
Vài nét lịch sử Phật giáo Đại thừa tại Sri Lanka
![]() |
Tượng Bồ tát Quan Thế Âm tại Kelaniya, Srilanka. |
|
Theo các biên
niên sử Tích Lan, khoảng 200 năm sau Phật diệt độ, vua A-dục (Aśoka) gởi một
đoàn truyền giáo do ngài Mahinda, con vua A-dục hướng dẫn, đến Sri Lanka. Đoàn
truyền giáo được vua Devānaỵpiya-tissa và người dân
Phật giáo
Theravāda bị phân phái vào những năm cuối trước Tây lịch. Về nguyên nhân phân
phái, vào năm 43 trước Tây lịch, kinh thành Anurādhapura của Sri Lanka bị những
người Bà-la-môn giáo Tamil từ Ấn Độ tấn công và chiếm đóng. Khi kinh thành thất
thủ, vua Vaṭṭagāmani
Abhaya và một số hoàng thân được hộ tống trốn thoát khỏi kinh thành. Sau đó, họ
được đưa đến và trú ẩn an toàn tại tu viện Hambugallaka do Trưởng lão Mahātissa
trụ trì. Những người Tamil theo Bà-la-môn giáo cai trị
Lúc đầu sự bất đồng giữa chư Tăng Đại tự viện (Mahāvihāra) và Vô úy sơn (Abhayagiri) chỉ là sự bất đồng về những sai phạm liên quan đến Trưởng lão Mahātissa. Nghĩa là lúc đầu chư Tăng ở hai tu viện chỉ là bất đồng về giới luật. Tuy nhiên, không lâu sau đó, Trưởng lão Mahātissa và chư Tăng tại Vô úy sơn chấp nhận giáo thuyết của những tu sĩ thuộc bộ phái Vajjiputtaka đến từ Ấn Độ, bộ phái này, theo các Trưởng lão thuộc truyền thống Theravāda, có nhiều quan điểm sai trái với tinh thần lời Phật dạy(2). Những sự bất đồng về giáo thuyết đã dẫn đến một cuộc tranh luận giữa phái Đại tự viện và Vô úy sơn vào những năm cuối trước Tây lịch. Kết thúc cuộc tranh luận, chư Tăng Vô úy sơn, thay vì biên chép kinh điển bằng tiếng Pāli như chư Tăng Đại tự viện, họ đã biên chép kinh điển và giáo thuyết của họ bằng tiếng Sanskrit(3). Đến thế kỷ thứ III TL, sự bất đồng giữa Đại tự viện và Vô úy sơn càng thêm sâu nặng khi chư Tăng Vô úy sơn thừa nhận kinh điển của Đại thừa.
Nửa cuối thế kỷ
thứ III Tây lịch, những nhà truyền giáo Vaitulyavāda (Pāli: Vetullavāda) từ Ấn
Độ đã đến
Mặc dù vua Vohārika-Tissa ngăn cấm tu sĩ Đại thừa vào Sri Lanka, nhưng khoảng 50 sau, khi vua Vohārika-Tissa băng hà, vua Goṭhābahya (309-322) lên ngai, Phật giáo Đại thừa lại xuất hiện trở lại tại Sri Lanka. Lần này, Tăng sĩ thuộc phái Vô úy sơn (Abhayagiri) lại thừa nhận kinh điển Đại thừa là kinh điển của Phật giáo. Tuy nhiên, Trưởng lão Ussiliya-tissa thuộc Vô úy sơn không chấp nhận kinh điển Đại thừa. Nên Trưởng lão Ussiliya-tissa cùng 300 Tỳ-kheo, những thầy nghe theo lời khuyên của ngài, rời khỏi tu viện Vô úy sơn đến sống tại tu viện Dakkināgiri. Sau này, chư Tăng tu viện Dakkināgiri thành lập một phái mới, do Tỳ-kheo Sāgala lãnh đạo, gọi là phái Sāgaliya. Sự thừa nhận kinh điển Đại thừa dẫn đến sự chia rẽ Tăng đoàn Vô úy sơn đến tai vua Goṭhābahya (309-322). Theo Nikāya-saṅgraha, vua Goṭhābahya yêu cầu các Tăng sĩ trí thức đại diện năm tu viện lớn nhóm họp để thẩm xét kinh điển mới này. Sau khi thẩm xét, họ kết luận rằng những kinh điển mới này không phải là lời dạy của Đức Phật. Và kinh Vaipulya lại lần nữa bị thiêu đốt và sáu mươi Tỳ-kheo bị trục xuất khỏi Sri Lanka(6).
Nghe kinh điển
Đại thừa bị thiêu đốt và nhiều Tỳ-kheo bị trục xuất, Trưởng lão Sanghamitra,
lúc bấy giờ còn trẻ, vội đến Sri Lanka với ý định sẽ cố gắng giúp các Tỳ-kheo
bị kết tội là “kẻ dị giáo” và chuyển hóa vua Goṭhābhaya theo Đại thừa. Theo Đại sử (Mahāvaṃsa), bằng những phép
thuật của mình, Tỳ-kheo Sanghamitra đã chuyển hóa được vua Goṭhābhaya. Vua Goṭhābahya giao hai Hoàng tử
Jeṭṭha-Tissa và
Mahāsena cho ngài dạy bảo. Hoàng tử Mahāsena rất kính trọng Sanghamitra. Nhưng
Thái tử Jettha-Tissa không ủng hộ tư tưởng Đại thừa của Sanghamitra(7).
Sau khi vua Gothābhaya băng hà, Thái tử Jettha-Tissa (323-333) lên ngai vua,
Sanghamitra đã phải rời khỏi Sri Lanka về lại Ấn Độ. Tuy nhiên, sau khi vua
Jettha-Tissa qua đời, Hoàng tử Mahāsena kế vị, Trưởng lão Sanghamitra trở lại
Sri Lanka. Suốt 27 năm trị vì, vua Mahāsena (334-362) hết lòng ủng hộ ngài
Sanghamitra(8). Được sự ủng hộ của vua Mahāsena, Trưởng lão Sanghamitra muốn chuyển hóa chư
Tăng thuộc truyền thống Đại tự viện (Mahāvihāra) theo truyền thống Đại thừa.
Tuy nhiên, chư Tăng Đại tự viện phản đối quyết liệt sự “cải hóa” này. Để tạo áp
lực lên chư Tăng Đại tự viện, vua Mahāsena ban hành sắc lệnh cấm người dân kinh
thành cúng dường phẩm thực cho chư Tăng Đại tự viện, ai cúng bị phạt 100 tiền
đồng. Chư Tăng Đại tự viện quyết định, thà chết chứ không chấp nhận giáo thuyết
“dị giáo.” Họ bỏ tu viện Đại tự viện đến lánh nạn tại Rohana và
Hành động ủng hộ Trưởng lão Sanghamitra của vua Mahāsena, theo các biên niên sử Tích Lan, gặp phải sự phản đối dữ dội từ dân chúng và quần thần. Trong số họ, có tướng Meghavanna-Abhaya. Tướng Abhaya, cũng là bạn thân của vua Mahāsena, tuyên bố ly khai và khởi binh chống lại vua Mahāsena. Nhận thấy việc làm sai trái của mình, vua Mahāsena chấp nhận hòa giải với tướng Abhaya và chấm dứt những hành động kỳ thị giáo phái. Tướng Meghavanna-Abhaya cho người tu sửa lại Đại tự viện (Mahāvihāva) và mời chư Tăng trở về Đại tự viện. Tuy nhiên, có một vụ việc không hay xảy ra sau đó, nhiều Phật tử cực đoan giận dữ muốn giết Trưởng lão Sanghamitra. Trong số đó có một vương phi, người được vua yêu mến. Bà đã thuê người giết chết Trưởng lão Sanghamitra và đại thần Soṇa, người hết lòng ủng hộ Sanghamitra(10).
Vua Mahāsena không còn bạc đãi chư Tăng Đại tự viện (Mahāvihāva), nhưng ông vẫn không ủng hộ phái Đại tự viện. Do vậy ông xây dựng tinh xá Kỳ viên (Jetavana) bên cạnh Đại tự viện để cúng dường Trưởng lão Tissa thuộc phái Sāgaliya của tu viện Dakkināgiri, một phái tách ra từ phái Vô úy sơn. Theo chư Tăng Đại tự viện, Trưởng lão Tissa là một Tỳ-kheo phạm trọng giới(11). Lúc đầu, Trưởng lão Tissa và chư Tăng Kỳ viên giữ thái độ và tư tưởng trung lập. Họ không chống Đại tự viện cũng không ủng hộ Vô úy sơn. Nhưng về sau, họ thừa nhận và thực hành theo tư tưởng và kinh điển Đại thừa(12). Gần đây, người ta đã tìm thấy những mảnh vụn bằng vàng khắc kinh Bát-nhã của Đại thừa trên một bảo tháp của tu viện Kỳ viên(13). Phái Kỳ viên sau này cũng là một trong ba bộ phái có ảnh hưởng và tồn tại cho đến thế kỷ thứ XII.
Tuy có những
hành động kỳ thị giáo phái, nhưng vua Mahāsena được xem là một vị vua hùng dũng
và có nhiều đóng góp cho đất nước
Vua Mahāsena qua đời, Thái tử Sirimeghavaṇṇa (362-) kế thừa ngai vị của vua cha. Ông chính
thức ngỏ lời xin lỗi chư Tăng Đại tự viện (Mahāvihāra) và những người ủng hộ
chư Tăng phái này về những việc mà phụ thân ông đã làm đối với chư Tăng Đại tự
viện. Vua Sirimeghavaṇṇa tôn tạo
thánh tượng Trưởng lão Mahinda và tổ chức lễ hội kỷ niệm ngày Trưởng lão
Mahinda truyền Phật giáo đến
Ngài W. Rahula
lưu ý rằng xá-lợi Răng Phật, sau này trở thành bảo vật hộ quốc của Sri Lanka,
được hiến cúng cho chư Tăng Vô úy sơn, không phải cho chư Tăng Đại tự viện. Nên
theo ngài, hoàng tử và công chúa, người cung thỉnh ngọc xá-lợi Phật đến Sri
Lanka, là những người theo Phật giáo Đại thừa và có liên hệ với Vô úy sơn(16).
Ngài Pháp Hiển, nhà chiêm bái đầu tiên của Trung Quốc đến Ấn Độ và Sri Lanka,
đã viếng thăm Sri Lanka vào đầu thế kỷ thứ V trong giai đoạn trị vì của vua
Buddhadāsa. Ngài đã viếng thăm và lưu lại một thời gian ở tu viện Vô úy sơn.
Ngài Pháp Hiển ghi lại, lúc bấy giờ, tu viện Vô úy sơn có 5.000 Tỳ-kheo. Trong
khi, tu viện Đại tự viện chỉ có 3.000 Tỳ-kheo(17).Đến năm Silākāla thứ 12, một thương gia Ấn Độ từ
Ba mươi năm sau, trong giai đoạn trị vì của vua
Aggobodhi I (568-601) có một sự thay đổi đáng kể giữa các bộ phái Phật giáo khi
Trưởng lão Jotipāla, một tu sĩ thuộc truyền thống Theravāda Ấn Độ đến
Trưởng lão
Jotipāla hoàn toàn có thể thắng tuyệt đối trong những lần tranh biện với các
nhà Đại thừa
Trong hơn 200 năm kế tiếp, không thấy các biên niên sử Tích Lan đề cập nhiều về những tranh luận giáo nghĩa hay giới luật giữa ba bộ phái. Thỉnh thoảng có vài lần “tịnh hóa Tăng-già”. Nhưng nhìn chung, sau những lần “tịnh hóa Tăng-già” này, cả ba bộ phái, Đại tự viện, Vô úy sơn và Kỳ viên vẫn cùng tồn tại. Và có nhiều chỉ dấu cho thấy không nhiều thì ít tư tưởng và tín ngưỡng của chư Tăng và tín đồ Đại tự viện đã chịu ảnh hưởng tư tưởng và tín ngưỡng của Đại thừa, cụ thể là Đại thừa của Vô úy sơn(23).
Đến khoảng giữa thế kỷ thứ IX, trong giai đoạn trị
vì của vua Sena I (831-853), một số Tăng sĩ thuộc truyền thống Vajrayāna (Kim
cang thừa hoặc Mật tông) đã đến
Ba bộ phái Phật giáo Đại tự viện, (Mahavihara), Vô
úy sơn (Abhayagira) và Kỳ viên (Jetavana) cùng tồn tại và thịnh suy tại
Bên cạnh Phật giáo Đại thừa có tính kinh viện được truyền đến và tồn tại, lúc thịnh lúc suy, gần 1.000 năm tại Sri Lanka, Phật giáo Đại thừa có tính tín ngưỡng cũng được truyền đến và ảnh hưởng sâu rộng, thậm chí cho đến ngày nay, trong đời sống tín ngưỡng của người dân Sri Lanka. Chúng tôi sẽ trình bày những ảnh hưởng của tín ngưỡng Đại thừa, đặc biệt là tín ngưỡng Bồ-tát Quan Thế Âm, trong đời sống tôn giáo của người dân Sri Lanka trong một bài riêng biệt.
Lịch sử truyền bá Phật giáo nói chung và các bộ phái Phật giáo nói riêng, lúc này lúc khác, có những lần va chạm, nhưng chủ yếu là va chạm trên ngôn từ. Sự va chạm là điều phải xảy ra trong quá trình vận động giữa khuynh hướng bảo thủ và cách tân(26).Lịch sử truyền bá và phát triển Phật giáo tại Sri Lanka cũng có những lần va chạm giữa bộ phái có tư tưởng bảo thủ và bộ phái có tư tưởng cách tân. Nhưng chính nhờ những lần va chạm này mà ít nhiều tư tưởng của các bộ phái Phật giáo đã ảnh hưởng qua lại. Và nhờ ảnh hưởng qua lại mà, ngày nay, Phật giáo Theravāda, tiêu biểu của truyền thống này là Phật giáo Sri Lanka và Phật giáo Đại thừa có nhiều điểm chung và Tăng sĩ của hai truyền thống xem nhau như huynh đệ trong ngôi nhà chung của Phật giáo.
Chú thích
(1) W. Rahula, History of Buddhism in Ceylon, Dehiwala: the Buddhist Cultural Centre, 1993, tr.81-4.
(2) Như trên, tr.84-5.
(3) J. C. Holt &
Sree Padma, “Buddhism in Andhra and Its influence on Buddhism in
(4) W. Rahula, sđd., tr.87-9.
(5) Như trên, tr.89. Có
xem thêm trong S. Paranavitana, “Civilisation of the Early Period: Religion and
Art”, History of Ceylon,
(6) Mahāvaṃsa, sđd., tr.654-5; E.W. Adikaram, Early History of Buddhism in Ceylon, Dehiwala: the Buddhist Cultural Centre, 1994, tr.90-1.
(7) Mahāvaṃsa, như trên, tr.656.
(8) W. Rahula, sđd., tr.93.
(9) Mahāvaṃsa, sđd., tr.658-9.
(10) Như trên, tr.660.
(11) Như trên, tr.660-1.
(12) G. Panabokke, History
of Buddhist Sangha in India and Sri Lanka,
(13) J. C. Holt & Sree Padma, sđd., tr. 116.
(14) W. Rahula, sđd., tr.96-7.
(15) Như trên, tr.114.
(16) Như trên, tr.97.
(17) Fa-Hein, A
Record of Buddhistic Kingdoms, J. Legge (dịch.)
(18) W. Rahula. sđd., tr.102.
(19) Như trên, tr.103
(20) Như trên, tr.103.
(21) G. Panabokke, sđd., tr.95-6.
(22) W. Rahula, sđd., tr.103
(23) G. Panabokke, sđd., tr.96.
(24) W. Rahula, sđd., tr.109-10.
(25) Richard F. Gomrich,
Theravāda Buddhism,
(26) Mỗi khuynh hướng bảo thủ hoặc cách tân có điều hay của nó. Khuynh hướng bảo thủ có khả năng duy trì được tính nguyên thủy của Phật giáo. Trong khi, khuynh hướng cách tân có khả năng điều chỉnh một số nội dung của Phật giáo cho phù hợp với bối cảnh xã hội mới. Hai khuynh hướng này bổ sung cho nhau. Nhờ bổ sung cho nhau mà Phật giáo đã tồn tại và phát triển đến ngày nay và trở thành là một tôn giáo lớn của nhân loại.
Thích Nguyên Lộc
Ngọc Sương (Tuvien.com)