Người học ngày nay, thường mang nhiều nghi vấn, vì văn từ trong kinh luận mâu thuẫn nhau Nếu không dung thông thì mối nghi ấy không bao giờ dứt
Tây Phương Yếu Quyết 2

Người học ngày nay, thường mang nhiều nghi vấn, vì văn từ trong kinh luận mâu thuẫn nhau. Nếu không dung thông thì mối nghi ấy không bao giờ dứt.  
Nay tôi lược nêu ra mười bốn trường hợp để giải quyết những mối nghi ấy. Mong rằng những bậc tài cao học rộng tham cứu nơi đây mà hiểu được!

Kính nghĩ, Đức Thích-ca mở ra vận hội lớn làm lợi ích rộng lớn cho chúng sinh có duyên, xiển dương giáo pháp tùy theo mỗi quốc độ khiến pháp nhũ thấm nhuần khắp cả. Người đích thân gặp được Như Lai giáo hóa thì tỏ ngộ Ba thừa [1] , còn kẻ nhân sơ phước bạc thì khuyên quay về Tịnh độ. Tu tập pháp môn ấy là chuyên niệm A-Di-Đà, đồng thời đem tất cả thiện căn hồi hướng nguyện sinh. Bởi vì bản nguyện của đức A-Di-Đà là thệ độ cõi Ta-bà, nên hoặc niệm suốt cả một đời, hoặc mười niệm lúc lâm chung, chắc chắn đều được vãng sinh Tịnh độ.

Người học ngày nay, thường mang nhiều nghi vấn, vì văn từ trong kinh luận mâu thuẫn nhau. Nếu không dung thông thì mối nghi ấy không bao giờ dứt. Nay tôi lược nêu ra mười bốn trường hợp để giải quyết những mối nghi ấy. Mong rằng những bậc tài cao học rộng tham cứu nơi đây mà hiểu được!

Phần I

Kinh ghi: "Nếu dùng sắc để thấy ta, dùng âm thanh cầu ta thì người đó hành theo tà đạo, không thể thấy Đức Như Lai".

Hỏi: Kinh Kim Cang nói dùng hình sắc và âm thanh cầu Phật là tà đạo. Vậy, các kinh A-Di-Đà và kinh Quán Vô Lượng Thọ v.v...chỉ dạy quán thân tướng Phật và niệm danh hiệu Phật. Như thế, không lìa âm thanh và sắc tướng mà cầu Phật, tại sao không rơi vào tà đạo? Nếu quay về đường chánh thì Tịnh độ là nơi đáng nương tựa nhất mà kinh lại cho là tà đạo, dẫu có muốn thực hành cũng sợ rơi vào cảnh giới ma. Hai đường chánh tà khó quyết, đúng sai xin được giải bày?

Đáp: Đức Đại sư thuyết giáo có rất nhiều môn, mỗi môn đều xứng hợp với thời và cơ, nhưng bình đẳng không sai khác. Những điều được dạy trong kinh Kim Cang Bát-Nhã riêng thành một môn, những nghĩa trong kinh A-Di-Đà và kinh Quán Vô Lượng Thọ v.v...lại là một lý. Vì sao? Vì tất cả chư Phật đều có ba thân. Pháp thân vốn không hình thể, chẳng phải âm thanh, sắc tướng.

Nếu dùng âm thanh và sắc tướng để nắm bắt thì đó là tà đạo. Vì rằng, hàng Nhị thừa và tiểu Bồ-tát nghe nói ba thân không khác, liền cho là đều có âm thanh và sắc tướng. Chỉ thấy sắc tướng của Hóa thân bèn chấp Pháp thân cũng như vậy, nên mới ở nơi tướng Hóa thân mà cầu thấy Pháp thân. Bởi vì lý vi diệu mầu nhiệm, vĩnh viễn bặt dứt âm thanh và sắc tướng, lại dùng âm thanh và sắc tướng để cầu thấy, cho nên nói tà đạo.

5Các kinh A-Di-Đà và Quán Vô Lượng Thọ v.v...khuyên niệm danh hiệu Phật, quán tướng hảo [2] cầu sinh về Tịnh độ, chỉ vì phàm phu nghiệp chướng nặng nề mà Pháp thân sâu kín, Pháp thể khó duyên. Hơn nữa, dạy môn niệm Phật, quán tướng, lễ tán là để đoạn trừ nghiệp chướng, phát sinh phước thiện, nguyện hạnh trợ nhau, cầu sinh Tịnh độ, mong gặp Hóa Phật để làm duyên lành bất thoái.

Cho nên, những bậc tiền bối thông đạt đều nương vào giáo môn này, quán tướng hảo, niệm danh hiệu cầu thấy Hóa thân Phật, mong rằng đến khi lâm chung được đích thân Ngài đến tiếp dẫn, cảm đến đức hóa chủ A-Di-Đà, rủ lòng thương đến đón rước, nghiệp báo dứt sạch, ngồi trên hoa sen, liền sinh về nước ấy. Kinh trước nói về tâm, kinh sau nói cảnh, lý khế hợp không trái nhau.

Vậy niệm danh hiệu, quán thân tướng đều không phải tà đạo. Lẽ nào cứ chấp chặt một pháp, không thấu tỏ ý Phật, tạo ra dị thuyết rối ren, khiến người khác phải nghi ngờ. Xét rõ ngọn nguồn ấy thì đủ phân biệt được đúng sai, không còn do dự. Hãy chuyên tâm nơi Tịnh nghiệp, chớ sinh loạn tưởng, lại đọa ba đường, khổ đau hành hạ, ăn năn làm sao kịp nữa!

Phần 2

Kinh Phật Tạng ghi: "Nếu Tỳ-kheo nào thấy có Phật, Pháp, Tăng và Giới để thọ trì thì người đó là quyến thuộc của ma, chẳng phải đệ tử của ta, ta cũng không phải thầy và cũng không tiếp nhận người đó".

Hỏi: Theo kinh Phật Tạng, ngoài tâm thấy Phật đều cho là ma, Phật không phải thầy họ và nói họ chẳng phải đệ tử của Phật. Như thế, pháp môn Tịnh Độ dạy người chuyên niệm danh hiệu Phật, quán tướng hảo Phật, cầu sinh Phật quốc, vậy người ấy chẳng phải đệ tử Phật, Phật không phải thầy của người ấy, làm sao được Phật hộ niệm để sinh về cõi Tịnh? Xét hai pháp môn ấy đều là lời Phật dạy, nhưng lại khác nhau, vậy nên định đoạt thế nào?

Đáp: Giáo môn có muôn ngàn sai biệt, nhưng cùng trở về một thể chân thật, tùy theo căn cơ mà lập nghĩa, nên ngôn giáo có sai biệt. Nghiên cứu kỹ hai kinh, văn tuy khác nhau, nhưng lý cùng một thể. Vì sao? Vì Phật, Pháp, Tăng và Giới có ba ý nghĩa:

- Chân đế.

- Biệt tướng

- Trụ trì


1. Chân đế: Thể chân như thanh tịnh, bặt dứt phiền não chướng và sở tri chướng [3] , bản giác sáng ngời đó là Chân Phật. Giữ gìn thể tánh không biến đổi, chư Phật từ đây mà thành tựu, bậc Đại sĩ đồng nương gá, muôn hạnh nhân đây mà hiển bày, đó chính là Chân Pháp. Thầm thể hội muôn pháp, dứt bặt ngôn từ, hý luận, đó chính là Chân Tăng. Tánh thanh tịnh trang nghiêm, thể tinh khiết vô cấu đó chính là Chân Giới. Căn cứ vào những nghĩa thù thắng này, cho nên nói là Chân đế, đó cũng là điều mà kinh Niết-Bàn ghi: "Quán Tam Bảo thường trụ đồng với Chân đế, chính là thệ nguyện tối thượng của chư Phật".

2. Biệt tướng: Phật có ba thân: Pháp thân, Báo thân và Hóa thân [4] . Pháp có bốn loại là giáo, lý, hạnh và quả. Tăng có hai loại là Hữu vi và Vô vi. Giới là tất cả các giới phẩm Chỉ trì và Tác trì [5] mà người xuất gia và tại gia phải thực hành. Nhưng tu Biệt tướng là để cầu chứng Chân đế, hàng Khởi hạnh [6] vừa biết Biệt tướng lại cho là cứu cánh nên không ngộ được nguồn chân. Còn hàng Học giới [7] thì cho tất cả đều là trợ đạo. Danh tướng Phật ứng hiện chẳng phải chân thật, nhưng để tiếp độ hàng phàm phu mà phương tiện lập ra Hóa thành [8] .

Kẻ thấp kém không hiểu được mới chấp là chân thật, nên bị Đức Phật quở trách, cho là quyến thuộc của ma. Là Phật tử cần phải đạt được Hai không [9] , xa thì hợp chân như, gần thì đúng với bổn nguyện, nếu cứ chấp chặt mãi danh tướng mà không ngộ được chân không thì lại rơi vào chốn ma, xa Phật trái Pháp. Muốn vượt Ấm ma [10] phải nhờ Pháp thân thường trụ; trừ Phiền não chướng cần nương vào Định hư không; ra khỏi cõi Thiên ma nên nhờ sức định Từ; cầu vượt Tử ma phải khéo nương vào định Thần túc. Xem khắp bốn phương, chẳng phải Đại thánh thì không ai có thể làm được, chinh phục Bốn ma [11] đâu phải khả năng của kẻ phàm phu. Nếu không để tâm vào chí đạo, thì biết lấy gì để dứt trừ lưới ái. Còn buộc niệm hướng về chân thì ngăn dứt các nẻo trong đường sinh tử.

Thế nên, Đức Phật chỉ dạy hàng phàm phu hãy nên học quán môn Tịnh độ. Nếu nghĩ đến Tây Phương thì phải cầu sự bất thoái, được sinh cõi Tịnh, thấy Hóa thân Phật, đức Hóa chủ dẫn dắt, đạt Vô sinh nhẫn [12] , tỏ ngộ pháp giới bình đẳng. Nương vào thần lực ấy phá các lưới ma, gần thì vượt khỏi ba cõi, xa thì được chứng đắc Bồ-đề. Nếu không như thế lại chìm trong đường ác, thọ khổ dài lâu, không bao giờ giải thoát.

Hiểu rõ hai nguyên nhân này hoàn toàn không khác nhau, chớ chấp một bên nào để sinh tâm nghi ngờ. Thuận pháp môn cơ bản này mà quán tưởng cõi kia, lìa hẳn Ta-bà, vĩnh viễn thoát khỏi luân hồi; suy nghiệm pháp môn này rồi theo đó tu hàng, quán nhân duyên cạn sâu, tự có lợi ích. Rõ ràng do niệm mà khế hợp với bản nguyện, nào có sai khác!

(Phần Trụ trì trong nguyên bản Hán, tác giả không đề cập đến).

Phần 3

Kinh Vô Lượng Thọ ghi: "Tu tập trong cõi này (tức cõi Ta-bà) một ngày một đêm hơn hẳn cõi Phật khác trăm năm". Kinh Duy-Ma ghi: "Quốc độ Ta-bà có mười việc thiện [13] mà cõi Phật khác không có, đó là bố thí nhiếp phục sự nghèo khó...".

Hỏi: Theo kinh này dạy, tu tập ở cõi Ta-bà hơn hẳn ở các phương khác. Vậy tại sao phải nhọc sức chuyên niệm A-Di-Đà, nguyện sinh về nước Cực Lạc, bỏ chỗ tốt tìm đến chỗ kém, hành nghiệp khó thành tựu. Hai con đường ấy, lấy bỏ thế nào, xin được giải bày chi tiết?

Đáp: Những pháp môn của Đức Phật đều vì lợi ích chúng sinh, mỗi mỗi tùy thuận một đường, nhưng lý không trái nhau. Vì sao? Căn cơ tu hành có hai giai vị. Nếu chưa bước lên ngôi vị Bất thoái thì khó ở cõi uế, muốn tu tập hạnh tự lợi thì phần nhiều bị lui sụt, gặp việc thuận nghịch lại sinh tâm vui buồn, khởi lòng yêu ghét thì nghiệp ác càng thêm, không có cách gì làm an ổn cho chính mình, ngược lại chìm vào đường ác. Kẻ đã tu nhân nhiều kiếp, thành tựu Pháp nhẫn [14] , đủ sức ở trong cõi uế, mới có thể lợi ích cho hữu tình. Đã thành tựu hạnh tự lợi, thoát khỏi luân hồi, ở cõi này thực hành mười việc lợi tha, thì phương khác không bằng.

Bởi vì cõi Phật khác, y báo tốt đẹp, đầy đủ không thiếu, muốn gì cũng đều được; đã không thiếu thốn thì còn bố thí cho ai! Còn chín việc khác căn cứ theo đây thì rõ. Còn nên tự biết không lui sụt, thì trụ nơi này đã không ngăn ngại lại còn làm lợi ích cho người hơn hẳn cõi Phật khác. Những người học ngày nay, cách Phật quá xa, ba độc lừng lẫy, chưa được tự tại, nếu được sinh cõi Tịnh, nhờ thắng duyên, nương oai lực Phật, mới được bất thoái. Cho nên cần phải sinh về nước kia, thành tựu nhân tự lợi.

Căn cứ theo đây thì hai kinh ấy có gì trái nhau!

Phần 4

Kinh Di-Lặc Vấn ghi: "Niệm Phật thì chẳng phải niệm phàm phu, không xen niệm kết sử, mới được sinh về cõi A-Di-Đà".

Hỏi: Theo kinh này dạy, hễ niệm Phật thì chẳng có niệm phàm phu, chẳng xen niệm kết sử mới thành tựu Tịnh nghiệp. Ngày nay, người tu tập vẫn còn là phàm phu, kết sử chưa trừ thì làm sao vãng sinh được? Nay Ngài niệm Phật, công phu thành tựu, lưới nghi đã dứt, vậy xin giải bày tường tận?

Đáp: Xiển dương giáo pháp tùy theo căn cơ, nhưng ý chỉ bí mật rất khó tỏ ngộ, còn văn chương dù có bóng bẩy vẫn có thể hiểu được trong chớp mắt, cho nên không biết lấy hay bỏ, liền vọng sinh nghi chấp. Vì sao? Đức Phật vì hàng phàm phu mà chỉ dạy cho họ tu tập Tịnh nghiệp, nếu họ đã tin sâu nhân nhân quả thì đâu phải là ngu! Nay giải thích phàm phu có bốn trường hợp:

1. Phàm mà không ngu: Những chúng sinh từ cõi thiện cho đến địa vị cuối cùng của Thập tín [15] không đạt được Trí tương tợ duy thức, nên gọi là phàm. Nhưng có lòng tin sâu xa đối với pháp Tứ đế và Duyên sinh, khởi tâm lấy bỏ, lợi hay hại đều có thể biết được, đó chính là không ngu.

2. Ngu mà không phàm: Hàng Bồ-tát từ Thập giải trở lên chưa chứng đắc cảnh giới Chân như nên nói là ngu; đạt được Trí tương tợ vô lậu, suy xét biết được Hai vô ngã [16] , không trôi theo dòng sinh tử, nên được cho là chẳng phàm. Lại giải thích: Bồ-tát từ Sơ địa trở lên đối với Thắng tấn phần [17] vẫn còn bị Vô minh chướng ngại, nên gọi là ngu; do đạt được Thánh pháp nên chẳng phải phàm.

3. Vừa phàm vừa ngu: Tất cả chúng sinh từ cõi thiện trở về trước, chưa hiểu giáo lý Đức Phật nên gọi là phàm, không rõ nhân quả nên gọi là ngu.

4. Chẳng phải phàm chẳng phải ngu: Chính là Đức Như Lai có đầy đủ Thánh trí, dứt sạch hai chướng [18] , nên chẳng phải phàm, ngu.

Nói "phàm": nghĩa là trôi nổi, đối với pháp trị thế thì không phân biệt được tổn hại hay lợi ích, trôi nổi thọ sinh thì chính là phàm; thiện ác đến đi, nặng nhẹ không hề hay biết, đó chính là ngu. Nay, người tu tập muốn vãng sinh cõi Tịnh phải biết chốn Ta-bà này đầy dẫy khổ đau, rất mực nhàm chán, không muốn ở lâu; nghe nói Tây Phương an vui vô cùng, chí thành quán tưởng, nguyện thệ vãng sinh thì vĩnh viễn diệt trừ dòng đau khổ, từ bỏ hẳn cảnh giới nhiễm ô. Như thế, họ đâu phải hạng tầm thường, trôi nổi thọ sinh.

Chỉ cần niệm Phật cầu vãng sinh, tỏ ngộ vô sinh, tương lai sẽ làm Phật, chuyên tâm hóa độ pháp giới chúng sinh. Người nào phát khởi tâm này nhất định được sinh về cõi vi diệu. Vì có sự hiểu biết này nên chẳng phải ngu.

Nói "không xen niệm kết sử": kết sử là mười sử [19] , chín kết [20] . Tâm niệm Phật chính là thức thứ sáu. Khi Tâm vương sinh khởi muốn làm việc ác, kết sử phiền não mới bộc phát. Khi đang niệm Phật thì tâm niệm Phật cùng với năm pháp Biến hành [21] , mười một Tâm sở thiện [22] tương ưng không phát động các kết sử, các kết sử không có nhân sinh khởi. Tâm duyên với cảnh khác, kết sử liền phát sinh. Khi quán tưởng Phật, kết sử bị khống chế, nên nói "không xen niệm kết sử".

Nguyện sinh cõi Tịnh thì không nên nói xen tạp, bởi do kết sử chưa đoạn nên có xen tạp, nếu đã diệt trừ thì không xen tạp. Thế thì do chưa đoạn nên kết sử có lúc hiện hành. Tâm thanh tịnh niệm Phật thì trái ngược với kết sử, tâm đang niệm Phật thì kết sử không hiện hành. Ở đây nói "không xen tạp" là không để tâm niệm Phật bị gián đoạn, phòng ngừa không cho kết sử sinh khởi, chứ không nói diệt hết kết sử là không xen tạp. Thánh nhân đã dứt sạch phiền não, ở cõi này an ổn, không nhọc niệm Phật để cầu sinh.

Phần 5

Kinh Tối Thắng Diệu Định ghi: "Nếu có người nào xây dựng vô số chùa tháp, không bằng trong thời gian ngắn đoan tâm chánh niệm". Lại trong các bộ kinh Đại thừa nói về lý Vô sinh, bảo người tu đạo học tuệ.

Hỏi: Theo kinh này, Đức Phật ca ngợi Vô sinh là đặc biệt tối tôn, tối thắng trong các hành nghiệp, nhưng các kinh A-Di-Đà và Quán Vô Lượng Thọ thì lại khuyên vãng sinh Tây Phương, nhàm chán cõi Ta-bà, nguyện sinh cõi Tịnh. Thế nhưng, sinh là đầu mối của tai họa, sinh chấm dứt thì họa diệt. Ở đây lại bỏ sinh để cầu sinh thì nhân của tai họa lại càng thêm lớn. Sao không tu tập hạnh Vô sinh để ngộ Pháp thân. Còn niệm thân tướng Phật mà nhân của sinh không diệt, dù có vãng sinh về cõi kia thì đâu khác gì sinh ở cõi này? Chỉ cần quán Vô sinh thì cách Phật không xa, tâm chính là Phật, đâu nhờ tìm cầu nơi khác? Hành nghiệp này Ngài đã thuần thục, xin được chỉ bày lý sâu xa?

Đáp: Hạnh do giáo mà khởi, tất cả đều vì lợi sinh. Giáo thuyết bất đồng bởi do căn cơ sai khác. Vì sao? Luận chung về căn cơ, nêu sơ lược hai ý: Nghiệp sâu và Hạnh cạn. Hạng Nghiệp sâu có thể học pháp Vô sinh, còn kẻ Hành cạn cần phải cầu sinh về cõi Tịnh.

Luận về tu tập cũng có hai điều: trở lại và xuất ly. Trở lại là tuy học Phật pháp, nhưng chỉ vì tiếng tăm, không sợ mai sau sinh tử hiểm nguy; tham cầu sự hiểu biết thù thắng mà lại còn chấp nhân ngã, cho mình là đúng còn kẻ khác thì sai, không tu ba nghiệp, miệng nói vô tướng mà tâm chấp chặt tướng. Dù học pháp Vô sinh, nhưng chỉ là nghệ thuật xem chơi. Kẻ ấy thấy người khác niệm Phật liền giận hờn ganh tỵ, đến nỗi khiến cho người ta phải thoái tâm. Miệng họ thì nói thuốc hay mà sợ không dám uống, trở lại uống phải độc dược nên phát bệnh.

Tâm này tạo nghiệp, tâm luôn ruổi rong, tâm đã không thật chưa thể chế ngự được mà tự nói ta ngộ. Khi nghiệm xét lại thì hoàn toàn trống không, bất chợt mạng chung, lại chìm trong sinh tử, chịu khổ triền miên, không biết khi nào thoát khỏi! Đây gọi là Trở lại.

Xuất ly có hai trường hợp là Vô sinh và Hữu tướng. Vô sinh tức là giữ tâm điềm tĩnh, phân biệt rõ ngoại duyên, khéo biết lấy bỏ hai tướng hữu vô. Chế ngự tâm, tự tại không trụ vào nhị biên [23] , miệng nói tâm hành, theo việc mà suy xét; dù nghịch hay thuận tâm vẫn quân bình. Giống như ăn tro than không khác gì ăn món ngon. Đối với cảnh thuận nghịch đều đạt được, như vậy thì mới có khả năng ở lâu trong cõi Ta-bà mà không thoái tâm, rồi chuyển cõi Ta-bà ấy thành Tịnh độ. Công lực như vậy mới thành tựu sự xuất ly.

Hữu tướng tức là do duyên cấu uế hoặc chướng ngại sâu nặng, khó thành tựu Vô tướng. Nếu ở cõi này thì chồng chất thêm những khổ đau. Muốn tâm tĩnh lặng thì bị cảnh lăng xăng bên ngoài lôi kéo, tâm lại chạy theo cảnh thì biết khi nào mới ngộ được Vô sinh? Tâm nên duyên nhất Phật, quán niệm A-Di-Đà, không tạo nghiệp ác, cầu sinh cõi Tịnh; thấy người tu tập pháp môn khác thì khen ngợi tán dương, nghe nói lỗi người cũng không sinh tâm khinh chê; buộc tâm một chỗ, nghĩ đến cảnh Tây Phương, ba nghiệp hỗ trợ cho nhau thì nhất định được sinh về cõi ấy, cũng thành tựu hạnh xuất ly.

Xin các vị hãy dùng trình độ của mình để xét nghiệm giáo pháp, pháp nào phù hợp thì hành trì. Người hành nghiệp đã sâu, đạt địa vị Bất thoái, chẳng nhọc công chấp tướng, nguyện sinh về Tây Phương. Còn hạng căn cơ thấp kém, chưa thoát khỏi luân hồi thì cần phải chứng Vô sinh, mới được xuất triền [24] . Rất nhiều người miệng nói Vô sinh mà không có ai chứng đắc. Vậy, muốn đạt được Vô sinh cần nương vào thắng cảnh [25] . Vì thế, nên lấy việc cầu vô sinh thấy Phật làm duyên chứng ngộ.

Ở lâu trong cõi Diêm-phù, thường gặp bạn tốt, tuy ngày đêm nghe chánh pháp, nhưng người thuyết vẫn còn là phàm, cho nên chưa chứng được lý. Kinh Duy-Ma ghi: "Suốt ngày thuyết pháp mà không thể khiến cho người khác chứng Diệt tu Đạo, đó chính là hý luận, chứ chẳng phải cầu pháp". Cho dù đời tương lai có gặp bạn tốt, phát khởi nhân ngày nay thì cũng trở thành hý luận, chi bằng cầu sinh Tịnh độ, chấm dứt luân hồi, chứng nhập rừng báu, vừa nghe chánh ngữ, tức thời thành tựu vô số Pháp nhẫn. Xét kỹ hai duyên này thì chớ có do dự!

Phần 6

Kinh Niết-Bàn ghi: "A-Nan gặp nạn ma, Bồ-tát Văn Thù đến cứu giúp". Kinh Đại Phẩm ghi: "Ma vương biến làm Phật, mọi người không thể biết". Kinh Ưu-Ba-Cúc-Đa ghi: "Ma biến làm Phật, Tôn giả đảnh lễ".

Hỏi: A-Nan đã chứng quả Dự lưu thường bị ma quấy phá, Đức Phật sai Bồ-tát Văn-Thù đến cứu mà đạt được bổn tâm. Lại nữa, ma có thể hóa làm thân Phật thuyết pháp cho người, hàng Bồ-tát hạnh còn cạn mỏng đều không hay biết. Tôn giả Cúc-Đa tu tập đạt đến địa vị Vô học thấy ma biến làm Phật, không biết mà quy y. Nay muốn quán tưởng Phật A-Di-Đà để đến khi lâm chung được thấy Phật. Đây đều là cảnh giới của ma làm sao nương được. Nếu như cảnh thấy đó là chân thật thì đúng là một liều thuốc hay, còn gặp phải ma thì chắc chắn rơi vào dòng tà. Khối ghi chưa trừ, rất mong được dung thông?

Đáp: Đấng Đại Giác phương tiện thị hiện thân tướng siêu việt, dù cho ma có giả hiện quấy nhiễu thì thì cũng khác biệt. Bởi trải qua nhiều kiếp siêng năng tu tập, nhân thì thù thắng tròn đầy, quả thì thành tựu vạn đức, tướng hảo siêu việt, tệ ma đâu có sánh bằng. Vì sao? Vì thân Như Lai như Tử ma kim [26] , tướng hảo rực rỡ, sáng ngời như minh châu vượt hẳn muôn vạn mặt trời. Cho dù Ma vương có biến hiện cũng không thể có được tướng hảo như vậy.

Những việc của kẻ hạ phàm làm sao sánh với bậc tôn quý. A-Nan đã ở trong hàng Thanh Văn mà thị hiện chứng quả Dư lưu, nhưng theo thật hạnh thì Ngài đã chứng Sơ địa từ lâu. Bởi nghĩ đến sau khi Đức Phật diệt độ, người tu hành thường bị ma phá hoại tịnh tâm, không sao chế phục được, cho nên thị hiện bị rơi vào lưới ma để thỉnh Phật cứu giúp. Thần chú đã tuyên làm nhân khởi mãi mãi lưu truyền về sau để người học phá ma chứ chẳng phải Thánh nhân, vì phàm phu mới mắc vào lưới ma.
Kinh Đại Phẩm ghi: "Ma biến làm Phật mê hoặc phàm phu, Bồ-tát ở giai vị thấp, không phân biệt được". Đó là kinh Đại Phẩm chưa luận về nhân duyên khởi giáo phương tiện, còn trong hội Niết-Bàn, nhân hỏi mà thuyết pháp, Ca-Diếp hỏi rằng: "Làm sao biết được Phật thuyết hay ma Ba-tuần thuyết?". Đức Phật bảo Ca-Diếp: "Giống như kẻ trộm ban đêm đột nhập vào nhà. Nếu người giữ nhà biết được thì tên trộm liền rút lui".

Hành giả cũng vậy, đã vào ngôi nhà Phật pháp, được món ăn ngon, không nghĩ đến ma. Tôn nghi của Đức Phật thì trang nghiêm tuyệt diệu. Ma có đến che lấp sự thật, thì người tu Phật nên khéo phân biệt: Giữa chặng mày Đức Phật có tướng bạch hào, xoay về bên phải tạo thành vòng tròn, ngoài kín mà trong rỗng, ánh sáng chiếu khắp, rực rỡ tinh khiết, sáng sạch như lưu ly, dung nghi rạng ngời như ánh mặt trời. Nhục kế Ngài nhô cao, tóc xanh biếc, từng sợi từng sợi uyển chuyển xoay vòng về bên phải. Nếu thấy được những tướng hảo thù thắng ấy chính là thấy tôn nghi chân chánh của Đức Phật; nếu thấy tướng khác thì đều là ma.

Ngài Ưu-Ba-Cúc-Đa không nhận ra ma, bởi vì Ngài sinh sau thời Đức Phật, theo thứ tự truyền pháp thì Ngài làm Tổ thứ năm, thuyết pháp giáo hóa, độ rất nhiều chúng sinh. Một hôm Ma vương tuôn mưa hoa xuống pháp hội rối loạn tâm đại chúng, khiến cho tất cả không thể lãnh ngộ được. Chúng lại còn bố thí mũ báu để làm mê hoặc lòng người. Tôn giả rủ lòng thương xót, vui vẻ đón nhận, nhân đó nói với Ma vương rằng: "Ta vâng theo lời dạy của Đức Phật, biết nghĩa biết ân. Ngươi đã bố thí mũ báu cho ta, ta cũng có xâu chuỗi báu xin đáp tặng lại cho ngươi". Thế rồi, Ngài đem ba loại tử thi là người, chó và rắn biến xâu chuỗi báu đeo vào trong cổ của Ma vương.

Ma Ba-tuần mừng rỡ nói: "Tôn giả Cúc-Đa thần lực siêu việt, giáo hóa chúng sinh, đã bước lên quả thánh. Vậy mà, bọn ma chúng ta dụ dẫn khiến ông ấy nhận mũ báu, lại còn dùng chuỗi ngọc đáp lễ. Cúc-Đa đã rơi vào lưới ma, đường ác tăng thêm, còn quyến thuộc của ta không bị hao tổn". Nói xong, bọn chúng vô cùng vui mừng, liền kéo nhau trở về cung. Vừa đến cõi trời Tứ thiên vương [27] ,

Ngài Cúc-Đa bèn thâu nhiếp thần lực, chuỗi báu anh lạc lại biến thành tử thi, sình trướng hôi hám, máu mủ lan tràn. Ma Ba-tuần buồn bã không vất đi được, bèn đi khắp các cõi trời cầu xin trừ bỏ. Nhưng các vị trời đều nói: "Chúng tôi không có khả năng, Ưu-Ba-Cúc-Đa này là đệ tử của Đức Thích-ca Như Lai. Vì các ngươi không biết mới cả gan quấy nhiễu, nên Ngài tạm dùng việc này để chiết phục thân tâm của ngươi, mau mau quy y Ngài để tránh khỏi tai họa". Ma Ba-tuần bay xuống đến trước Thánh giả, năm vóc sát đất chí thành cầu xin sám hối. Tôn giả Cúc-Đa thương xót trừ bỏ các tử thi và nói rằng: "Ta sinh sau thời Phật, không gặp được Đức Như Lai. Ngươi có thể biến làm hình Phật cho ta chiêm ngưỡng được không?".

Ma liền vào trong khu rừng biến thành thân Phật. Ngài Cúc-Đa thấy vậy trải tòa đảnh lễ. Ma rất kinh sợ thưa rằng: "Đệ tử ngu muội, không dám trái lời Ngài dạy, tuy con biến làm Phật, nhưng vẫn còn ở trong trần tục, Tôn giả đảnh lễ, e rằng con mất vô lượng phước đức". Tôn giả đáp: "Ta gần thì đảnh lễ tượng Phật, xa là cung kính đức Đại sư. Ngươi là ma không phải đối tượng để ta cung kính. Nay ngươi chớ lo, đừng lầm sợ mất phước!". Thế là, Ma vương vô cùng vui vẻ, xả bỏ các tạp hạnh, quy y Phật, Pháp, Tăng, đảnh lễ Ưu-Ba-Cúc-Đa rồi trở về cung, không còn xuất hiện nữa.

Như vậy, làm sao nghi ngờ nói ngài Ưu-Ba-Cúc-Đa không nhận ra ma? Giống như nhiều người tài giỏi trợ giúp một người thì kẻ hung ác không thể nào xâm hại được. Người tu hành cũng như vậy, khi đã niệm chí thành, quyết định sinh về cõi kia thì được mười phương chư Phật cùng trợ giúp, cho đến khi hết báo thân này, ma vẫn không thể nào nhiễu loạn được. Đức A-Di-Đà giáo hóa chúng sinh, chiếu ánh sáng từ bi để tiếp dẫn hữu tình, khiến họ lên được bến bờ an vui tối thượng, đừng sợ ma quấy nhiễu mà không tu nhân tốt đẹp!

Phần 7

So sánh sự hơn kém giữa Tây Phương Tịnh độ và cung trời Đâu-Suất.

Hỏi: Tịnh độ của Phật A-Di-Đà cách đây rất xa, cung trời Đâu-Suất của Phật Di-Lặc ở tại cõi Dục này, sao không nguyện sinh về Đâu-Suất, mà lại hướng về Tây Phương? Bỏ dễ cầu khó, há chẳng phải là trở ngại ư?

Đáp: Có rất nhiều điểm để so sánh hai cõi. Nay nêu sơ lược 10 điểm sai biệt để đả thông các mối nghi:

1. Thọ mạng có dài ngắn: thọ mạng của chư thiên ở cung trời Đâu-Suất chỉ 4000 tuổi; còn thọ mạng của người ở cõi Cực Lạc đến trăm ngàn vạn ức na-do-tha [28] a-tăng-kỳ [29] kiếp.

2. Chỗ ở có trong ngoài: ở cung trời Đâu-Suất, nếu trí huệ nhiều, liền được sinh vào Nội viện, được làm thị giả Đức Phật Di-Lặc. Nếu phước nhiều mà huệ ít, thì sinh ở Ngoại viện, không được gặp Đức Từ Thị. Còn ở Tịnh độ hoàn toàn không có trong ngoài, báo thân tuy có hơn kém, song đều là Thánh hiền.

3. Cảnh có tịnh uế: nếu được sinh vào Nội viện Đâu-Suất thì thấy được Thánh hội của Đức Phật Di-Lặc, thường phát khởi duyên thanh tịnh; còn ở Ngoại viện thì tất cả các thứ hương hoa, lầu gác, âm nhạc đều làm khởi tâm đắm nhiễm. Còn Tây Phương Cực Lạc, khi sáu căn tiếp xúc với cây, chim, nước, lưới, âm nhạc thì đều nuôi dưỡng đạo tâm.

4. Báo thân khác nhau: chánh báo ở Đâu-Suất thì nam nữ khác biệt, càng đắm nhiễm lẫn nhau, chướng ngăn đạo nghiệp. Người được vãng sinh Tây Phương đều là bậc trượng phu, thân mình và người đều thanh tịnh, không đắm nhiễm.

5. Chủng tử và hiện hành có sai khác: nếu người sinh về Đâu-Suất thì chủng tử phiền não và hiện hành phiền não đều phát khởi, nhưng người sinh về Tây Phương Tịnh độ, chỉ có chủng tử phiền não, hoàn toàn không có hiện hành phiền não.

6. Việc tu tập có tinh tấn, lui sụt khác nhau: nếu sinh về Đâu-Suất, do có nam nữ, nên năng lực trí tuệ còn yếu kém, do đó đa số đều bị lui sụt. Còn sinh về Cực Lạc thì năng lực trí tuệ lớn mạnh, không còn các hoạt động của dục, chỉ chuyên tinh tấn tu hành.

7. Giới và phi giới khác nhau: sinh về Đâu-Suất chưa lìa khỏi cõi Dục, nếu có nạn lửa phát khởi thì bị thiêu đốt. Còn sinh về Tây Phương hoàn toàn vượt khỏi ba cõi, các nạn nước, lửa, gió v.v... đều không thể hại được. Do ở cõi Tịnh có hình chất nên chẳng phải là cõi Vô sắc; nương vào đất mà ở, nhưng không nhiễm cảnh sắc, cho nên chẳng phải cõi Sắc; không có dâm cho đến đoàn thực [30] , cho nên chẳng phải cõi Dục.

8. Hình tướng đẹp xấu trái nhau: sinh về Đâu-Suất thì nam nữ không đồng, đẹp xấu khác biệt. Nếu sinh về Tịnh độ thì thân sắc vàng ròng, hoàn toàn sáng rỡ, đều là tướng đại trượng phu.

9. Xả bỏ thân mạng để vãng sinh về hai cõi không giống nhau: khi xả bỏ thân mạng sinh về Đâu-Suất, không có người đến tiếp dẫn. Còn khi sinh về Tịnh độ thì Thánh chúng đến đón rước.

10.Kinh khuyến khích có nhiều ít: khuyên sinh về Đâu-Suất chỉ có kinh Di-Lặc Thượng Sinh Đâu-Suất, nhưng văn kinh không thiết tha ân cần, chỉ khuyên tu một cách sơ lược. Còn Tịnh độ thì rất nhiều kinh luận khuyên sinh về, Đức Phật ân cần, hết lòng khuyên vãng sinh.

Lại hỏi: Tây Phương Tịnh Độ, cõi nước thù thắng, thời đại an ổn, tất cả hàng phàm phu căn cơ thấp kém làm sao được vãng sinh?

Đáp: Cõi Cực Lạc thanh tịnh nhiệm mầu, muốn vãng sinh về đó thật rất khó, nhưng nhờ sức Phật gia trì, nên vãng sinh trở nên dễ dàng!

Phần 8

Kinh Vô Lượng Thọ (Đại bản) ghi: "Người sinh về Cực Lạc, trụ trong Chánh định tụ [31] ". Kinh A-Di-Đà ghi: "Chúng sinh sinh về cõi Cực Lạc đều là bậc A-bệ-bạt-trí [32] ".

Hỏi: Nếu luận bàn rộng về quả vị Bất thoái, phải nói đến công đức tu tập trong vạn kiếp, nhưng sao chỉ niệm Phật một đời, thậm chí chỉ mười niệm lúc sắp chết đều được Đức Phật A-Di-Đà tiếp dẫn sinh về cõi Cực Lạc, chứng được Bất thoái. Chỉ luận về công hạnh hẳn đã có sai khác như thế, thì làm sao phù hợp?

Đáp: Bất thoái và Chánh định, tuy khác tên gọi nhưng ý nghĩa giống nhau. Người tu hành có hai loại: người ở cõi uế, kẻ ở cõi tịnh.

Tu nhân ở cõi uế, cần phải trải qua vạn kiếp; còn khởi hạnh ở cõi tịnh vốn có nhiều đường. Nay trình bày về Bất thoái. Luận Thập Trụ Tỳ-bà-sa nêu ra bốn loại:

1. Vị Bất thoái: chính là vạn kiếp tu nhân, ý nói thành tựu được Duy thức quán [33] thì không rơi vào hạnh Ác luật nghi [34] , không còn luân hồi sinh tử nữa.

2. Hạnh Bất thoái: đã được Sơ địa, thành tựu Chân Duy thức quán, xả bỏ tâm Nhị thừa, bất thoái hạnh lợi tha.

3. Niệm Bất thoái: địa thứ Tám trở lên, thật chứng Trí vô công dụng [35] , lúc định hoặc tán đều được tự tại, không có niệm lui sụt.

4. Xứ Bất thoái: tuy không có văn kinh luận minh chứng, nhưng dựa vào lý để thành lập. Vì sao? Như luận Tỳ-Bà-Sa nói: "Hàng A-la-hán căn thoái, nếu đắc quả trong cõi người thuộc Dục giới, thì gặp năm duyên lui sụt, sợ mất Thánh quả, khởi tu hoặc [36] . Đó là: đi xa, nhiều bệnh, thích tụng kinh điển, thích hòa giải tranh tụng, thích làm việc Tăng. Nếu đắc quả trong cõi trời, không gặp các duyên lui sụt, liền đạt được Bất thoái, chứng nhập Vô dư Niết-bàn [37] ". Hành giả cũng như vậy, chưa đạt được ba Bất thoái trước trong cõi người, nếu ở Ta-bà thì sẽ trôi lăn trong sinh tử, đó là lẽ tất nhiên. Bởi vì cõi nhiễm này có năm duyên lui sụt:

1. Mạng sống ngắn ngủi, nhiều bệnh tật.

2. Nhiều duyên xấu ràng buộc, ngăn ngại tịnh tâm.

3. Những tạp thiện của ngoại đạo làm loạn chánh hạnh.

4. Cảnh giới sáu trần khuấy động tịnh tâm.

5. Không thường thấy Phật, chẳng nghe được lời chỉ dạy của Phật.

Nếu thường ở trong cõi này thì gặp năm duyên lui sụt đó. Nhưng vãng sinh Tịnh độ thì gặp được năm duyên tối thắng:

1.Mạng sống lâu dài, không có bệnh tật.

2. Bạn tốt dìu dắt.

3. Toàn là chân chánh, không có tà vạy.

4. Hoàn toàn thanh tịnh, không có cấu nhiễm.

5. Luôn luôn phụng sự chư Phật.

Nhờ năm duyên này, nên được Bất thoái. Xét về hành vị không thể sánh bằng, nhưng được cõi tốt duyên lành, lại không lui sụt. Giống như người ác thường làm việc bất thiện, gặp được bạn lành, xót thương khuyên bảo không còn kết thân với kẻ ác nữa, thường theo người hiền, cho đến suốt đời không tạo tội ác nữa.

Phần 9

Kinh A-Di-Đà ghi: "Không thể với nhân duyên phước đức thiện căn nhỏ mà được vãng sinh Cực Lạc".

Hỏi: Vãng sinh Tịnh độ cần phải nhớ vào thiện lớn, hành trì đầy đủ các tịnh nghiệp mới được vãng sinh. Nếu chỉ niệm Phật suông như thế, làm sao vãng sinh Cực Lạc?

Đáp: Nói về thiện căn nhiều ít thì chỉ cần căn cứ vào việc niệm Phật để trình bày. Nếu quá khứ không có nhiều duyên thiện thì đời này không được nghe danh hiệu Phật. Nhưng nay được nghe đến Tịnh độ, chuyên tâm niệm Phật, tức là do nhân thiện quá khứ; lại nhớ nghĩ Tây Phương, quyết tâm sinh về, đây là thiện căn lớn. Tuy nghe đến Tịnh độ của Phật A-Di-Đà, phát nguyện vãng sinh, nhưng việc tu không chuyên, tâm không quyết định, đó chỉ là thiện nhỏ không thể vãng sinh Tịnh độ được.

Lại hỏi: Về việc niệm Phật, chỉ niệm danh hiệu, giả sử có chuyên tâm, nhưng chưa phải là thiện căn lớn, dẫu có xưng niệm danh hiệu Phật cũng đâu được vãng sinh?

Đáp: Niệm Phật, là nói về pháp tu chung. Bởi vì căn cơ chúng sinh thọ nhận lợi ích khác nhau, do nguyện hạnh của chư Phật mà thành tựu danh hiệu Phật, do đó chỉ niệm danh hiệu Phật là bao hàm đầy đủ các công đức, cho nên trở thành thiện lớn, không trái nguyện vãng sinh. Nên kinh Duy-Ma-Cật ghi: "Ba danh hiệu trước của Phật [38] , nếu Phật giảng rộng thì tôn giả A-Nan trải qua muôn kiếp cũng không thể lãnh hội được".

Luận Thành Thật giải thích về danh hiệu Phật: chín danh hiệu trước của Phật, đều thành lập theo nghĩa riêng. Nay gom công đức của chín danh hiệu trước lập thành danh hiệu Phật Thế Tôn. Cho nên, nếu chỉ nói ba danh hiệu đầu tiên thì dù trải qua muôn kiếp cũng không cùng, A-Nan không thể lãnh ngộ hết được, huống gì lại thêm sáu danh hiệu sau nữa để tạo thành danh hiệu Phật. Vì danh hiệu Phật có đầy đủ công đức thù thắng, cho nên niệm danh hiệu Phật trở thành thiện lớn.

Phần 10

Kinh A-Di-Đà ghi: "Này các thiện nam, thiện nữ! Số Thanh văn niệm Phật cầu vãng sinh Cực Lạc rất đông, nhiều vô lượng vô biên". Nhưng luận Tịnh Độ lại nói: "Đối với hàng căn khí Đại thừa thì hoàn toàn không có điều gì đáng nói, nhưng Nhị thừa, người nữ và người thiếu căn thì không được vãng sinh".

Hỏi: Như luận Tịnh Độ nói người nữ, người thiếu căn và hàng Nhị thừa đều không được vãng sinh. Nhưng kinh A-Di-Đà nói đều được vãng sinh Cực Lạc. Như thế cả hai kinh đều là Thánh giáo, tại sao mỗi kinh nói khác nhau?

Đáp: Mỗi bộ kinh luận tùy theo một duyên, nhưng xét kỹ lại thì hoàn toàn không sai khác. Nói người nữ được vãng sinh, là do tâm tánh quyết định, vì quá nhàm chán thân nữ, hết lòng niệm danh hiệu Phật để cầu vãng sinh Tịnh độ, đến khi báo thân ở cõi Ta-bà hết, chuyển làm thân trượng phu, ngồi vào đài sen báu, liền được vãng sinh Tịnh độ. Nói người thiếu căn được vãng sinh, có năm hạng: Sinh, Kiền, Bán nguyệt, Đố, Nhị hình [39] . Những người thiếu căn như thế, tâm tánh không bình thường, nhưng nếu phát tâm dõng mãnh, quyết chí xả bỏ thân tàn tật thiếu căn này, để cảm nhận thân đầy đủ căn, liền được vãng sinh Cực Lạc.

Hàng Nhị thừa có hai:

- Thứ nhất là hàng Ngu pháp, chỉ chứng lý Nhân không, không biết lý Pháp không, đạt được quả nhỏ [40] , cho nên gọi là Ngu pháp. Hạng này chỉ mong cầu lợi mình, không thực hành hạnh lợi tha, vì thế không được vãng sinh Tịnh độ.

- Thứ hai, hàng không Ngu pháp. Các vị này tuy chứng được quả A-la-hán, nhưng không trụ vào quả nhỏ mà theo các Bồ-tát phát khởi tâm Đại thừa, nguyện sinh về ngay trước Phật để phát khởi hạnh lợi tha, do đó được vãng sinh Tịnh độ.


Hỏi: Luận Tịnh Độ nói: "Hàng Nhị thừa không được vãng sinh". Vì sao Quán Kinh nói: "Được vãng sinh Tịnh độ, nhưng lại chứng quả nhỏ"?

Đáp: Người này, trước có chủng tử Tiểu thừa, gặp được Thiện tri thức, phát khởi tâm Đại thừa, do nhân tu tập Tiểu thừa trước kia mà chứng ngộ được Tứ phi thường [41] , rồi phát khởi túc nhân [42] liền chứng được quả nhỏ, nhưng nhờ vào sức dẫn dắt của thiện hữu tri thức Đại thừa, nên không trụ vào quả Tiểu thừa, mà trở lại phát khởi niệm Đại thừa, do đó chẳng còn là Tiểu thừa.

Tuy căn là người nữ, nhưng thường cầu Bồ-đề, tin sâu Phật tính của mình và người đều bình đẳng, liền phát thệ nguyện sẽ thành Phật, độ khắp chúng sinh, tâm muốn xả bỏ thân người nữ, liền được vãng sinh Tịnh độ, đến khi báo thân sắp hết, Hóa Phật đến tiếp dẫn, thành bậc đại trượng phu, ngồi vào đài sen, được Phật giúp cho tâm an ổn, liền vãng sinh Cực Lạc. Kinh căn cứ vào nghĩa này, nên nói người nữ đều được vãng sinh. Còn Luận không căn cứ vào nghĩa này, nên cho rằng không được vãng sinh. Hàng Thanh văn cần phải phát khởi tâm Đại thừa, nương theo đây tu tập, liền được vãng sinh. Nhưng vẫn lấy theo tên cũ mà gọi là Thanh văn.

Hỏi: Hàng Thanh văn thường bị chê trách, vì sao họ sinh vào cõi kia vẫn còn gọi tên ấy?

Đáp: Thanh văn ngu pháp, mắc lỗi tự lợi quá nặng, không thực hành hạnh lợi tha, cho nên bị chê trách. Tuy vẫn gọi tên xưa, nhưng bây giờ là Đại Thanh văn, hạnh lợi tha rất lớn, đó là mỹ danh. Do đó kinh Pháp Hoa nói: "Chúng ta ngày nay chính là Thanh văn, dùng âm thanh Phật đạo khiến cho tất cả đều được nghe". Tây Phương cũng thế, tuy có Tiểu thừa, nhưng đều là Thanh văn chân chánh, cho nên không có lỗi bị chê trách.

Phần 11

Dung hội cho Hành giả Tam Giai [43] . Hành giả Tam Giai có năm mối nghi nhỏ.

1. Hỏi: Chúng sinh bị trôi lăn trong sinh tử luân hồi chịu nhiều khổ não. Truy tìm nguyên do đều phát khởi từ ba tà độc. Nay chuyên tâm niệm Phật, nguyện vãng sinh Tây Phương, tà độc càng tăng trưởng, há chẳng phải là kiến giải điên đảo ư? Vì sao? Bởi vì cõi Ta-bà ô trược, lẽ ra phải thường ở, nhưng lại sinh nhàm chán xả bỏ, đó chính là Tà sân. Tây Phương Tịnh độ là nơi chư Thánh qua lại, không phải chỗ ở của phàm phu mà lại phát nguyện sinh về, tức là Tà tham. Sở dĩ như thế đều là do vô minh, đó là Tà si. Đây là ba mầm độc chất chứa trong ruộng tâm, giả sử có niệm Phật, thì cũng chiêu cảm đến thần, ma, quỷ..., làm sao được vãng sinh Tịnh độ?

Đáp: Giáo chỉ có sai khác, nhưng đều mong muốn làm lợi ích muôn loài, người học khéo biết lấy bỏ, mỗi mỗi tùy theo cơ duyên. Vì sao? Nếu như ngộ được Vô sinh, lẽ ra có thể ở lâu trong cõi Ta-bà, nhưng nếu chưa chứng được giai vị Bất thoái thì khó trụ nơi cõi uế. Nếu khế ngộ được Vô sinh thì Cực Lạc và Ta-bà không khác, chẳng cần nhàm chán cõi ô trược, ngưỡng cầu Tây Phương thanh tịnh. Nhưng nếu thân vẫn còn trong luân hồi, thì cần phải nguyện sinh cõi kia.

Bồ-tát tuy trụ ở cõi uế, nhưng Lý và Giải đã thông, qua lại không còn cách trở. Hàng phàm phu chưa thành tựu thắng quán, tuy tạm thời dứt khổ, nhưng rồi vẫn trở lại dòng khổ đau. Do đó, xả bỏ cõi nhiễm, chẳng nuôi lớn Tà sân; còn ưa thích Tây Phương, thì Tà tham không khởi, đồng thời tương ưng với phân biệt huệ [44] . Bên trong gom chứa ba thiện căn [45] , bên ngoài chiêu cảm sự trợ giúp của chư Phật. Sau khi bỏ báo thân ở cõi này, liền được hoa báu cõi Tịnh nghinh đón. Chớ sợ thần, ma, quỷ mà không nỗ lực tu trì chánh nghiệp.

2. Hỏi: Nghiệp đạo như cán cân, thiện ác ắt có báo ứng. Từ lúc cảm nhận thân mạng đến nay, chúng sinh tạo ác rất nhiều, tại sao không nhận chịu quả báo mà được sinh thẳng về Tây Phương? Giả sử muốn được vãng sinh lẽ nào không bị chướng ngại?

Đáp: Hễ tạo nghiệp thì nhất định phải nhận quả báo khổ vui. Đã đồng là phàm ngu thì cái nhân tội lỗi chồng chất lâu ngày ấy không thể nói là không có. Ngày nay thọ nhận được báo thân người, nghiệp ác ấy đoạn trừ hết chưa? Nếu cho rằng đã đoạn hết, thì nay đâu còn ác để đoạn trừ. Nếu như chưa diệt sạch, thì tại sao không chướng ngại nhân thọ sinh?

Nay hành giả Tam Giai! Lúc thọ nhận thân mạng này, các nhân ác chưa đoạn trừ, nhưng do nghiệp cõi người mạnh hơn, nên ác kia không thể ngăn ngại, đến khi thiện căn đã hết thì sẽ phải thọ lãnh quả khổ. Cần phải nói lại rằng: tuy ác nghiệp chưa đoạn trừ, nhưng do nghiệp cõi người mạnh hơn, nên không mất việc chiêu cảm thân người, lại nhờ Tịnh nghiệp chuyển mạnh thì làm sao có thể ngăn ngại được việc vãng sinh! Vì sao? Bởi vì Tam quy, Ngũ giới chỉ là nhân thiện hữu lậu, nên vẫn bị điên đảo mộng tưởng dẫn dắt gá vào thai mẹ.

Hạnh thấp kém này mà nghiệp ác còn không thể ngăn ngại, cho nên mới được thân người. Huống gì sức của nghiệp ác đã không mạnh, lại còn nhờ chánh hạnh từ quá khứ và sự phát tâm hiện tại, nguyện đoạn tận gốc rễ khổ đau, thì tương lai sẽ làm Phật, niệm niệm tinh tấn nguyện sinh Tây Phương. Khi báo thân này hết, có các Bồ-tát từ bi xót thương đến hộ niệm, khiến trụ vào chánh niệm, được thấy Thánh chúng trước mặt, chỉ khao khát muốn được vãng sinh, nhờ nhân duyên thù thắng này, cho nên vãng sinh được dễ dàng. Do đó, chớ nên hoài nghi mà không tinh tấn tu tập tịnh nghiệp!

3. Hỏi: Căn cứ vào việc tu hành ngày nay, mọi người đều lấy học hỏi kinh điển làm tông thú, chỉ niệm danh hiệu Đức Phật A-Di-Đà thì trở thành kiến chấp, lại chướng ngăn Thánh đạo, không thoát khỏi luân hồi, tại sao không lìa bỏ pháp

Về Menu

tây phương yếu quyết 2 tay phuong yeu quyet 2 tin tuc phat giao hoc phat phat phap thien phat giao

ném テ đức phật là nhà cách mạng tư tưởng Chùa Phổ Đà Đà Nẵng cúng gieo chi han oan cuộc đời của đức phật là bài học cẩn thận với lời nói để tránh khẩu Hà Tĩnh Tưởng niệm Hoàng hậu Bạch 3 thực phẩm giúp giảm cholesterol Ä cÓn nghiệp báo và tái sinh những câu hỏi mà tiểu động tiger s nest monastery Lễ tưởng niệm húy nhật cố Đại lão hỏa kiến trúc đền thờ phật giáo cổ Vitamin B6 ThÒ Tháng 7 âm lịch vĩnh phúc tưởng niệm cố Đại lão hòn biệt tứ đại sư ấn thuận Tưởng niệm húy nhật lần thứ 28 hu tấm học phap mon niem phat trong kinh a di da Chai cuộc sống 5 tan o thai lan Tùy Sáu ác khẩu làm tổn thương người khác dung bao gio coi thuong nguoi khac vi khong ai co Rau củ quả cũng giúp giảm cân hiệu chi ăn Hồi ức một quận chúa Kỳ 4 Cuộc Khảo sát về tín niệm cúng sao Phở cuốn chay Saigon biển duoi chan ngai dia tang Trẻ tinh khôn lớn lên sẽ ăn tự tánh di đà 4 Thiên Thầy tu tanh di da 4