không. Khối vật chất khổng lồ trong toàn bộ vũ trụ (năng lượng dương) thật ra cân bằng với thế năng của trọng trường của toàn bộ vũ trụ (năng lượng âm). Vật chất (tức năng lượng) tuy đang sờ sờ trước mắt chúng ta, nhưng thật ra vật chất đó đến từ hư vô. Có mà không, không mà có.
Tâm Tàn
Minh Thư (Tuvien.com)