.
Hồi đó, khi tuổi thanh niên của tôi còn đủ sức dặm ngàn đây đó, một điểm dừng chân luôn là một kỷ niệm đáng nhớ. Trong đó có một lần, ghé một ngôi chùa Ni, nằm sâu hút bên trong con đường tỉnh lộ duyên hải miền trung.
Việc đầu tiên và "thủ tục" của tất cả những ai-nhất là Phật tử-đến chùa lễ Phật; trước khi lễ Phật phải lễ Tổ. Câu chuyện của tôi cũng bắt đầu từ nơi này. Tôi ngạc nhiên: Linh Vị của vị trụ trì thứ ba ngôi chùa này là một thùng kiếng thủy tinh trong suốt, trong đó chỉ có vài cọng tre khô, củ kỷ, có dấu nọt đục, còn dính vài miếng giấy màu, loại giấy thường được học sinh dùng để bao tập thời xưa; được chư Ni cột gọn lại bằng một dãi nơ màu vàng hiền hậu.
- Hình ảnh, linh vị của vị này cũng có, nhưng tôn đức Ni chùa này ngày trước chỉ thờ riêng. Sau này chúng tôi có ý muốn bày thêm linh vị và ảnh ra nhưng nghĩ lại làm rứa răng phải. Bao đời nớ tới ri vẫn một lòng y giáo phụng hành.
Tôi giật thót người vì sự hiện diện bất ngờ của vị Ni sư sau lưng, đã nói trúng ngay tâm trạng thắc mắc sự việc lạ lùng này của vị kế thế trụ trì thứ ba của ngôi chùa.
Chuyện kể rằng, hồi đó, ...Vùng này còn hoang sơ, cư dân thưa thớt. Đói nghèo như chuyện mưa nắng thường ngày. Ngôi chùa này ngày ấy cũng chỉ ọp ẹp vài gian mái tranh. Vậy mà chiến tranh cũng không từ bỏ nơi này. Bom đạn ập đến triền miên khiến cảnh khổ ngày càng thêm khổ. Rồi có một hôm, hình như chiến tranh muốn xóa tên ngôi làng bé nhỏ vốn nghèo xác xơ này nên bom đạn cày xới suốt ba ngày đêm không ngớt. Dân làng phải di tản gần hết, mạnh ai nấy tự tìm con lộ đào sinh cho mình. Còn lại chăng chỉ là những thây chết - những con người xấu số không vượt qua được ngày chiến tranh.
Đêm thứ tư, khi tiếng súng đạn tạm lắng êm, Thầy (Ni Sư trụ trì lúc ấy và theo cách gọi của Ni giới dành cho vị Bổn Sư của mình) được vị thị giã chở hối hả về chùa trên chiếc xe đạp cọc cạch leo lét ánh đẻn bão đong đưa trước ghi đông. Về không phải đề thăm chùa còn lại những gì hoặc về không phải để lấy thêm vài món đồ mà lúc đi di tản hối hả chưa kịp mang theo; mà về để lấp vội vài thi thể của chư Ni và của những người dân Phật tử quanh vùng, và về để nơi chánh điện đổ nát này giữa vùng chiến sự, thầy trò cất lên lời kinh siêu độ, an ủi những mãnh đời đã chịu chung phần cộng nghiệp với đất nước thưở loạn ly.
Trước khi xe đạp quẹo đường dẫn vào chùa, Ni sư bảo thị giã dừng lại, rồi dáo dác tìm nơi phát ra tiếng nấc yếu ớt...
- Đây nì! vị thị giã phát hiện - Bạch Thầy một bé gái độ 9 tuổi!
Ni sư tiến lại gần. Vị thị giã cầm đèn bão giơ cao lên. Đôi mắt già nua cố gắng thu hết hình ảnh tang thương trần thế, rơi hai giọt lệ:
- Răng mà khổ ri ! Cha mẹ mô rồi mà...!
Người nằm bên vũng máu kia là mẹ em bé, còn em hoảng loạn, sợ hải cộng với đói khát không còn đủ sức phát ra tiếng khóc. Vậy đó, nhưng lạ lùng làm sao, em nằm tựa bên xác mẹ mà tay vẫn ôm chặt chiếc lồng đèn đã gảy vụng - có lẽ là đèn ngôi sao. Em được Ni sư bồng vào chùa, đến mấy ngày sau trên giường nằm dưỡng sức, tay em vẫn không rời nhúm lồng đèn gảy nát ấy.
- Thôi ! Con bỏ nó đi, để sư cô làm lại cho con cái mới.
Mỗi lấn có ai dụ dỗ nói thế ,em lập tức bật khóc và càng khóc lớn hơn như để tăng thêm sức mạnh cho đôi tay bé bỏng ghì chặt hơn chiến lồng đèn. Chẵng những thế ,khi không có chiếc lồng đèn ấy trong tay từ việc ăn,uống tắm rửa v..v..em nhât quyết không chịu vâng lời các sư cô .
- Biết việc đó ẩn chứa một tiềm năng duyên khởi nào đó nên Ni sư dặn dò chúng tôi nên tránh thắc mắc hay chạm đến chiếc lồng đèn, ngược lại phải càng tỏ ra trân trọng như chính em trân trọng nâng niu nó - Vị sư cô kể.
Nhờ vậy, em tỏ ra tin tưởng và dễ gần gủi hơn. Và cũng nhờ sự gần gũi ấy, qua những lời kể chắp vá của em, câu chuyện được quý sư cô kết chuỗi lại, xuyên suốt mọi thực hư. Chuyện của em bé cũng đến nỗi bí hiễm, ly kỳ nhưng nó lấp lánh sáng ngời nghĩa cử hiếu đạo.
Tất cả cũng chỉ vì nghèo khổ mà ra! thế nhưng nó không phải là lý do để đổ tháo sự tha hóa vào đấy vô tội vạ. Cái nghèo đáng nói ở đây là nhờ nó mà sáng ngời câu hiếu đạo; nhờ nó mà sẵn có con đường đi thẳng và nhờ nó mà con người ta cảm thấy hạnh phúc khi biết sống tri túc vừa đủ phận mình.
Tôi không dám mở đóng ngoặc kép cho hai từ hạnh phúc vừa nói, vì lẽ làm như vậy hóa ra mĩa mai em bé này. Nhưng nếu còn vướng mắc cho hai từ hạnh phúc này thì tôi sẽ không ngần ngại chỉ vào hình ảnh cô bé đang ôm chiếc lồng đèn không còn hình dạng vào ngực một cách tràn đầy hạnh phúc! Sợ mất hạnh phúc đó sao?.
Lồng đèn ngôi sao! Dễ làm. Chỉ cần chặt hai ống trúc bằng nhau, chẻ dọc đều và chọn ra mười cây. Tiếp theo xếp thành hình ngôi sao năm cánh bằng nhau rồi dùng dây thun hoặc kẽm buộc lại mỗi đầu. Làm hai cái như thế, sau đó đặt chồng chúng lên nhau, hai mặt xanh xoay ra ngoài, dùng thun hoặc kẽm buộc chặt năm cánh cũa mặt ngôi sao lại. Sau tiếp chặt năm cây chống bằng nhau và chèn vào giữa nách mỗi cánh sao. Ngôi sao đã nổi, việc còn lại là dán giấy màu – Hồi xưa dán giấy kiếng là sang lắm, phần lớn các lồng đèn ngôi sao tự làm đều dán giấy màu, loại giấy bao tập học sinh dễ mua và rẻ - Còn trúc hoặc tre nhà nào mà chẵng có trồng.
Vậy đó, dễ làm dễ có mà lại có những gia đình muốn có một cái đèn ông sao cho con chơi cũng là một điều khó khăn, dù lổng đèn ngôi sao chỉ dành cho những con nhà nghèo. Sư Cô kể tiếp chuyện em bé:
Hứa với con sẽ làm một cái để trung thu có mà chơi với chúng bạn hàng xóm, lời hứa cứ đi theo mấy mùa trung thu trôi qua với cơm áo rách vai. Đến mùa trung thu năm kia mẹ mới làm được cho con một cái. Dù mẹ làm ngôi sao méo xẹo, dán giấy chấp vá tùm lum, nhưng em vui quá là vui. Em chơi tung tăng với nó qua ba mùa trung thu và lần này là năm thứ tư, ngay cái đêm định mệnh này.
Mẹ không có thì giờ đâu mà làm lại cho con cái mới dù có hứa đi hứa lại nhiếu lần. Thậm chí mẹ còn nói nếu mùa này gặt lúa mướn được bộn tiền sẽ dành chúy đỉnh ra phố chợ mua cho con cái lồng đèn con cá hay con bướm gì đó. Nhưng con hỏng thèm đâu, hỏng phải là con hỏng thích nhưng nếu mình bộc lộ niềm vui sướng của mình thì chỉ làm cho mẹ tăng thêm nỗi lo buồn, cực nhọc. Thôi! con chơi cái lồng đèn ngôi sao này được rồi. Con chơi cho tới lớn luôn.
Khi nghe con nói như vậy, lúc ấy con thấy hình như mẹ bị bụi bay vô mắt hay sao đó mà cứ thấy mẹ xoay lưng kéo vạt áo lau hoài hà! Ôi! Nhìn cái lưng mẹ càng ngày càng còng thêm; lưng áo đầy vệt mồ hôi muối giăng đầy, và sờn tua lai vạt quá nhiều!
- Mẹ mi khóc đấy !
- Mẹ mi nghe rứa vui trong lòng vì biết con rất thương mẹ đó!
Quý sư cô nói thế nhưng con cũng biết: Con sinh ra, ba con đâu mất, chẳng biết hai bên ông bà nội ngoại là ai, ở đâu. Tất cả con chỉ biết có mỗi hình dánh của mẹ con thôi. Mẹ cho con cục kẹo, cái bánh, con ráng nhai và ăn, ăn cho thiệt lâu vì sợ mau tan hết. Mẹ may cho con cái áo mới, con bận, bận hoài tới chật thì thôi. Huống chi là cái lồng đèn này, xin quý sư cô cho con giữ nó, dù bây giờ nó không còn nguyên vẹn nữa. Hình bóng sau cùng cả cuộc đời cơ cực và tủi nhục của mẹ con mà!
Hôm sau Sư Cô Nhã đem chiếc hộp bằng cacton, có chiều dài bằng chiếc hộp đựng đèn cầy lớn, được dan giấy hoa rất đẹp và có cả cái nắp đậy cẩn thận:
- Đây nì ! Thầy biểu cô dán cho con cái hộp ni để đựng cái lồng đèn choi kín,giửa được lâu và muốn để nơi mô cũng được.
Từ đó trong cái hộp là những thanh tre của chiếc lồng đèn ngôi sao đầy ắp kỷ niệm luôn để ở đầu nằm. Lớn hơn chút nữa chiếc hộp để ở bàn học và khi thọ Tỳ Kheo Ni rồi nó lại được trịnh trọng nằn nơi cao nhất trong phòng.
Vì nó, nhờ nó hay thậm chí "tại" nó mà mới có ngày hôm nay. Tại nó: Cái đêm ấy vì đang trong giấc ngủ, mẹ lay dậy, hối hả bồng con chạy theo dòng người hổn loạn. Khi con tỉnh ngủ thì lúc đó mẹ bồng chạy đã rất xa, Con khóc ré lên, không phải vì sợ tiếng súng nổ, người chết, lửa khói giăng trời mà là vì không có chiếc lồng đèn trong tay. Mẹ cứ bồng con chạy, cón con thì cứ khóc hoài không ngưng.
Đến sáng hôm sau, vì chịu không nổi cái ước muốn của "con nhà nghèo", mẹ bấm bụng bồng con quay lại, đi ngược dòng người, đi ngược khói lửa đạn bom để hy vọng tìm lại chiếc lồng đèn mà mới đầu hôm thôi nó còn thắp chơi trong nhà, cho con mang theo suốt cả một đời.
Sau này, khi đã trở thành một vị Ni Sư, kế thế trụ trì ngôi chùa này, phía sau lưng bàn thờ Phật nơi tư thất vẫn là cái hộp giấy cũ kỷ ấy không khác, không dán mới hay thay đổi. Lâu lâu người ta thấy Ni sư lấy ra để trước mặt, lau lau phủi phủi rồi gởi chút ngậm ngùi xa xăm. Những khi được mời thỉnh giảng ở các trường hạ hay nói chuyện luận giảng, người ta thắc mắc tại sao bên cạnh vị chủ tọa luôn là một chiếc hộp đầy ẩn mật mà không nghe nói gì đến nó!
Khi thân huyễn giã sắp trã về cho tứ đại, trên giường nằm Ni Sư vẫn để chiếc hộp xuôi theo cánh tay sát bên mình. Dù chúng ni có van nài hay các chư tôn đức đến thăm nói gì Ni sư vẫn lặng im trước sau như một. Có trã lời chăng chỉ là "NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT ".
Có ai đó trách rằng Ni Sư quá CHẤP NÊ, bám víu vào cái huyễn giã. Nhưng đấy, đúng là huyễn giã trong một thế giới huyễn giã, cho nên phải chấp nê vào cái tốt nhất: SỰ HIẾU ĐẠO – LÒNG NHÂN BẢN để làm bè cứu sinh. Vì sao vậy? Vì đời vốn là bể khổ sông mê; phao-bè-tàu-thuyền cũng lênh đênh trên sông mê biển khổ. Muốn không bị nhấn chìm để còn hơi thở hãy chấp vào những thứ ấy để sinh tồn, để tiếp tục thực hiện những hoài bảo còn dở dang.
Lúc Ni chúng được quây quần bên giường bệnh, Ni Sư thều thào:
- N.Thuần đâu !N.Đoàn nữa.Còn N.Ngọc đâu ! Răng hôm ni đứa mô cũng sụt sùi tê ? Thôi nghe thầy dặn ri: Mẹ thầy, thầy thắp hương, bái lạy hắng ngày, vì rứa khi thầy về với Phật các con không nên bận tâm chi với cái hộp này, hãy hóa vãng nó luôn trong ngày đại tường của thầy. Hãy thờ Sư Ông - Sư Bác – Sư Chú (tức là thầy Bổn sư và các huynh đệ đồng sư của Ni sư đã từng cứu mạng trước dây) đủ rồi. Đừng làm linh vị thầy, áng mặt Sư Ông, thầy có tội ...
Chỉ nói đến đó thôi rồi nghẹn lời ,tay mò mẫm chiếc hộp vừa được chư ni hiểu ý tiếp đưa, Ni Sư ôm vào lòng để rồi lần đầu tiên ni chúng thấy nước mắt Ni Sư lăn dài trên má .
Cũng từ lúc ấy, Ni Sư đã về với Phật !
Vị Sư Cô tiễn tôi ra về, đi qua khúc quẹo đầu ngõ,đứng trước ngôi mộ người mẹ ngã gục năm nào, hình như "bụi cũng bay vào mắt tôi" ! Tôi biết tôi đã khóc vì cảm thấy quá bé nhỏ trước lòng hiếu hạnh đầy nước mắt này.
Mỹ Ngân (Tuvien.com)