Kinh Điển - Kinh Phật Bát Nê Hoàn

.


 

KINH PHẬT BÁT NÊ HOÀN

Hán dịch:  Tây Tấn, Hà Nội, Sa môn Bạch Pháp Tổ.

Việt dịch: Thích Chánh Lạc

---o0o---  

 

Quyển thượng

Nghe như vầy:

Một thời Phật ở trong Diêu Sơn, nước Xá Vệ cùng một ngàn hai trăm năm mươi Tỳ kheo đông đủ. Bấy giờ vua nước Ma Kiệt Ðà tên là A Xà Thế, cạnh tranh với nước Việt Kỳ, muốn đem quân sanh chinh phạt. Nhà vua triệu tập quần thần để cùng nhau nghị luận: “Nước Việt Kỳ giàu có, nhân dân đông đúc, có nhiều núi châu báu, không chịu thần phục ta, vậy hãy đem binh chinh phạt nước ấy”.

Trong nước có một hiền thần tên là Vũ Xá. Ông Vũ Xá thuộc dòng dõi Thệ Tâm thưa:

-Xin tuân lệnh!

Vua bảo Vũ Xá rằng:

-Ðức Phật cách đây không xa. Hãy đem lời của ta đến chỗ đức Phật, đầu mặt lạy dưới chân Ngài, hỏi thăm sức khỏe Ngài: Thân thể có bình an chăng? Ăn uống có bình thường chăng? Hỏi thăm và đảnh lễ đức Phật xong, hãy đem ý của ta mà bạch Ngài rằng: “Ðại quốc Việt Kỳ khinh dễ vua của con, nhà vua muốn đem quân sang chinh phạt. Vậy có thể đắc thắng không?”.

Ông Vũ Xá nhận lệnh của vua, liền chuẩn bị năm trăm cỗ xe, hai ngàn người cỡi ngựa, hai ngàn người đi bộ đến nước Vương Xá. Tới con đường đi bộ liền xuống xe, đi đến trước đức Phật, đầu mặt lạy dưới chân Ngài. Ðức Phật chỉ cái ghế bảo ông ngồi rồi hỏi:

-Thừa tướng từ đâu đến đây?

Ông thưa:

–Nhà vua bảo con đến đây, lạy dưới chân đức Phật, hỏi thăm sức khỏe của Ngài: Thân thể có bình an không? Ăn uống có bình thường không?

Ðức Phật liền hỏi:

–Nhà vua và nhân dân trong nước có an hòa chăng? Ðược mùa hay mất mùa?

Ông thưa: “Nhờ ơn Ðức Phật nên tất cả đều được bình an, hòa thuận, mưa gió thuận hòa, nước nhà giàu có”.

Ðức Phật bảo: “Ông đi đường người đều bình an chăng?”

Ông thưa: “Nhờ ơn Ðức Phật, tất cả đi đường đều bình an không có gì xảy ra”. Rồi ông thưa với đức Phật:

-Nhà vua và nước Việt Kỳ có sự hiềm khích nên nhà vua muốn đem quân sanh chinh phạt, tàn hủy nước đó, vậy ý của Phật như thế nào? Vua của con có thề thắng được chăng?

Ðức Phật dạy: -Nhân dân nước Việt Kỳ nếu thọ trì bảy pháp này, nhà vua không thể chiến thắng được, nếu không thọ trì bảy pháp này, nhà vua có thể chiến thắng được.

Ðức Phật dạy: -Ngày trước ta thường đến nước Việt Kỳ , nước này có Thần xá Cấp Tật, thỉnh thoảng ta dừng chân trong ấy. Trong nước Việt Kỳ có các trưởng lão đều nói với ta rằng: “Vua A Xà Thế muốn đến chinh phạt nước chúng con. Vậy chúng con phải phòng thủ nước thật cẩn thận”.

 Ðức Phật nói: “Ta liền bảo các trưởng lão chớ có sầu lo, chớ có sợ sệt. Nếu thọ trì bảy pháp sau đây vua A Xà Thế có đến cũng không thể chiến thắng được các ngươi”.

Vũ Xá hỏi đức Phật: -Bảy pháp đó là những gì ?

Khi ấy đức Phật đang ngồi, tôn giả A Nan đứng phía sau quạt hầu, đức Phật bảo tôn giả A Nan: “Ngươi có nghe người nước Việt Kỳ thường cùng nhau tụ hội, giảng giải, nghị luận về chính sự, tu chỉnh, dự bị để tự phòng thủ chăng?”.

A Nan thưa: “Con có nghe họ thường cùng nhau tụ hội, giảng giải, luận nghị, về chính sự, tu chỉnh, dự bị để tự phòng thủ”.

Ðức Phật dạy: “Như vậy nước ấy không thể suy thối được. Ngươi có nghe dân chúng nước Việt Kỳ, vua tôi thường hòa thuận, quan lại trung lương giúp đỡ lẫn nhau không?”.

Thưa rằng: “Con có nghe dân chúng nước ấy vua tôi thường hòa thuận, quan lại trung lương, giúp đỡ lẫn nhau”.

-Ngươi có nghe dân chúng nước Việt Kỳ cùng nhau tôn trọng luật pháp, hiểu rõ điều quốc cấm, không dám làm điều lỗi lầm chăng?

Thưa rằng: “Con có nghe dân chúng nước ấy cùng nhau tôn trọng luật pháp, hiểu rõ điều quốc cấm, không dám làm điều lỗi lầm”.

-Ngươi có nghe dân chúng nước Việt Kỳ kính cẩn lễ hóa, nam nữ sống riêng biệt, lớn nhỏ thờ kính lẫn nhau chăng?

Thưa rằng: “Con có nghe dân chúng nước Việt Kỳ kính cẩn lễ hóa, nam nữ sống riêng biệt, lớn nhỏ thờ kính lẫn nhau”.

-Ngươi có nghe dân chúng nước Việt Kỳ hiếu thảo với cha mẹ, tôn kính Sư trưởng, nghe lời dạy bảo chăng?

Thưa rằng: “Con có nghe rằng dân chúng nước ấy hiếu thuận cha mẹ, tôn kính Sư trưởng, nghe lời dạy bảo”.

-Ngươi có nghe dân chúng nước Việt Kỳ tôn trọng đất trời, kính nể xã tắc, phụng sự bốn mùa chăng?

Thưa rằng: “Con có nghe dân chúng nước Việt Kỳ tôn trọng đất trời, kính nể xã tắc, phụng sự bốn mùa”.

-Ngươi có nghe dân chúng nước Việt Kỳ tôn thờ đạo đức, ở trong nước có Sa môn Ứng chơn từ các phương đi đến thì cúng dường áo quần, giường nằm, ngọa cụ và thuốc men chăng?

Thưa rằng: “Con có nghe dân chúng nước ấy tôn thờ đạo đức, ở trong nước có Sa môn Ứng chơn từ các phương đi đến thì cúng dường quần áo, giường nằm, ngọa cụ và thuốc men”.

Ðức Phật dạy: “Hễ nước nào thực hành bày pháp này, khó có thể làm cho nguy hại được”.

Vũ Xá thưa: “Giả sử nước Việt Kỳ chỉ thực hành một pháp thôi, còn không thể công phạt nổi, huống chi là thực hành bảy pháp”. Rồi ông bạch Phật: “Vì việc nước quá đa đoan, vậy con xin kiếu từ Thế Tôn”.

Phật dạy: “Ngươi nên biết thời”.

Ông liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ đức Phật rồi liền lui ra. Ông đi chưa bao lâu, đức Phật bảo tôn giả A Nan: “Hãy đến trong núi Diêu Sơn  mời tất cả các Tỳ kheo tăng tập họp tại giảng đường”. Tôn giả A Nan liền vâng lời Ngài dạy, đến núi Diêu Sơn bảo các Tỳ kheo tăng: -Ðức Phật cho mời các Tỳ kheo.

Các Tỳ kheo đều đến đảnh lễ đức Phật, đức Phật liền đi trước, vào trong giảng đường, tất cả đều trải tòa rồi ngồi. Ðức Phật bảo các Tỳ kheo:

 -Hãy thọ trì bảy giới pháp. Những gì là bảy?

1.       Tỳ kheo nên thường xuyên cùng nhau tụ tập để tụng kinh điển thì chánh được lâu dài.

2.       Lúc ngồi, lúc đứng, trên dưới kính nhường, hòa thuận lẫn nhau, làm cho chánh pháp được lâu dài.

3.       Khi ngồi, khi đứng không được nhớ nghĩ nhà cửa, vợ con để chánh pháp được lâu dài.

4.       Ở trong núi non hiểm trở, hoặc ở nơi rừng sâu dưới cây, giữa gò mả, phải tự suy tư về năm giới, nhờ đó chánh pháp được lâu dài.

5.       Tuổi trẻ phụng sự đạo, trước phải hỏi các Tỳ kheo trưởng lão, kính nể, thừa sự, học hỏi không mệt mỏi, nhờ đó chánh pháp được lâu dài.

6.       Trong tâm phải phụng sự giới pháp, kính sợ kinh giới, nhờ đó chánh pháp được lâu dài.

7.       Gìn giữ hai trăm năm mươi giới đủ điều kiện để đắc đạo A la hán, có kẻ muốn đến học hỏi thì đừng từ chối; kẻ vào đạo cùng nhau dạy dỗ. Tín thí có cúng áo quần, đồ ăn uống phải cùng nhau thọ dụng, bệnh hoạn ốm yếu phải cùng nhau chăm sóc.

Tỳ kheo trì bảy pháp này thì chánh pháp được lâu dài. Lại có bảy pháp, hãy lắng nghe. Các Tỳ kheo vâng lời thọ giáo:

1.       Tỳ kheo không được ham nằm. Khi nằm không được nghĩ đến chuyện đời, thì chánh pháp được lâu dài.

2.       Thích giữ sự thanh tịnh, không thích hữu vi, thì chánh pháp được lâu dài.

3.       Ưa ở chung với người hiền, giữ hạnh nhẫn nhục, cẩn thận không tranh tụng, thì chánh pháp được lâu dài.

4.       Không được mong người đến lễ kính. Thuyết pháp cho người nghe không được tỏ ra đó là ân đức thì chánh pháp được lâu dài.

5.       Ðược chút ít đạo, không được tự kiêu mạn, buông lung, thì chánh pháp được lâu dài.

6.       Không được nghĩ đến các dục tình, tâm không lao vào các việc đời như vậy thì chánh pháp được lâu dài.

7.       Không tham lợi dưỡng, thường ưa ở ẩn, lấy cỏ rơm làm giường. Tỳ kheo giữ như vậy thì chánh pháp được lâu dài.

Lại có bảy pháp, hãy lắng nghe. Các Tỳ kheo vâng lời thọ giáo:

1.       Có người bố thí tài vật cho người khác, không có tâm sân hận thì chánh pháp được lâu dài.

2.       Phải biết xấu hổ thì chánh pháp được lâu dài.

3.       Siêng năng đọc tụng giới kinh thì chánh pháp được lâu dài.

4.       Khi đứng, lúc ngồi tâm không quên giới kinh thì chánh pháp được lâu dài.

5.       Lúc ngồi, lúc đứng không có tướng nhàm chán sự khổ thì chánh pháp được lâu dài.

6.       Lúc ngồi, lúc đứng đều hiểu rõ kinh pháp thì chánh pháp được lâu dài.

7.       Khi đọc, học kinh điển nên tụng đọc kinh thâm nghĩa, thì chánh pháp được lâu dài.

Lại có bảy pháp:

1.       Lúc Phật ở thế gian làm bậc thầy các Tỳ kheo, Tỳ kheo cung kính giới cấm của Phật dạy, thọ trì giới pháp, không ngạo mạn, nhớ ơn thầy, trì giới pháp của thầy, thì chánh pháp được lâu dài.

2.       Không được làm tổn giảm đạo, phải theo Phật pháp mà kiểm thúc thân tâm thì chánh pháp được lâu dài.

3.       Cung kính Tỳ kheo tăng, thọ nhận lời giáo giới của các Ngài, phải thừa dụng, không có nhàm chán thì chánh pháp được lâu dài.

4.       Coi trọng việc trì giới, hay nhẫn nhục thì chánh pháp được lâu dài.

5.       Tùy thuận kinh giới, tâm không tham ái, phải nghĩ mạng người là phi thường thì chánh pháp được lâu dài.

6.       Ban ngày không được ham ăn uống, ban đêm nằm ngủ nghỉ không được ham giường tốt thì chánh pháp được lâu dài.

7.       Tự chỉnh đốn tư duy đời mình, thế gian là rối loạn, tâm niệm không giải đãi, chớ theo tâm tà. Lúc tâm tà đến phải tự kiềm chế, chớ có tùy thuận, hãy giữ tâm đoan chánh. Người thế gian trong tâm có lừa dối, Tỳ kheo chớ có tùy thuận tâm của người ngu trong thiên hạ.

Thọ trì bảy pháp này thì chánh pháp được lâu dài.

Lại có bảy pháp, Tỳ kheo tăng cần vâng lời thọ giáo:

1.       Tỳ kheo hãy quý trọng kinh như người ngu quý trọng châu báu, và xem kinh như cha mẹ nên theo kinh mà phụng dưỡng cha mẹ. Người ta sống có một đời nhưng kinh điển độ thoát vô số đời, khiến cho người được đạo Nê hoàn, làm như vậy thì chánh pháp được lâu dài.

2.       Không được ham mùi vị ăn uống, không được ăn nhiều, ăn nhiều làm người ta sanh bệnh, ăn ít thì bị đói, ăn vừa no thì thôi, không được tham đắm thức ăn, làm như vậy thì chánh pháp được lâu dài.

3.       Nên xem thân như đất, ban ngày ưu tư sự chết, không thích ở trong đường sanh tử. Người sống có nhiều sự lo: lo cho cha mẹ, anh em, vợ con, thân thuộc, nô tỳ, tri thức, súc sanh, ruộng nhà. Bọn người ưu tư như vậy đều là ưu tư một cách ngu si vậy. Như người có tội bị quan bắt giữ, tuy có những người tôn thân cũng không thể nhờ cậy được, làm vậy là ô uế. Thân này nên xem như đất, một mình đến, một mình đi, hãy chiến đấu với thân này, làm như vậy thì chánh pháp được lâu dài.

4.       Siêng tu tinh tấn, đoan nghiêm thân, khẩu, ý, hành động không lỗi lầm, giữ đạo không khó khăn thì chánh pháp được lâu dài.

5.       Hàng phục và kinh sợ tâm ý, không nghe theo sáu tình, kiềm chế dâm, nộ, si, không có tà hạnh thì chánh pháp được lâu dài.

6.       Ngồi trong chúng mà không thấy xấu hổ với mọi người, được người đời kính trọng. Nhờ tâm đoan chánh thanh tịnh cho nên không sợ sệt, giữ đạo không làm điều tà vậy. Như có người bị người ta sàm tấu, quan bắt giữ. Tuy bị quan cầm giữ nhưng người ấy không sợ, vì không có phạm tội vậy. Trì giới thanh tịnh, sợ giới ngữ của Phật, ngồi ở trong nhơn chúng mà không lo sợ vì tâm thanh tịnh vậy. Nhờ vậy mà chánh pháp được lâu dài.

7.       Thận trọng không kiêu mạn, theo người trí tuệ thọ trì kinh giới. Thấy người ngu si nên dạy giới kinh cho họ.

Tỳ kheo trì bảy pháp này thì chánh pháp được lâu dài.

Lại có bảy pháp, các Tỳ kheo nên thọ giáo:

1.       Tỳ kheo phải thường niệm kinh, xả bỏ tánh tham dâm, thường nghĩ đến con đường giải thoát khỏi thế gian. Phải tự tư duy thân thể thì chánh pháp được lâu dài.

2.       Luôn luôn thọ trì kinh của Phật dạy giữ mãi trong tâm, đã giữ trong tâm rồi hãy đoan chánh tâm mình, bỏ tâm xấu, giữ tâm tốt. Giống như áo của người ta có nhiều cấu bẩn, họ dùng nước tro tẩy giặt hai ba lần, làm cho tất cả cấu bẩn sạch hết. Nhớ lời Phật dạy, phải trì giới, bỏ ác theo thiện thì chánh pháp được lâu dài.

3.       Hãy chiến đấu với tâm, không nên tùy thuộc tâm. Tâm muốn dâm, nộ, si thì đừng nghe theo, thường tự cấm chế tâm mình, không được tùy thuộc tâm. Như người vào quân đội, kẻ mạnh vượt qua mọi người làm quân tiền phong khó mà thối lui, ý kẻ ấy hối hận muốn thối lui liền thấy xấu hổ với người ở sau mình. Người đã thọ tịnh giới phải nên giữ tâm đoan chánh, ý ngay thẳng, hãy đứng trước mọi người, chớ có đứng sau, vị ấy có thể đắc đạo trước tiên. Như vậy thì chánh pháp được lâu dài.

4.       Nên biết pháp hạnh mình đã thâm nhập nhiều hay ít, sâu hay cạn, tâm chí đã thành thục hay sơ sài. Hãy nên mỗi ngày ham thích đọc kinh càng nhiều, không sợ khổ, không phân biệt thức ăn, không chọn giường nằm. Hãy lấy đạo, tự khuyến khích mình và tự ưa thích, nhờ đó chánh pháp được lâu dài.

5.       Nên tôn kính người đồng học, hãy xem bạn đồng học như anh em, hãy đoan chánh trong và ngoài, bên ngoài là lỗi của thân, miệng , bên trong là lỗi của tâm. Hãy suy tư về hai việc này thì chánh pháp được lâu dài.

6.       Lúc ngồi hãy tự suy nghĩ: “chín chỗ bài tiết hôi thối không chỗ nào mà không có. Một lỗ đóng vai ở chủ  bên trong, chín lỗ đều bài tiết đồ bất tịnh; đói, no, nóng, lạnh đều làm cho ta đau khổ cùng cực, thân thể khó làm cho thích nghi, đều là bất tịnh. Bên trong chứa đồ bất tịnh, gió nóng, gió lạnh hiện ra ở bên ngoài, đều là bất tịnh mà tự che đậy; lỗ mũi hiện ra sự lạnh nóng thì trong tâm đều không hoan hỷ. Nếu có mùi hôi thối cũng không ghét, không mừng, Tỳ kheo nên giữ tâm đoan chánh trong và ngoài như vậy thì chánh pháp được lâu dài.

7.       Hãy quán xem những người trong thiên hạ, vua chúa cũng chết; kẻ nghèo, người giàu, kẻ sanh người hèn không ai thoát khỏi cái chết, đồng ở trong con đường sống chết như nhau. Như người nằm mộng thấy nhà đẹp, vườn xinh hào quý khoái lạc, đến lúc tỉnh giấc thì chẳng thấy gì cả. Những sự giàu, nghèo, sang, hèn ở thế gian cũng như người nằm mộng mà thôi. Hãy tự suy tư về thế gian, thí như người chiêm bao mà thôi.

Tỳ kheo thọ trì bảy pháp này, tư duy không quên thì chánh pháp được lâu dài.

Lại có bảy pháp:

1.       Tỳ kheo phải có tâm từ đối với thiên hạ, có tâm từ đối với đức Phật. Người ta chửi mắng không được chửi mắng lại, không được sân hận. Hãy giữ tâm từ đối với thiên hạ. Thí như có người ở trong tù thường có lòng thương xót lẫn nhau. Người ta ở trên thế gian cũng nên thương yêu, nhớ nghĩ lẫn nhau. Tỳ kheo hãy giữ tâm, khi bị người chửi mắng mà không sân hận, hay sanh tâm không vui mừng, cũng không lo lắng, do đó không tranh chấp với người thế gian. Thí như con trâu cái ăn cỏ non thì sanh ra sữa, từ sữa sanh ra lạc, từ lạc sanh ra tô, từ tô thành đề hồ. Hãy giữ tâm như đề hồ mà phụng trì giới pháp của Phật, có thể được đoan chánh lâu dài.

2.       Lưỡi không nói dối, lời nói không làm thương tổn người khác ý, lưỡi phải đoan chánh. Lưỡi không đoan chánh khiến cho người ta không thể đắc đạo. Do lưỡi đưa đến việc dao gậy hoặc đưa đến sự tàn diệt, cho nên người học đạo phải luôn luôn nói lời đoan chánh thì chánh pháp được lâu dài.

3.       Hãy đoan chánh tâm mình, chớ có nghĩ ác, chớ nghĩ đến dâm, nếu có tâm dâm dục thì không thành đạo A la hán. Ban đêm nằm (ngủ) mà tâm dâm dục muốn khởi lên thì hãy nghĩ đến sự nhơ nhớp của người nữ, ý dâm liền được loại bỏ. Khi tâm sân hận khởi lên, hãy nghĩ rằng: “Con người sống trên mặt đất này có bao lâu đâu”. Làm như vậy thì chánh pháp được lâu dài.

4.       Nếu có người mời Tỳ kheo thọ trai, những người khác không được nghĩ rằng: “Chỉ có Tỳ kheo này được mời, còn ta thì không”. Có người nghĩ: “Có Tỳ kheo bị bệnh, vậy ta nên đem thuốc men đến để cho vị ấy”. Người khác không nên nghĩ rằng: “Người ta chỉ chăm sóc vị ấy, chẳng chăm sóc ta”. Không nên nghĩ rằng: “Người này đem y phục, đồ đạc đến cho Tỳ kheo”, người khác không được nghĩ rằng: “Riêng ta thì không được, sao lại phải đi xin mới có?”. Khi (tín thí) bỏ đồ ăn vào trong bát, không được nói nhiều hay ít. Giữ tâm như vậy thì chánh pháp được lâu dài.

5.       Hãy giữ giới pháp thận trọng. Nếu đối với giới pháp mà không biết thì nên hỏi vị Tỳ kheo biết giới. Hãy niệm Phật, niệm Pháp và niệm Tỳ kheo tăng không phút nào nghỉ, thì dần dần được tương thừa giới pháp. Nếu trong y phục có chí rận nên khởi lòng thương đối với chúng, như vậy thì chánh pháp được lâu dài.

6.       Lúc thấy người chết, ta nói rằng: “Người này đã chết, mà không biết kinh đạo, cả nhà khóc lóc, các thân thuộc tri thức đều không biết người chết ấy đi về đâu”, nhưng Tỳ kheo đã đắc đạo có thể biết người chết ấy, thần hồn đi về đâu. Ðối với kinh điển thì cần phải đọc, đối với đạo thì cần phải học. Con đường ngay thẳng của mọi người trong thiên hạ thì Vương đạo là tối đại. Phật đạo cũng thế, là đạo tối thượng vậy. Giống như vài chục người, ai ai cũng cầm cung tên bắn vào ụ đất để tập bắn, có cái trúng ở phía trước, có cái trúng ở phía sau. Những người ấy cứ bắn liên tục, sẽ có mũi tên trúng ngay giữa ụ đất. Người thực hành kinh đạo của Phật cũng giống như thế, chớ giải đãi, chớ suy nghĩ rằng người trước đã đắc đạo, nay ta không đắc đạo, không được có sự sân hận này. Giống như người bắn tên không dừng nghỉ rồi được trúng đích. Là Tỳ kheo không ngừng mong được đắc đạo, thì chánh pháp được lâu dài.

7.       Khi đi, khi đứng phải luôn luôn thừa dụng kinh Phật, phải đọc tụng và tư duy nghĩa kinh. Tỳ kheo, thanh tín sĩ (nam), và thanh tín nữ thực hành bảy pháp như vậy thì chánh pháp được lâu dài.

Phụng trì bốn mươi chín pháp này như trời mưa, nước của khe nhỏ chảy vào khe lớn, nước của khe lớn chảy vào sông, nước của sông chảy vào biển, Tỳ kheo hãy như dòng nước chảy vào biển, hành đạo không bao giờ dừng nghỉ sẽ được đạo A la hán.

Ðức Phật từ nước Vương Xá bảo tôn giả A Nan:

-Chúng ta hãy đến xóm Ba Lân.

Tôn giả A Nan thưa: -Dạ.

Rồi từ nước Ma Kiệt  Ðà, đi chưa tới xóm Ba Lân ở giữa đường là nước La Trí, ở đó đức Phật bảo các Tỳ kheo tăng hãy lắng nghe, các Tỳ kheo vâng lời thọ giáo. Ðức Phật dạy:

-Trong thiên hạ có bốn sự khổ, đức Phật biết rõ nhưng con người lại không biết. Do con người không biết cho nên cứ bị sanh tử mãi không lúc nào dừng nghỉ. Những gì là bốn? Ðó là sanh khổ, già khổ, bệnh khổ, chết khổ. Vì con người không có suy tư sức mạnh của bốn sự thống khổ này cho nên mới chịu sự sanh tử mãi mãi không bao giờ dừng nghỉ. Vì vậy mà đức Phật đã nhiều lần nêu lên bốn sự thống khổ này để dạy con người: Tuy có cha mẹ, vợ con đều sẽ bị biệt ly, cùng nhau lo buồn, khóc lóc không thôi, tất cả ác kiến, thọ báo trước mắt. Do đó cho nên đức Phật nói kinh dạy phải xa lìa bốn sự thống khổ, phụng trì tám giới, cần phải nhàm chán thân này. Ðức Phật dạy:

1.       Thọ  lãnh  lời  Phật  dạy.

2.       Xa lìa ái dục, đến với đạo không có ham tranh cãi.

3.       Không nói dối, nói thêu dệt, nói hai lưỡi và nói lời độc ác.

4.       Không được sát sanh, trộm cắp, xâm phạm phụ nữ của người.

5.       Không được ganh tị, sân hận và ngu si.

6.       Khi ngồi tự mình tư duy bốn sự thống khổ ở trong tâm.

7.       Nhớ nghĩ thân thể đều là nhơ nhớp.

8.       Quán sự sanh tử, thân này rồi sẽ trở thành đất.

Ðức Phật cũng nhớ nghĩ về sự đến của bốn thống khổ và sự đi của bốn thống khổ. Ðức Phật cũng đưa ra tám giới này và Phật cũng chính là tám giới. Hãy niệm kinh nghĩa lý sâu xa của Phật.

Các Tỳ kheo nếu có nhớ nghĩ về cha mẹ, vợ con, nghĩ về sự sanh hoạt của thế gian thì không thể được đạo giải thoát khỏi thế gian. Nếu ưa thích thế gian thì tâm không ưa thích đạo. Ðạo từ tâm mà có, chánh tâm mới có thể đắc đạo. Chánh tâm chút xíu còn được sanh lên trời, người hiểu kinh có thể được làm người. Hãy đoạn trừ con đường địa ngục, súc sanh và ngạ quỷ. Ðức Phật vì thiên hạ chính thức nói về sự sanh tử. Các Tỳ kheo hãy nên suy tư về việc này.

Ðức Phật từ xóm La Trí bảo tôn giả A Nan cùng đi đến xóm Ba Lân, tôn giả A Nan thưa: -Dạ vâng.

Liền đi theo sau đức Phật. Bấy giờ Tỳ kheo tăng có một ngàn hai trăm năm mươi vị. Ðức Phật đi đến xóm Ba Lân, ngồi dưới gốc cây. Quỷ thần của xứ Ba Lân liền báo cho Thệ Tâm Lý gia biết, tất cả đều ra ngoài, có người mang ghế, nệm lông, mang đèn đều đi đến chỗ đức Phật, đảnh lễ trước đức Phật rồi ngồi qua một bên. Ðức Phật bảo Thệ Tâm Lý gia rằng:

-Con người ở thế gian, kẻ có tham dục tự mình buông lung liền có năm điều ác. Những gì là năm?

1.     Tài sản ngày một hao mòn.

2.     Không biết ý đạo.

3.     Mọi người không kính nể, lúc chết bị hối hận.

4.     Danh tiếng xấu ác mọi người đều nghe.

5.     Lúc chết đọa vào tam ác đạo, địa ngục ...

Nếu ai có thể hàng phục tâm mình, chính mình không buông lung liền có năm điều lành. Những gì là năm?

1.     Tài sản ngày một tăng.

2.     Có đạo hạnh.

3.     Mọi người kính nể, lúc chết không hối hận.

4.     Danh tiếng tốt đẹp thiên hạ đều nghe.

5.     Lúc chết sanh đến chỗ phước đức cao thượng.

Tự mình không buông lung có năm điều lành như thế, các ngươi hãy tự mình suy tư về việc ấy.

Ðức Phật thuyết pháp cho Thệ Tâm Lý gia, tất cả đều hoan hỷ, lạy Phật rồi đi.

Ðức Phật đi đến xóm A Vệ, ngồi dưới một gốc cây, Ngài dùng đạo nhãn thấy chư thiên trên trời bảo thần Hiền Thiện bảo hộ vùng đất này. Ngài từ chỗ ngồi đứng dậy, ra khỏi xóm A Vệ, lại ngồi xuống một chỗ khác. Hiền giả A Nan sửa lại y phục ngay thẳng, từ chỗ ngồi đứng dậy, lạy Phật xong đứng qua một bên, đức Phật hỏi tôn giả A Nan : “Ai xây dựng thành quách ở xóm Ba Lân này?”.

Thưa rằng: “Ông đại thần Vũ Xá nước Ma Kiệt xây dựng thành này nhằm ngăn chận quân Việt Kỳ”.

Ðức Phật nói: “Lành thay ! Này A Nan, ông Vũ Xá là người hiền mới biết mưu kế này. Ta thấy chư thần Diệu Thiện ở trên trời Ðao Lợi đều hộ trì đất này. Ai có đất này sẽ được chư thiên trên trời hộ trì, vùng đất này chắc chắn sẽ được an ổn giàu có. Lại nữa, vùng đất này là trung tâm của trời, chủ của cõi trời Tứ Phần Dã này tên là Nhân Ý. Vị ấy sẽ hộ trì nước này đã được lâu dài mà còn thắng ích nữa. Nước đó chắc chắn có nhiều người mưu trí, thánh hiền các nước không thể bì kịp, cũng không thể phá hoại được. Thành Ba Lân này, lúc muốn phá hoại phải có ba việc: 1- Lửa lớn; 2- Nước lớn; 3- Người trong và ngoài thành âm mưu mới phá hoại thành này được.

Ðại thần Vũ Xá nghe đức Phật cùng chúng Tỳ kheo từ nước Ma Kiệt du hành đến đây liền theo lệnh vua cỡi lên năm trăm cỗ xe oai nghiêm ra khỏi xóm Ba Lân, đi đến chỗ đức Phật, đến phía trước đảnh lễ Ngài rồi ngồi qua một bên, bạch đức Phật: “Ngày mai mong Ngài cùng đông đủ Tỳ kheo đến nhà con để dùng điểm tâm”.

Ðức Phật yên lặng không trả lời. Ông Vũ Xá nói như vậy đến ba lần, sự yên lặng trong Phật pháp tức là nhận lời. Vũ Xá liền trở về nhà sửa soạn, đặt bày sàng tọa, thắp đèn dầu, đồ ăn thức uống đầy đủ để đón rước đức Phật và các Tỳ kheo tăng. Sáng mai Vũ Xá đến thỉnh Phật. Bấy giờ đức Phật cùng đông đủ một ngàn hai trăm năm mươi vị Tỳ kheo tăng đi đến. Ăn uống xong, đức Phật liền chú nguyện rằng:   “Mong (tín chủ) được đắc đạo, không ham thích địa vị quốc công, tuy đời này không thể xa lìa việc huyện quan. Nếu nay (tín chủ) cúng cơm cho Phật và Tỳ kheo tăng, mong cho đời sau được thoát khỏi việc huyện quan. Thế gian có người thông minh nên ăn đồ của đạo nhân hiền thiện, đạo nhân chú nguyện không quên người làm quan. Cầu cho quan không nên có tâm tham, tâm khốc hại, tâm siêng năng, tâm vui thích, tâm khuyên răng (điều ác). Bỏ năm tâm này, người làm quan huyện có thể sẽ (không có lỗi)?, sau khi chết có thể trừ được tội ác nơi địa ngục. Này Vũ Xá, hãy tự suy nghĩ lấy”.

Ông thưa: -Dạ, con xin thọ giáo.

Ðức Phật và các Tỳ kheo tăng đều đứng dậy ra đi. Ðức Phật đi ra cửa thành, Võ Xá liền đi theo sau Phật để quán sát coi đức Phật đi ra cửa thành nào để đặt tên cửa thành ấy là Phật Thành Môn. Còn cái khe nước nhỏ mà đức Phật đi qua gọi là Phật Khê.

Ðức Phật đi đến bên bờ sông, bấy giờ nhân dân đại chúng nhiều người muốn vượt qua sông, có người dùng thuyền lớn, có người dùng thuyền nhỏ, có người dùng bè tre để qua sông. Ðức Phật ngồi suy nghĩ: “Lúc ta chưa thành Phật, đi qua sông này, cỡi lên bè tre để đi qua. Nay thân ta không còn cỡi lên bè tre để vượt qua sông nữa”. Ðức Phật tự nghĩ rằng: “Ta là thầy độ người, khiến cho người được con đường giải thoát khỏi cuộc đời, không còn theo người khác để được độ nữa”. Nghĩ như vậy rồi các Tỳ kheo đều vượt qua.

Ðức Phật bảo ngài A Nan: -Tất cả hãy đi đến xóm Câu Lân.

Tôn giả A Nan thưa: -Dạ vâng.

Ðức Phật cùng với một ngàn hai trăm năm mươi vị Tỳ kheo liền đến xóm Câu Lân. Ðức Phật bảo các Tỳ kheo:

-Tất cả hãy lắng nghe. Hãy khéo giữ gìn tâm, không tranh cãi với thiên hạ. Hãy tự suy tư, nên biết sự vô thường. Hãy lo cho thân không có trí tuệ. Hãy khéo giữ tâm đừng tranh cãi với thiên hạ. Hãy tự suy tư thì liền được sáng suốt. Người sáng suốt liền trừ bỏ được trạng thái tham dâm, sân nhuế, ngu si. Trừ bỏ được ba trạng thái này rồi liền được vượt khỏi con đường thế gian, không còn sanh trở lại nữa, tâm không còn sanh trở lại nữa, tâm không còn dong ruỗi nữa, nhất tâm không đắm trước. Ví như quốc vương thích suy nghĩ một mình rằng: “Ðối với mọi người trong thiên hạ, riêng ta là chủ”. Người đắc đạo, người đã vượt qua khỏi thế gian, cũng tự nghĩ trong lòng: “Dù có trăm ngàn vạn mối rối ren, chỉ có tâm là chủ, giống như quốc vương làm chủ coi sóc nhân dân”.

Ðức Phật lại từ Câu Lân bảo tôn giả A Nan:

-Tất cả hãy đến nước Hỷ Dự.

Tôn giả A Nan thưa: -Dạ vâng.

Ðức Phật cùng các Tỳ kheo đồng đến nước Hỷ Dự ngồi dưới gốc cây Kiền Ðề. Ðức Phật bảo các Tỳ kheo tăng: “Các ngươi hãy đi khất thực ở nước Hỷ Dự”.

Lúc Khất thực xong trở về, các tỳ kheo bạch đức Phật: “Nước Hỷ Dự có nhiều bệnh tật nên nhân dân có nhiều người chết, trong đó có các Ưu bà tắc tên là Huyền Ðiểu, Thời Tiên, Sơ Ðộng, Thức Hiền, Thục Hiền, Khoái Hiền, Bá Tông, Kiêm Tông, Ðức Cử, Thượng Tịnh. Mười vị này đều là Ưu bà tắc thọ trì năm giới, nay đều chết hết”.

Các Tỳ kheo hỏi đức Phật:

-Các Ưu bà tắc này chết rồi sanh về đâu?

Ðức Phật trả lời:

-Huyền Ðiểu ... cả thảy mười người này, chết rồi được sanh ở trong con đường Bất Hoàn.

Ðức Phật dạy các Tỳ kheo tăng:

Nhân quán sát về cái chết của mười người này, Phật dùng thiên nhãn quán sát xem thấy năm trăm người Ưu bà tắc đã chết đều sanh ở trong đường Bất Hoàn. Lại có ba trăm Ưu bà tắc như Nan Ðề ... lúc còn sống không có trạng thái dâm, phẫn nộ và ngu si, lúc chết được sanh lên trời Ðao Lợi, được đắc đạo Câu Hạng, chỉ còn bảy lần sanh, bảy lần tử nữa là chứng được đạo A la hán. Còn Huyền Ðiểu ... cả thảy năm trăm người đều được đạo Bất Hoàn, tự mình ở thiên thượng được đạo Ứng Chơn.

Ðức Phật bảo các Tỳ kheo:

Nếu người khất thực về hướng đường nào thì đó chính là con đường của mười vị Ưu bà tắc vậy. Nếu ai muốn quấy nhiễu Phật nên cho rằng: “Ðức Phật không muốn nghe điều ác này, Phật cũng đâu có sợ những tai nạn?”. Ðã có sanh thì ai cũng phải chết cả. Các đức Phật quá khứ, đương lai và hiện tại đều Bát Nê hoàn. Nay ta làm Phật cũng sẽ Bát Nê hoàn. Nhờ thân này mà được làm Phật, trải qua nhiều kiếp cầu Phật quả nhằm chấm dứt con đường sanh tử. Khi làm Phật thì chấm dứt hoàn toàn căn bản sanh tử, biết là con người vốn bắt nguồn từ Si, từ Si có Hành, từ Hành có Thức, từ Thức có Tự và Sắc, từ Tự (danh), Sắc có Lục nhập, từ Lục nhập có Tài (xúc), từ Tài có Thống (thọ), từ Thống có Ái, từ Ái có Cầu, từ Cầu có Hữu, từ Hữu có Sanh, từ Sanh có Lão tử, ưu bi khổ não, bất như ý, áo não. Như vậy hợp lại thành một khối khổ ấm lớn tập khởi.

Ðức Phật nhờ suy tư về nguồn gốc sanh tử, nó như chiếc xe có bánh, khi chạy xe bánh không thể ngừng. Con người từ ngu si cho nên mới bị sanh tử. Nếu từ bỏ ngu si thì si mê tiêu diệt, nhờ si mê diệt thì Hành diệt, nhờ Hành diệt nên Thức diệt, do Thức diệt nên Tự (danh) sắc diệt, nhờ Tự sắc diệt nên Lục nhập diệt, do lục nhập diệt nên Tài diệt, nhờ Tài diệt nên Thống diệt, do Thống diệt nên Ái diệt, do Ái diệt nên Cầu diệt, do Cầu diệt nên Hữu diệt, do Hữu diệt nên Sanh diệt, do Sanh diệt nên Lão tử diệt, do Lão tử diệt nên ưu, bi khổ, bất như ý, áo não diệt. Như vậy hiệp thành một khối đại khổ ấm tập khởi chấm dứt.

Do vậy cho nên trước tiên đức Phật nói: do ngu si nên có sanh tử, người có trí giữ đạo thì không còn sanh tử nữa.

Ðức Phật dạy: -Hãy nhớ nghĩ phụng trì Phật pháp, Thánh chúng, tương thừa tịnh giới, giáo hóa kinh Phật. Hãy nghĩ đến việc giữ tâm đoan chánh thì còn sanh tử lại nữa, không có tai hoạn ưu sầu, khóc lóc.

Ðức Phật từ xóm Hỷ Dự bảo tôn giả A Nan đi đến nước Duy Da Lê, tôn giả A Nan thưa: -Dạ vâng.

Ðức Phật từ xóm Hỷ Dự đi đến nước Duy Da Lê, chưa tới bảy dặm, đức Phật dừng chân ở trong vườn Nại, có người dâm nữ tên là Nại Nữ, có năm trăm đệ tử dâm nữ, ở trong thành nghe đức Phật đi đến ở trong vườn Nại, bà liền ra lệnh cho năm trăm đệ tử dân nữ phải trang điểm y phục và chuẩn bị xe cộ, từ trong thành đi ra, đến chỗ Phật, muốn yết kiến đức Phật, quỳ lạy đức Phật.

Bấy giờ đức Phật ở trong vườn Nại cùng hàng ngàn Tỳ kheo cu hội, đang thuyết kinh cho các Tỳ kheo. Ðức Phật thấy Nại Nữ cùng năm trăm đệ tử dâm nữ cu hội, đều trang sức bằng những y phục lộng lẫy, đức Phật bảo các Tỳ kheo:

-Ta vừa thấy Nại Nữ cùng cu hội với năm trăm dâm nữ đệ tử đều cúi đầu, tâm đoan chánh. Họ tuy trang sức lộng lẫy đến đây, giống như cái bình vẽ, bên ngoài vẽ rất đẹp nhưng bên trong toàn là đồ nhơ nhớp bất tịnh trói chặt không thể mở ra, nếu ai mở ra thì toàn là bất tịnh hôi thối. Ðó chính là Nại Nữ, cả bọn đều là những cái bình vẽ cả. Vậy các Tỳ kheo phải có kiến lực. Những gì là kiến lực? Ðó là bỏ ác theo thiện, không nghe theo tâm dâm, thà tự mình chẻ xương, phá tâm, thiêu đốt thân thể, chớ quyết trọn đời không bao giờ tùy thuận theo tâm làm ác. Không chỉ là lực sĩ mới có nhiều sức mạnh, nếu tự mình đoan chánh tâm mình thì còn hơn cả lực sĩ nữa. Ðức Phật từ lúc chiến đấu với tâm mình đến nay đã trải qua vô số kiếp không nghe theo tâm, siêng năng tinh tấn để tự mình đạt đến quả Phật. Vậy các Tỳ kheo hãy tự mình ngay thẳng, đoan nghiêm tâm mình. Hãy giữ tâm thật lâu trong quán bất tịnh, nay mới có thể tự mình nhổ sạch, bỏ đi tâm (lý thấp hèn). Hãy tự tư duy năm tạng trong thân thể cũng có thể đình chỉ được pháp sanh tử. Hãy quán xem bên ngoài cũng khổ, bên trong cũng khổ, hãy đoan chánh tâm mình.

Nại Nữ đến nơi, xuống xe đi đến chỗ đức Phật, đảnh lễ rồi ngồi qua một bên. Các Tỳ kheo đều cúi đầu. Ðức Phật hỏi:

-Do nhân duyên gì mà đến đây?

Nại nữ thưa: -Con thường nghe Phật tôn quý hơn chư thiên nên con đến để quỳ lạy Ngài.

Ðức Phật nói: -Này Nại Nữ ! Ngươi thích làm nữ nhân sao?

Nại Nữ thưa:

-Trời bắt con làm người nữ, nhưng con không thích.

Ðức Phật dạy:

-Nếu ngươi không thích làm người nữ, vậy ai khiến ngươi nuôi tới năm trăm đệ tử dâm nữ?

Nại Nữ thưa: -Họ đều là những dân nghèo, con nuôi dưỡng và bảo hộ cho họ đó.

Ðức Phật nói: -Chẳng phải như vậy. Nếu không nhàm chán sự bệnh khổ của người nữ, kinh nguyệt bất tịnh, bị câu thúc, trói buộc, đánh đập, không được tự tại. Ðã không nhàm chán thân của người lại còn chứa đến năm trăm người nữ nữa?!

Nại Nữ thưa:

-Con ngu si đến thế, người có trí tuệ thì không làm như vậy.

Ðức Phật nói: -Biết rõ như vậy là tốt.

Nại Nữ liền quỳ dài bạch Phật: -Sáng mai con mời đức Phật và Tỳ kheo tăng đến nhà con thọ trai.

Ðức Phật yên lặng không trả lời. Nại Nữ rất sung sướng, liền đứng dậy đảnh lễ đức Phật rồi đi ra.

Nàng Nại Nữ ra đi chưa bao lâu thì các Lý gia hào tộc của thành Duy Da Ly nghe đức Phật cùng đông đủ các Tỳ kheo tăng đang đi đến đây, cách thành bảy dặm, ở trong vườn Nại (xoài), liền dựa vào oai lực của nhà vua đều sửa sang xe cộ rồi ra đi, muốn đến yết kiến để cúng dường đức Phật. Trong đó thì có toán cỡi ngựa xanh, xe xanh, áo xanh, dù lọng xanh, tràng phan cũng xanh, các viên quan đều mặc màu xanh. Trong đó có toán cỡi ngựa vàng, xe vàng, y vàng, lọng vàng, tràng phan vàng, quan thuộc đều vàng. Có toán thì cỡi ngực đỏ, xe đỏ, áo đỏ, lọng đỏ, tràng phan đỏ, quan thuộc đều đỏ. Có toán thì cỡi ngựa trắng, xe trắng, áo trắng, dù lọng trắng, tràng phan trắng, quan thuộc đều màu trắng. Có toán thì cỡi ngựa đen, xe đen, áo đen, lọng đen, tràng phan đen, quan thuộc đều đen. Ðức Phật từ xa trông thấy đoàn xe ngựa khoảng hằng mười vạn người đang đi đến, liền bảo các Tỳ kheo: -Các ngươi muốn thấy trong vườn Ðế Thích, trên trời Ðao Lợi, đoàn thị tùng ra vào, thì cũng giống như các Lý gia (Lê Xa) này, chẳng khác gì cả.

Các Lý gia đi đến đầu đường đều xuống xe, đi đến chỗ đức Phật. Người đến trước đức Phật thì quỳ, người ở giữa đều cúi đầu, còn người ở sau cùng thì đều chấp tay rồi ngồi xuống.

Ðức Phật hỏi: -Các người từ đâu đến đây?

Các Lý gia thưa: - Chúng con nghe đức Phật ở chỗ này cho nên đến đây để quỳ lạy. Trong đoàn có một người tên là Tân Tự, đứng dậy đi đến trước đức Phật, nhìn Ngài thật kỹ. Ðức Phật hỏi:

- Ngươi nhìn những gì ở nơi ta?

Tân Tự thưa: -Khắp trên trời dưới đất đều rung động hướng về Ngài, cho nên con thấy đức Phật không ai bằng Ngài.

Ðức Phật nói: -Này Tân Tự, ngươi hãy nhìn Phật thật kỹ, về lâu xa lại có Phật ra đời nữa, dung nhan xinh đẹp. Lúc có Phật nên theo lời Phật dạy.

Trong nhóm có bốn năm trăm Lý gia nói rằng:

-Tân Tự có đại phước đức, cùng đàm luận với đức Phật.

Tân Tự nói: -Từ lâu tôi đã nghe kinh Phật, tôi nghĩ kinh này đã có từ trước, bỗng nhiên hôm nay tôi được gặp Phật. Tôi có tâm từ hiếu đối với đức Phật.

Ðức Phật nói: -Người trong thiên hạ ít có ai như Tân Tự, từ hiếu đối với thầy.

Ðức Phật bảo Tân Tự:

-Ðức Phật xuất hiện trong thiên hạ, biết con đường sanh tử của thiên hạ, Ngài nói kinh để khai hóa trên trời dưới trời và loài quỷ rồng để không có nghiêng ngửa. Ðó là oai thần thứ nhất của đức Phật. Nếu ai đọc tụng kinh Phật, tự mình giữ tâm đoan chánh thì được đắc đạo. Ðó là oai thần thứ hai của Phật. Phật nói kinh cho thiên hạ, người hiền nghe kinh không ai mà không hoan hỷ, người đến nghe không ai mà không vui mừng, kẻ học giả cùng nhau dạy dỗ, cùng nhau dẫn đường, cùng nhau đoan chánh tâm. Ðó là oai thần thứ ba của Phật. Ai học kinh Phật cũng đều hoan hỷ, như người ngu mà được vàng, kẻ thượng trí được đạo Ứng Chơn (A la hán). Thứ hai là có thể được Bất Hoàn, thứ ba là có thể được Tần lai, thứ tư là có thể được Cấu hạng, thứ năm là trì năm giới của Ưu bà tắc, có thể được sanh lên trời, trì ba giới có thể được làm người. Ðức Phật xuất hiện ở thiên hạ nhằm hiện ra đạo này vậy. Ðó là  oai thần thứ tư của đức Phật.

Ðức Phật bảo Tân Tự: -Hãy đến mà nhìn Phật thật kỹ. Hãy nói lên những tên của Phật đã được nghe. Thật khó mà thấy Phật.

Bấy giờ trong số những người đang ngồi ở đó có đến cả hàng vạn người, họ đều không hỏi đức Phật, hay hỏi riêng một mình thì đó là oai thần thứ năm của Phật.

Ðức Phật bảo Tân Tự: -Những người có trí huệ trong thiên hạ rất ít, người không trí huệ thì rất nhiều. Hãy thọ trì kinh đạo của Phật, hãy thọ trì những lời hay của thầy, hãy giữ giới pháp của thầy thì các loài quỷ, thần, rồng không ai mà không hộ vệ, chăm sóc, làm cho kẻ ấy không ai dám mời gọi một cách dối láo. Hãy từ hiếu đối với thầy. Làm thầy không nên theo những yêu sách của đệ tử. Ơû trước mặt thầy phải nên cung kính, ở sau lưng thầy phải nên khen ngợi thầy. Thầy chết thì luôn luôn tưởng nhớ. Hiện nay Tân Tự là người hùng trong loài người, khéo ưa thích pháp, giới thanh tịnh.

Các Thệ Tâm Lý gia ở Duy Da Lê mời đức Phật sáng mai cùng các Tỳ kheo vào thành để cúng dường. Ðức Phật nói:

-Sáng mai Nại Nữ đã thỉnh Phật và Tỳ kheo tăng rồi.

Các Thệ Tâm Lý gia đều trở về.

Sáng sớm Nại Nữ đi đến chỗ đức Phật, bạch rằng:

-Con đã đặt tòa ngồi, đồ ăn uống cũng đã dọn xong, mong đức Thiên Tôn duỗi oai thần hạ cố.

Ðức Phật nói: -Hãy về đi ta sẽ đến.

Ðức Phật đứng dậy, mặt y ôm bát cùng đông đủ Tỳ Kheo đi vào thành. Ơû trong thành thấy khoảng hàng mười vạn người, trong đó có các Ưu bà tắc hiện thiện, họ đều khen: “Ðức Phật như trăng sáng, các đệ tử Ngài như sao sáng vây quanh mặt trăng”.

Ðức Phật đến nhà Nại Nữ, ngồi xuống, lấy nước rửa tay chân. Ðức Phật và các Tỳ kheo tăng lúc đã ăn xong, rửa tay rồi, Nại Nữ lấy một chiếc ghế nhỏ ngồi trước đức Phật. Ðức Phật bảo Nại Nữ:

- Các Thánh nhơn và các bậc giàu có, hào quý tôn kính trọng thiên hạ chỉ thích tịnh giới, rõ biết các kinh của Phật, trong lúc họ ngồi nói chuyện phải lắng nghe, những việc làm của họ phải nên kính mến. Nay được làm người trong thiên hạ, đừng tham tiền, sắc, kính thờ sự thần hóa của Phật, lúc chết chẳng ai mà chẳng được sanh lên cõi trời.    Ðức Phật bảo Nại Nữ:

-Hãy khéo tự mình kính mến, quý trọng việc giữ năm giới.

Ðức Phật và Tỳ kheo đồng ra đi.

Ðức Phật từ nước Duy Da Lê ra đi, bảo tôn giả A Nan:

-Tất cả hãy đến xóm Trúc Phương.

Tôn giả A Nan thưa: -Dạ vâng.

Nghe ở xóm Trúc Phương lúa thóc khan hiếm, các Tỳ kheo khất thực khó khăn, đức Phật ngồi suy nghĩ: “Nước Duy Da Lê đói kém, lúa thóc khan hiếm, còn ở tụ lạc này nhỏ hẹp, không thể cùng các Tỳ kheo đi khất thực được”. Ðức Phật suy nghĩ muốn bảo các Tỳ kheo hãy phân bố ra nước khác, nơi lúa thóc ít khan hiếm để đi khất thực. Ðức Phật bảo các Tỳ kheo tăng: -Ở xóm Trúc Phương này lúa thóc khan hiếm, việc khất thực khó khăn, còn ở nước Sa La Ðề giàu có, sung túc, bốn bên biên giới của Duy da Lê này thì lúa thóc đều khan hiếm. Riêng ta cùng A Nan thì ở lại xóm Trúc Phương này.

Các Tỳ kheo nghe lời Phật dạy, đều đi đến nước Sa La Ðề, đức Phật và tôn giả A Nan đến xóm Trúc Phương. Ngài bị bệnh nặng, muốn nhập Niết bàn. Ðức Phật tự nghĩ: “Các Tỳ kheo đã đi khỏi, riêng ta nhập Niết bàn, không có lời dạy dỗ nào sao?”. Tôn giả A Nan ở dưới một gốc cây, đi đến chỗ đức Phật hỏi thăm:

-Thánh thể bệnh hoạn có bớt chăng?

Ðức Phật trả lời: -Ðã không bớt mà lại càng nguy kịch hơn. Ta muốn nhập Nê hoàn.

Tôn giả A Nan thưa: -Xin Ngài hãy khoan nhập Niết bàn. Hãy chờ các Tỳ kheo tụ tập đông đủ đã.

Ðức Phật bảo tôn giả A Nan:

-Ta có giới kinh, nếu ai đọc tụng kinh giới và phụng hành nó thì cũng như ta đang hiện hữu ở trong Tỳ kheo tăng. Các Tỳ kheo tăng đều đã biết sự giáo giới của Phật, phụng sự pháp của Thầy, ta đã phó chúc cho các đệ tử. Các đệ tử hãy nên thọ trì, tu hành và học thật kỹ. Nay toàn thân ta đau đớn, ta đã vận dụng oai thần của Phật, trị bệnh không cho tái phục, trụ tâm nơi bệnh, như có phần thuyên giảm.

Ðức Phật bảo tôn giả A Nan: -Nay ta đã già rồi, tuổi đã tám mươi. Ví như chiếc xe cũ kỹ không còn sức lực. Thân thể của ta cũng như vậy, không còn sức lực nữa. Ta há chẳng đã nói rằng: “Chẳng có gì trên mặt đất này mà chẳng chết. Có một cõi trời thật cao tên là Bất Tưởng, thọ đến tám mươi ức bốn ngàn vạn kiếp, cuối cùng cũng phải chết”. Do đó cho nên ta mới dạy kinh cho thiên hạ để đoạn trừ cội gốc của sanh tử. Sau khi ta đã Bát Nê hoàn, không được vứt bỏ kinh giới này, hãy thay nhau mà truyền thừa, hãy tự suy tư trong ngoài, đoan tâm chánh hạnh, hãy giữ giới pháp, khiến cho trong và ngoài vẫn như thường. Nếu bốn chúng đệ tử thọ trì bốn pháp thì tất cả đều là đệ tử Phật. Nếu ai học kinh đạo của Phật cũng đều là đệ tử của Phật vậy. Ðức Phật đã bỏ ngôi Chuyển Luân vương lo lắng cho mọi người trên trời dưới trời, Ngài cũng tự lo bệnh tật của chính mình, vứt bỏ trạng thái dâm, nộ và si.

Ðức Phật từ xóm Trúc Phương bảo tôn giả A Nan:

-Chúng ta hãy trở về nước Duy Da Lê.

Tôn giả A Nan vâng lời thọ giáo. Ðức Phật trở lại nước Duy Da Lê, ôm bát vào thành khất thực. Ngài ngồi dưới một gốc cây của Cấp Tật Thần ở khoảng đất trống suy tư về việc sanh tử. Còn tôn giả A Nan thì ngồi dưới một gốc cây khác tư duy. Ngài bị sự ngăn che của ấm nên đứng dậy đi đến chỗ đức Phật, đảnh lễ xong rồi đứng yên lặng bạch Phật rằng: “Sao Ngài chưa nhập Niết bàn?”.

Ðức Phật bảo tôn giả A Nan:

-Nước Duy Da Lê có sự an vui lớn, nước Việt Ða có sự an vui lớn, địa thần Cấp Tật có sự an vui lớn, cửa thành Sa Ðạt Tránh có sự an vui lớn, trong thành những khúc quanh ngã tư được an vui lớn, xã Danh Phù Phất được an vui lớn, thiên hạ dân chúng của Diêm Phù Lợi được an vui lớn, nước Việt Kỳ được an vui lớn, nước Giá Ba được an vui lớn, cửa Tát Thành được an vui lớn, nước Ma Kiệt được an vui lớn, Mãn Phất được an vui lớn, Uất Ðề được an vui lớn, Ê Liên có khe chảy, núi vàng được an vui lớn. Trong đất của Diêm Phù Lợi sanh ra năm màu như bức họa, ai sanh ở trong đó đều được an vui lớn.

Ðức Phật bảo tôn giả A Nan:

-Nếu có Tỳ kheo, Tỳ kheo ni trì bốn pháp tư duy cho chính chắn, chánh tâm, không tùy thuộc vào tâm, bên ngoài cũng nghĩ tốt, bên trong cũng nghĩ tốt, tâm không còn tham lạc nữa, tâm không kinh sợ, cũng không dong ruỗi nữa. Tỳ kheo, Tỳ kheo ni nếu đã giữ ý chí mình tu bốn pháp như vậy gọi là Tứ thần túc. Nếu muốn sống đến một kiếp cũng có thể được.

Bấy giờ ma nhập vào trong bụng của tôn giả A Nan. Ðức Phật lại bảo tôn giả A Nan: -Như vậy có thể được sao?

Tôn giả A Nan lại nói: -Vì sao Phật chưa nhập Niết bàn? Bây giờ đã đúng lúc Niết bàn rồi !

Ðức Phật lại nói: “Diêm Phù Lợi an lạc lớn, nếu ai có biết bốn thần túc này có thể sống trong trời đất này một kiếp, hoặc hơn thế nữa”. Ngài lại bảo tôn giả A Nan như vậy cho đến lần thứ ba mà tôn giả A Nan vẫn không trả lời về việc bốn thần túc. Ðức Phật bảo tôn giả A Nan: -Hãy nên ngồi dưới gốc cây mà tự suy tư.

Ðức Phật đứng dậy đi đến bên dòng suối Ê Liên ngồi dưới gốc cây. Ma đi đến chỗ Phật nói rằng:

-Tại sao Ngài không nhập Niết bàn?

Ðức Phật nói:

-Này Tệ Ma, ta chưa thể nhập Niết bàn được vì để chờ bốn chúng đệ tử của ta được trí tuệ đắc đạo, để cho chư thiên ở trên trời, nhân dân ở thế gian và các quỷ thần của ta được trí tuệ đắc đạo, để cho kinh pháp của ta được truyền bá khắp thiên hạ, cho nên ta chưa thể nhập Niết bàn được.

Ma biết Phật sẽ nhập Niết bàn nên vui mừng ra đi. Ðức Phật ngồi tự suy tư: “Ta nay có thể xả bỏ tuổi thọ”. Lúc Ngài muốn xả bỏ tuổi thọ, bấy giờ trời đất chấn động mạnh, các quỷ thần thảy đều run sợ. Lúc đó tôn giả A Nan đang ngồi dưới gốc cây kinh hãi đứng dậy đi đến chỗ Phật ngự. Ðến phía trước, đầu mặt lạy sát chân Phật rồi đứng qua một bên, bạch rằng:

-Con đang ngồi dưới gốc cây, bỗng nhiên trời đất chấn động mạnh, con kinh hãi đến nổi lông tóc trong người đều dựng đứng. Con không biết vì lý do gì mà quả đất chấn động như thế này?

Ðức Phật bảo tôn giả A Nan:

-Phàm quả đất rung động có tám nhân duyên. Những gì là tám? Vì đất trên nước, nước ở trên gió, gió duy trì nước, như từ mặt đất mà nhìn lên trời, hoặc có lúc gió làm rung động nước, nước làm rung động quả đất, quả đất nhân đó bị chấn động. Ðó là nguyên nhân thứ nhất làm chấn động.

Hoặc có A la hán tôn quý, tự mình muốn thí nghiệm, oai thần, ý muốn khiến cho quả đất chấn động, do đó lấy hai ngón tay ấn trên mặt đất làm cho đất trời bị chấn động mạnh. Ðó là nguyên nhân thứ hai làm cho quả đất chấn động.

Ơû trung gian có vị trời có đại oai thần, ý muốn quả đất rung động, quả đất liền bị chấn động mạnh. Ðó là nguyên nhân thứ ba làm cho quả đất chấn động.

Khi đức Phật còn làm Bồ tát từ cõi trời Ðâu Thuật hạ sanh vào trong bụng mẹ, khi đó đất trời bị chấn động mạnh. Khi Bồ tát từ bên hông hữu mẹ hạ sanh thì đất trời bị chấn động mạnh. Khi Bồ tát đắc đạo thành Phật , đất trời bị chấn động mạnh. Lúc Phật bắt đầu nói Bổn kinh thì đất trời bị chấn động mạnh.

Ðức Phật bảo tôn giả A Nan: -Từ nay cho đến sau ba tháng thì Phật sẽ Bát Nê hoàn, trời đất sẽ lại chấn động. Ðó là nguyên nhân thứ tám làm cho quả đất chấn động.

Tôn giả A Nan nghe đức Phật kỳ hẹn còn trong ba tháng nữa sẽ Niết bàn liền khóc lóc hỏi: -Ngài không xả bỏ tuổi thọ có được không?

Ðức Phật bảo tôn giả A Nan: -Ta đã xả bỏ tuổi thọ rồi.

Tôn giả A Nan bạch Phật rằng: - Con từng nghe từ kim khẩu của Phật nói rằng: “Nếu Tỳ kheo nào có bốn pháp này, gọi là bốn thần túc, nếu muốn kéo dài mạng sống trong một kiếp cũng có thể được”. Thần đức của đức Phật còn cao hơn bốn thần túc nữa, tại sao không kéo dài mạng sống hơn một kiếp?

Ðức Phật bảo tôn giả A Nan: -Nếu làm như vậy là sai lầm, vì ta đã ba lần bảo ngươi: “Trong cõi Diêm Phù Lợi có sự an lạc lớn”, nhưng ngươi vẫn im lặng không trả lời, ta thấy như trên đầu mọc sừng. Tại sao ngươi lại để cho Tệ Ma nhập vào trong bụng? Ta không thể dừng lại được, sau ba tháng ta sẽ nhập vào Niết bàn.

Tôn giả A Nan liền đứng dậy bảo các Tỳ kheo tăng rằng:

-Sau ba tháng đức Phật sẽ nhập Niết bàn.

Ðức Phật bảo tôn giả A Nan: -Hãy tụ tập tất cả các Tỳ kheo lại trong Ðại Hội đường.

Tôn giả A Nan thưa rằng: -Tất cả các Tỳ kheo tăng đã ở trong Ðại Hội đường rồi.

Ðức Phật liền đứng dậy đi vào Ðại Hội đường. Các Tỳ kheo đều đứng dậy, đảnh lễ đức Phật. Ðức Phật bảo các Tỳ kheo:

-Thiên hạ thì vô thường mà con người vẫn kiên cố yêu thích sanh tử, không mong cầu con đường giải thoát khỏi thế gian, đều do si mê cả. Cha mẹ rồi cũng phải xa lìa, tưởng nhớ đến mà buồn than khóc. Con người cùng nhau ân ái, tham luyến, bi ai với nhau. Thiên hạ nếu không có sanh thì cũng không có tử. Ta vốn nói kinh: -Hễ có sanh thì  phải có tử, tử rồi lại sanh, thay nhau buồn rầu khóc lóc chẳng lúc nào thôi. Núi Tu Di kia còn phải sụp đổ, chư thiên trên trời còn phải chết, làm vua cũng chết, nghèo, giàu, sang, hèn, cho đến loài súc sanh cũng vậy. Hễ không sanh thì sẽ không tử. Ðừng kinh ngạc cho rằng đức Phật sau ba tháng nữa sẽ nhập Niết bàn. Dù Phật không còn cũng phải thọ trì giới kinh, dù Phật còn tại thế cũng phải thọ trì giới kinh, mong cầu thoát khỏi cuộc đời thì sẽ không còn sanh tử nữa, cũng không còn ưu sầu khóc lóc nữa. Hãy khiến cho kinh Phật trường tồn mãi mãi. Sau khi Phật diệt độ, các hiền giả trong thiên hạ hãy cùng nhau thọ trì giới kinh. Người trong thiên hạ mà tự đoan chánh tâm mình thì chư thiên trên trời thảy đều hỗ trợ hoan hỷ, làm cho người đó được phước. Ðối với kinh của Phật phải đọc phải tụng, phải học, phải thọ trì, phải tư duy, phải nên làm cho tâm chơn chánh, ý trang nghiêm, hãy cùng truyền dạy cho nhau. Có bốn việc: đoan nghiêm thân, đoan nghiêm tâm, đoan nghiêm chí, đoan nghiêm miệng.  -Lại có bốn việc: lúc muốn sân hận thì nhẫn, ác niệm khởi lên thì trừ bỏ đi, có tham dục thì trừ bỏ, phải nên luôn luôn lo sợ về sự chết.

-Lại có bốn việc: tâm muốn tà vạy thì đừng nghe theo, tâm muốn dâm dục thì đừng nghe theo, tâm muốn làm điều ác thì đừng nghe theo, tâm muốn sự giàu sang, phú quý cũng đừng nghe theo.

-Lại có bốn việc: tâm phải nên lo sợ sự chết, tâm  muốn làm điều ác thì đừng nghe theo, phải kiềm thúc tâm, tâm phải tùy thuộc người, người đừng tùy tâm, tâm làm mê hoặc người, tâm giết thân, tâm làm La hán, tâm lên trời, tâm làm người, tâm làm súc sanh, trùng kiến chim thú, tâm vào địa ngục, tâm làm ngạ quỷ, tất cả hình mạo đều do tâm làm ra cả.

Thọ mạng tùy thuộc vào ba thứ, tâm là vị thầy cao cả, mạng tùy thuộc vào tâm, tuổi thọ tùy thuộc vào mạng, đó là ba thứ thọ mạng tùy thuộc. Nay ta làm Phật, được trời người kính trọng cũng đều do tâm mà ra. Hãy nên nghĩ đến sự thống khổ của sanh tử, hãy lìa bỏ gia đình. Nên nghĩ đến tám việc mà suy tư kinh Phật:

1.     Nên bỏ vợ con mà cầu thoát khỏi thế gian, không tranh cãi với thế gian, không có tâm tham.

2.     Không được nói hai lưỡi, ác khẩu, nói dối, thêu dệt, ngâm vịnh ca hát.

3.     Không được sát sanh, trộm cắp tài vật người khác và nhớ nghĩ đến sự dâm dục.

4.     Không được ôm lòng sân hận, ngu si và tham lam.

5.     Không được ganh ghét, khinh mạn người khác.

6.     Không được nhớ nghĩ sự làm ác, làm cho người khác thêm đau khổ.

7.     Không nên có thái độ buông lung, không được giải đãi nằm dài, ăn uống cao sang.

8.     Hãy nên lo rằng: Thân sẽ bị sanh, già, bệnh và chết.

Thọ trì tám việc này, tự đoan chánh tâm, không tranh cãi cùng thiên hạ, được siêu thoát khỏi thế gian. Này các Tỳ kheo ! Hãy nên suy tư tám việc này và bốn nguồn gốc thống khổ thì kinh Phật được trường cữu lâu dài.

Ðức Phật từ nước Duy Da Lê bảo tôn giả A Nan hãy đi đến xóm Câu Lân. Tôn giả A Nan thưa:

-Dạ vâng !

Ðức Phật từ nước Duy Da Lê ra đi, ngoái nhìn lại thành. Tôn giả A Nan liền đến trước hỏi đức Phật:

-Ðức  Phật  không  xoay người một  cách hư vọng nhìn lại thành à?

Ðức Phật bảo tôn giả A Nan: -Ta không xoay người một cách hư vọng. Phàm làm Phật không được nhìn trở lại một cách hư vọng.

Tôn giả A Nan thưa: -Vậy đức Phật nhìn lui như vậy là ý gì?

Ðức Phật nói: -Ngày hôm nay tuổi thọ của ta đã dứt, không còn vào thành này trở lại nữa, cho nên ta xoay người nhìn lại.

Ði theo Phật có một vị Tỳ kheo đến trước hỏi: -Ngay hôm nay Ngài không còn đi vào trong thành này nữa sao?

Ðức Phật nói: -Ta sắp nhập Niết bàn, không còn thấy lại nước Duy Da Lê nữa, sắp  đến khu vực Hoa Thị.

Ðức Phật đến xóm Câu Lân, trong đó có nước tên là Thi Xá Hoàn, đức Phật bảo các Tỳ kheo: -Hãy để tâm tinh khiết, ngồi xuống tự tư duy, biết trong cuộc sống người có trí tuệ khiến cho tâm đoan chánh, do tâm đoan chánh mà ba trạng thái dâm, nộ, si được trừ sạch. Tỳ kheo ấy tự nói rằng đã đoạn trừ cội gốc sanh tử, đắc A la hán, nhất tâm không còn gì để lo sợ, lại không còn lo sợ sanh tử nữa. Tuy tiếp xúc với khổ nhưng vẫn được con đường không sanh tử nữa.

Ðức Phật từ xóm Câu Lân bảo tôn giả A Nan đi đến xóm Kiền Lê. Tôn giả A Nan thưa: -Dạ vâng.

Ðức Phật cùng Tỳ kheo tăng đi đến xóm Kiền Lê, từ xóm Kiền Lê đức Phật bảo tôn giả A Nan đồng đi đến Kim Tụ cùng đông đủ Tỳ kheo tăng. Ðức Phật bảo các Tỳ kheo:

-Nếu có Tỳ kheo tâm thanh tịnh, tâm tư duy, tâm có trí tuệ, tâm tự suy tư, người có trí thì biết kinh, đó là gốc của tâm trí tuệ; tâm dâm, tâm hận, tâm si đều được trừ diệt. Ba tâm đã thanh tịnh, nếu muốn thoát khỏi cuộc đời không phải là chuyện khó, đắc được A la hán, các thứ dâm, nộ, si đều được tiêu trừ. Nên tự nói: “Ðã trừ diệt ba thứ này thì không còn tạo pháp sanh tử nữa”.

Ðức Phật từ Kim Tụ bảo tôn giả A Nan lại đến xóm Thọ Thủ. Tôn giả A Nan thưa: -Dạ vâng.

Liền cùng đông đủ các Tỳ kheo đi đến xóm Thọ Thủ. Ðức Phật bảo các Tỳ kheo:

-Hãy để tâm thanh tịnh, tâm tư duy, tâm trí tuệ. Nếu ai tâm ý thanh tịnh thì tâm liền ngay thẳng, tâm trí tuệ liền sanh, trí tâm liền hiểu rõ, khai mở, không nghĩ dâm, không nghĩ đến hận, không còn si mê nữa, tâm đã được khai mở.

Các Tỳ kheo tự nói rằng: “Những điều mong ước của ta đã đạt được, nhơn đó thấy được đạo A la hán”.

Ðức Phật từ xóm Thọ Thủ bảo tôn giả A Nan đi đến xóm Yêm Mãn, tôn giả A Nan thưa: -Dạ vâng.

Tôn giả liền cùng đông đủ các Tỳ kheo đi đến xóm Yêm Mãn. Ðức Phật bảo các Tỳ kheo tăng: -Phương pháp của tịnh tâm, tư tâm, trí tâm đưa đến không còn trạng thái dâm, nộ, được con đường tịnh tâm. Nếu có tư tâm, trí tâm liền sanh ra con đường để tâm suy tư. Nếu có tịnh tâm trí tâm liền khai mở được con đường của trí tâm. Có tịnh tâm, tư tâm liền được sáng suốt. Người đời dùng giạ bện lông để nhuộm màu, nếu vải giạ mà sạch sẽ thì nhuộm màu rất đẹp, đó là do giạ sạch vậy. Tỳ kheo có ba tâm: Tịnh tâm, tư tâm, trí tâm. Tịnh tâm là Thi đại (Giới), tư tâm là Tam ma đề (Ðịnh), trí tâm là Băng mạn nhã (Tuệ). Thi đại tâm là không dâm, không nộ, không tham. Tam ma đề là thu nhiếp tâm khiến cho không dong ruỗi. Băng mạn nhã là tam không có ái dục.

Người giữ kinh giới của Phật ví như người có tấm vải giạ nhưng tấm vải ấy lại bị dơ bẩn, họ muốn nhuộm tấm vải giạ ấy, trong khi nhuộm màu sắc không được sáng. Tỳ kheo mà bất định đối với tịnh tâm, tư tâm và trí tâm, nếu muốn đắc đạo thì thật là khó. Lúc ngồi mà tâm không hiểu, tâm Tỳ kheo sẽ tự hiểu. Lúc ngồi tư duy liền thấy thiên thượng, biết rõ ý niệm của tâm người, cũng thấy họ sẽ sanh vào các đường địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, thiện và ác. Giống như dưới nước trong có cát, đá, xanh, vàng, trắng, đen ... tất cả đều hiện rõ do nhờ nước trong vậy. Cầu con đường giải thoát thế gian, phải để tâm thanh tịnh như vậy. Thí như khe nước đục ngầu thì cát, đá ở dưới không thể thấy được, cũng không thể biết được nước cạn hay sâu. Tâm Tỳ kheo mà không thanh tịnh, không thể thoát khỏi thế gian, do ngồi mà tâm ô trược vậy.

Ðức Phật từ xóm Yêm Mãn bảo tôn giả A Nan cùng đi đến Hỷ Dự. Tôn giả A Nan thưa: -Dạ vâng.

Rồi cùng đông đủ các Tỳ kheo đi đến xóm Hỷ Dự. Ðức Phật bảo các Tỳ kheo: -Nếu có tịnh tâm, tư tâm và trí tâm, đối với những điều thầy dạy, đệ tử phải nên học. Những điều suy nghĩ của thầy không thể đi vào trong tâm của đệ tử làm cho tâm của đệ tử đoan chánh được. Tỳ kheo hãy tự tịnh lấy mình, tâm đoan chánh mới là tâm. Tâm đoan chánh thì được thoát khỏi thế gian. Hãy tự nói: “Ta đã được thoát khỏi thế gian, đoạn trừ cội gốc của sanh tử”. 

Ðức Phật bảo tôn giả A Nan: -Hãy đi đến xóm Hoa Thị.

Tôn giả A Nan thưa : “Dạ vâng”. Liền cùng đông đủ các Tỳ kheo đi đến xóm Hoa Thị. Ðức Phật bảo các Tỳ kheo:

Tâm có ba cấu uế, đó là dâm cấu, nộ cấu và si cấu. Giữ tâm thanh tịnh thì trừ được dâm cấu, giữ tâm tư duy thì trừ được nộ cấu, giữ tâm trí tuệ thì trừ được si cấu. Các Tỳ kheo tự tuyên bố: “Ðã thoát khỏi thế gian, đoạn trừ được cội gốc của buồn lo, khóc lóc, sanh tử”.

Ðức Phật lại từ xóm Hoa Thị bảo tôn giả A Nan cùng đi đến thành Phu Diên. Tôn giả A Nan thưa: “Dạ vâng”, rồi cùng đông đủ các Tỳ kheo đi đến phía Bắc thành Phu Diên, ngồi dưới gốc cây. Tôn giả A Nan ngồi một bên dưới gốc cây, tinh tấn tư duy quán tưởng bên trong, thì quả đất rung động mạnh. Tôn giả A Nan đứng dậy đi đến chỗ đức Phật thưa rằng: -Quả đất tại sao chấn động mạnh?

Ðức Phật đáp: -Ðộng đất có bốn nguyên nhân:

1.     Ðất ở trên nước, nước ở trên gió, gió động làm nước chuyển động, nước chuyển động làm cho đất chấn động. Nhân đó quả đất rung động. Ðó là nguyên nhân thứ nhất làm quả đất rung động.

2.     Nếu có A la hán muốn tự thử đạo lực của mình, dùng hai ngón tay ấn xuống mặt đất, quả đất rung động. Ðó là nguyên nhân thứ hai làm quả đất rung động.

3.     Ơû trung gian có một vị trời có đại oai thần, ý vị ấy muốn làm quả đất rung động, quả đất liền rung động. Ðó là nguyên nhân thứ ba làm quả đất rung động.

4.     Ðức Phật không bao lâu nữa sẽ nhập Niết bàn, quả đất lại chấn động mạnh. Ðó là bốn nguyên nhân làm quả đất rung động.

Tôn giả A Nan thưa rằng: -Do oai thần của Phật, đức Phật nhập Niết bàn cho nên quả đất mới chấn động mạnh như vậy?

Ðức Phật bảo tôn giả A Nan: -Oai thần của Phật vòi vọi, rất tôn quý, hào quang hóa độ vô lượng. Vậy ngươi có muốn biết oai thần của Phật chăng?

Tôn giả A Nan thưa: -Con mong muốn được nghe biết điều ấy.

Ðức Phật nói: -Ta đi khắp thiên hạ, đi đến nhân dân trong nước, trong quận. Người hiểu biết đi đến chỗ đức Phật, thân Phật tự hóa ra y phục, thành ấp, quốc gia, nói rằng: “Ta xem thấy nhân dân ở nước ấy thực hành những pháp gì? Biết những kinh giới gì? Phật liền thuyết kinh giới để làm lợi ích cho họ. Nhưng những nhân dân ấy họ đều chẳng biết ta là ai, và cũng chẳng biết ta từ trên trời hay dưới đất đến. Nhân dân đều hết sức cung kính ta. Ta biến hóa đến chỗ các quốc vương, quốc vương hỏi ta rằng: “Khanh là ai?”. Ta đáp: “Tôi là đạo nhân ở trong nước này. Quốc vương lại hỏi ta: “Ngài nói kinh gì?”. Ta nói: “Ngài muốn hỏi kinh gì, xin cứ hỏi, tôi đều trả lời tất cả”.

Quốc vương rất hoan hỷ. Ta vì nhà vua rộng nói xong, ta liền biến mất, không thấy Quốc vương nữa. Sau đó họ đều chẳng biết ta là ai.

Ta đến các nước Thệ Tâm, ta cũng biến hóa ra y phục Thệ Tâm, nói năng như họ. Họ hỏi ta: “Ngài nói những giới kinh gì?”. Ta biết tâm của họ, biết tiếng nói của họ, ta đem kinh và giới ra giáo hóa họ rồi biến mất. Những người ấy sau đó suy nghĩ về lời nói và hình tướng của ta, họ hỏi: “Ðó là người gì? Là trời, là quỷ hay là thần?”. Họ đều chẳng biết ta là ai. Ta cũng không nói với họ ta là Phật. Ta đã du hành khắp thiên hạ, truyền trao kinh đạo cùng khắp rồi ta bay lên cõi trời thứ nhất, chỗ ở của Tứ Thiên Vương, ta cũng mặc y phục trời và nói tiếng trời. Ta hỏi trời: “Ngài thọ trì kinh gì?”. Trời thưa: “Tôi chẳng biết kinh”. Ta liền thuyết kinh cho họ nghe xong rồi biến mất, trời cũng chẳng biết ta là ai.

Ta lại lên trên cõi trời thứ hai là Ðao Lợi Thiên, hóa ra y phục và tiếng nói của cõi trời Ðao Lợi. Ta hỏi trời Ðao Lợi: “Ngài đã nói những kinh gì?”. Trời Ðao Lợi thưa: “Tôi không biết kinh. Ta liền thuyết kinh cho họ nghe xong rồi biến mất. Trời cũng chẳng biết ta là ai.

Ta lại lên cõi trời Diêm thứ ba, hóa ra y phục và tiếng nói của cõi trời Diêm. Ta hỏi trời Diêm: “Ngài thọ trì kinh gì?”. Trời thưa: “Tôi không biết kinh”. Ta thuyết kinh cho họ nghe.

Ta lại lên cõi trời Ðâu Thuật thứ tư, hóa ra y phục và tiếng nói của trời ấy. Ta hỏi: “Ngài thọ trì những kinh gì?”. Vị trời ấy thưa: “Ngài Di Lặc nói kinh cho tôi nghe, tôi cũng lại nói kinh cho Ngài Di Lặc nghe”. Ta lên cõi trời Bất Kiêu Lạc thứ năm, cũng mặc y phục và nói tiếng của cõi trời ấy. Ta hỏi trời ấy: “Ngài có biết kinh không?”. Vị trời ấy thưa: “Tôi không biết kinh”. Ta nói kinh cho vị ấy nghe rồi liền biến mất, nhưng trời ấy chẳng biết ta là ai.

Ta lại lên cõi trời Ứng Hóa Thanh thứ sáu, cũng mặc y phục và nói tiếng của cõi trời ấy. Ta hỏi trời: “Ngài thọ trì những kinh gì?”. Trời thưa: “Tôi không biết kinh”. Ta nói kinh cho họ nghe rồi lại biến mất. Sau đó những vị ở trời thứ sáu đều chẳng biết ta là ai và ta cũng không nói với họ ta là Phật.

Ta lại lên Phạm thiên, Phạm chúng thiên, Phạm phụ thiên, Ðại phạm thiên, Thủy hành thiên, Thủy vi thiên, Vô lượng thủy thiên, Thủy âm thiên, Ước tịnh thiên, Biến tịnh thiên, Tịnh minh thiên, Thủ diệu thiên, Cận tế thiên, Khoái kiến thiên, Vô kết ái thiên. Các vị trời ấy đều đến gặp ta. Ta hỏi: “Các vị có ai biết kinh không?”. Trong số đó có người biết kinh, người không biết kinh. Ta đều thuyết con đường sanh tử cho họ nghe, thuyết con đường đoạn trừ cội gốc sanh tử. Ai thích nghe kinh, ta đều nói cho họ nghe. Ta cũng mặc y phục và nói tiếng giống như các cõi trời ấy. Ngoài ra bốn cõi trời thì không thể nói được, ta muốn lên các cõi trời ấy nhưng họ không thể trả lời những điều ta hỏi. Ðó là cõi Không huệ thiên thứ hai mươi lăm, cõi trời Thức huệ nhập thứ hai mươi sáu, cõi trời Vô sở niệm huệ nhập thứ hai mươi bảy, cõi trời Bất tưởng nhập thứ hai mươi tám.

Ðức Phật dạy: -Chẳng có nơi đâu mà ta chẳng chứng kiến, và chỉ có Niết bàn là hết sức vui.

Ðức Phật bảo tôn giả A Nan: -Oai thần của Phật không chỉ làm cho quả đất rung động, mà còn làm cho hai mươi tám từng trời kia cũng rúng động mạnh.

Ðức Phật nhờ chánh tâm mà được như vậy. Ðức Phật bảo tôn giả A Nan:

-Sau khi ta nhập Niết bàn rồi, A Nan đã được thọ trì từ miệng đức Phật, nghe kinh giới pháp của thầy, A Nan nên nói rằng: “Tôi nghe pháp này từ miệng đức Phật, sẽ nói lại cho Tỳ kheo tăng đời sau”. Này A Nan, không được cất dấu kinh Phật, phải hết sức phơi bày ra, trong kinh không có gì mà nghi ngờ. Sau khi ta nhập Niết bàn xong, các Tỳ kheo hãy nên cùng nhau hộ trì chánh pháp. Nếu có Tỳ kheo khác, dối muốn làm Pháp sư, cho rằng trong kinh không có cấm giới, hủy hoại Phật pháp. Nếu có Tỳ kheo khác dối thêm bớt kinh giới của Phật, A Nan nên nói như vầy: “Tôi không có nghe đức Phật nói kinh pháp này, tại sao lại dối thêm bớt kinh pháp của Phật? Nếu có Tỳ kheo không hiểu kinh của đức Phật thì nên hỏi tôn lão Tỳ kheo A Nan. Vì vị ấy đã thấy kinh Phật, đã nghe chính từ miệng đức Phật nói ra và nói cho các Tỳ kheo tăng nghe, chớ có thêm bớt. Nếu ai muốn thêm bớt kinh giới thì A Nan hãy nên nói cho đúng, cái nào là phi pháp thì hãy bỏ đi chớ dùng. Này A Nan, nếu có người nói: “Ðức Phật không nói lời này”, hãy nói với kẻ ấy: “Tại sao ngươi muốn phá hoại giới kinh của Phật?”. Trong đó có Tỳ kheo ngu si không hiểu giới kinh thì nên hỏi các Tỳ kheo tôn lão, Tỳ kheo không được tức giận. Nếu có Tỳ kheo không hiểu kinh này, trong số đó có Tỳ kheo biết kinh giới, biết những điều Phật dạy thì nên hãy tới đó mà học hỏi. Nếu có Tỳ kheo nghi ngờ đối với kinh giới đến hỏi, Tỳ kheo tăng nên hỏi rằng: “Ngươi theo thầy nào mà nghe như vậy?”. Vị ấy tự nói tên của thầy mình. Tỳ kheo nói giới kinh không được nghi rằng: “Ðó không phải do Phật giới sắc”. Tỳ kheo tăng đều có mặt trong lúc kiết tập kinh. Những kinh nào ở trong cuộc kiết tập thì dùng, còn những kinh kiết tập bên ngoài thì bỏ đi đừng dùng. Ai không hiểu kinh giới thì nên hỏi nơi nào có Trưởng lão Tỳ kheo thông suốt về kinh giới, đến đó để hỏi nghĩa kinh. Khi hỏi (kinh) không được nói đúng, sai.  Nếu ai có nghi ngờ, này A Nan hãy giải thích rằng: “Chính tôi nghe đức Phật dạy”. Kinh không thuộc trong cuộc kiết tập, các Trưởng lão Tỳ kheo đã không nói thì bỏ đi chớ dùng. Các Tỳ kheo nên nói cho đúng giới kinh. Các Tỳ kheo sau khi đã nói giới kinh nên cùng nhau thọ trì, nếu có Tỳ kheo nghi nói rằng: “Ðó chẳng phải là kinh Phật chơn thật nên người ấy không thích kinh”, các Tỳ kheo nên trục xuất kẻ ấy ra ngoài. Ơû đất trời, trong lúa sanh ra cỏ, cỏ là thứ hư hoại, lúa là chơn thật, người ta phải nhổ sạch cỏ đi lúc mới thành thục chắc hạt. Ác Tỳ kheo không thích kinh, không trì giới, làm bại hoại Tỳ kheo tốt, chư Tỳ kheo nên họp lại mà tẩn xuất kẻ ấy ra. Trong đó có Tỳ kheo hiền thiện, giỏi kinh giới, nên đi đến chỗ Tỳ kheo ấy.

Ðức Phật nói: -Các Tỳ kheo đã thọ trì, đã biết, đã học khi truyền trao giới kinh cho Tỳ kheo nên nói rằng: “Lúc đức Phật còn tại thế đối với chỗ kia, tụ lạc kia, huyện kia, nước kia, bấy giờ có Tỳ kheo kia cùng đi theo, Ngài nói kinh giới này, trì kinh giới này không được chê trách rằng: Không phải do Phật nói”. Những điều được nói ra nên dạy dỗ lẫn nhau, cùng nhau thừa dựng; kẻ lớn người nhỏ hãy cùng nhau kiềm chế, không để Phật Bát Nê hoàn rồi mà không cùng nhau thừa dụng trao truyền. Nếu cùng nhau thừa dựng thì chư thiên và nhân dân hỗ trợ, hoan hỷ, tất cả đều được phước, có thể làm cho kinh Phật được lâu dài. Sau khi ta nhập Niết bàn rồi, A Nan nên nói: “Ở Chỗ kia có Tỳ kheo hiểu kinh trì giới, tân Tỳ kheo kia hãy nên đến chỗ vị Tỳ kheo Trưởng lão hiểu kinh kia để theo vị ấy thọ học kinh giới”. Các tân Tỳ kheo mới đến nghe kinh giới, không được nói rằng: “Ðây không phải là vị trì kinh giới của Phật”. Hãy cùng nhau thừa dụng. Nếu Tỳ kheo hòa hợp trì giới thì bên ngoài có thanh tín sĩ và thanh tín nữ nghe Tỳ kheo tăng hòa hợp trì giới của Phật đều vui sướng cúng dường đồ ăn, y phục và thuốc men trị bệnh cho Tỳ kheo tăng. Như vậy là kinh của Phật có thể được lâu dài. Tỳ kheo tăng nên hòa hợp cùng nhau thừa sự, trên dưới cùng nhau kiềm chế. Từ thiên thượng cho đến loài người, địa ngục, cầm thú, ngạ quỷ, các nẻo do vì bất hòa cho nên rơi vào ba đường (ác). Các Tỳ kheo trì kinh giới nên hòa hợp, không được cùng nhau tranh chấp, cười nói rằng: “Ta nhiều trí, ngươi ít trí”. Dù trí nhiều, trí ít, tất cả đều phải tu hành. Nếu Tỳ kheo hòa hợp trì kinh của Phật, khiến cho chánh pháp được lâu dài, làm cho người trong thiên hạ được phước, chư thiên trong thiên hạ đều hoan hỷ. Không nên đối với kinh điển mà vứt bỏ lời Phật dạy. Ðối với lời Phật dạy, Tỳ kheo đã thọ trì thì nên phụng hành.

Ðức Phật bảo tôn giả A Nan lại trở về nước Ba Tuần. Tôn giả A Nan thưa: -Dạ vâng.

Ðức Phật cùng Tỳ kheo tăng từ nước Phù Diên đi đến nước Ba Tuần, dừng chân trong vườn Thiền Ðầu. Nhân dân của nước Ba Tuần gọi là Chư Hoa. Nhân dân của Chư Hoa nghe đức Phật đi đến dừng chân trong vườn Thiền Ðầu, họ đều đến phía trước đảnh lễ đức Phật rồi tất cả đều ngồi xuống. Ðức Phật thuyết kinh cho họ nghe. Bấy giờ có một người tên là Thuần. Cha của Thuần tên là Hoa Thị. Con của Hoa Thị bấy giờ đang ngồi trong khi mọi người đã đi hết. Một mình Thuần ở lại giây lát, đứng dậy, nhiễu quanh đức Phật ba lần, chấp tay bạch rằng: “Sáng mai mong Ngài cùng các Tỳ kheo tăng đến nhà con để thọ trai”. Ðức Phật yên lặng không trả lời. Thuần liền đến trước đức Phật đảnh lễ, nhiễu quanh Phật ba vòng rồi trở về nhà, trải tòa thắp đèn để mời Phật và chư Tỳ kheo.

Sáng mai Thuần đi đến bạch với đức Phật là đã chuẩn bị xong rồi. Ðức Phật đứng dậy ôm bát cùng với đông đủ các Tỳ kheo đi đến nhà Thuần để thọ trai. Trong số Tỳ kheo có một Tỳ kheo hung ác, lấy nước đồ ăn trong bình bát đổ đi, đức Phật liền biết và Thuần cũng thấy như vậy. Ðức Phật ăn xong, Thuần lấy một cái ghế nhỏ ngồi trước đức Phật và bạch Phật rằng:

-Con muốn hỏi một việc là trên trời dưới trời không ai trí tuệ hơn Phật, vậy trong thiên hạ có mấy hạng Tỳ kheo?

Ðức Phật trả lời: -Có bốn hạng Tỳ kheo: 1- Hành đạo thù thắng. 2- Hiểu đạo có thể giảng nói được. 3- Nương đạo để sống.
4- Làm ô uế đạo.

Sao gọi là Tỳ kheo hành đạo thù thắng?

Ðó là đạo nghĩa vị ấy nói ra không thể nào kể hết. Vị ấy thực hành đạo lớn, tối thắng không sao so sánh được, đã hàng phục được tâm lo sợ, vị ấy điều ngự pháp, dẫn dắt thế gian. Ðó là hạng Sa môn hành đạo thù thắng.

Sao gọi là hạng Sa môn hiểu đạo, có thể giảng nói được?

Ðó là vị ấy nói được điều cao quý thứ nhất của đức Phật, lại còn phụng hành không có nghi nạn, cũng có thể diễn nói pháp cú cho người khác nghe. Hạng Sa môn như vậy gọi là hiểu đạo có thể giảng nói được.

Sao gọi là hạng nương đạo để sinh sống?

Ðó là hạng nhớ đến việc tự thủ hộ, siêng năng học tập một mạch không lùi, chăm chăm không mỏi, bị nhân, pháp tự che lấp đó là hạng Sa môn nương đạo để sinh sống.

Sao gọi là hạng làm ô uế đạo?

Ðó là hạng chỉ làm những điều ưa thích, ỷ lại chủng tánh của mình, chuyên tạo hành vi ô trược làm cho người khác luận nghị, chẳng nhớ lời Phật dạy, cũng không sợ tội. Hạng Sa môn như vậy là làm ô uế đạo. Kẻ phàm nhân nghe hạng người này cho là hạng đệ tử có trí huệ thanh bạch.

Vậy Sa môn có người thiện, có người ác, không phải là giống nhau vậy. Người bất thiện bị người thiện chê bai. Thí như trong lúa có cỏ. Cỏ là xấu, lúa là tốt. Những nhà trong thiên hạ có con ác, một đứa con ảnh hưởng cả gia đình. Một tỳ kheo ác làm bại hoại các Tỳ kheo khác, cho các Tỳ kheo đều là ác.

Ðức Phật dạy: -Con người không nên cho nhan sắc, y phục là đẹp. Yù đoan nghiêm thanh tịnh mới là đẹp. Con người không nên để hình tướng lừa dối.

Ðức Phật dạy Thuần: -Nếu ai cúng cơm cho Phật và Tỳ kheo tăng, lúc chết được sanh lên trời. Người biết kinh thì trừ bỏ tâm dâm, tâm nóng giận và tâm si mê. Không nên vì một người mà chê trách tất cả mọi người. 

KINH PHẬT BÁT NÊ HOÀN

(hết quyển thượng)

[Xem tiếp quyển hạ]

--- o0o ---

Vi tính: Nguyên Tịnh

Trình bày: Nhị Tường

Cập nhật: 4-2003

Nguồn: www.quangduc.com

Về danh mục

báºn vài cách dùng bí đao giải khát chữa chuyện ăn chay trường của nội than tang tuoi tre con Hấp thu nhiều cồn gây suy giảm chức Liên thú lạm gieo trong hat giong bo thi cui M em là ai Đại m¹ Cỏ đậu uống Khói ky chánh an chay Chất tạo ngọt có làm tăng Kho phat giao viet nam nhật trống Làng 正信的佛教 hành Giáo bメケi Trì minh that la kho con sao moi nguoi suong the Phật Lặng Tái sinh hay day do dung cach de con minh co trai tim thien phan 2 phÃƒÆ p Thể nuoc tu bi huẠXíu mại khoai NhÃƒÆ mối đôi cung ram thang 7 the nao cho dung voi tu tuong cua vai dieu suy ngam ngay dung che ai het o nhá toi xin dua em benh am co that khong vuon háºu Thể dục sau bữa ăn giúp giảm bệnh ç cua lòng từ bi và vấn đề công lý sắc トo chÃnh tà m và tà nh giua vuon xuan thap hoa dao