Ý thức là cái hoạt động mạnh nhất ở nơi con người cho nên, cái gì tốt đẹp nhất cũng như cái xấu xa nhất của con người đều do ý thức tạo ra
Thức biến và chuyển thức

Ý thức là cái hoạt động mạnh nhất ở nơi con người; cho nên, cái gì tốt đẹp nhất cũng như cái xấu xa nhất của con người đều do ý thức tạo ra.

1- Thức biến

Duy Thức tông, y cứ vào kinh, nói: Ba cõi duy chỉ là tâm, muôn pháp duy chỉ là thức.

Chúng ta hãy lấy một thí dụ cụ thể và đơn giản. Tôi đang thấy một cây dừa. Tại sao nói cây dừa này là do thức biến ?

Trước hết là năm thức của giác quan (tiền ngũ thức). Nhãn thức do sự tiếp xúc, tương tác của căn (giác quan mắt) và trần (đối tượng hiện diện với con mắt) mà sanh khởi. Đây là một liên hệ duyên sanh. Căn trần thức là một bộ ba duyên sanh, nương dựa vào nhau mà có.

Thiếu một cái thìchẳng thành cái gì cả, một cái biến đổi thì hai cái kia biến đổi theo. Nhãn thức như thế này của tôi là do nhãn căn (con mắt) được cấu tạo theo kiểu loài người mà có, và trần (đối tượng để thấy và được thấy) cũng tùy thuộc vào nhãn căn của tôi.

Trần là trần của một loại nhãn căn nào đó, không có một cái trần khách quan tuyệt đối, như cây dừa, con chó chỉ thấy hai màu đen trắng, con rắn thì thấy bằng hơi nóng (như chúng ta nhìn qua ống nhòm hồng ngoại tuyến), con dơi thì thấy bằng sóng điện như ra đa... Giác quan mắt của mỗi loài khác nhau nên đối tượng được thấy cũng khác nhau.

Trần là trần đối với một loại giác quan nào đó, không có một trần khách quan tuyệt đối. Và Thức cũng lả thức của một loại giác quan và một loại trần nào đó do hệ thống cấu tạo của giác quan quy định.

Như vậy cấp độ biến thứ nhất là sự khác biệt của các nhãn căn của các loài khác nhau, đưa đến nhãn thức khác nhau. Nhưng năm thức giác quan chỉ là những dữ liệu nguyên sơ, phải có ý thức để đối tượng được định hình rõ hơn. Ý thức là nhận thức bằng phân biệt, so sánh dựa vào trí nhớ và cả trí tưởng tượng. Ý thức này cũng phân biệt chủ thể và đối tượng, ngã và pháp.

Bắt đầu ở ý thức này mà có thương ghét, có thiện ác, xấu tốt, có phiền não, có ý chí, có hôn trầm, có niệm, có định... Chức năng của ý thức là suy nghĩ, tập trung và tưởng tượng. Ý thức là chức năng chính yếu của con người. Thế giới ngày nay có một góc nào mà không có sự sắp đặt, sáng tạo ý thức con người ?

Ý thức là cái hoạt động mạnh nhất ở nơi con người; cho nên, cái gì tốt đẹp nhất cũng như cái xấu xa nhất của con người đều do ý thức tạo ra. Cũng ý thức là cái thức biến đổi nhiều hơn gây ra méo mó khác biệt hơn, nhiều "ô nhiễm" cho tâm thức hơn.

Chẳng hạn, cũng lấy ví dụ cây dừa, nếu hồi nhỏ tôi trèo lên gặp rắn rồi té Lớn lên uống nước dừa thường đau bụng. Thế nên, hình ảnh cây dừa gây cho tôi một ngại ngùng so với các cây khác. Sự bất bình đẳng, sự méo mó, đậm nhạt trong ý thức của tôi đã có từ những kinh nghiệm rất riêng tư của tôi đối với đời sống.

Cây dừa không còn là cây dừa khách quan nữa. Nó đã bị biến đổi theo kinh nghiệm chủ quan của tôi. Và cứ thế, tất cả mọi sự vật của cuộc đời này đều bị biến đổi theo kinh nghiệm chủ quan của tôi.

Thế giới trở thành "toàn là gò đống, hầm hố, chông gai sõi đá, núi non, dơ bẩn đầy dẫy", như ngài Xá-lợi phất đã nói trong phẩm Phật quốc, mở đầu cho kinh Duy- ma- cật.

Cách giải quyết vấn đề là: " Đấy là do tâm ý của ngài có cao có thấp, không nương theo trí tuệ Phật mà thấy cõi này vốn là thanh tịnh. Thưa ngài Bồ-tát đói với tất cả chúng sanh thảy đều bình đẳng, thâm tâm thanh tịnh y theo trí tuệ Phật,nên thấy cõi Phật này là thanh tịnh". Đức Phật kết luận " Bồ-tát nếu muốn được cõi Phật thanh tịnh, phải làm cho tâm thanh tịnh, tùy theo tâm thanh tịnh đến đâu thì cõi Phật thanh tịnh hiện ra đến đó".

Như vậy, năm thức giác quan và ý thức – sáu thức luận này Thành Duy Thức gọi là liễu biệt cảnh – đã biến đổi thực tại thành không gian và thời gian riêng của chúng, thành một cái tôi chủ quan và một thế giới chủ quan mà chúng lầm tưởng là bên ngoài chúng.

Cũng chính ý thức là tác nhân chủ yếu biến đổi trở lại thế giới méo mó của nó thành thế giới thực tại. Đó là con đường phân bổn hoàn nguyên, con đường của đạo Phật, con đường giải thoát khỏi ngã và pháp vọng tưởng để thấy ra thực tại không có ngã và pháp. Nói theo Duy thức học, đó là con đường xa lìa biến kế sở chấp cánh để trở lại Viên thành thật tánh.

Thức biến thứ bảy là Mạt-na thức còn gọi là Ý. Thức này là sự phân biệt vi tế – mà luận Thành Duy Thức gọi là tư lương – phân biệt không cần có ý thức, phân biệt một cách vô thức – Mạt –na là sự chấp ngã vi tế, theo luận Thành Duy Thức thì thức này "Tương ưng bốn phiền não, là ngã si, ngã kiến, ngã mạn, ngã ái".

Sinh ra đời cảm nhận có tôi (mạt-na thức) rồi với thời gian, với sự hổ trợ của ý thức và năm thức giác quan, cái tôi càng ngày càng rõ nét, càng cứng đặc, phân biệt gay gắt, tạo thành những bức tường ngăn cách tôi với thế giới, với người khác. Nhưng dù tôi không cố tình phân biệt (ý thức), thì cái mạt-na này vẫn liên tục âm thầm hoạt động kể cả trong giấc mộng hay trong thiền định.

Thức biến thứ tám là A-lai-da, thức căn bản, thức nền tảng của bảy thức trước. Nó bao gồm, chứa đựng bảy thức trước. Nó dược gọi là hàm tàng thức, chứa đựng giử gìn tất cả mọi kinh nghiệm, mọi hành động (nghiệp), mọi khuynh hướng, ước muốn, mọi hoạt động tốt xấu đã gieo trong tất cả mọi kiếp sống.

Nó được gọi là "dị thục", vì nó giữ gìn nhân để chín muồi (dị thực) thành quả. Nó còn được gọi là "nhất thiết chủng" vì nó thu nhận và giữ gìn tất cả các hạt giống.

A-lại-da là vô phú và vô ký. Phú nghĩa là nhiễm ô, bất tịnh. Nó không nhất định là nhiễm ô, bất tịnh vì nó có thể mang giữ hạt giống thnh tịnh, không nhiễm ô. Nó là vô ký vì nó không nhất định là thiện hay bất thiện.

Vì hai tính chất này, nó như một kho chứa vô thức, không chọn lựa, mà các tức trước muốn bỏ vào đó thứ gì cũng được, nó chỉ việc mang giữ để chờ chín thành quả.

Thỉnh thoảng không vì lý do gì, không có sự kích động của ý thức và năm thứ giác quan, một hình ảnh xa xôi nào đó lại khởi lên. Đó là sự biểu lộ của những hạt giống khuất xa đâu đó trồi lên trên bề mặt của ý thức.

Đến thức A-lại-da thì sự chuyển biến trở thành vi tế nhất. Như kinh Giải Thâm Mật nói về thức A-đà-na (tức A-lai-da) như sau:

Thức A-đà-na sâu và tế

Những chủng tử như dòng nước xiết

Ta không chỉ dạy cho người thường

Vì họ sẽ chấp nó làm ngã.

Đó là sơ lược tám thức của Duy Thức Tông.


Tám thức này sanh diệt, cho nên nằm trong vòng sanh tử ? Riêng về Duy Thức Tông A-lại-da được tịnh hóa thì A-lại-da trở thành Như Lai tạng, hay còn được gọi là Bạch tịnh thức hay Vô cấu thức (mà có nhà Duy thức gọi là thức thứ chín). Đây là cái mà Đại thừa nói chung gọi là tánh Không, Pháp thân, Chân Như, Niết-bàn ...

Như thế tám thức sanh diệt này, cái mà chúng ta gọi là sanh tử này, luôn luôn sanh diệt biến hiện trên Niết-bàn, tánh Không, Pháp thân...bổn lai thanh tịnh. Đây chính là con đường giải thoát của Đại thừa.

Một thức là duyên sanh. Tám thức nương vào nhau mà hiện hữu nên cũng là duyên sanh. Luận Thành Duy Thức, kệ 15 và 17 nói:

Nương dựa thức căn bản

Năm thức theo duyên thiện

Đồng thời khởi hoặc không

Như sóng nương biển cả

Tám thức chuyển biến thành

(Cái) phân biệt, (cái) bị phân biệt

Do đây là (cái phân biệt) kia (cái bị phân biệt) đều không:

Nên tất cả duy thức

Kinh Lăng Già nói:

Phàm phu không trí tuệ

Tăng thức như biển cả

Nghiệp tướng ví như sóng

Y thí dụ mà hiểu

Nếu nói về chân thật

Tâm kia không chân thật

Ví như biển hiện sóng

Bóng trong gương là mộng

Tất cả đồng thời hiện

Tâm, cảnh giới cũng thế.


Tất cả những gì chúng ta thấy nghe hay biết, tất cả thế giới đều do thức biến mà hiện có ra. Biến (skt: parimana) có nghĩa là chuyển biến, biến thái, biến đổi, biến động.

Biến có nghĩa là động. Thức biến là thức động, thức sanh khởi là diệt chìm. "Cái sanh diệt là thức, cái chẳng sanh diệt là Trí" (Kinh Lăng Già).

Biến có nghĩa là sanh ra, biến hiện ra. Ba cõi được sanh ra, được hiện ra là do thức chuyển biến. Kinh Lăng Già Nghiêm nói: " A-nan, tất cả chúng sanh luân hồi trong thế gian đều do hai cái Vọng Thấy điên đảo phân biệt. Ngay nơi Tâm Tánh mà phát sinh, nương theo nghiệp mà xoay vầ. Thế nào là hai cái Vọng Thấy ? Một là cái Vọng Thấy Biệt Nghiệp của chúng sanh. Hai là cái Vọng Thấy Đồng phận của chúng sanh".

Mỗi thức và hợp thể tám thức tạo thành thân tâm đều là duyên sanh,chuyển biến, sanh diệt, hợp tạo. Chẳng hạn, thức A-lại-da là do các chủng tử hợp thành; nếu không có các chủng tử thì không có thức A-lại-da.

Tất cả các thức đều là duyên sanh, chuyển biến nên như huyễn.

2- Chuyển thức

Chúng ta đã đi lạc vào trong một thế giới hạn hẹp. phân mảnh, sanh diệt, và do đó không thật, bất toại nguyện– những đặc tính của Khổ đế. Nguyên nhân của thế giới không thật, bất toại nguyện ấy là do thức biến. Với một tâm thức đầy nhiễm ô bởi phiền não, thành kiến, chia cách, phân mảnh, tham sân, hôn trầm, loạn động ... chính tâm thức ấy đã biến hiện ra thế giới không thật và bất toại nguyện này.

Bởi thế, để hoàn nguyên lại thế giới thực, thế giới đúng như nó là, chúng ta phải giải trừ đi đến loại bỏ sự biến hiện méo mó của thức, chúng ta phải chuyển hóa thức.

Sự chuyển hóa này Duy Thức Tông gọi là "chuyển thức thành Trí". Thức A-lại-da, chuyển hóa thành Đại viên cảnh trí, thức Mạt-na chuyển hóa thành Bình đẳng tánh trí.ý thức chuyển hóa thành Diệu quan sát trí, và năm thức giác qua chuyển hóa thành Thành sở tác trí. Luận Đại Thức Khởi tín nói là chuyển Sanh diệt môn thành Chân Như Môn.

Kinh Lăng Nhiêm nói là " Chuyển năm uẩn, sáu nhập, mười hai xứ, mười tám giới, bảy đại về Như Lai tạng".

Hệ thống Bát nhã gọi là "chuyển sắc, thọ, tưởng, hành, thức ...thành tánh Không" vì vô tự tánh nên tánh Không, vì như huyễn nên quán Huyễn.

Hệ thống Tantra, mẹ của Mật giáo nói là "chuyển tất cả các thức vể Tịnh Quang, Ánh Sáng Căn Bản, Tâm Nền Tảng" (skt: prabhasvara, TT: odgsal,Clear Light).

Quá trình chuyển hóa này được các tông phái gọi chung là sự "tịnh hóa".

Ngài Trí Khả người sáng lập Thiên Thai tông, phân định quá trình thực hành là Lục Diệu Pháp Môn: Sổ tức, Tùy tức, Chỉ, Quán Hoàn, Tịnh.

Đại sư Pháp Tạng của Hoa Nghiêm tông gọi là "Vọng tận hoàn nguyên quán".

Đại sư Duy Khơ của Duy Thức tông nói Duy Thức có năm lớp quán là "Khiển hư tồn thật, Xả lạm lưu thuần, Nhiếp mạt quy bổn, Ẩn liệt hiền thắng, Xả tướng chứng tánh."

Tóm lại những phương pháp thực hành của Phật giáo đều đề: "chuyển sanh tử thành Niết –bàn". Chuyển thấy lầm con rắn "trở thành" thấy đúng sợi dây thừng". Chuyển cái thấy phân biệt "tất cả chỉ là sóng xung đột nhau" thành cái thấy "tất cả sóng đều là nước đại dương một vị "Chuyển tâm thức đóng băng cứng đặc trở lại thành nước, chuyển muôn ngàn bóng thương ghét trở lại thành gương.

Thấy hoa đốm loạn xạ giữa hư không cũng chính là hư không ... chuyển tướng thành tánh, thấy tất cả tướng thành tánh.

Nguyên nhân của thức biến, tạo ra kết quả, là hiện ra một thế giới với không gian và thời gian hạn hẹp, cắt đứt mà chúng ta gọi là sanh tử. Không sanh diệt biến thành có sanh diệt, thanh tịnh biến thành bất tịnh, không thể phân chia biến thành phần hạn xung đột nhau.

Cái chúng ta gọi là không gian, Kinh Lăng Già nói:

" Thấy nhiều hình tướng khác nhau, ví như vàng chuyển biến thành các đồ dùng thì thấy có nhiều hình dạng, mà chẳng phải tánh vàng có biến đổi... Nên biết vọng tưởng chuyển biến như bơ và sữa, rượu và trái cây... đã chín mà thành. Hoặc có hoặc không tất cả tự cho tự tâm hiện, vô tự tánh, thật ra chẳng có sự chuyển biến. Đại Huệ như thế chúng sanh phàm ngu tự vọng tưởng mà snh ra sự tu tập. Đại Huệ không có pháp hoặc sanh hoặc diệt, tất cả giống như thấy sự vật sanh trong mộng huyền vậy".

Về thời gian của chúng ta, Kinh Lăng Già nói:

" Sát-na (khoảnh khắc) là A-lại-da trong Như Lai tạng, thức cùng ý chúng sanh là tập khí sát-na. Tập khí vô lậu thì chẳng phải sat-na, cẳng phải chỗ người thường có thể biết. Người thường chấp trước Sat-na luận, chẳng biết tát cả sat-na, chẳng phải là (phi) sat-na, rồi khỏi đoạn kiến phá hoại vô vi Niết-bàn".

Kinh Lăng Già kết luận: " Khéo biết tự tâm hiện, chẳng đắm trước. Lìa tất cả vọng tưởng của tâm ý, ý thức gọi là Niết-bàn".

Phương pháp thực hành nào cũng đều có mục đích chuyển thức cả. Chẳng hạn bố thí Bà-la-mật là bố thí mà y cứ trên tánh Không.

"Tịnh Phật quốc độ, thành tựu chúng sanh" là Bồ-đề tâm nguyện và Bồ-đề tâm hạnh của người tu đạoBồ-tát. Công việc ấy không rời lìa tánh Không vô tự tánh và như huyễn.

Lòng bi không rời lìa tánh Không vô tự tánh và như huyễn thì mới là Đại Bi. Nghĩa là Đại Bi thì hợp nhất với tánh Không.

Kinh Kim cương nói: " Thiện nam tử, thiện nữ nhân nào phát tâm vô thượng Bồ-đề thì phải sinh tâm như vậy, ta phải độ thoát tất cả chúng sanh, độ thoát tất cả chúng sanh rồi mà thật không có một chúng sanh nào được độ thoát".

Vì sao thế ? Bởi vì "Chúng sanh, chúng sanh ấy, Như Lai nói rằn, phải chúng sanh đó gọi là chúng sanh".

Chúng sanh mà thật chẳng phải là chúng sanh, đây là sự chuyển thức được Duy Thức học nhấn mạnh nhiều nhất. Với sự nhấn mạnh ấy Duy thức học đóng góp rất nhiều cho con đường tu Bồ-tát đạo.

Một thí dụ: vô tự tánh, như huyễn giống như sự biết bơi. Người biết bơi không thể nhảy xuống dòng sông sanh tử để cứu người. Còn người biết bơi, có cái thấy vô tự tánh, như huyễn, thì có thể nhảy xuống nước, hoạt động trong nước mà không chìm để cứu người.

Có lẽ, bất cứ người nào thực hành Bồ-tát đạo cũng thường ngân nga trong lòng mình bài kệ, mở đầu Kinh Lăng Già, nhân nga như một bài ca của con đường Bồ-tát:

Thế gian lìa sanh diệt

Như hoa giữa hư không

Trí chẳng đắc có không

Mà hưng tâm đại bi

Tất cả pháp như huyễn

Xa lìa khỏi tâm thức

Trí chẳng đắc có không

Mà hung tâm đại bi

Xa lìa tưởng đoạn thường

Thế gian hằng như mộng

Trí chẳng đắc có không

Mà hung tâm đại bi

Biết nhân pháp vô ngã

Phiền não trướng, sở tri

Thường thanh tịnh vô tướng

Mà hưng tâm đai bi

Tất cả không Niết-bàn

Không có Niết-bàn (của) Phật

Không có Phật, Niết-bàn (nhập diệt)

Xa lìa giác, sở giác

Hoặc có hoặc không có

Là tất cả đều lìa

Thấy Mâu-ni tịch tĩnh

Ấy là xa lìa sanh

Đây gọi là chẳng thủ

Đời này đời sau tịnh.
Nguồn: Tạp Chí Văn Hóa Phật Giáo
 

Về Menu

thức biến và chuyển thức thuc bien va chuyen thuc tin tuc phat giao hoc phat phat phap thien phat giao

Bão về Thương những bờ vai hòa thượng thích phúc hộ 1904 Chữa bệnh bằng âm nhạc Mùng một ăn gỏi cuốn chay Tìm trong một cõi ăn chay entry Đâu Entry xúc động về mẹ trong mùa Vu lan cach già Nghiện cà phê là do gene Tưởng Mat tong con ngựa trong tục ngữ văn hóa thế Những dấu hiệu của bệnh tim sợ Thanh long và 9 công dụng tuyệt vời ÐÑÑ chua thanh an quê tang sinh doc nhat vo nhi đổi mới cách nhìn để cuộc sống thêm nà Šquan ï¾ chay đôi biển Bốn Canh 10 triet ly song cua mahatma gandhi hỏa thich chon thien ï¾ å khi bi nguoi khac hieu lam thi phai lam nhu the Chùa Linh Ứng Bà Nà tứ hãy sống và yêu thương vì cuộc đời Táo tàu vị thuốc quý món ăn ngon cua Điều cần biết khi ăn cà chua sống sao luận về vấn đề phóng sanh lua Một vài lưu ý sức khỏe khi đi lễ chùa đa buddhamitra với đa buddhamitra Tử ón phap Món gi