Cái gì có nương tựa, cái ấy có giao động cái gì không nương tựa, cái ấy không giao động Không có giao động thời có khinh an, có khinh an thời không có thiên về, không có thiên về thời không có đến và đi, không có đến và đi thời không có diệt và sanh,
Niết Bàn 1

"Cái gì có nương tựa, cái ấy có giao động; cái gì không nương tựa, cái ấy không giao động. Không có giao động thời có khinh an, có khinh an thời không có thiên về, không có thiên về thời không có đến và đi, không có đến và đi thời không có diệt và sanh, không có diệt và sanh thời không có đời này, không có đời sau, không có đời giữa. Đây là sự đoạn tận khổ đau."


Niết bàn, phạn ngữ là Nirvàna, pàli ngữ là Nibbàna, là pháp ấn thứ ba trong Tam Pháp An. Trong Đại Trí Độ Luận, quyển thứ 22, tổ Long Thọ viết : "Chư hành vô thường, Chư pháp vô ngã, Niết bàn tịch tịnh".

Kinh Tạp A Hàm của thượng tọa bộ Bắc phương, quyển thứ 10, bản chữ Hán cũng có đề cập đến Tam Pháp Ấn như trong Đại Trí Độ Luận. Theo Hán dịch thì Niết bàn được chuyển dịch là Diệt, Tịch diệt, Diệt độ, Tịch, Bất sanh, Vô vi, Giải thoát... Ngoài ra, Niết bàn còn được giải thích khác nhau theo lập trường của Nam Tông và Bắc Tông Phật Giáo.

Niết bàn được xem là mục đích cứu cánh của đạo Phật, chỉ trạng thái tâm thức đã gột sạch hết mọi vô minh phiền não, sự giải thóat khỏi các kiết sử tùy miên, sự đọan diệt hòan tòan mọi tham ái, sự dập tắt tham sân si. Trạng thái an tịnh tuyệt đối không còn bị bốn tướng sanh lão bệnh tử chi phối nữa.

Rất nhiều đoạn Kinh Đức Phật hay dùng phương pháp phủ định để hiển thị Niết bàn, như đoạn sau:

"Đồng nghĩa với Niết bàn giới, này các Tỷ kheo, là nhiếp phục tham, nhiếp phục sân, nhiếp phục si. Cũng được gọi là đoạn tận các lậu hoặc."

"Đoạn tận tham, đoạn tận sân, đoạn tận si, này các Tỷ kheo, được gọi là bất tử. Con đường Thánh đạo tám ngành là con đương đưa đến bất tử."

(Tương ưng V - một Tỷ kheo khác (2) - 7 )

Có hai loại Niết bàn thường được biết đến, đó là Hữu dư Niết bàn và Vô dư Niết bàn. Hữu dư Niết bàn là chỉ người đã đạt đến giải thoát khỏi vòng luân hồi, nhưng phần nhục thể vẫn còn tồn tại; Vô dư Niết bàn là cảnh giới vĩnh viễn khi xả ly phần nhục thể.

Hai lọai Niết bàn này của Phật giáo có phần tương tự với hai loại giải thoát của Vedanta là hữu thân giải thoát và vô thân giải thoát.

Đức Phật với pháp thoại, giải thích về Niết bàn Hữu dư y và Vô dư y:

"Này các Tỷ kheo, thế nào là Niết bàn giới có dư y ? Ở đây này các Tỷ kheo, Tỷ kheo là Bậc Alahán, các lậu hoặc đã tận, phạm hạnh đã thành, đã giải thoát nhờ chánh trí. Trong vị ấy năm căn còn tồn tại, ngang qua năm căn ấy, vị ấy hưởng thọ khả ý, không khả ý, vì rằng tự ngã không có thương hại cảm giác lạc khổ. Với vị ấy, tham diệt, sân diệt, si diệt. Này các Tỷ kheo, đây gọi là Niết bàn có dư y."

"Này các Tỷ kheo, thế nào gọi là Niết bàn giới không có dư y? Ở đây, này các Tỷ kheo, Tỷ kheo là bậc Alahán, các lậu hoặc đã tận, phạm hạnh đã thành, việc nên làm đã làm, đã đặt gánh nặng xuống, đã đạt được mục đích, hữu kiết sử đã diệt, đã giải thoát nhờ chánh tri. Ở đây đối với vị ấy, mọi cảm thọ đều không có hoan hỉ ưa thích, sẽ được lắng dịu. Này các Tỷ kheo, Đây gọi là Niết bàn không có dư y."

(Phật thuyết như vậy, Duk III, 7 - 443)

Quả Hữu dư và Vô dư còn được giải thích, từ sơ quả đến tam quả Bất hoàn được gọi là Hữu dư. Quả Alahán thứ tư được gọi là Vô dư.

Niết bàn Hữu dư y hay Vô dư y thường là y cứ vào hữu thân hay vô thân, nhưng cả hai lọai Niết bàn này đều khiến cho cái nguyên động lực đưa đến một đời sống khác đã bị chặt đứt :

"Này các Tỷ kheo! Thân của đức Như lai còn tồn tại, nhưng cái khiến đưa đến một đời sống khác đã bị chặt đứt. Khi thân của vị này tồn tại thời Chư Thiên và loài người có thể thấy thân ấy. Khi thân hoại mạng chung thời Chư thiên và loài người không thể thấy được."


(Trường Bộ I, Phạm Võng - 46)

Trạng thái tâm vắng lặng mà thường biết là đương thể của Niết bàn. Thế nên, Niến bàn chính là bản tâm thanh tịnh xưa nay. Nhờ cái đương thể của Niết bàn mà thế gian sinh diệt mới có chổ dựa tối hậu. Niết bàn hay sinh tử rốt cùng cũng chỉ là cái tâm của chúng ta, vì sinh tử (mê) và Niết bàn (giác) chỉ là biểu tượng hai mặt của tâm.

Có khi người ta hiểu Niết bàn là một cảnh giới, nhưng là một cảnh giới vi diệu mà ở đây tất cả dục vọng vô minh của cá thể không còn tồn tại nữa, vì thế những người đệ tử Phật muốn biết Niết bàn là gì chỉ có thể kinh nghiệm một cách trực tiếp vào nguồn tâm của chính mình.

Và khi nào ý niệm về TA và CỦA TA không còn năng lực hoạt động trong tâm, thì tự nhiên hành giả sẽ kinh nghiệm được cái "một" cái "Thuần nhất bất tạp" của muôn loài vạn vật. Có thể nói, Niết bàn là chân lý tuyệt đối nó vượt ngoài nhị nguyên và tương đối. Người đạt được Niết bàn là người phục vụ kẻ khác một cách trong sạch nhất, vì họ không còn nghĩ về mình, họ đã thoát khỏi mọi sai lầm về Ngã và lòng khát khao muốn trở thành.

 

Trong Niết bàn không có thái độ thiên chấp và bưng bít. Niềm vui chân thật chỉ xuất hiện khi nào ta thoát khỏi mọi thành kiến ngã chấp và ý niệm có sẵn. Những người có lối sống phàm thường, đam mê trong dục lạc thật khó mà biết được sự an lạc nội tâm của các nhà tu hành đắc lực.

Nhất là thời đại hôm nay, người ta đã xem nhẹ truyền thống tâm linh và đạo đức, lại xem trọng tri thức và vật chất. Và chính đó là mầm móng thác loạn trong đời sống nội tâm và đời sống xã hội loài người hôm nay. Giáo dục của thời đại không còn là giáo dục đạo đức nữa, mà giáo dục đã thiên về tri thức và hướng ngoại.

Cũng cần lưu ý, Niết bàn không thuộc về những tạo tác hữu vi. Tạo nhiều việc lành thì sinh về các thiên giới, còn mức trung bình thì sinh vào thân giới để hưởng thọ quả báo khổ vui. Cỏi người có những vận mệnh khác nhau vì trong những nhân lành có lẫn lộn nhân ác nhiều hay ít.

Và tột cùng các thiện sự chỉ đạt được cao lắm sinh vào các cõi trời dục để hưởng phước báu hữu vi. Thế nên không thể dùng thiện sự trước tướng mà mong đạt đến cứu cánh Niết bàn (Vô vi). Muốn đến cõi sắc và vô sắc mà còn phải tu nhân thiền định, huống nữa là muốn thoát khỏi luân hồi.

Đức Phật thuyết giảng pháp thoại liên tưởng đến Niết bàn:

"Này các Tỷ kheo, có xứ này tại này, không có đất, không có nước, không có lửa,, không có gió , không có hư không vô biên ... không có phi phi tưởng xứ; không có đời này, không có đời sau; không có cả hai mặt trăng mặt trời. Do vậy, này các Tỷ kheo ! Ta tuyên bố không có đến, không có đi, không có trú, không có diệt, không có sanh, không có an trú, không có chuyển vận, không có sở duyên. Đây là sự đoạn tận khổ đau."

(Phật tự thuyết, UD 80 - 381)

Đây là pháp thoại thứ hai liên tưởng đến Niết bàn:

"Này các Tỷ kheo, có cái không sanh, không hiện hữu, không bị làm, không hữu vi. Này các Tỷ kheo, nếu không có cái không sanh, không hiện hữu, không bị làm, không hữu vi, thời ở nay không thể trình bày sự xuất ly khỏi sanh, hiện hữu, bị làm, hữu vi. Vì rằng, này các Tỷ kheo, có cái không sanh, không hiện hữu, không bị làm, không hữu vi, nên có thể trình bày sự xuất ly khỏi sanh, hiện hữu, bị làm, hữu vi."

(Phật tự thuyết, UD 80 - 382)

Và đây là pháp thoại thứ ba liên tưởng đến Niết bàn:

"Cái gì có nương tựa, cái ấy có giao động; cái gì không nương tựa, cái ấy không giao động. Không có giao động thời có khinh an, có khinh an thời không có thiên về, không có thiên về thời không có đến và đi, không có đến và đi thời không có diệt và sanh, không có diệt và sanh thời không có đời này, không có đời sau, không có đời giữa. Đây là sự đoạn tận khổ đau."

(Phật tự thuyết, UD 81 - 382)

Vì Niết bàn được diễn tả bằng những từ ngữ phủ định, nên nhiều người hiểu lầm đó là trạng thái tự hủy diệt. Nếu hủy diệt, chỉ là sự hủy diệt dục vọng và mọi ý tưởng sai lầm về Ngã.

Niết bàn không thuộc về có, vì không có tướng mạo. Niết nàn không thuộc về không, vì hằng tri hằng giác. Đây là trạng thái thoát ly năm thủ uẩn, là cảnh giới "Phi nhị biên, ly tứ cú, tuyệt bách phi". Trạng thái tâm vắng lặng mà rỏ biết là đương thể của Niết bàn. Cái đương thể này đầy đủ bốn đặc tính Thường, Lạc, Ngã, Tịnh thì làm sao là hư vô đoạn diệt được ?

Thế nhưng, nhiều học giả Phật tử đã coi Niết bàn là hư vô tuyệt diệt. Là đệ tử Phật mà hiểu Niết bàn là cảnh hư vô tuyệt diệt là đã rơi vào kiến chấp đoạn diệt, bèn thành tà kiến, và dĩ nhiên là tự mình đã phản bội lại với đức Phật rồi.

Điểm nổi bật của Phật Giáo nguyên thủy coi Niết bàn là "Tĩnh". Ngược lại, nét đặc sắc của Phật Giáo phát triển coi Niết bàn là "Động". Nhưng thực ra tĩnh và động chỉ là hai mặt của cái Một tuyệt đối mà thôi. Đến thời đại A Tỳ Đạt Ma Luận Thư (Thời đại bộ phái) đã quan niệm Niết bàn là một cảnh giới vĩnh tịch.

Thắm đượm một màu sắc vô cùng tiêu cực. Phật Giáo phát triển đến thời hưng khởi đã quan niệm Niết bàn mang tính hoạt dụng tích cực hơn. Các vị Bồ tát vì mang đại nguyện độ sinh nên vĩnh viễn hoạt động mà lòng không nhiễm trước thế gian, cái tâm không nhiễm trước đó được mệnh danh là Bất trụ Niến bàn.

Tất cả mọi công hạnh độ sanh của chư Bồ tát cũng từ quan điểm "Chủ động" ở trên mà được an lập. Các Ngài nguyện vĩnh viễn nơi bể sinh tử mà vĩnh viễn nơi bờ Niết bàn, vì sanh tử tức là Niết bàn, một loại Niết bàn rất sinh động. Niết bàn này của Phật giáo phát triển, thực ra cũng chỉ là thừa kế Niết bàn của Phật Giáo nguyên thủy trên phương diện tích cực nhập thế độ sanh mà thôi.

Tất cả pháp hữu vi sinh diệt trong từng sát na. Quá khứ đã trôi qua, vị lai thì chưa đến, sự tồn tại chân chính chỉ có thể tìm thấy trong từng sát na hiện tại. Vì thế, Niết bàn chỉ có ở sát na hiện tại, ngay tại đây và bây giờ. Niết bàn cũng là chổ tiềm ẩn của thế giới hiện thực, song song tồn tại với thế gian vô thường, và vô thường chính là dụng lực của Niết bàn vô vi.

Có một thiền khách hỏi:

- Thế nào là Đại Niết bàn?

Sư đáp:

- Hãy nơi sanh tử mà nhận lấy.Căn cứ trên tuyên bố Phật : "Sarvam śūnyam" (Mọi vật đều không), vấn đề Niết-bàn (Nirvāna), đã được các bộ phái nêu ra đặt vấn đề trở lại sau khi Ngài qua đời; theo đó Niết-bàn được trình bày theo dạng sở đắc của họ, và cũng từ đó mọi tranh luận về nó cũng như các giáo lý khác trở nên gay gắt hơn.


Niết-bàn, vấn đề hiện hữu hay không hiện hữu, có (bhāva) hay không (abhāva), tại thế gian (laukika) này hay vượt ra khỏi thế gian (lokottara) ; một vấn đề làm nảy sanh ra mọi sự tranh luận, càng ngày càng gay gắt giữa Hữu bộ hay còn gọi là Nhứt thiết hữu bộ (Sarvāsti-vādin) và Kinh bộ còn gọi là Kinh lượng bộ (Sautrāntika).

Chính vì phương tiện đối trị căn cơ, nên giáo pháp chữa bệnh của đức Phật được Ngài nói ra có đến vô lượng để chữa trị có ngằn ấy cơ bệnh do ba dộc phiền não sinh ra. Vì tính cách đa dạng và phức tạp của con bệnh, nên thuốc đối trị cũng tuỳ thuộc vào tính phức tạp đa dạng của con bệnh mà cho, giống như con bệnh thế gian (thế giới) chỉ cho năm thọ ấm chẳng hạn, nội trong cách chấp thủ năm thọ ấm bệnh và cách cho thuốc cũng đã là đa dạng rồi.

Vì khi muốm chữa con bệnh chấp thủ vào năm thọ ấm, không hẳn là chỉ có một cách chữa trị mà trước hết phải xem đến cách chấp thủ đó liên hệ câu hữu đến độc nào nặng, đến độc nào nhẹ, trong ba độc hay những câu hữu khác ngoài ba độc, mà tuỳ theo đó đức Đạo sư cho thuốc chứ không phải chỉ có một phương thuốc duy nhất để trị chúng.

Cho nên việc chữa lành bệnh, giải thoát mọi đau khổ cho bệnh nhân, cho bệnh nhân rất nhiều khía cạnh, sau khi ngài diệt độ, đã bị những người đi sau ngộ nhận , chỉ vì những người đi sau không hiểu được thâm ý của ngài , cho nên giáo nghĩa của những lời dạy đó bị xuyên tạc một cách triệt để và có hệ thống .

Họ đã biến giáo lý phương tiện mà đức Đạo sư đã dùng để đối trị căn bệnh hữu lậu của chúng sanh , đáng lý sẽ bị vượt qua , thành giáo lý cứu cánh , và họ chấp chặt vào chúng coi như là một thực hữu cần phải đạt đến để thủ đắc .

Từ đó Hữu-Vô được họ biến thành những thứ nhãn hiệu tuyên truyền cho lập trường của họ. Qua đây , giáo lý của Ngài đã biến thành một thứ luận lý nhân quả . Từ đó, họ tự đặt nền tảng cho một cứu cánh ngoài ba cõi này, cần phải vươn tới , đó chính là một thứ Niết-bàn thực hữu không tưởng .

Trong khi chính đức Phật chủ trương một Niết-bàn không ở ngoài ba cõi , như kinh Rohitassa[1] đã dạy : " Tại chỗ nào, bạch Thế tôn , không bị sanh , không bị già, không bị chết , không có từ bỏ (bất diệt), không có sanh khởi (bất sanh), chúng con có thể đến để thấy , để biết , để đạt đến chỗ tận cùng của thế giới không?". Đức Phật trả lời :


" Này hiền giả , ta tuyên bố rằng : tại chỗ nào không bị sanh , không bị già , không bị chết , không có từ bỏ đời này , không có khởi đời khác, thời không có thể đi đến để thấy , để biết , để đạt đến chỗ tận cùng của thế giới . Nhưng này hiền giả , trong cái thân dài độ mấy tấc này , với những tưởng , những tư duy của nó , ta tuyên bố về thế giới tập khởi , thế giới đoạn diệt , về con đường đưa đến thế giới đoạn diệt." thuộc Pāli tạng.

Và cũng trên lập trường này, trong kinh 1307[2] Tạp A Hàm thuộc Hán tạng, mà chúng tôi sẽ giới thiệu dưới đây qua bản dịch của người viết, cùng hiệu-chú của Thượng Toạ Thích Tuệ Sỹ, sẽ nói lên con đường đi đích thật của đức Phật đã từng đi, đã từng sống, để chỉ dạy lại cho chúng ta, những người đi sau noi theo.

"Tôi nghe như vầy:

"Một thời đức Phật ở vườn Cấp Cô Độc, rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ, có Thiên tử Xích Mã,[3] tướng mạo tuyệt vời, vào lúc cuối đêm, đến chỗ Phật, đảnh lễ sát chân Phật, ngồi lui qua một bên; từ thân toả ánh sáng chiếu khắp vườn Cấp Cô Độc, rừng cây Kỳ-đà. Lúc này Thiên tử Xích Mã kia bạch Phật:

"Thưa Thế tôn! Có thể vượt qua biên tế thế giới, đến chỗ không sinh, không già, không chết chăng?"

Phật đáp Xích Mã:

"Không thể vượt qua biên tế thế giới, đến chỗ không sinh, không già, không chết được."

Thiên tử Xích Mã bạch Phật:

"Lạ thay! Thế tôn khéo nói nghĩa này! Như những gì Thế tôn đã nói: 'Không thể vượt qua biên tế thế giới, đến chỗ không sinh, không già, không chết được.' Vì sao thưa Thế tôn! Vì con tự nhớ kiếp trước tên là Xích Mã, làm Tiên nhơn ngoại đạo,[4] đắc thần thông, lìa các ái dục.[5] Lúc đó, con tự nghĩ: 'Ta có thần túc nhanh chóng như vậy, giống như kiện sĩ, dùng mũi tên nhọn trong khoảnh khắc bắn xuyên qua cây đa-la, có thể lên một núi Tu-di và đến một núi Tu-di, cất bước nhẹ nhàng từ biển Đông đến biển Tây.' Lúc ấy con tự nghĩ: 'Nay ta đạt được thần lực nhanh chóng như vậy, hôm nay có thể tìm đến biên tế của thế giới được chăng?' Nghĩ vậy rồi liền khởi hành, chỉ trừ khi ăn, nghỉ, đại tiểu tiện, và giảm bớt ngủ nghỉ, đi mãi đến một trăm năm, cho tới khi mạng chung, rốt cuộc không thể vượt qua biên tế thế giới, đến nơi không sinh, không già, không chết."

Phật bảo Xích Mã:

"Nay Ta chỉ dùng cái thân một tầm để nói về thế giới, về thế giới tập khởi , về thế giới diệt tận, về con đường đưa đến thế giới diệt tận .

"Này Thiên tử Xích Mã! Thế nào là Thế giới? Là chỉ năm thọ ấm.[6] Những gì là năm? Là sắc thọ ấm, thọ thọ ấm, tưởng thọ ấm, hành thọ ấm, thức thọ ấm, đó gọi là thế giới.

"Thế nào là sắc tập khởi ? Là tham ái đối với hữu vị lai câu hữu với tham, hỷ, mê đắm nơi này hay nơi kia.[7] Đó gọi là sự tập khởi của thế giới .

"Thế nào là thế giới diệt tận ? Là tham ái đối với hữu vị lai câu hữu với tham, hỷ, mê đắm nơi này hay nơi kia, đều đoạn tận, xả ly không còn sót, vô dục, vắng lặng, dứt bặt, đó gọi là sự diệt tận thế giới .

"Thế nào là con đường đưa đến thế giới diệt tận ? Là tám Thánh đạo: Chánh kiến, chánh trí, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh phương tiện, chánh niệm, chánh định. Đó gọi là con đường đưa đến sự diệt tận thế giới.

"Này Xích Mã! Biết rõ thế giới, đoạn tận thế giới; biết rõ thế giới tập khởi, đoạn tận thế giới tập khởi; biết rõ thế giới diệt tận, chứng nhập thế giới diệt tận; biết rõ con đường đưa đến thế giới diệt tận, tu con đường đưa đến sự diệt tận thế giới. Này Xích Mã! Nếu Tỳ-kheo nào đối với khổ thế giới, hoặc biết hoặc đoạn; sự tập khởi thế giới, hoặc biết hoặc đoạn; sự diệt tận thế giới, hoặc biết hoặc chứng; con đường đưa đến sự diệt tận thế giới, hoặc biết hoặc tu, thì này Xích Mã! Đó gọi là đạt đến biên tế thế giới, qua khỏi ái thế giới."

Bấy giờ Thế tôn nói kệ lập lại:

Chưa từng dạo đi xa,

Mà đến biên thế giới;

Chưa đến biên thế giới,

Trọn không hết biên khổ.

Vì vậy nên Mâu-ni,

Biết biên tế thế giới;

Khéo rõ biên thế giới,

Các phạm hạnh đã lập.

Đối biên thế giới kia,

Người giác tri bình đẳng;

Đó gọi hạnh Hiền thánh,

Qua bờ kia thế giới.

Sau khi Thiên tử xích Mã nghe những gì Phật nói, hoan hỷ, tuỳ hỷ, đảnh lễ sát chân Phật, liền biến mất."


Qua bản kinh này đã cho chúng ta một cái nhìn đặc trưng về Niết-bàn, về thế giới của không sinh, không già, không chết, mà mỗi người trong chúng không ai là người không ước ao mong muốn đạt đến nơi đó. Nhưng nơi đó là nơi nào? Phải chăng là nơi ở ngoài thế giới ba cõi này?

Như Thiên tử Xích Mã đã từng hỏi, và đã từng kinh nghiệm, đã từng kinh qua trong quá khứ khi hỏi về: ''Có thể vượt qua biên tế thế giới, đến chỗ không sinh, không già, không chết chăng?'' Khi mà những thắc mắc về cuộc sống nhân sinh vũ trụ, lúc nào cũng ám ảnh sợ hãi bởi cái khổ trước mắt muốn tìm cách thoát ra nó; nhưng qua kinh nghiệm sống, qua kinh nghiệm đã từng trải, bế tắt vẫn hoàn bế tắt như Thiên tử Xích Mã đã từng bỏ ra một trăm năm chạy đôn chạy đáo cố vượt qua biên tế thế giới để tìm đến nơi không sinh, không già, không chết, lúc còn làm Tiên nhơn, cuối cùng vẫn không thoát khỏi biên tế thế giới này.

 

Chúng ta ai lại không có những thắc mắc và những ước mong như Thiên tử Xích Mã, nhưng những thắc mắc và mong ước kia Thiên tử Xích Mã đã từng thực hiện nó bằng những hành động, nhưng những hành động này vẫn không thành tựu được chỉ vì phương pháp thực hành trên nền tảng cơ bản đã sai lầm như đức Phật đã dạy:

"Không thể vượt qua biên tế thế giới, đến chỗ không sinh, không già, không chết được." Chỉ vì chính chúng ta đã quên ngay đến sự hiện hữu của chính chúng ta trên thế giới này, mà vong thân hướng ngoại tìm cầu; nhưng theo đức Phật thì:

"Nay Ta chỉ dùng cái thân một tầm để nói về thế giới, về sự tập khởi thế giới, về sự diệt tận thế giới, và con đường đưa đến sự diệt tận thế giới." Ngay trong cuộc sống hiện tại này, ngay trong thế giới này, chứ không ở đâu xa hết. Ở đây, đức Phật chỉ giới hạn cái thân này để nói về nhân quả thế gian và xuất thế gian qua tứ Thánh đế, mà ở đó con người được đánh giá như là một hiện tượng đủ để có thể hoàn thành một thế giới qua năm thọ ấm; chúng được coi như là một kết quả, được hình thành bỡi những tập khởi của sắc được câu hữu với ái, tham, hỷ để phát sinh ra những hệ lụy nhiễm trước trói buộc trong quá khứ.

Trong hiện tại, đối với vị lai nếu những tập khởi của sắc được câu hữu với ái, tham, hỷ để phát sinh ra những hệ luỵ nhiễm trước trói buộc và làm nhân tập khởi cho chúng trong vị lai, mà hình thành nhân quả thế gian, thì đó là cách hình thành nhân quả thế gian theo chiều lưu chuyển.

 

Và ngược lại cũng trong cái thân này, đối vị lai, nếu sắc hiện tại không câu hữu với ái, tham, hỷ để phát sinh ra những hệ lụy nhiễm trước trói buộc, thì đã thoát khỏi mọi hệ luỵ nhiễm trước, đã dứt sạch hết mọi thứ vô minh phiền não, không còn ham muốn, dứt bặt mọi thứ, trở thành vắng lặng tịch tịnh, không còn có ái, tham, hỷ hiện hữu ở đây nữa, đó là sự diệt tận thế giới;

Và để đạt được trạng thái vắng lặng tịch tịnh của kết quả này, thì phương pháp để sắc không câu hữu với ái, tham, hỷ nữa là cần phải tu tập tám Thánh đạo, con đường đưa đến sự diệt tận của thế giới, chúng là nhân hiện tại để đưa đến quả trong vị lai như đức Phật đã dạy. Đó chính là sự hình thành của nhân quả xuất thế gian theo chiều hoàn diệt.

Khi chúng ta đã biết rõ thế nào là thế giới, thế nào là thế giới tập khởi của nhân quả thế gian và, biết rõ thế nào là thế giới diệt tận, thế nào là con đường đến thế giới diệt tận của nhân quả xuất thế gian.

Tiếp đến, trên nguyên tắc nhân quả nhằm loại bỏ đi những di hại của sắc khi câu hữu với ái, tham, hỷ để rồi phát sinh ra những hệ lụy nhiễm trước trói buộc sau đó. Trước hết phải đoạn tận thế giới và sự tập khởi của chúng, sau đó muốn chứng đạt đến trạng thái vô dục vắng lặng dứt bặt, dứt sạch không còn gì hết, thì phải tu tập theo con đường để đưa đến thế giới diệt tận.

Nhưng đến đây cũng chỉ là những định nghĩa một cách lý thuyết về thế giới qua năm thọ ấm để nói lên cái nhân quả bất toàn có thể thay đổi được bỡi những nổ lực theo lưu chuyển hay hoàn diệt của nhị đế mà thôi. Đức Phật dạy tiếp:

"Này Xích Mã! Biết rõ thế giới, đoạn tận thế giới; biết rõ thế giới tập khởi, đoạn tận thế giới tập khởi; biết rõ thế giới diệt tận, chứng nhập thế giới diệt tận; biết rõ con đường đưa đến thế giới diệt tận, tu con đường đưa đến sự diệt tận thế giới."

Biết rõ thế giới ở đây chính là biết như thật về năm thọ uẩn, biết rõ về năm thọ uẩn tập khởi, để đoạn tận chúng. Năm thọ uẩn hiện hữu của mỗi chúng ta trong hiện tại, nó là một kết quả tất yếu vừa mang hình thức biểu hiện của nhân quá khứ, vừa làm nhân tố tích cực cho một cái quả nào đó trong tương lai. Như vậy khi chúng ta nói về hiện hữu của chúng là nói đến sự liên hệ nhân quả ba đời của quá khứ-hiện tại- tương lai (chúng thuộc dạng phân đoạn sinh tử).

 

Trong sự hiện hữu sinh-tử này, chúng nói lên được liên hệ nhân quả từ sinh đến tử, giai đoạn này chúng ta vừa là người thọ quả của quá khứ, vừa là kẻ tạo nhân cho vị lai.

Và cũng vì lẽ đó cho nên khi chúng ta biết rõ cái quả hiện tại của nhân quá khứ chúng là năm thọ uẩn, thì cũng trong hiện tại chúng ta tạo nhân cho vị lai bằng cách đoạn tận năm thọ uẩn vọng này để không có cái nhân vọng cho vị lai nữa, nghĩa là không sinh ra quả vọng cho vị lai; khi quả vọng vị lai không sinh, thì nhân vị lai cũng không sinh, và cứ như vậy vòng xích nhân quả vọng sẽ bị diệt. Đến đây năm thọ uẩn không sinh ra nữa, khi năm thọ uẩn đã không sinh, thì có gì để diệt, nên không diệt.

Vậy Niết-bàn chúng sẽ hiện hữu ngay trong cõi này , ngay trong xác thân này , nếu ai giải thóat được mọi trói buộc đau khổ của tập khởi , của đoạn diệt , bằng cách không khởi tâm điên đảo , phân biệt chấp trước đối với cuộc sống , thì người đó sẽ đạt được Niết bàn ngay trong cuộc sống này . Từ những ngộ nhận sai lầm như vậy , cho nên những gì đức Phật đã phương tiện dạy cho chúng ta con đường đi đến giải thoát , thì họ đã biến chúng thành con đường nô lệ trói buộc .

Niết-bàn cùng thế gian

Không có tí phân biệt

Thế gian cùng Niết-bàn

Cũng không tí phân biệt .

(Trung quán luận, phẩm quán Niết-bàn)


Về Năm uẩn nhân duyên , tướng của chúng đứng về mặt dụng mà nói, thì chúng là tướng sanh diệt biến đổi liên tục qua lại, và gọi chúng là thế gian.

Nhưng đứng về mặt tánh mà nói, thì cứu cánh của chúng là Không, Tịch diệt, không chấp thủ, đó là Không tướng (nghĩa này đã nói ở trên). Ở đây, vì tất cả các pháp chẳng sanh chẳng diệt cho nên thế gian cùng Niết-bàn không có sự phân biệt và ngược lại Niết-bàn cùng thế gian cũng không có sự phân biệt nào. Lại nữa ,

Thật tế của Niết-bàn,

Cùng thật tế thế gian;

Cả hai thật tế đó,

Không mảy may sai biệt .

(Trung quán luận, phẩm quán Niết-bàn)

Cả hai thật tế Niết-bàn và thế gian, không có bất cứ mảy may sai biệt nào cả. Vì sao ? Vì khi chúng ta tìm kiếm thật tế cứu cánh của chúng, thì cứu cánh của chúng là bình đẳng. Do đó, mọi tìm kiếm đều không thể đạt được, chỉ vì chúng không có bất cứ mảy may sai biệt nào .

Thật ra trong giáo pháp của Ngài , đức Phật đã phương tiện dùng hai hình thức Nhân quả và Duyên khởi , để một mặc đối trị về nhân quả tội phước, và mặc khác giải phóng những phương tiện đó qua duyên khởi để hoàn thành Trung đạo giả danh trở về Không tánh .

Đó là con đường giải thoát thật sự như chính trong kinh Xà dụ , hệ Bali đã dạy :" Chánh pháp còn buông bỏ huống chi là phi pháp". Nhưng đối với họ, điều này không quan trọng nên đã bị họ bỏ qua . Trong khi đó, họ không biết rằng chính họ đã phản bội lại đức Phật qua lập trường chấp thủ tà kiến thuộc nhân quả nhị nguyên . Họ quên đi pháp Trung đạo duyên khởi , mà trong suốt cuộc đời , đức Phật đã nổ lực xiển dương chúng .

 

Đức Phật chưa bao giờ chủ trương lấy Hữu-Vô làm lập trường chính để đưa chúng sanh đến giải thoát cả , mà ngài chủ trương :" Mọi vật đều không" ( Sarvam sùnyam) nhằm phủ định có và không của các pháp và xiển dương tự tánh Không , cũng là mở bày cho một hướng đi vượt thoát, đó là Trung đạo qua tướng giả danh .

Chính vì Không này mà các nhà Tiểu thừa sau này , đã quan niệm sai lầm về nó, để đẻ ra một cái tự tánh thực hữu nào đó của các pháp , mà phản lại chính quan điểm của đức Phật . Cũng chính vì muốn khôi phục lại con đường đi của đức Phật , ngài Long Thọ Bồ tát mới viết ra bộ luận Trung quán , nhằm xiển dương con đường Trung đạo mà đức Phật đã từng đi , đã từng sống với nó . Ngài Long Thọ bảo cái Không ở đây không phải là cái không của không đối lập với cái có , mà là cái KHÔNG của :

Các nhân duyên sanh pháp

Ta nói tức là Không

Đó cũng là giả danh

Cũng là nghĩa Trung đạo .

(Trung quán luận, phẩm quán Tứ đế)


Ở đây , mọi vật đều Không , được quan niệm như là một cứu cánh để phá hủy tất cả mọi quan điểm sai lầm về các pháp .

Qua đó Bát Bất được ngài sử dụng như là một phủ định tuyệt đối cho phương pháp luận của ngài , nhằm triệt tiêu mọi chấp thủ có-không ( nhị nguyên ), vừa xây dựng lý duyên khởi hiện tướng qua Trung đạo giả danh để hiển Thể duyên khởi Tánh Không của chúng như trong bài kệ trên đã nói .

Nguyên bản hán kinh 1307 Tạp A-hàm Quyển 49 Đại Chánh tân tu tập II

如是我聞

一時。佛住舍衛國祇樹給孤獨園

時。有赤馬天子。容色絕妙。於後夜時來詣佛所。稽首佛足。退坐一面。其身光明遍照祇樹給孤獨園

時。彼赤馬天子白佛言。世尊。頗有能行過世界邊。至不生.不老.不死處不

佛告赤馬。無有能過世界邊。至不生.不老.不死處者

赤 馬天子白佛言。奇哉。世尊。善說斯義。如世尊說言。無過世界邊。至不生.不老.不死處者。所以者何。世尊。我自憶宿命。名曰赤馬。作外道仙人。得神通。離 諸愛欲。我時。作是念。我有如是揵疾神足如健士夫。以利箭橫射過多羅樹影之頃。能登一須彌。至一須彌。足躡東海。越至西海。我時。作是念。我今成就如是揵 疾神力。今日寧可求世界邊。作是念已。即便發行。唯除食息便利。減節睡眠。常行百歲。於彼命終。竟不能得過世界邊。至不生.不老.不死之處

佛 告赤馬。我今但以一尋之身。說於世界.世界集.世界滅.世界滅道跡。赤馬天子。何等為世間。謂五受陰。何等為五。色受陰.受受陰.想受陰.行受陰.識受 陰。是名世間。何等為色集。謂當來有愛.貪.喜俱。彼彼染著。是名世間集。云何為世間滅。若彼當來有愛.貪.喜俱。彼彼染著。無餘斷.捨.離.盡.無欲. 滅.息沒。是名世間滅。何等為世間滅道跡。謂八聖道。正見.正志.正語.正業.正命.正方便.正念.正定。是名世間滅道跡

赤馬。了知世間。斷世間。了知世間集。斷世間集。了知世間滅。證世間滅。了知世間滅道跡。修彼滅道跡。赤馬。若比丘於世間苦若知.若斷。世間集若知.若斷。世間滅若知.若證。世間滅道跡若知.若修。赤馬。是名得世界邊。度世間愛

爾時。世尊重說偈言

未曾遠遊行   而得世界邊
無得世界邊   終不盡苦邊
以是故牟尼   能知世界邊
善解世界邊   諸梵行已立
於彼世界邊   平等覺知者
是名賢聖行   度世間彼岸

是時。赤馬天子聞佛所說。歡喜隨喜。稽首佛足。即沒不現

[1] Tăng chi 1 trang 406-408, bản dịch của H.T. Thích Minh Châu.

[2] Tạp A-hàm 49, kinh số 1307, Đại 2, tr. 259. Tham chiếu, Biệt dịch Tạp A-hàm, Đại 2, No 100(306); Tăng nhất A-hàm 8, Đại 2, No 125(43.1), tr.756. Pāli, Aṅguttara, A. iv. 45. Rohita.

[3] Pāli: Rohitasso devaputto.

[4] Pāli: Rohitasso nāma isi ahosi bhojaputta, có vị ẩn sỹ tên là Rohitassa, con trai của Bhoja.

[5] Pāli: vehāsaṅgamo, đi trong hư không.

[6] Cũng nói là năm thủ uẩn. Pāli: pañca-upādānakkhandha.

[7] Cf. M.i. tr. 48: taṇhā ponobhavikā nandīrāgasahagatā tatratatrābhinandinī, khát vọng tồn tại trong đời vị lai, cùng có mặt với hỷ và tham; ước vọng tái sinh chỗ này hay chỗ kia.
 

 

 

 

Về Menu

niết bàn 1 niet ban 1 tin tuc phat giao hoc phat phat phap thien phat giao

ưng ý nghĩa của cầu nguyện nhật thien su khuong viet 45 năm nhìn lại ngọn lữa Bồ Tát Thích Dăm Thể dục giúp tăng khả năng sống sót Là Vị Thích đau Mát Hại thận vì uống nhiều nước khoáng Thoát tội nhờ phóng sinh ý Giỗ Tổ khai sơn tu viện Khánh An Các kỳ kiết tập kinh điển theo Phật Trầm cảm de thanh mot phat tu cõi sạch cai Phật pháp và bệnh trầm cảm giao cau Vai trò của người truyền đạo khủng lam the nao co the an lac va can bang tam ly trong Ly chè đậu ngự dâng cúng Phật 5 tan o thai lan Bằng sï¾Îæ james những điều cần nhớ khi bạn thấy bế học lang ngam ky quan phat giaoco xua bac nhat the chuong bon phap tổ bất thuong nộm trẻ tảng Tưởng niệm lần thứ 48 Thánh tử đạo Những nhu cầu tâm linh của người sắp ç Š Pháp hoà 25 phan 4 ket luan tu luc va tha luc la nhung phuong tien de dat duoc dâng quan điểm của phật giáo về sự chăm cuoc song da hien dai nhung xin dung hien dai đinh Cảm Hoạ bắt xÃÆ