BA PHƯƠNG PHÁP THIỀN QUÁN
Tạng thư sống chết - 07. Phần 1: Sống - 05. Đưa tâm về nhà phần 2


Đức Phật dạy tám muôn bốn ngàn pháp môn để thuần hóa và an định những cảm xúc tiêu cực, và trong Phật giáo có vô số phương pháp thiền định. Tôi tìm thấy có ba kỹ thuật thiền đặc biệt hiệu nghiệm trong thế giới ngày nay, mà ai cũng có thể sử dụng để được lợi lạc. Đó là phương pháp "canh chừng" hơi thở, sử dụng một vật làm đối tượng, và nhẩm đọc một câu thần chú.

1. Quán hơi thở.

Phương pháp này rất xưa và có mặt trong tất cả trường phái Phật giáo. Đó là để tâm chú ý vào hơi thở một cách nhẹ nhàng đầy chánh niệm.

Hơi thở là sự sống, sự biểu hiện căn bản nhất của cuộc đời ta. Trong Do thái giáo thì ruah, hơi thở, là linh hồn của Thượng đế thấm khắp tạo vật; trong Ki tô giáo cũng có dây nối mật thiết giữa đấng Thánh linh – nguồn gốc của mọi sự sống – và hơi thở. Trong giáo lý Phật, thì hơi thở, Phạn ngữ là prana, được gọi là "cỗ xe của tâm", vì chính hơi thở làm cho ta tâm ta di chuyển. Bởi thế khi ta làm an tịnh tâm bằng cách làm việc khéo léo với hơi thở, thì cũng như ta đang luyện tâm và hàng phục tâm. Có phải ai trong chúng ta cũng đã từng thấy khỏe khoắn biết bao khi đang gặp căng thẳng mà ngồi lại vài phút để thở những hơi thở vào ra thật chậm và sâu không? Ngày cả một tập luyện đơn giản như thế cũng có thể giúp ta rất nhiều.

Vậy khi thiền định, bạn hãy thở tự nhiên, như thường ngày bạn thở. Tập trung sự chú ý của bạn vào hơi thở ra. Khi thở ra, bạn hãy buông ra theo hơi thở tất cả sự bám víu của bạn. Tưởng tượng hơi thở bạn tan vào trong khoảng không bao la của chân lý. Mỗi lần thở ra, trước khi hít vào lại, bạn sẽ thấy có một khoảng hở tự nhiên, khi sự chấp thủ đã tan biến.

Hãy an trú trong khoảng hở ấy, không gian rộng mở ấy. Và khi tự nhiên bạn thở vào, thì đừng chú ý hơi thở vào, mà cứ tiếp tục an trú tâm nơi khoảng hở đã mở ra ấy.

Khi thực tập, điều quan trọng là bạn đừng vướng vào sự luận giải, phân tích trong tâm, hay thói lải nhải nội tâm. Đừng lầm sự lặp đi lặp lại trong tâm rằng "Bây giờ tôi đang thở vào, bây giờ tôi đang thở ra" cho đó là chánh niệm; cái quan trọng là sự tỉnh giác thuần túy không xao lãng.

Đừng quá tập trung vào hơi thở; chỉ để cho nó chừng hai mươi lăm phần trăm, còn bảy mươi lăm phần trăm thì bạn hãy buông xả một cách lặng lẽ bao la. Càng chánh niệm hơi thở, bạn càng tỉnh thức về chính mình, gom lại những mảnh vụn phân tán của bạn thành một nhất thể, tính nhị nguyên và ngăn cách tan biến.

Chính tiến trình chánh niệm ấy lọc sạch tư tưởng và cảm xúc bạn. Khi ấy, bạn cảm như đã rũ bỏ một cái lốt da ngoài, có cái gì được lột sạch, được phóng thích.

Tuy nhiên có nhiều người không được thoải mái với pháp quán hơi thở, họ còn thấy gần như bị ngộp. Đối với họ, kỹ thuật sau đây có thể tốt hơn.

2. Dùng một vật làm đối tượng.

Phương pháp thứ hai, mà nhiều người thấy tốt, là an tâm vào một đối tượng. Bạn có thể dùng một vật đẹp tự nhiên gợi cảm đối với bạn, như một đóa hoa hay bình pha lê. Nhưng một cái gì biểu tượng cho chân lý, như tượng Phật, Chúa, hay nhất là bậc thầy của bạn. Thầy là gạch nối giữa bạn với chân lý, và nhờ bạn có quan hệ mật thiết với thầy, nên nhìn gương mặt thầy bạn có thể được cảm hứng và nhớ đến Phật tính của bạn.

Nhiều người đã có được liên hệ đặc biệt với bức tranh của tượng đức Padmasambhava gọi là "Trông giống tôi," bức tượng được tạc lúc sinh thời của ngài và được ngài ban phép vào thế kỷ thứ tám ở Tây Tạng. Padmasambhava, bằng năng lực tâm linh khổng lồ của ngài đã đưa giáo lý Phật vào Tây Tạng.

Ngài được xem là vị Phật thứ hai, và được dân Tây Tạng gọi một cách âu yếm là "Thầy Rinpoche" hay "Bậc thầy quý báu." Dilgo Khientse Rinpoche nói:

- Trên đất Ấn và Tây Tạng, đã từng có nhiều bậc thầy tuyệt luân, nhưng người có công bi mẫn lớn lao nhất, người nhiều ân đức với hữu tình trong thời đại khó khăn này, chính là Padmasambhava, người tượng trưng từ bi và trí tuệ của tất cả chư Phật. Một trong những đức của ngài là, ngài ban phúc ngay lập tức cho ai cầu khẩn ngài, và bất cứ gì ta cầu xin, ngài đều có năng lực làm ta toại nguyện tức khắc.

Khi được cảm hứng từ điều này, thì bạn hãy gắn một tấm hình của bức tượng ngài ngang tầm mắt bạn, rồi hướng sự chú ý của bạn đến gương mặt ngài, nhất là tia nhìn nơi đôi mắt. Có niềm an tịnh sâu xa trong cái nhìn ấy, như đang phóng ra từ bức tranh để đưa bạn đi vào một trạng thái tỉnh giác không bám víu, trạng thái thiền định. Rồi bạn để yên cho tâm bạn an nghỉ cùng với Padmasambhava.

3. Nhẩm đọc một thần chú.

Một kỹ thuật thứ ba được sử dụng rất nhiều trong Phật giáo Tây Tạng (và cả trong đạo Sufism, Ki tô giáo chính thống, và Ấn giáo), là hợp nhất tâm bạn với âm thanh của một bài chú. Định nghĩa của mantra là "cái che chở tâm." Cái che chở tâm khỏi tính tiêu cực, hay che chở bạn khỏi tâm bạn, gọi là mantra.

Khi bạn đang nóng nảy, mất hướng đi, hoặc cảm thấy yếu đuối tình cảm, thì tụng đọc thần chú có thể thay đổi hoàn toàn tâm thái của bạn bằng cách thay đổi năng lực và bầu khí hậu của nó. Việc này xảy ra được bằng cách nào? Thần chú là tinh túy của âm thanh, và là hiện thân của chân lý qua hình thức âm thanh. Mỗi âm đều thấm nhuần năng lực tâm linh, cô đọng một sự thật về tâm linh, và rung động với ân đức của Lời chư Phật. Người ta bảo rằng tâm cỡi trên Prana hay Khí lực, khí này di chuyển khắp cơ thể và thanh lọc những huyệt đạo vi tế. Bởi thế khi đọc chú, là bạn đang chở đầy năng lực của thần chú trong hơi thở và khí lực của mình, tác động trực tiếp trên tâm và thân vi tế.

Câu chú tôi khuyên các học trò tôi đọc là:

- OM AH HUM VAJRA GURU PADMA SIDDHI HUM

(Người Tây Tạng nói: Om Ah Hung Benzaa Guru Péma Siddhi Hung)

Là thần chú của Padmasambhava, của tất cả chư Phật, các bậc thầy và những bậc đã chứng ngộ, bởi thế rất có mãnh lực đem lại bình an, chữa bệnh, chuyển hóa và che chở người ta trong thời đại hỗn độn bạo hành này. Hãy lặng lẽ đọc câu chú với sự chú tâm sâu xa, và để hơi thở, câu chú và sự tỉnh thức của bạn dần trở thành một. Hoặc tụng nó lên một cách hứng khởi, rồi an trú trong sự im lặng bao la đôi khi tiếp theo sau đó.

Mặc dù suốt đời quen thuộc với sự thực hành này, tôi vẫn còn đôi lúc kinh ngạc bởi năng lực của thần chú. Vài năm trước, khi tôi đang hướng dẫn một thiền hội gồm ba trăm người ở Lyon, Pháp, phần đông là những bà nội trợ và những nhà chữa tâm bệnh. Tôi đã giảng dạy suốt ngày, nhưng họ dường như muốn tận dụng khoản thời gian ở gần tôi, nên cứ tiếp tục hỏi hết câu này tới câu khác không ngừng. Cuối ngày thì tôi hoàn toàn kiệt sức, một bầu không khí nặng nề tẻ nhạt lan khắp phòng. Bởi thế tôi tụng lên bài chú nói trên. Tôi kinh ngạc trước hiệu quả: Trong vài phút tôi cảm thấy năng lực được phục hồi, bầu khí quanh chúng tôi thay đổi, và toàn thể thính giả trở lại tươi sáng say mê. Tôi vẫn thường có kinh nghiệm ấy nhiều lần, nên tôi biết không phải chỉ là một "phép lạ" tình cờ.

TÂM TRONG THIỀN ĐỊNH

Vậy, ta nên làm gì với tâm ta trong thiền định? Không gì cả. Cứ để mặc nó như nó là. Một bậc thầy mô tả thiền định là "Tâm lơ lửng trong không, không ở đâu."

Có một câu nói nổi tiếng:

- Nếu tâm không bị gượng ép, thì nó tự nhjiên đầy hỉ lạc, cũng như nước, khi không bị quấy động thì tự nhiên trong suốt.

Tôi thường so sánh tâm thiền với một chun nước bùn: Ta càng để yên đừng khuấy động nước lên, thì những phân tử bụi càng chìm xuống đáy, làm cho tính trong sáng tự nhiên của nước chiếu suốt đáy. Tính tự nhiên của tâm là nếu bạn để nó trong trạng thái đừng thay đổi, thì nó sẽ tìm thấy tính tự nhiên chân thực của nó, hỉ lạc và trong sáng.

Bởi vậy cẩn thận đừng áp đặt lên tâm bạn một cái gì. Khi thiền định, không được có nỗ lực để kiểm soát, không cố để được an. Đừng quá quan trọng cảm thấy mình đang làm một lễ lạc gì đặc biệt; hãy buông xả ngay cả cái ý niệm rằng bạn đang thiền. Hãy để thân bạn tự nhiên, hơi thở tự nhiên. Tưởng về bạn như bầu trời, bao trùm tất cả vũ trụ.

QUÂN BÌNH TẾ NHỊ

Trong thiền định cũng như trong mọi nghệ thuật, cần có một quân bình tế nhị giữa thư dãn và bén nhạy.

Một lần, một tu sĩ tên Shrona học thiền với một trong những đệ tử gần nhất của Phật. Ông đang gặp khó khăn trong việc để tâm như thế nào. Ông có hết sức để tập trung, làm cho ông bị nhức đầu. Rồi khi buông tâm ra, thì buông quá độ nên ông buồn ngủ. Cuối cùng ông phải tới cầu xin Bụt giúp đỡ. Biết ông ta đã từng là nhạc công nổi tiếng lúc còn tại gia, Bụt hỏi:

- Có phải ông đã từng chơi đàn lúc còn là cư sĩ không?

Shrona thưa vâng. Bụt hỏi:

- Ông làm sao để gãy ra tiếng hay nhất? Đó là lúc dây đàn thật căng, hay lúc dây thật chùng?

- Bạch Thế tôn, không quá căng cũng không quá chùng mới được.

- Vậy, với tâm ông cũng như thế đó.

Ma Chik Lap Dron, một trong những bậc nữ đạo sư của Tây Tạng, nói:

- Tỉnh, tỉnh, mà buông, buông. Đây là điểm cốt yếu trong thiền để có Tri kiến.

Hãy khơi dậy sự tỉnh giác, nhưng đồng thời buông xả, xả cho đến độ bạn không bám vào một ý niệm về buông xả.

Ý TƯỞNG VÀ CẢM XÚC: SÓNG VÀ ĐẠI DƯƠNG

Khi bắt đầu thiền, người ta thường nói những ý tưởng của họ nổi loạn, và trở nên ồn ào hơn bao giờ hết. Nhưng tôi trấn an họ rằng, đó là dấu hiệu tốt. Nó chứng tỏ bạn đã trở nên an tịnh hơn, nên mới ý thức được sự ồn ào của những ý tưởng trong tâm bạn. Bạn không nên nản chí bỏ cuộc. Dù khởi lên ý niệm gì, hãy để tâm bạn tỉnh thức, kéo tâm về hơi thở, ngay dù nó đang tán loạn.

Trong những chỉ dẫn về thiền ngày xưa, thường nói rằng lúc đầu những ý tưởng kéo đến té nhào lên nhau không gián đoạn, như thác đổ trên núi xuống. Dần dần, khi bạn hoàn hảo về thiền, thì ý tưởng như nước trong vực sâu, rồi như dòng sông lớn chảy ra biển, chỉ thỉnh thoảng có sống gợn lăn tăn.

Đôi khi người ta nghĩ rằng khi thiền định, họ không được có ý tưởng cảm xúc nào cả, nên khi chúng khởi lên, họ đâm ra bực bội cáu tiết với chính họ, vì tưởng mình thất bại. Thật không gì sai sự thật hơn. Tây Tạng có câu: "Đấy cũng như đòi thịt đừng có xương, đòi trà đừng có lá." Bao lâu bạn còn tâm là còn có ý tưởng và cảm xúc.

Cũng như đại dương có sóng, mặt trời có tia, những tia sáng của tâm bạn chính là những ý tưởng và cảm xúc. Biển có sóng, nhưng nó không phiền hà gì về những ngọn sóng. Sóng chính là bản tính của biển. Sóng sẽ nổi lên, nhưng sẽ đi về đâu? Trở về đại dương. Và những con sóng ấy từ đâu đến? Từ đại dương. Cũng thế, ý tưởng và cảm xúc là những tia sáng và biểu hiện của chính tự tính của tâm. Chúng nổi lên từ tâm, nhưng chúng tan biến đi đâu? Cũng tan trở về tâm. Dù ý tưởng gì khởi lên, cũng đừng xem nó như một vấn đề trọng đại. Nếu bạn không phản kháng một cách ồn ào, nếu bạn cứ kiên nhẫn, thì nó sẽ lại trở về trong tự tính của nó.

Khi bạn hiểu được như vậy, thì những ý tưởng khởi lên chỉ làm tăng tiến việc thực tập thiền định của bạn. Mà nếu không hiểu như vậy, thì chúng lại trở thành hạt giống của mê mờ. Vậy hãy có một thái độ cởi mở từ bi đối với chúng, vì những ý tưởng ấy đều là gia đình của tâm bạn. Bạn hãy xử với chúng "như một ông già minh triết nhìn đứa trẻ đang chơi," như Dudjom Rinpoche đã nói.

Chúng ta thường không biết làm sao với tính tiêu cực hay vài cảm xúc rầy rà. Trong tính khoáng đạt của thiền định, bạn có thể nhìn những ý tưởng và cảm xúc bạn với một thái độ hoàn toàn cởi mở không thành kiến. Khi thái độ của bạn thay đổi, thì toàn thể không khí của tâm bạn cũng thay đổi, cả đến bản chất của những tư tưởng và cảm xúc bạn. Khi bạn trở nên dễ chịu hơn, thì chúng cũng dễ chịu hơn; nếu bạn không khó khăn với chúng, thì chúng cũng không khó khăn với bạn.

Bởi thế, dù tư tưởng cảm xúc nào khởi lên, hãy để cho chúng lên xuống như sóng biển. Bất cứ gì bạn thấy mình đang nghĩ tới, hãy để cho ý nghĩ ấy tự sinh tự diệt không một gượng ép nào. Đừng nắm bắt nó, nuôi dưỡng nó, chạy theo nó; đứng bám lấy nó và củng cố nó. Không theo dõi những vọng tưởng, cũng không mời gọi chúng, bạn hãy giống như biển nhìn những làn sóng của nó, hay như bầu trời nhìn những đám mây bay qua nó.

Bạn sẽ thấy rằng những ý tưởng như cơn gió, chúng đến và đi. Bí quyết là đừng "nghĩ" về chúng, mà để cho chúng tuôn chảy qua tâm, đồng thời giữ cho tâm bạn thoát khỏi những "hậu" ý tưởng.

Trong tâm thường ngày, ta nhận thấy dòng tư tưởng như là liên tục; song kỳ thực không phải vậy. Bạn sẽ khám phá cho chính bạn rằng có một khoảng hở giữa hai ý tưởng. Khi niệm quá khứ đã qua, thì niệm tương lai chưa đến. Bạn sẽ luôn luôn tìm thấy một khe hở trong đó Rigpa, tự tính của tâm, làm hiển lộ. Vậy, công việc của thiền định là làm chậm lại dòng tư tưởng, để cho khoảng hở ấy trở thành rõ rệt hơn.

Thầy tôi có một người học trò tên Apa Pant, một nhà ngoại đạo Ấn, một tác giả, người đã làm đại sứ Ấn ở nhiều thủ đô khắp thế giới. Ông ta đã từng làm đại diện cho chính phủ Ấn tại Tây Tạng ở Lhasa, và có một thời gian ông làm đại diện ở Sikkim. Ông cũng là một thiền giả và người thực hành yoga, và mỗi lần gặp thầy tôi, ông đều hỏi làm sao để thiền. Ông đang theo một truyền thống Đông phương, trong đó người học cứ hỏi đi hỏi lại vị thầy một câu hỏi căn bản thật nhiều lần.

Apa Pant kể cho tôi nghe chuyện này. Một hôm thầy tôi Jamyang Khientse đang ngắm một màn vũ của các Lama trước Chùa Cung điện ở Gangtok, thủ đô Sikkim, đang khúc khích xem một người hề làm trò giữa hai màn vũ. Apa Pant cứ hỏi đi hỏi lại mãi cái câu làm thế nào để thiền định, bởi thế thầy tôi cho ông biết thầy trả lời ông ta một lần chót:

- Xem, nó giống như thế này: Khi ý tưởng quá khứ đã qua, mà ý tưởng vị lai chưa đến, có phải có một khoảng hở không?

Apa Pant đáp:

- Vâng.

Thầy tôi nói:

- Đấy, hãy kéo dài nó ra: Đó là thiền định.

KINH NGHIỆM

Khi bạn tiếp tục thực hành, bạn có thể có đủ thứ kinh nghiệm tốt cũng như xấu. Như một cái phòng có nhiều cửa sổ cửa lớn để cho không khí ùa vào từ mọi phía, cũng thế khi tâm bạn mở ra, thì tự nhiên mọi kinh nghiệm có thể vào trong tâm. Bạn có thể kinh quá những trạng thái hỉ lạc, sáng suốt, hay dứt mọi tư tưởng. Có thể nói đấy là những kinh nghiệm tốt, những dấu hiệu của sự tiến bộ trong thiền. Vì khi bạn có hỉ lạc, ấy là dấu hiệu dục vọng tạm thời lắng xuống.

Khi bạn cảm thấy sáng suốt, là dấu hiệu sân giận tạm ngừng. Khi bạn kinh quá sự vắng bóng tư tưởng, là dấu hiệu vô minh tạm diệt. Tự bản chất, chúng là kinh nghiệm tốt, nhưng nếu bạn bám víu chúng thì chúng trở thành những chướng ngại. Kinh nghiệm tự chúng không phải là chứng ngộ, nhưng nếu ta thoát khỏi chấp thủ vào chúng, thì chúng là những nguyên liệu để chứng ngộ.

Những kinh nghiệm tiêu cực thường bị lầm nhất, vì người ta dễ xem chúng như dấu hiệu xấu. Nhưng kỳ thực chúng là những ân sủng trá hình. Hãy cố đừng phản ứng lại với sự chán ghét như bạn thường làm, mà thay vì thế, hãy nhận chân chúng chỉ là những kinh nghiệm, như huyễn như mộng. Sự nhận ra thực tính của kinh nghiệm sẽ giải thoát bạn khỏi tai hai nguy hiểm của nó, và do vậy ngay cả một kinh nghiệm xấu có thể trở thành một nguồn ân sủng và thành tựu lớn lao. Có rất nhiều câu chuyện về những bậc thầy đã làm việc như vậy với những kinh nghiệm xấu và đã chuyển hóa chúng thành chất xúc tác cho sự chứng ngộ.

Theo truyền thống, người ta bảo rằng đối với một hành giả thực thụ, thì không phải nhưng kinh nghiệm xấu, mà chính những kinh nghiệm tốt mới gây ra chướng ngại. Khi mọi sự tiến hành tốt đẹp, bạn phải đặc biệt cẩn thận để khỏi đâm ra tự mãn hay quá tin. Nhớ lại Dudjom Rinpoche đã bảo tôi khi tôi gặp một kinh nghiệm rất mãnh liệt:

- Đừng quá náo nức. Cuối cùng, nó không tốt cũng không xấu.

Thầy biết tôi đang bám víu kinh nghiệm: Chính sự bám víu ấy phải được cắt đứt, như bất cứ sự bám víu nào khác. Điều chúng ta cần học trong thiền định cũng như trong cuộc đời, là giải thoát chấp thủ đối với những kinh nghiệm tốt, và giải thoát sự chán ghét đối với những kinh nghiệm xấu.

Dudjom Rinpoche cảnh cáo chúng ta một cái bẫy khác:

- Ngược lại, trong khi hành thiền, bạn có thể kinh quá một cảm giác bồng bềnh nửa tỉnh nửa mê, như là có cái mồng trên đầu bạn, một trạng thái chán chường mơ mộng. Đây chỉ là một tình trạng ứ đọng vô tâm. Làm sao bạn ra khỏi tình trạng ấy? Hãy thức tỉnh bạn, thẳng người lại, thở mạnh cho thán khí ra khỏi buồng phổi, và hướng sự tỉnh giác của bạn vào khoảng không gian trong sáng để làm tâm bạn tươi tỉnh lại. Nếu ở lại trong trạng thái tù đọng ấy, bạn sẽ không tiến bộ; bởi thế mỗi khi sự thụt lùi này xảy ra, thì bạn hãy xua tan nó nhiều lần. Điều quan trọng là bạn hãy thật tỉnh táo canh chừng.

Bất cứ phương pháp nào bạn sử dụng, hãy bỏ nó, hay để nó tự tan rã, khi bạn thấy mình đã đạt tới một trạng thái bén nhạy, rộng rãi, và bình an. Rồi tiếp tục an trú trong đó lặng lẽ không xao lãng, không cần dùng một phương pháp đặc biệt nào. Phương pháp đã làm tròn mục đích của nó. Tuy nhiên, nếu bạn trở nên phân tán, thì hãy trở lại sử dụng bất cứ kỹ thuật nào thích hợp để gọi tâm bạn trở lại.

Vinh quang thực sự của thiền định không nằm ở phương pháp, mà ở cái kinh nghiệm liên tục về sự tỉnh giác, sự hỉ lạc, sáng suốt, bình an, và quan trọng hơn cả là hoàn toàn vắng bóng chấp thủ. Sự giảm bớt chấp thủ trong chính bạn là dấu hiệu chứng tỏ bạn đang dần thoát khỏi chính mình.

Và bạn càng kinh quá sự giải thoát này, thì càng chứng tỏ cái ngã và những hy vọng sợ hãi đã nuôi dưỡng nó, đang tan rã, và bạn càng tiến gần hơn đến trí tuệ vô ngã. Khi bạn ở trong cái nhà trí tuệ ấy, bạn sẽ không còn thấy một rào ngăn nào giữa tôi và anh, tự và tha, trong và ngoài; cuối cùng bạn đã trở về ngôi nhà chân thực, nghĩa là trạng thái bất nhị.

NGHỈ NGƠI

Phần nhiều người ta hỏi:

- Tôi nên ngồi thiền bao nhiêu lâu? Lúc nào? Tôi có nên thực tập hai mươi phút sáng chiều, hay nên làm thành nhiều thời ngắn hơn trong ngày?

Vâng, nên ngồi trong hai mươi phút, mặc dù không muốn nói mức giới hạn là hai mươi phút. Trong kinh điển tôi chưa từng thấy ở đâu nói hai mươi phút; có lẽ đấy là một quan niệm mới bày đặt ra ở phương Tây, mà tôi gọi là "Thời hạn Thiền theo tiêu chuẩn Tây phương." Vấn đề không phải là bạn phải ngồi bao lâu, mà vấn đề là sự hành thiền có thực sự đem lại cho bạn một trạng thái tỉnh thức và hiện trú hay không, một trạng thái trong đó bạn hơi cởi mở và có thể liên lạc với bản tâm của bạn. Và năm phút ngồi thiền tỉnh táo có giá trị hơn nhiều so với hai mươi phút ngủ gà ngủ gật!

Dudjom Rinpoche thường nói một người mới tập nên tập từng thời ngắn. Hãy thực tập chừng bốn năm phút, rồi nghỉ ngơi chỉ chừng một phút. Trong khi nghỉ thì buông phương pháp ra, nhưng đừng buông hoàn toàn cái tâm tỉnh giác của bạn. Đôi khi, lúc bạn đang phấn đấu nỗ lực để thiền, thì kỳ lạ thay, vào đúng cái lúc bạn nghỉ ngơi không dùng phương pháp – mà nếu bạn vẫn duy trì tỉnh giác và hiện trú, – thiền định mới thực sự xảy ra. Đấy là lý do sự nghỉ ngơi cũng là một phần của thiền định, quan trọng như chính lúc ngồi. Tôi thường bảo những học trò nào gặp khó khăn trong khi thực tập, hãy tu tập trong lúc nghỉ ngơi và nghỉ ngơi trong lúc tu tập.

Hãy ngồi một thời ngắn, rồi nghỉ chứng ba mươi giây hay một phút. Nhưng trong lúc ấy hãy tỉnh giác đối với mọi sự bạn làm, mà đừng đánh mất sự hiện trú của bạn, sự thoải mái tự nhiên của nó. Rồi làm cho bạn tỉnh táo ra, và ngồi tiếp. Nếu bạn tập nhiều thời ngắn như thế, những thời nghỉ ngơi của bạn thường làm cho thiền của bạn thực hơn, gợi cảm hứng nhiều hơn, tẩy trừ sự cứng đơ, tính trịnh trọng và mất tự nhiên của sự tu tập, và đem lại cho bạn nhiều chú tâm và thoải mái hơn. Dần dần, qua sự xen kẽ giữa thực tập và nghỉ ngơi như thế, cái hàng rào ngăn giữa đời sống thường ngày và thiền định sẽ sụp đổ, sự tương phản tiêu tan, và bạn sẽ thấy mình càng ngày càng ở trong trạng thái tỉnh giác hiện trú một cách tự nhiên không phân tán. Khi ấy, như Dudjom Rinpoche thường nói:

- Dù cho người thiền định từ bỏ thiền, mà thiền không bao giờ rời khỏi người.

HÒA NHẬP THIỀN VỚI HÀNH ĐỘNG

Tôi đã thấy rằng phần lớn những hành giả tâm linh ngày nay thiếu tri thức để hội nhập đời sống hàng ngày của họ với thiền định. Tôi không biết làm sao để nhấn mạnh điều này: Hội nhập thiền vào hành động chính là tất cả nền tảng, lý do và mục tiêu của thiền định. Sự bạo động, căng thẳng, những thử thách và xao lãng của đời sống tân tiến làm cho sự hội nhập này càng thêm khẩn thiết hơn nữa.

Có người phàn nàn với tôi:

- Tôi đã thiền mười hai năm, những vẫn chứng nào tật ấy. Tôi không thay đổi, tại sao?

Tại vì có một hố sâu giữa hành thiền của họ với đời sống hàng ngày. Họ dường như hiện hữu trên hai thế giới tách biệt, thế giới này không giúp gì cho kia. Tôi lại nhớ một thầy giáo hồi tôi còn đi học ở Tây Tạng. Ông ta giảng quy luật văn phạm rất xuất sắc, nhưng không bao giờ viết đúng được một câu nào.

Thế thì làm sao chúng ta có được sự hội nhập giữa đời sống hàng ngày với tư thái bình tĩnh, buông xả rộng rãi của thiền định? Không gì bằng thực tập thường xuyên, chỉ nhờ thực tập thường xuyên ta mới bắt đầu nếm được một cách không gián đoạn sự an tĩnh của tự tính ta, và có thể duy trì kinh nghiệm ấy trong đời sống hàng ngày.

Tôi luôn luôn bảo học trò tôi đừng xuất thiền quá nhanh: Hãy để vài phút cho niềm an lạc của sự hành thiền len lỏi vào đời bạn.

Thầy Dudjom Rinpoche tôi nói:

- Đừng nhảy lên bỏ chạy, mà hòa tâm tỉnh giác của bạn với đời sống hàng ngày. Hãy giống như người bị nứt sọ, luôn luôn cẩn thận canh chừng để người khác khỏi đụng vào mình.

Rồi sau thời thiền định, điều quan trọng là đừng đầu hàng cái khuynh hướng củng cố lối nhận thức của ta đối với sự vật. Khi bạn vào lại đời sống hàng ngày, hãy để cho tuệ giác, tri kiến, lòng bi mẫn, tính khí, sự khoáng đạt và giải thoát mà thiền đã đem lại cho bạn, thể nhập trong kinh nghiệm hàng ngày. Thiền khơi dậy trong bạn cái nhận thức vạn pháp đều huyễn hóa, như mộng; bạn hãy duy trì nhận thức ấy ngay trong lòng sinh tử. Một bậc thầy vĩ đại đã nói:

- Sau khi thực tập thiền định, người ta phải trở thành một đứa con của huyễn hóa.

Dudjom Rinpoche khuyên:

- Mặc dù mọi sự đều như mộng, huyễn hóa, bạn vẫn tiếp tục làm việc với thái độ hài hước. Chẳng hạn, nếu bạn đang đi dạo, hãy bước về khoảng trống khoáng đạt của chân lý. Khi ngồi, bạn hãy là thành trì của chân lý. Khi ăn, bạn hãy cho những thói tiêu cực và ảo tưởng của bạn vào trong cái bụng của chân-không. Và khi đi cầu, hãy xem những chướng ngại đang được tẩy sạch.

Vậy, điều quan trọng không phải chỉ là ngồi, mà chính là trạng thái tâm của bạn sau thời thiền. Chính cái tâm trạng an tĩnh tập trung ấy, bạn hãy đưa nó vào trong mọi sự bạn làm. Tôi rất thích câu chuyện thiền trong đó môn đệ hỏi bậc thầy:

- Bạch thầy, làm sao ta đưa giác ngộ vào trong hành động? Làm sao ta thực hành thiền trong đời sống?

Vị thầy đáp:

- Bằng cách ăn, ngủ.

- Nhưng bạch thầy, ăn ngủ thì ai cũng ăn ngủ.

- Nhưng không phải ai cũng thực ăn lúc họ ăn, thực ngủ lúc họ ngủ.


Từ đấy có thiền ngữ nổi tiếng:

- Khi ăn, ta ăn; khi ngủ, ta ngủ.

Ăn khi bạn ăn và ngủ khi bạn ngủ có nghĩa là hoàn toàn hiện trú trong tất cả hành động của bạn, không có những sự phân tán của bản ngã xen vào. Đấy là hội nhập.

Và nếu bạn thực sự mong muốn hoàn thành việc này, điều cần yếu không phải là chỉ tập thiền thỉnh thoảng như uống thuốc trị bệnh, mà phải như ăn cơm bữa. Bởi vậy, một cách tuyệt hảo để phát triển khả năng hội nhập này, là đầu tiên hãy thực tập thiền trong một khung cảnh nhập thất, xa hẳn những căng thẳng của sinh hoạt đô thị ngày nay.

Người ta rất thường đến với thiền với hy vọng có những kết quả phi thường, như linh kiến, ánh sáng, hay một vài phép lạ siêu nhiên. Khi không có điều gì như vậy xảy ra, thì họ hết sức thất vọng. Nhưng phép lạ thực sự của thiền định lại "thuờng" hơn, và hữu ích hơn nhiều. Đấy là một sự chuyển hóa tế nhị, không chỉ xảy ra trong tâm bạn, cảm xúc bạn, mà thực sự cả trong thân bạn. Nó chữa lành. Những bác sĩ và nhà khoa học đã khám phá rằng khi bạn vui vẻ, thì những tế bào trong cơ thể bạn còn vui vẻ hơn, nhưng khi tâm bạn ở trong trạng thái tiêu cực, thì những tế bào của bạn có thể trở thành ác tính. Toàn thể tình trạng sức khỏe bạn, có quan hệ mật thiết đến trạng thái tâm bạn và lối sống của bạn.

NGUỒN CẢM HỨNG

Tôi đã nói rằng thiền định là con đường đưa đến giác ngộ và là nỗ lực lớn lao nhất của đời này. Mỗi khi nói về thiền định cho sinh viên, tôi luôn nhấn mạnh sự cần thiết phải thực hành thiền với một kỷ luật quyết định và sự sùng kính nhất tâm; đồng thời, cũng rất quan trọng là thực hành thiền với cảm hứng và tinh thần sáng tạo càng nhiều càng tốt. Có thể nói thiền là một nghệ thuật, và bạn nên tập thiền định với niềm hứng thú và giàu tính phát minh của một nghệ sĩ.

Hãy hăng hái đi vào sự an lạc của bạn như bạn đang cạnh tranh điên cuồng trong cuộc đời. Có nhiều cách đề làm cho thiền định trở thành một niềm vui. Bạn có thể tìm một bản nhạc ưa thích, và dùng nó để mở tâm trí bạn. Bạn có thể sưu tập thi ca, trích dẫn lời thánh nhân động đến tâm can bạn, và giữ chúng bên mình để làm bạn lên tinh thần. Tôi luôn luôn thích những bức tranh cổ thangka của Tây Tạng, vẻ đẹp của chúng làm cho tôi thêm năng lực.

Bạn cũng có thể tìm những bức tranh gợi cho bạn cảm giác thiêng liêng, và treo lên tường phòng bạn. Lắng nghe băng giảng của một vị thầy vĩ đại, hoặc nghe tán tụng. Bạn có thể biến chỗ bạn ngồi thiền thành một thiên đường giản dị, với một đóa hoa, một cây hương, một ngón nến, một bức ảnh của bậc thầy đã giác ngộ, hay một tượng Phật. bạn có thể biến gian phòng thường nhất thành một nơi thiêng liêng ấm cúng, một khung cảnh mà mỗi ngày bạn đến gặp bản ngã đích thực của bạn với tất cả niềm vui và hạnh phúc như gặp bạn cố tri. Và nếu bạn nhận thấy thiền định không dễ dàng xảy đến trong phòng bạn ở đô thị, thì hãy ra ngoài thiên nhiên.

Thiên nhiên luôn luôn là một nguồn cảm hứng bất tận. Muốn an tâm, bạn hãy đi dạo vào lúc bình minh trong công viên, hay ngắm sương mai trên một đóa hồng trong vườn. Nằm giữa đất mà ngắm nhìn bầu trời, để tâm bạn trải ra trong cái bao la đó. Hãy để cho bầu trời bên ngoài đánh thức bầu trời trong tâm bạn. Đứng bên dòng suối mà hòa tâm bạn vào tiếng nước chảy, ngồi bên thác đổ, để cho tiếng cười trong sáng của nó tịnh hóa tâm hồn bạn. Đi dạo trên bãi biển và hứng đầy gió biển trên mặt bạn. Mừng ánh trăng sáng để cho vẻ đẹp của trăng làm lắng tâm bạn. Ngồi trên hồ hay trong vườn, thở lặng lẽ, để tâm bạn im lặng khi trăng từ từ lên tráng lệ trong bầu trời không mây. Mọi sự đều có thể dùng làm sự mời gọi thiền định. Một nụ cười, một gương mặt trên tàu hầm, một cánh hoa mọc trong khe đá bên vệ đường, một tấm vải sặc sỡ treo trong cửa tiệm, ánh trời chiếu trên chậu hoa nơi cửa sổ. Hãy nhạy bén đối với mọi dấu hiệu của cái đẹp và vẻ diễm kiều. Dâng lên mọi niềm vui, tỉnh giác vào mọi lúc, trước "những tin tức luôn luôn đến từ im lặng."

Dần dà bạn sẽ là người làm chủ lấy hạnh phúc của mình, tạo ra niềm vui cho chính mình, có đủ mọi phương pháp để thắp sáng, nâng cao, gợi cảm hứng cho từng hơi thở và động tác của mình. Thế nào là một thiền giả vĩ đại? Đó là người luôn luôn sống với sự hiện diện của cái tự ngã chân thực của mình, đã tìm ra và sử dụng liên tục suối nguồn của cảm hứng sâu xa. Nhà văn Anh Lewis Thompson viết:

- Kitô, thi nhân tối thượng, đã sống chân lý một cách say sưa đến độ mỗi hành vi của ngài đều là Hành vi thuần tịnh và ngôi Lời toàn hảo, thể hiện cái siêu việt.

Thể hiện cái siêu việt, đó là lý do chúng ta sống trên đời.
 

Về Menu

tạng thư sống chết 07. phần 1: sống 05. đưa tâm về nhà phần 2 tang thu song chet 07 phan 1 song 05 dua tam ve nha phan 2

thờ phật lễ phật và cúng phật Tái sinh chuong v phat giao duoi 3 trieu dai chu Ä Æ phóng sanh và giới sát 抢罡 chu tam thien xao va tinh giac rong mo giáo phóng sanh khÃ Æ Chùm ảnh đặc biệt Hòa thượng Thích Mua kính đọc chữ sao 隨佛祖 that thap co lai hy Nhụy Nguyên lập thiền tim hieu ve nhung tuong tot la ky cua duc phat Món chay mùa Vu Lan hoc cach tu thien dao hanh tÕ di phát 5 bước hóa giải tính ghen tức cuộc chiến để xả ly giấc Trường y Sáu m¹o khoẠNhận tại sao nên sống lương thiện Phát tuyên hoá hoa thuong tinh su 1913 thanh thoi tu vien tuoi lç¹ Nguyên nhân làm tiểu đường khó kiểm Vi Nhà Cơm gạo lứt trộn nấm Đặt gánh nặng xuống Người mang nhóm máu nào có nguy cơ tim cái vỏ ốc Hoi tức Những bữa cơm muộn ç¾ vi tẠn ấm gia テス