Riêng mình từ trước, đã mến
tịnh tông. Đang lo muôn kiếp nghiệp phù binh, bỗng găp môn lành thuyền tế
độ. Nỗi thương nỗi cảm, trông vời khổ hải luống than thầm. Thoạt tủi thoạt
mừng, mới biết dư sanh còn chỗ tựa! Do đó tham tầm kinh tạng, khảo hội sớ
văn, lấy yếu bỏ phiền, ghi lời chú giải. Thuật mà chẳng tác, dám đâu trái
với cổ ngôn. Trọng ý quên lời, xin thể theo gương chỉ nguyệt, tấc lòng
trân kính dâng bạn đồng tu.
Liên Du
Phật Thuyết Quán Vô Lượng
Thọ Kinh Sớ
Trước khi giải kinh này, xin dùng năm nghĩa: Danh, Thể,
Tông, Dụng, Giáo để phân định:
1- Thích Danh: Danh đề Phật Thuyết Quán Vô Lượng Thọ Kinh
Sớ, nếu nói theo tiếng Việt chính là: Lời Giải Kinh Phật Nói Quán Vô Lượng
Thọ.
Về Lời Giải, phần sớ văn trong đây y theo nguyên tác của ba
Ngài: Thiên Thai, Thiện Đạo, Nguyên Chiếu, bớt chổ phiền, lựa điểm yếu mà
trích lục ra.
Kinh có nghĩa: Thường Pháp hay Khế Pháp. Thường Pháp là
pháp chư Phật, thánh nhơn trong ba đời thường nói. Khế pháp là pháp ấy hợp
với chân lý, thời tiết, nhân duyên, và căn tánh của chúng sanh.
Phật, nói cho đủ là Phật Đà, có nghĩa; giác ngộ. Sự giác
ngộ này lại gồm 3 nghĩa: tự giác ngộ, giác ngộ cho người, và hạnh giác ngộ
đã đầy đủ. Danh từ Phật trong đây chỉ cho đức Thích Ca Mâu Ni Thế Tôn.
Kinh điển của thánh giáo, đại khái do năm bậc là: Phật, các Thánh đệ tử,
Thiên Tiên, Quỷ Thần, và Hóa Nhơn nói ra. Trong đây gọi Phật nói là để
giản biệt với bốn bậc kia, và chính đức Phật đã vì bà Vi Đề Hy cùng quyến
thuộc, nói ra kinh này ở cung vua Tần Bà Sa La.
Quán nghĩa là soi. Người tuy theo lời Phật dạy, dùng trí
huệ thanh tịnh cùng sức tín nguyện của mình soi rõ chính báo, y báo cõi
Cực Lạc, gọi lá (Quán). Tịnh độ giáo có bốn pháp tu là: Quán Tướng, Quán
tượng, Trì Danh và Thật Tướng. Kinh này phần chánh yếu dạy về Quán tưởng
môn. Sự Quán tưởng trong đây có hai phần: Chánh báo và Y báo. Phần Chánh
báo có hai: Chủ trang nghiêm và Thánh chúng trang nghiêm. Chủ trang nghiêm
là đức Phật A Mi Đà. Thánh chúng trang nghiêm là hai vị Bồ Tát đó là Quán
Thế Âm, Đại Thế Chí, chư thượng thiện hiện đang ở Cực Lạc, cùng hải chúng
khắp mười phương sanh về. Phần y báo có ba: Địa hạ trang nghiêm, Địa
thượng trang nghiêm, và Hư Không trang nghiêm. Địa hạ trang nghiêm là là
sự trang nghiêm ở dưới bảo địa cõi Cực Lạc, như tất cả tràng báu cùng ánh
sáng chói suốt lẫn nhau. Địa thượng trang nghiêm là sự trang nghiêm nơi
mặt đất, như bảo địa, bảo trì, bảo lâu, bảo thọ cùng các thứ câu lơn, đài
báu... Hư Không trang nghiêm là sự trang nghiêm ở hư không, như hóa cầm,
lâu các, lưới báu, linh ngọc, âm nhạc, gió, ánh sáng... Ba thứ trang
nghiêm trên đây đều là thắng tướng nhiệm mầu nơi cõi Cực Lạc.
Vô Lượng Thọ là dịch âm của danh từ Phạn ngữ A Mi Đà
(AMiTa) chỉ cho ý nghĩa: sự sống không lường. Câu Nam Mô A Mi Đà Phật, nếu
phiên âm từng chữ theo Hán việt thì là: Quy mạng Vô Lượng Thọ Giác, tức
chỉ cho ý nghĩa: (xin nương về đấng giác ngộ có sự sống không lường).
Trong đây nói Quán Vô Lượng Thọ là mật ý muốn cử chánh báo để gồm y quả,
thuật hóa chủ để kiêm đồ chúng: cho nên tuy nội dung có mười sáu pháp quán
mà chỉ nói Phật là đã đầy đủ. Vì thế nên gọi: Phật nói Quán Vô Lượng Thọ.
2- Biện Thể: Thể là chủ chất. Thích Luận nói: (Trừ thật
tướng của các pháp, ngoài ra tất cả đều là ma sự). Các kinh Đại thừa đều
lấy thật tướng làm tâm ấn, dùng vô lượng công đức để trang nghiêm, vô
lượng hạnh nguyện làm chỗ qui thú. Vậy kinh này lấy thật tướng làm thể.
3- Minh Tông: Tông có nghĩa là cội gốc, là nguồn mối: như
ngôi nhà có kèo cột, chiếc áo có cái bâu. Do tông chỉ không đồng, nên giáo
pháp có lớn nhỏ. Như các kinh tiểu thừa, tông chỉ phần nhiều đi về chổ
siêu thoát, ba cõi, tu chứng nhơn không. Các kinh đại thừa, như kinh Duy
Ma thì lấy Bất tư nghì giải thoát làm tông; Kinh Đại Bát Nhã làm không huệ
làm tông. Kinh này lấy Quán Phật tam muội hay niệm Phật tam muội làm tông.
4- Thuyết Dụng: Dụng tức là lực dụng hay công đức của kinh.
Các kinh hay khiến cho chúng sanh được sự trừ ác sanh thiện, nên gọi là
lực dụng, là công đức. Nếu phân tích ra, thì công năng trừ ác gọi là
(lực). Sanh thiện gọi là (Dụng); trừ ác gọi là (công), sanh thiện gọi là
(đức). Kinh này hay khiến cho chúng hữu tình (Trừ được tội ngũ nghịch,
vãng sanh về tịnh độ), nên nay lấy tiêu điểm ấy làm lực dụng của kinh.
5- Nhiếp Giáo: Kinh này thuộc về giáo pháp Đại thừa tên là
Đại phương đẳng hay Đại phương quảng. Sao gọi là Đại phương quảng? Thám
Huyền nghĩa ký bảo: (nói ra pháp rất rộng lớn sâu xa, nên gọi là phương
quảng) (Tuyên thuyết quảng đại thậm thâm pháp cố, danh vi phương quảng).
Về Tịnh độ giáo, vì muốn thích hợp với các căn cơ, nên đức Thế Tôn nói ra
ba bổn kinh rộng lược không đồng. Hai bổn kia là kinh Phật Thuyết A Mi Đà
và kinh Vô Lượng Thọ. Riêng về bổn này, vào thời Nam Bắc triều, đời Tống
Văn Đế, niên hiệu Nguyên Gia, ngài Cương Lương Gia Xá, đến Dương Châu dịch
từ Phạn ngữ ra Hán văn. Và kinh này trong tám giáo nhiếp về đốn giáo,
trong hai tạng thuộc về Bồ Tát tạng.
I- Phần Tự
Như thế tôi nghe, một thời Phật ở tại non Kỳ Xà Quật thuộc
thành Vương Xá. Cùng với một ngàn hai trăm năm mươi bậc Đại tỳ khưu. Nơi
chúng hội đây, lại có ba vạn hai ngàn vị Bồ tát, trong ấy Ngài Văn Thù Sư
Lợi pháp vương là bậc thượng thủ.
Đây là đoạn duyên khởi, trước tiên nêu ra 6 điểm để thành
tựu cho toàn kinh. Sáu điểm ấy cũng gọi là Lục chủng thành tựu:
1- "Như thế" bao hàm ý nghĩa chứng tín. Thật tướng của các
pháp xưa nay không dời đổi gọi là "Như", đúng với lý chơn thật mà nói ra
gọi là "Thế". Lại Như Thế có nghĩa: Những lời sau đây hợp với lý như thật,
và chính thuật giả là ngài A Nan đã thân nghe Phật nói đúng như vậy. Những
lời ấy quyết định đáng tin. Đây gọi là điểm Tín thành tựu.
2- "Tôi nghe" là Ngài A Nan tự trần thuật chính mình đã
nghe những lời sau đây từ nơi kim khẩu của Phật nói ra. Ngài là bậc đa văn
đệ nhất, thọ trì lời của Phật nói như nước rót vào bình không sai một
giọt, lại là thị gỉa thường hầu cận đức Thế Tôn. Ngài có bổn phận thừa
truyền giáo pháp của Như Lai. Nghe thế nào thì thuật lại thế ấy, chớ không
phải tự mình ức thuyết. Theo chân lý, tất cả pháp đều không, cái ta cũng
là hư huyễn; nhưng trong đây nói "Tôi", vì không có "Tôi" thì không ai
"nghe",và nếu không người nghe ai sẽ truyền giáo pháp của Phật ? Cho nên
hai chữ "Tôi Nghe" chẳng qua là lời tùy thuận theo thế tục để truyền dương
Phật Pháp vậy thôi. Điểm thứ hai này gọi là Văn thành tựu.
3- "Một thời", chỉ cho thời gian phát khởi ra sự giáo hóa.
Đức Như Lai nói kinh gồm rất nhiều thời gian, không tiện và khó nổi chỉ
định ra, bởi thời tiết của mỗi địa phương có khi sai khác, nên gọi chung
bằng lối giản tiện là "Một Thời". Lại "Thời" còn ám chỉ cho thời tiết nhân
duyên, nếu chúng sanh chưa đến thời tiết nhân duyên được nghe pháp ấy, mà
Phật nói sớm ra thì họ khó được lợi ích. Và nếu thuyết pháp sớm hay muộn
không hợp thời tiết nhân duyên, tất phạm nhằm lỗi thời đảo. Điểm thứ ba
đây gọi là Thời thành tựu.
4- "Phật" là chỉ cho Đức Thích Ca Mâu Ni. Danh từ Phật
ngoài ba nghĩa đã giải ở trên, còn có những nghĩa: Phá phiền não, Đại danh
thinh, (Bà Dà Bà: danh tiếng lớn). Phật cùng các hàng Bồ Tát, Thinh Văn
đều là những bậc giác ngộ, song sự giác ngộ của Phật viên mãn cứu cánh hơn
cả, nên cũng gọi là Đại Giác. Sở dĩ nêu ra chữ "Phật", vì trước khi nói
kinh phải chỉ rõ ai là thuyết gỉa, là vị hóa chủ của Đại chúng. Đây là
điểm chủ thành tựu.
5- - Tại non Kỳ Xà Quật, (Kỳ Xà Quật: GrdhraKùta). Trung
Hoa dịch là Linh Thứu, "Thứu" là chim kên kên. Có thuyết cho rằng đầu núi
nầy giống hình kên kên; thuyết khác lại bảo nơi phía Nam của núi thường có
loài chim kên kên tụ hợp về tại rừng Thi Đà, vì thế mới gọi là Thứu Phong
hay Thứu Lãnh. Còn về chữ "Linh" thì có thuyết nói nơi ngọn núi này thường
có bậc tiên thánh y trụ, hoặc nhiều linh thoại (điềm lành) hiện ra, thuyết
khác lại bảo là đại ý ám chỉ cho loài chim kên kên có tánh linh. Các
thuyết trên đều có thể đều đúng cả, nhưng dù đúng hay không cũng chẳng mấy
quan hệ, duy có điểm xác thật là khí hậu ở non Thứu quanh năm luôn luôn
mát mẻ, nên đức Phật và các đệ tử thường hay tịnh dưỡng tại nơi đây.
6- "Thuộc thành Vương Xá" Vương Xá tiếng Phạn gọi là:
La-Duyệt-Kỳ-Dà-La (Rajagrha), ý nghĩa chỉ cho chỗ cư xá của hàng vua chúa.
Theo truyền thuyết, thì thuở xưa vua Quảng Xa được thần linh mách bảo
rằng: muốn tìm nơi địa cảnh tốt thì nên du ngoạn ngoài thành, tất sẽ được
gặp. Một hôm, nhân đi săn bắn vua đuổi theo con nai cùng chạy đến vùng núi
Kỳ Xà Quật, thấy nơi đây phong quang thanh tú, có rừng cây cao tốt, hoa
đẹp suối trong, mới di cư tới bản địa và kiến lập thành quách cung xá. Con
cháu của vua kế thừa ý chí tổ phụ, đời đời vẫn định cư tại đây. Lại một
truyền thuyết khác bảo: Thuở xưa nhân dân khi mới theo vua di cư vào thành
ấy, nhà cửa người nào vừa cất xong cũng đều bỗng tự nhiên phát hỏa cháy
tiêu tan cả, duy có cung thất của vua là không bị cháy. Dân chúng đem việc
ấy tâu lên, vua bảo: "Từ đây về sau, nếu có ai cất nhà đều phải nói lớn
lên: Tôi cất nhà này cho vua!" Mọi người y lời, quả nhiên nhà cửa không bị
cháy. Do hai sự tích trên, thành này được mệnh danh là Vương Xá thì hóa độ
hàng tại tục, lúc lên đỉnh Thứu sơn lại thuyết pháp cho chúng xuất gia.
Hai địa điểm trên đều có liên quan đến phần thuyết giáo của bản kinh. Và
đây là thuộc về điểm Xứ thành tựu .
6- "Cùng với một ngàn hai trăm năm mươi bậc Đại tỳ khưu".
Trong 1250 vị đây gồm có 1000 đệ tử của ba anh em ngài Ca Diếp và 250 đệ
tử của hai ngài Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên. Những người nầy là ban sơ là
ngoại đạo thờ Lửa, khổ nhọc tu hành rất lâu mà không đắc qủa, đến khi gặp
đức Như Lai mới được giải thoát. Do đó tất cả đều cảm thâm ân của Phật,
nên thường theo làm kẻ tùy thị. "Tỳ Khưu" (Bhiksu), có nghĩa: Khất Sĩ, Bố
Ma, Phá Ác, mà nghĩa khất sĩ đứng về phần chánh. Khất sĩ là kẻ trên xin
giáo pháp của Phật để dưỡng huệ thân, dưới xin thức ăn của
đàn việt để dưỡng nhục thân. Trước danh từ Tỳ Khưu có thêm chử "Đại" là để
tỏ ý khen ngợi đức hạnh của các vị ấy siêu việc lớn lao. nếu theo nguyên
văn chữ Phạn thì phải gọi Ma Ha Tỳ Khưu; "Ma Ha" Trung Hoa dịch gồm ba
nghĩa là: Đại, Đa, Thắng, nay duy lấy nghĩa "Đại" để hàm nhiếp hai nghĩa
kia.
"Nơi chúng hội đây, lại có ba vạn hai ngàn vị Bồ tát, trong
ấy Ngài Văn Thù Sư Lợi pháp vương là bậc thượng thủ." Bồ Tát gọi cho đủ là
Bồ đề tát đõa (Bodhisattva), Trung Hoa dịch: Giác hữu tình hay Hữu tình
giác. Hai danh từ này có nghĩa: tuy giác ngộ mà còn có tình thức, tuy còn
có tình thức song đã giác ngộ. Văn Thù Sư Lợi (Manjusri), Trung Hoa dịch
là Diệu Đức hay Diệu Kiết Tường. Pháp vương tử, nói đơn giản là nghĩa: con
của đấng Pháp Vương. Nếu giải thích rộng ra, thì vị nào từ nơi chánh
phápmà hóa sanh, sẽ nối ngôi Đại giác để làm thạnh cho dòng giống Phật,
Mới được gọi là Pháp vương tử. Vậy Pháp vương tử là bậc Bổ xứ Bồ tát sẽ
nối ngôi Phật, như Thái tử là vị sẽ nối ngôi vua. Nếu luận về chí nguyện,
phải để Bồ tát đứng trước, nay chỉ lấy phần oai nghinên trước tiên trần
thuật hàng Thanh văn. Thượng thủ là người cầm đầu, vị lãnh đạo của một số
chúng. Hai đoạn kinh trên đã lược kể số chúng trong pháp hội. Điểm sau
cùng nầy gọi là Chúng thành tựu.
Tóm lại sáu đoạn hay sáu điểm mệnh danh lục chủng thành tựu
hoặc lục chủng chứng tín trên, đã dự phần bố trí hệ thống của toàn kinh và
biện chứng để dẫn khởi lòng tin tưởng cho người học Phật với một ý thú
nhiệm mầu.
Bấy giờ trong Vương Xá đại thành có vị Thái tử tên là A Xà
Thế, nghe theo lời xúi giục của ông bạn ác Điều Đạt, bắt vua cha là Tần Bà
Sa La giam trong ngục kín dày đến bảy lớp cửa, Thái tử lại ra lịnh cấm các
quan, không cho một ai được đến thăm.
Đây mới là điểm chánh thức đi vào duyên khởi của bản kinh.
Điểm nầy đại khái trần thuật: do Thái tử A Xà Thế làm điều bạo nghịch,
Quốc Thái phu nhơn Vi Đề Hymới bạch với Phật cầu xin được thoát ly miền ác
trược về cõi an lành. Nói Vương Xá đại thành, vì thành nầy rất rộng lớn,
gồm có đến chín ức cư dân. A Xà Thế (Ajatasatru), Trung Hoa dịch là Vị
sanh oán hay Chiết Chỉ. Vị sanh oán là mối oán hận lúc chưa sanh ra, Chiết
Chỉ là ngón tay gãy. Sự tích nầy hơi dài, xin thuật qua đại lược: Nguyên
trước kia vua Tần Bà Sa La kém bề tử tức, đi l thần khắp các nơi song cũng
không sanh được con. Một hôm có vị tướng sư đến tâu rằng: - núi Tỳ phú la
có bậc tiên nhơn đạo đức, sau ba năm sẽ xả mạng và thác sanh làm con của
vua. Tần Bà Sa La vương vì lớn tuổi muốn có con gấp, sau đôi ba phen cầu
thỉnh tiên nhơn xả thân mà không được, mới dăn sứ giết ông đi ssể cho mìng
có con sớm. Trước khi chết tiên nhơn có phát nguyện:"Ngày nay vua dùng tâm
và miệng sai ngưới giết tôi, nếu tôi sanh làm con vua, cũng sẽ dùng tâm và
miệng sai mgười giết vua.. Hôm tiên nhơn chết, đêm đó hoàng hậu cảm giác
mình có thai. Lúc bà sắp tới ngày sanh, vua cho người mời danh sư trong
nước xem tướng. Các tướng sư đều bảo: "Đứa bé sẽ sanh là con trai, nhưng
vì có mối oán hờn đối với bệ hạ, sợ e ngày sau tất làm tổn thương đến
thánh thể.. Vua nghe nói sợ hãi dặn cung nữ: khi hoàng hậu lâm bồn, đừng
đở đứa bé, để nó rớt xuống đất cho chết. Vì oan trái chưa trả xong, đứa bé
tuy ở chổ cao rớt xuống nhưng không chết, chỉ bị gẫy ngón tay út mà thôi.
Do đó khi lớn lên Thái tử A Xà Thế có tật nơi ngón tay út. Danh từ Vị Sanh
Oán hay Chiết Chỉ phát xuất bởi gốc tích trên.
Điều Đạt tức là Đề Bà Đạt Đa (Devadatta - Thiên Nhiệt) Con
Học Phạn Vương, em nhà chú của Phật, anh ruột ngài A Nan (theo kinh Phật
thuyết Thập Nhị Du thì Điều Đạt và A Nan đều là con của Cam Lộ Tịnh Vương)
Điều Đạt lúc còn tại tục tánh người vốn hung mãnh, đến khi xuất gia nết cũ
vẫn không chừa. Ông tuy học thông nội điển và các kinh sách của ngoại
giáo, song tâm không hợp với Đạo, thấy Phật được nhiều người cúng dường
liền sanh lòng tật đố. Một hôm Điều Đạt đến chổ Phật cầu xin học pháp thần
thông. Đức Thế Tôn không nhận lời, duy bảo: "Ông nên quán lý vô thường,
tất sẽ đắc đạo và tự có thần thông". Không được mãn nguyện, ông lại đến
cầu hai tôn giả Xá Lợi Phất, Mục Kiền liên về việc ấy. Hai Ngài cũng bảo:
"Đại đức nên quán về Tứ Niệm Xứ, không cần học thần thông làm chi". Sau
cùng ông đến gạn hỏi ngài A Nan. Tôn giả A Nan tuy chứng sơ quả song chưa
đắc tha tâm thông, biết được thâm ý của anh mình, liền đem Điều Đạt đến
chổ vắng lặng trước tiên dạy về phép bay. Người muốn học bay phải ngồi
kiết dà giữ tâm cho yên tỉnh, tưởng thân lay động, kế tưởng thân nhắc lên
khỏi mặt đất một phân, một tấc, một thước, một trượng, khỏi mái nhà rồi
lần lần bay lên cao. Xong, lại mhiếp tâm tưởng thân lần lần hạ thấp xuống
bản tòa. Sau đó dùng thân cử tâm, kế lại thân tâm đều cử, mổi phiên từ
thấp lên cao, từ cao xuống thấp y như trước. Cứ theo ba nguyên tắc ấy mà
xoay vần tập luyện cho thuần thục, tự sẽ có kết qủa. Ngài A Nan lại tiếp
tục dạy cho Điều Đạt phương pháp tưởng bay đi, tưởng thân tâm vào trong
tất cả sắc chất. Kế đó tưởng các sắc chất như non, sông, đất liền vào
trong thân mình, như hư không vô ngại. Lại tưởng tự thân lớn ra đầy khắp
hư không, ngồi nằm tự tại, đưa tay lay động mặt trời mặt trăng. Hoặc tưởng
thân rút nhỏ lại, chui vào hạt bụi. Điểm cần yếu trong phép tưởnglà nhận
định các sắc chất đều như huyn, tất cả vô ngại. Khi ngài A Nan tuần tự y
theo phương pháp chỉ dạy xong, Điều Đạt nhất nhất đều ghi nhớ, rồi tìm chổ
thật thanh vắng tu luyện, không bao lâu ông được phép thần thông.
Sau khi đắc thần thông, Điều Đạt liền đi đến cung điện của
Thái tử A Xà Thế hiện ra nhiều cách biến hóa khiến cho đông cung sanh lòng
tin tưởng,kính tọng, cúng dường rất hậu. Đã thâu phục được Thái tử, một
hôm ông lại đi đến chổ Phật thưa rằng: "Bạch Thế Tôn! nay ngài tuổi tác đã
cao, xin đem đồ chúng và pháp tạng phú chúc lại cho tôi, để an dưỡng lúc
suy già". Đại chúng nghe ông nói lời ấy đều kinh ngạc, nhìn ngó lẫn nhau.
Đức Phật mỉm cười bảo: "Như Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên có thể gọi là bậc
đại pháp tướng mà ta không còn đem chánh pháp phú chúc, huống chi ông là
kẻ ngu si ư ?". Bị mất mặt trước đại chúng, Điều Đạt đem lòng oán hận liền
đến cung Thái tử A Xà Thế. Đông cung thấy ông đi đến, cung kính đón tiếp
và hỏi rằng: "Chẳng hay tôn giả quang lâm có việc chi, mà xem nhan sắc
không được vui?". Ông đáp: "Tôi cùng Thái tử tuy quen thân chưa được bao
lâu, mà đối xử như tình chí thiết. Hôm nay tôi có vẽ lo lắng, chẳng qua
cũng vì ngài đó thôi!" Thái tử vội hỏi duyên cớ. Điều Đạt bảo: "Tôi xem ý
đức vua đối với thái tử không được ân hậu. Sở dĩ ngón tay út của Thái tử
bị tật là do khi ngài mới sanh ra, vua đã âm mưu cố ý để cho tôn thể rớt
từ trên cao xuống đất. Nếu ngài không có phước đức thì lúc ấy mạng căn đã
tuyệt, đâu còn sống đến ngày nay? Hiện giờ đức vua đã già, Sa môn Cù Đàm
cũng đã lớn tuổi không còn đương nổi trách nhiệm nữa. Vậy chúng ta nên tìm
cách phế trừ hai người đó, để Thái tử sẽ làm tân vương, phần tôi thì làm
tân Phật, chẳng hay tôn ý thế nào? Do oan nghiệp đời trước, Thái tử A Xà
Thế nghe xong liền nổi giận y theo lời. Từ đó, Đề Bà Đạt Đa lo vận động
kéo một nhóm tăng lữ về phe mình, tự chế ra giới luật mới, và âm mưu hại
Phật nhiều phen, song kết cuộc đều thất bại, bị sanh đọa địa ngục. Phần A
Xà Thế thì làm điều nghịch đạo bắt giam vua cha cho đến chết.
Tần Bà Sa La (Bimbisara), Trung Hoa dịch là Mô Thật hay
Kiên Ảnh. Hai danh từ nầy chỉ cho nghĩa: Người có hình vóc mạnh khỏe chắc
chắn.
Trên đây đã giải thích về nguyên ủy của đoạn chánh văn:
"nghe theo lời xúi giục của ông bạn ác Điều Đạt, bắt vua cha là Tần Bà Sa
La giam trong ngục kín dày đến bảy lớp cửa".
Quốc Thái phu nhân là Vi Đề Hy, vì mến tưởng vua, bà lo
nghĩ phương chước cứu giúp. Bà tắm gội sạnh sẽ, lấy bột nhồi với sữa và
mật thoa dính nơi thân, đổ đầy nước trái nho vào các hạt chuổi Anh Lạc,
rồi lén đem các thức ấy dâng cho vua. Tần Bà Sa La vương thọ dụng thức ăn
uống xong, xin nước xúc miệng rửa mặt, đoạn chắp tay hướng về núi Kỳ Xà
Quật kính lạy Đức Thế Tôn và thưa rằng: "Ngài Đại Mục Kiền Liên là bạn
thân của tôi, xin khởi lòng từ bi truyền cho tôi giới Bát Quan Trai".
Quốc Thái phu nhân là người có địa vị tối cao trong nước.
Vi Đề Hy (Vaidehi), Trung Hoa dịch là Tư Duy hoặc là Thắng Diệu Thân, chỉ
cho người có sắc thân xinh đẹp và hay lo lắng quán xuyến mọi việc. Bà Vi
Đề Hy là chánh hậu của vua Tần Bà Sa La, mẹ của Thái tử A Xà Thế. Thái tử
cấm quần thần không cho vào thăm vua, mà chẳng ngăn cản mẹ, vì bà là người
tối thân, lại thuộc về hàng phụ nữ, chắc không đến nổi có mưu biến gì, nên
chẳng mấy lưu tâm. Bà Vi Đề Hy muốn dâng thức ăn cho vua mà phải làm như
thế, vì sợ Thái tử để ý rồi phát giác ra được.
Đại Mục Kiền Liên (Moggalli), Trung Hoa dịch là Thái Thúc
Thị; vì ngài nguyên dòng dõi của một vị tu tiên trong núi, sống bằng đậu
và bắp. Ngài là vị đệ tử thường hầu bên hữu của Phật. Trong tiền kiếp, Mục
Kiền Liên cạo tóc và may áo ca sa cho một vị Bích Chi Phật, nguyện đắc
thần thông, nên khi Phật ra đời ngài được khen là bậc A La hán thần thông
đệ nhất. Bát Quan Trai, "Bát" là tám giới: Không sát sanh; không trộm cắp;
không dâm dục; không nói vọng; không uống rượu; không trang điểm; không tự
ca múatrổi âm nhạc và cố ý xem nghe; không ngồi nằm giường cao rộng sang
đẹp. "Quan" có nghĩa là ngăn đóng, vì tám giới ấy hay ngăn đóng các cửa ác
nghiệp nên gọi là "Bát Quan". "Trai" có nghĩa trung, là ăn giữa ngày,
không được quá ngọ. Tám điều trên duy có nghĩa "giới" không gồm nghĩa
"trai", điều sau kiêm cả hai nghĩa "giới,Trai", vì thế nên không gọi cửu
giới mà gọi "Bát Quan Trai". Những giới này công dụng rất vi tế, chỉ có
Phật mới thân chứng. Tại sao thế? Vì chư Phật mới dứt phiền não và tập
khí, ngoài ra từ ngôi đại giác trở xuống, phiền hoặc tuy đoạn song tập khí
vẫn còn. Vì muốn cho hàng tại gia gieo hạt giống giải thoát, nên Phật mới
chế ra giới bát quan trai để họ thọ trì trong một ngày dêm giữ đúng giới
này, công đức vượt hơn hàng nhơn thiên rất nhiều.
Khi ấy ngài Mục Kiền Liên biết được, liền bay đến chổ Tần
Bà Sa La Vương lẹ như chim ó, chim cắt; mỗi ngày truyền giới Bát Quan Trai
cho vua. Đức Thế Tôn cũng sai tôn giả Phú Lâu Na vì vua thuyết pháp. Như
thế trải qua hai mươi mốt ngày, nhờ được ăn uống và nghe pháp, nên dung
sắc vua hòa nhã tươi vui.
Ngài Mục Kiền Liên đã được lục thông, nghe thấy và biết sự
cầu thỉnh của vua, nên dùng sức thần túc trong khoảnh khắc hiện đến chổ
cấm ngục. Tướng thần túc này rất mầu nhiệm, vì e người đời không biết nên
trong kinh mới thí dụ là lẹ như chim ó, chim cắt. Thật ra sức thần thông
của tôn giả Mục Kiền Liên có thể trong một niệm đi quanh bốn đại bộ
châutrăm ngàn vòng đâu phải tầm thường như chim ó, chim cắt ư? Giới bát
quan trai chỉ hạn cuộc trong một ngày đêm, nên mãn kỳ phải truyền lại. Mỗi
ngày vua đều thọ giới, vì không biết Thái tử A Xà thế sẽ sai người đến
giết lúc nào, nên chí thành tịnh niệm giữ giới từng ngày, giờ, phút, cho
tăng phần công đức.
Phú Lâu Na (Pùrna), Trung Hoa dịch Mãn Nguyện Tử hay Mã Từ
Tử, vị đệ tử thuyết pháp bậc nhất của đức Phật. Đức Thế Tôn vì thương xót
Tần Bà Sa La Vương, nên sai tôn giả Phú Lâu Na đến thuyết pháp làm cho vua
hiểu rõ nhân qủa, đạo lý, dứt mối sầu khổ ưu phiền. Qua hai mươi mốt ngày
mà vua vẫn vui vẽ bình yên vì được hoàng hậu săn sóc về phần thể chất và
hai tôn giả an ủi về phần tinh thần.
Lúc đó A Xà Thế đến hỏi người giữ cửa rằng: Phụ vương ta
hôm nay còn sống chăng? Viên thủ ngục đáp:"Tâu đại vương! do Quốc Thái phu
nhân thoa bột với mật vào thân và đựng nước trái nho trong hạt chuỗi đem
cung phụng; lại có hai Sa môn là Mục Kiền Liên, Phú Lâu Na bay đến truyền
giới thuyết pháp không thể ngăn cấm, nên hiện tại đức vua vẫn bình yên.. A
Xà Thế nghe xong, nổi giận bảo: "Mẹ ta là giặc vì đã làm bạn với kẻ giặc.
Bọn Sa môn kia là hạn người xấu, dùng chú thuật làm cho tên ác vương ấy
nhiều ngày không chết!. Nói đoạn, rút gươm muốn đến giết mẹ.
Đang khi ấy, có hai vị đại thần thông minh tài trí là
Nguyệt Quang, Kỳ Bà, thấy thế vội qùy xuống làm l và can gián rằng: "tâu
đại vương! chúng tôi nghe trong kinh Tỳ Đà La nói từ thuở kiếp sơ đến nay
những ác vương tham ngôi báu mà giết hại cha, có một vạn tám ngàn người;
song chưa từng nghe có ông vua nào giết mẹ. Nay nếu đại vương làm việc ác
nghịch trái đạo này, tức là để vết nhơ cho dòng giống Sát Đế Lỵ, nào khác
gì hạng Chiên Đà La. Bọn thần không nỡ ở lại trông nhìn cảnh tượng ấy, vậy
xin từ nay bái biệt!. Nói xong đứng lên đưa tay đè chuôi gươm rồi thối lui
quay đi.
Vi Đề Hy phu nhơn dù có hành vi kín đáo, song lâu ngày cũng
khó che dấu được. Viên thủ ngục vì muốn chạy tội cho mình, phải đem sự
thật mà thưa ra. A Xà Thế đã hờn vì mẹ lén đem thức ăn cho vua cha, lại
nói nghe hai vị tôn giả dùmg phép thần thông tự do tới lui trong ngục
thất, nên càng thêm giận, mới có lời vô ý thức: "các thầy Sa môn là hạng
chuyên dùng chú thuật để huyn hoặc người, làm cho tên ác vương ấy nhiều
ngày không chết..
"Nguyệt Quang" là Hoa ngôn, chỉ cho người trí huệ sáng suốt
như ánh trăng. "Kỳ Bà" là phạn ngữ, Trung Hoa dịch: Cố Hoạt, vì trước kia
ông từng phát nguyện sẽ trở thành vị lương y cứu sống mọi người, nên tùy
nơi đức mà lập danh. Tương truyền khi Kỳ Bà mới sanh ramột tay cầm đãy
thuốc, một tay cầm ống kim. Ông cũng là con của vua Tần Bà Sa La, thân mẫu
là Yêm La Nữ (Nại nữ), thấy anh muốn làm điều bội nghịch, nên cùng Nguyệt
Quang cùng đến can ngăn. Tỳ Đà La (Vetàla), một bộ loại về chú thuật trong
kinh điển Phệ Đà. Kiếp sơ là thuở thế giới vừ thành lập, mới có loài người
ở. Sát Đế Lỵ(Ksatriya) là giai cấp vua chúa, Chiên đà la hoặc Thủ đà la
(Sùdra) là giai cấp tiện dân, hai dòng giống sang hèn theo thế tập bên xứ
Ấn Độ. Trước cảnh tượng người từ mẫu chắp tay cuối đầu run sợ chờ chết,
đứa con bất hiếu hung hăng cầm gươm muốn chém đâm, quả thật bất nhẫn và
đau lòng, nên hai vị đại thần cương quyết can ngăn, là vì không nỡ thấy
điều vô đạo ấy. Đưa tay đè chuôi gươm rồi thối lui quay đi là cử chỉ thị
oai khiến cho A Xà Thế kinh sợ, và tỏ ý quyết liệt.
A xà Thế nghe qua kinh sợ bảo: "Các ông không vì ta sao?.
Kỳ Bà thưa:"nếu đại vương muốn cho chúng tôi ở lại giúp đở, xin đừng giết
hại Quốc Thái.. A Xà Thế nghe nói, tỏ vẻ ăn năn vội cất gươm bỏ ý nghĩ
giết mẹ, sai nội quan cầm Quốc Thái phu nhơn trong thâm cung, không cho ra
ngoài nữa.
Cau nói:"Các ông không vì ta sao?. là A Xà Thế sợ hiền thần
bỏ đi, quốc vận nguy khốn, lại e hai người ấy vốn bậc tài trí không biết
có mưu đồ gì cứu thoát vua Tần Bà Sa La mà lật ngược cuộc diện lại chăng?
Sự kinh sợ của ông cũng hữu lý và thiết thật. Câu hỏi của thế vương hàm
nhiều ẩn nghĩa, lời đáp của Kỳ Bà lại thẳng thắng nói rõ ra, cũng là ý can
gián lần thứ hai. A Xà Thế tuy nhận lời khuyên can, tỏ sắc ăn năn tra gươm
vào song lại bảo nội quan giam cầm mẹ, là mối dư hận của ông đối với thân
mẫu hãy còn. Kỳ thật nếu ông ra lệnh giam cầm Vi Đề Hy phu nhơn, duy bảo
quan quân giữ chặt nơi ngục giam vua cha, thì bà cũng không có phương tiện
nào giúp đỡ Tần bà Sa la vương được.
Vi Đề Hy bị u cấm, sầu lo tiều tụy, xa trông về non Kỳ xà
quật đảnh l Phật và bạch rằng:"Đức Như Lai Thế Tôn! lúc trước Ngài thường
bảo hiền giả A Nan đến thăm viếng và khuyên dạy con. Nay con có việc lo
buồn, không làm sao còn được thấy oai nghi trang trọng của đấng Thiên Nhơn
Sư nữa! Xin Đức Thế Tôn thương xót cho hai vị tôn giả Mục Liên, A Nan đến
dạy dỗ con.. Bạch xong lời ấy, bà thương khóc nước mắt rơi xuống như mưa,
hướng về chỗ Phật thường ngự, cúi đầu đảnh lễ.
A Nan (Ananda), Trung Hoa dịch là Khánh Hỉ hoặc vô nhim, vị
hiền giả thường hầu cận Đức Phật. Ngài A Nan được đức Phật thường nhận lời
cầu thỉnh, sai đến thăm viếng khuyên dạy vua và quốc hậu nước Ma kiệt Đà,
vì sự hoằng pháp độ người cần phải nhờ bậc có quyền thế, tuy Như Lai là
đấng chí thánh cũng chiều thuận theo thường tình để làm mô phạm cho đời
sau. Bởi tự thân ở nơi thâm cung, nên bà Vi Đề Hy không dám thỉnh Phật, mà
chỉ xin mời hai vị tôn giả. Trong hai ngài, Mục Liên là thầy của Bà, A Nan
là vị đại đức thường lui tới quen thân, nên mới có sự cầu thỉnh ấy. Trước
đã lạy rồi, sau còn đảnh l, là Quốc Thái phu nhân tỏ ý thành khẩn ân cần.
Bấy giờ Đức Thế Tôn đang ở núi Kỳ Xà Quật biết rõ tâm niệm
bà Vi Đề Hy, liền bảo hai tôn giả Mục Kiền Liên, A Nan theo lời yêu thỉnh
bay đến cấm thất. Và chính Ngài cũng ẩn thân tại núi Kỳ Xà Quật, hiện ra
nơi vương cung. Khi bà Vi Đề Hy xuống vừa nguớc đầu lên, đã thấy Đức
Thích Ca Mâu Ni Thế Tôn ngồi trên toà sen bá bảo, thân sắc tử kim rực rỡ
bên tả có Mục Liên, bên hữu có A Nan đồng đứng hầu. Trên hư không, các
Phạm Vương, Đế Thích và hộ thế chư thiên mưa nhiều thứ hoa đẹp ở cõi trời
phơi phới bay xuống để cúng dường Phật.
Thích Ca Mâu Ni (Sakyamuni) Trung Hoa dịch Năng Nhân Tịch
Mặc, bậc có tâm nhân từ và chứng được giác tánh vắng lặng. Danh hiệu nầy
tiêu biểu cho hai đức Bi Trí, cũng hàm nghĩa Ứng thân, Pháp thân. Đức Phật
dùng phép thần thông ẩn nơi đây, hiện nơi kia theo cổ thích, có ba ý
nghĩa:
1- Đức Thế Tôn là đấng cha lành trong tam giới, hiện thân
của đức từ bi, vì muốn hộ trì tâm niệm của vua A Xà Thế, nên không tự đi
đến ngục thất, e ông thấy mà khởi lòng sân hận.
2- Vì muốn lưu hành chánh pháp, phải nhờ cậy người quyền
thế, nên không muốn làm mất lòng một vị quốc vương.
3- Vì tiêu biểu địa vị và sức thần thông của Đức Như Lai
cao siêu hơn hàng Thinh Văn, Duyên Giác, Phạm Vương là vị vua của cõi trời
Phạm Thiên (Brahmadeva), danh từ này cũng chỉ chung cho chư Thiên đã thành
tựu Phạm hạnh ở cõi Sắc giới. "Phạm" có nghĩa là "trong sạch", vì chư
thiên đã ở đó đã xa lìa sự dục nhim. Đế Thích tức Thích Đề Hoàn Nhân; gọi
cho đủ là Thích Ca Đề Bà Nhân Đà La (Sakradevànam-Indra), Trung Hoa dịch
là Năng Thiên Chủ. Đây là vị chúa tể ba mươi ba Thiên Quốc ở cõi Đao Lợi.
"Hộ Thể" là chỉ cho Tứ Thiên Vương. "Chư Thiên" là nói chung cõi trời ở
hai cõi Dục và Sắc. Thiên chúng thấy Phật ẩn thân tại Kỳ Xà Quật, hiện ra
nơi vương cung, nghĩ rằng: Đức Thế Tôn tất sắp nói Pháp hy kỳ, mình sẽ
nhân bà Vi Đề Hy mà được sự lợi ích chưa từng nghe, nên đồng đến phụng thị
mà mưa hoa cúng dường.
Vi Đề Hy phu nhân thấy Đức Thế Tôn, liền tự bứt chuổi Anh
Lạc đeo nơi thân, gieo mình phủ phục xuống đất, khóc lóc và thưa rằng:
Bạch Đức Thế Tôn! Kiếp trước con có tội chi nay sanh ra đứa con ác này. Và
Đức Như Lai lại có nhân duyên gì, mà cùng với Đề Bà Đạt Đa đồng làm quyến
thuộc? Cúi xin Đức Thế Tôn vì con giảng giải rộng những cõi nào không còn
lo buồn khổ lụy để con được vãng sanh về đó. Hiện nay con rất nhàm chán
cõi Diêm Phù Đề nhơ khổ, bởi cõi này dẫy đầy chúng điạ ngục, ngạ quỷ, bàng
sanh, cùng nhiều điều lỗi lầm xấu ác. Con nguyện kiếp sau không còn thấy
người dữ, không còn nghe tiếng ác nữa! Nay con gieo năm vóc trước Đức Thế
Tôn, tha thiết cầu xin sám hối! Nguyện đấng đại từ soi ánh huệ nhật, chỉ
dạy cho con phép quán để sanh về chổ nghiệp lành thanh tịnh.
Vi Đề Hy phu nhân khi thấy phật liền bứt chuỗi ngọc, vì bậc
vương hầu như bà duy sang cả đối với hạng thần dân, sánh với đấng Đại Giác
còn vô cùng thấp kém: hành động đó làm biểu lộ: trước Đức Thế Tôn mình chỉ
là kẻ phàm phu đầy tội lỗi, không có chi đáng tôn trọng. Lại sự trang sức
đối với thế gian, là nghiệp tham mhim, trước đấng giác ngộ trong lành, bà
cảm thấy hổ thẹn nên vội bức chuổi Anh Lạc. Câu ; "Kiếp trước con có tội
chi..." là phu nhơn đã nhận rõ cõi đời dẫy đầy tội ác, tự nghĩ mình là
người thế tục lỗi lầm vương vào cảnh con mưu giết mẹ đã đành, đến chư Phật
là bậc chí thiện tại sao còn bị Đề Bà Đạt Đa nhiều phen ám hại ? câu hỏi
của bà không ngoài ý niệm tỏ ra chán nản cõi đời ác trược, để làm nhân
phát khởi lời thỉnh vấn sau là cầu xin đức Thế Tôn chỉ điểm quốc độ an
lành và phương pháp vãng sanh để cho mìmh tu tập.
Diêm Phù Đề (Jambudvipa), Trung Hoa dịch là Thắng Kim, vì
phía bắc châu này có thứ cây Diêm Phù, dưới cây ấy có chất vàng rất qúy
tên Diêm Phù Na Đàn. Đây là lấy tên cây để lập danh xứ sở. Một thuyết khác
nói cây Diêm Phù ở mé biển phía bắc của châu Nam Thiện Bộ. Dưới đáy biểc
có chất vàng Diêm Phù Na Đàn chói lên làm cho nước biển và cây ánh ra sắc
vàng rực rỡ. Năm vóc cũng gọi là ngũ thể hay ngũ luân tức là đầu và tứ
chi. Sám hối là danh từ do tiếng Phạn và Hoa kết hợp. "Sám" gọi cho đủ là
Sám ma, Trung Hoa dịch là "hối vãn" có nghĩa la ăn năn lỗi trước, đây là
Phạn ngữ. "Hối" ý nghĩa cũng như "sám", thuộc về Hoa âm. Bà Vi Đề Hy xét
nghĩ Tịnh Độ là cõi sạch lành, e mình nhiều nghiệp chướng khó được duyên
nghe pháp và vãng sanh, nên đã thành khẩn thỉnh cầu còn tha thiết sám hối
để cho tiêu nghiệp. Pháp của Đức Phật nói từ nơi trí huệ chân thật phát
sanh, có thể phá tan màn vô minh phiền não, nên gọi là huệ nhật. Đây là
danh từ nêu cả pháp và dụ. Câu chỉ dạy cho con phép quán .... là bà Vi Đề
Hy muốn biểu lộ là mình đã nhàm chán cõi nhơ ác, không còn luyến tưởng đến
kẻ thân sơ, có thể an tâm dứt muôn duyên để quán niệm cảnh thanh tịnh .
Trước phu nhân đã thỉnh cầu Phật chỉ bày cõi an lành, sau lại hỏi về
phương cjâm vãng sanh. Phần tự trần thuật nhân duyên khải phát đến đây đã
xong. Kế sau là đoạn chánh thức của kinh này, Đức Phật sẽ vì bà Vi Đề Hy
chỉ dạy rõ pháp thức tu tập.
II - Phần
Chánh Tông
Lúc bấy giờ Đức Thế Tôn, từ nơi tướng bạch hào giửa đôi mi,
phóng ra ánh sáng vàng rực rỡ soi khắp vô lượng thế giới ở mười phương.
Hào quang ấy trở lại trụ trên đảnh của Phật, hoá thành đài vàng như núi Tu
di. Những cõi nước trong sạch nhiệm mầu của chư Phật mười phượng đều hiện
rõ nơi toà quang minh đó. Trong vô số quốc độ ảnh hiện ấy, có cõi do bảy
báu hợp thành, có cõi thuần là hoa sen, có cõi tráng lệ như cung trời Đại
tự tại, có cõi sáng suốt như gương pha lê.
Vô lượng tịnh độ hiện bóng nơi đài quang minh, mỗi miền một
vẽ rất rõ ràng, cực nghiêm đẹp. Sau khi dùng thần thông hiển thị các cõi
trang nghiêm xong, Đức Thế Tôn bảo bà Vi Đề Hy nên tùy ý mình lựa quốc độ
nào mà tâm mình ưa thích.
"Bạch Hào" là tướng lông trắng giữa đôi mày của đức Phật,
Hào tướng này trắng ngần như tuyết, dài một trượng năm thước (thước tấc
Trung Hoa), có tám gốc, rỗng như pha lê, xoay quanh qua bên hữu thành hình
tròn như nửa hạt châu úp xuống, bề chu vi năm tấc. Đây cũng gọi là Đại
nhân tướng, Ánh sáng do nơi bạch hào phóng ra là tiêu biểu cho từ trung
đạo lưu xuất các pháp. Đức Thế Tôn phóng bạch hào quang soi các cõi mười
phương, rồi dùng ánh sáng ấy thu nhiếp hình bóng vô số quốc độ đem vê trụ
trên đảnh; tướng trước tan sau tụ này tiêu biểu cho ý nghĩa "nhiếp nhiều
về một", cũng để hiện rõ bản kinh thuộc pháp viên đốn nhứt thừa. Tu Di
(Sumeru), Trung Hoa dịch là Diệu Cao sơn, núi này trên dưới rộng ra,
khoảng giửa eo lại. Ánh sáng tụ về hóa thành đài vàng giống như hình núi
Tu Di, bao nhiêu tịnh quốc đều hiện trong đó, bà Vi Đề Hy được thấy rõ
ràng tất cả, là do thần lực của Phật gia bị.
Cõi do bảy báu hợp thành, chỉ cho sự tôn quý. Cõi thuần là
hoa sen chỉ cho sự trong sạch. cõi như cung trời Đại Tự Tại, chỉ cho sự
vui vẻ. Cõi như gương pha lê, chỉ cho sự sáng ngần. Đây là duy kể phần đại
lược. Bà Vi Đề Hy thỉnh cầu chỉ miền an lạc, đức Phật không dùng ngôn
thuyết giảng giải rộng ra, duy phóng ánh sáng chỉ bày các cõi trang
nghiêm, đó là hiển rõ phần ý mật của Như Lai. Bởi dù
đức Thế Tôn có nói nhiều mà Vi Đề Hy không thấy, tất chưa khỏi lòng còn
nghi hoặc, nên Phật mới hiển thị các Tịnh Độ cho bà sinh lòng tin tưởng ưa
thích và tùy ý lựa chọn.
Bà Vi Đề Hy phu nhơn quan sát kỹ các Phật quốc rồi thưa
rằng: " Bạch đức Thế Tôn! Các tịnh độ ấy tuy đều nghiêm sạch và có ánh
quang minh, nhưng nay con chỉ thích được sanh về thế giới Cực Lạc của Phật
A Mi Đà. Cúi xin đức Thế Tôn dạy con phép tư duy và chánh thọ".
Bà Vi Đề Hy lựa cõi Cực Lạc trong vô số tịnh độ, bởi có ba
lý do:
1- Vì nhơn duyên
của bà thích hợp với cõi Cực Lạc.2- Vì do nguyện lực thù thắng của Phật A
Mi Đà chiêu cảm.3- Vì phải lựa chọn một cõi để tu quán, tâm niệm mới dễ
được quy nhất.Trên quán hạnh, bước phương tiện đầu tiên tác ý duyên cảnh
gọi là "tư duy". Khi phép quán tưởng đã thành, tâm được tự tại khế hợp với
chân cảnh gọi là "chánh thọ". Chẳng hạn như trong môn địa quán có nói:"
Quán tưởng như thế gọi là thấy đất ở cõi Cực Lạc về phần thô". Đây chính
là "tư duy". Và nếu được tam muội thấy đất ở An Dưỡng quốc rõ ràng mầu
nhiệm, không thể dùng lời nói din tả cho hết, gọi là "chánh thọ".
Khi ấy đức Thế Tôn liền mỉm cười, từ nơi miệng tuôn ra năm
sắc quang minh, mỗi tia sáng đều chiếu đến đỉnh đầu vua Tần Bà Sa La. Lúc
đó Tần Bà Sa La vương tuy bị giam cầm song tâm nhãn không chướng ngại từ
nơi xa trông thấy đức Thế Tôn liền cúi đầu đảnh l, đạo căn tự nhiên tăng
tiến, chứng được quả A Na Hàm.
Vi Đề Hy phu nhơn phát lời hỏi trên đã xứng với bản tâm của
Phật, lại hợp với đại nguyện của đức A Mi Đà. Với lời hỏi ấy, chẳng những
riêng bà thọ phần pháp ích, mà chúng sanh đời sau cũng do đó được hưởng
nhiều lợi lạc, nên đức Như Lai mới mỉm cười. Kinh Quán Phật Tướng Hải nói:
"Pháp thường của chư Phật, khi cười tất có ánh sáng năm sắc từ nơi miệng
chiếu ra". Nhưng khi Phật từ nơi thân phóng ra ánh sáng, tùy theo mỗi chỗ
đều có ý nghĩa và sự lợi ích riêng. Như ánh sáng từ nơi chân Phật phóng
ra, là chiếu ích chúng sanh ở địa ngục, từ nơi đầu gối phóng ra, chiếu ích
cho chúng bàng sanh. Từ nơi âm tàng phóng ra, chiếu ích cho chúng quỷ
thần. Từ nơi rún phóng ra, chiếu ích cho chúng A Tu La. Từ nơi ngực phóng
ra, chiếu ích cho loài người. Từ nơi miệng phóng ra, chiếu ích cho hàng
Nhị thừa. Từ giửa đôi mày phóng ra, chiếu ích cho bậc căn tánh đại thừa.
Nay ánh sáng này từ nơi kim khẩu phóng ra, chiếu ngay đỉnh đầu vua Tần Bà
Sa La, tức tiêu biểu Phật thọ ký cho vua chứng được tiểu quả. Nếu ánh sáng
từ nơi bạch hào phóng ra rồi trở vào đảnh Phật, là đức thế tôn thọ ký cho
đương nhơn quả vị Bồ Tát.
A Na Hàm, Trung Hoa dịch là Bất Hoàn. Đây là quả thứ ba của
hàng Thanh Văn, người chứng quả này hoặc nghiệp sắp hết, khi xả thân sanh
ngay lên cung trời Tịnh Cư, không còn trở xuống hạ giới nữa. Đức Phật
phóng quang gia bị Tần Bà Sa La vương khiến cho đức vua đạo nhãn mở mang,
chứng được thánh quả xem cái chết như giấc ngủ không còn lo lắng sợ hãi
nửa. Vi Đề Hy phu nhơn cũng nhân ánh sáng đó, thấy vua được lợi lạc, nên
không còn buồn rầu, yên tâm học đạo. Vua Tần Bà Sa La thấy Phật, đắc quả,
lẽ ra cùng với phu nhơn đồng nghe quán pháp, nhưng trong phần kết ích chỉ
nói đến bà Vi Đề Hy cùng năm trăm thị nữ, cứ theo đó thì biết sau khi
chứng đạo vua liền xả thân qui tịch.
Bấy Giờ, đức Thế Tôn bảo Vi Đề Hy: "Ngươi có biết chăng?
Phật A Mi Đà cách đây không xa, ngươi nên hệ niệm và quán sát kỹ cõi nước
kia, tất tịnh nghiệp sẽ được thành tựu. Nay ta vì ngươi nói rộng các thí
dụ, cũng khiến cho đời vị lai, tất cả phàm phu muốn tu tịnh nghiệp, được
sanh về thế giới Cực Lạc ở phương tây.
Muốn sanh về cõi ấy, phải tu ba thứ phước: 1. Hiếu dưỡng
cha mẹ, phụng thờ sư trưởng, giữ lòng từ bi không giết hại, tu mười nghiệp
lành. 2. Thọ trì tam quy, giữ vẹn các giới, đừng phạm oai nghi. 3. Phát
lòng bồ đề tin sâu lý nhân qủa, đọc tụng kinh đại thừa, khuyến tấn người
tu hành. Ba điều như thế, gọi là tịnh nghiệp.
Câu "Cõi Phật A Mi Đà cách đây không xa, có ba ý nghĩa: 1.
Thế giới cực lạc tuy cách miền Ta Bà mười muôn ức Phật độ, nhưng tất cả
đều ở trong chân tâm của ta không rời gang tấc, nên nói không xa. 2. Lộ
trình mười muôn ức tuy rằng diệu viên, nhưng nếu người tu tịnh nghiệp
thành tựu, cùng với định cảnh tương ưng, tất sẽ được thường thấy cõi liên
bang, khi lâm chung trong một niệm liền đi đến. 3. Hạng phàm phu tịnh
nghiệp tuy chưa được thần thông, song nhờ sức Phật tiếp dẫn nên được vãng
sanh dê~ dàng. Câu "nói rộng các thí dụ", chẳng phải ý nói cõi Cực lạc
không có, mà vì cảnh Tây phương vi diệu, tâm phàm phu khó nổi ược lượng,
nên đức Phật mới tạm mượn một vài sự kiện ở cõi này để so sánh; chẳng hạn
đất ở Cực Lạc trong suốt như lưu ly, muốn tưởng đất ấy trước phải quán
tưởng một vùng băng tuyết, rồi lần lần từ phương tiện đi vào thật thật
cảnh.
Vì căn cơ của chúng sanh có định và tán, nếu chỉ nói về
định môn tất không thể nhiếp độ hết quần sanh, nên đoạn sau đức Phật lại
mở ra tán môn, tức là dạy tu ba thứ phước để được vãng sanh. Mười nghiệp
lành là: không sát sanh, không trộm cướp, không tà dâm, không nói dối,
không nói thêu dệt, không nói đôi chiều, không nói lời thô ác, không tham
lam, không giận hờn, không si mê tà kiến. Trong đây tóm lại có ba nghiệp
lành của thân, bốn nghiệp lành của miệng, và ba ba nghiệp lành của ý. "Các
giới" là chỉ cho Ngũ giới, Bát quan trai giới, Thập giới, Cụ túc giới, Bồ
tát giới; nếu người đã thọ giới nào, phải cố gắng giữ cho tròn các giới
ấy. Sự thọ trì mỗi loại giới đều có chia làm ba bậc: thiểu phần, đa phần
và toàn phần. Nếu Phật tử đã trì tam quy mà không giữ giới thì phước lực
kém yếu, vì thế đức Như Lai khuyên nên tùy phần mà lãnh thọ. "Đừng phạm
oai nghi" là nói người tu tịnh nghiệp trong khi đi, đứng, nằm, ngồi, nói
năng, động tĩnh phải giữ cho nghiêm chỉnh đoan trang, nếu có phạm liền tự
răn trách sám hối. Phát lòng Bồ Đề" là phát tâm cầu qủa Phật để độ mình độ
người . Rành rẽ lý cơ cảm thiện ác cho đến trong niệm vi tế, gọi là "tin
sâu nhân qủa".
Đức Phật lại bảo: "Vi đề Hy nên biết ba thứ phước này là
chánh nhân tịnh nghiệp của chư Phật trong ba đời: quá khứ, vị lai, và hiện
tại".
Qủa đức trong ba đời do đó mà thành nên gọi là "chánh
nhân". Đây là câu kết luận dẫn gương Phật, Thánh để khuyến tấn phàm phu .
Nói thời gian niệm tại sau cùng là đức Thế Tôn muốn chỉ ngay cho bà Vi Đề
Hy biết một cách thiết thật: y chánh của chư Phật trong mười phương hiện
nay và của đức A Mi Đà đều do ba thứ tịnh nghiệp trên mà thành tựu .
Đức Thế Tôn khen Vi Đề Hy và bảo A Nan: "Lành thay, Vi Đề
Hy! Hôm nay người đã khéo hỏi việc ấy! Hãy chú tâm lắng nghe và suy nghĩ
kỹ. Như Lai sẽ vì tất cả chúng sanh bị giặc phiền não bức hại đời vị lai
mà nói ra nghiệp thanh tịnh.
Này A Nan! ông nên ghi nhớ và thọ trì pháp này, rồi tuyên
thuyết cho đại chúng cùng biết. Nay ta sắp dạy Vi Đề Hy và chúng sanh đời
sau phép quán thế giới Cực Lạc ở phương tây . Do nhờ sức Phật, hành giả sẽ
được thấy cõi nước thanh tịnh kia như người cầm gương sáng tự trong thấy
mặt mình. Khi hành nhơn thấy sự vui rất mầu nhiệm ở cõi kia rồi, sanh lòng
vui mừng, liền được trụ vào sô sanh pháp nhẫn".
Lời hỏi của bà Vi Đề Hy rất hợp với lòng từ bi lợi sanh của
đấng Thiên Nhơn Sư, nên đức Phật mới khen ngợi . Câu "Hãy chú tâm lắng
nghe, và suy nghĩ kỹ", là chỉ cho hai phần văn và tư huệ. "Chúng sanh bị
giặc phiền não bức hại" là chỉ cho hàng phàm phu còn đủ nghiệp hoặc thiêu
đốt ràng buộc. "Nghiệp thanh tịnh" tức chỉ cho mười sáu phép quán sau đây;
vì khi hành giả chuyên tâm quán tưởng, trong mỗi niệm tội chướng được tiêu
trừ, tâm địa lần trở thành sáng sạch, nên gọi là thanh tịnh.
Đức Phật thuyết pháp không phải lợi ích riêng cho bà Vi Đề
Hy, mà chính muốn tất cả kẻ hữu duyên đồng được tế độ, nên Thế Tôn mới bảo
ngài A Nan thọ trì và tuyên thuyết lại cho đại chúng nghe . "Do nhờ sức
Phật" ý nói tịnh cảnh tuy nhiệm mầu , nhưng nhờ sức Phật gia bị nên khi tu
quán môn này hành giả sẽ được thấy cõi Cực Lạc. Vô sanh pháp nhẫn đây theo
hai ngài Thiện Đạo và Nguyên Chiếu, chỉ ước về địa vị sợ trụ. Đoạn trên là
đức Phật cứ theo định môn mà khai thị quán duyên.
Phật bảo Vi Đề Hy: "Ngươi là phàm phu, tâm tưởng yếu kém,
chưa được thiên nhãn, không thể ở xa mà trông thấy cõi Cực Lạc. Chư Phật
Như Lai có phương lạ khiến cho ngươi được thấy cõi kia"
Vi Đề Hy thưa: "Bạch đức Thế Tôn! Hôm nay con nhờ sức Phật
được thấy quốc độ kia. Nếu sau khi Thế Tôn tịch diệt, những chúng sanh
trược ác không lành, bị ngũ khổ bức não, phải làm t hế nào để được thấy
Phật A Mi Đà và cõi Cực Lạc?
Bà Vi Đề Hy, trước nhờ Phật hiện đài quang minh nên được
thấy cõi Cực Lạc. Nhưng phu nhơn vì lòng thương xót, muốn chúng sanh đời
sau được sự lợi ích về Tịnh Độ nên mới thưa hỏi phương pháp để được thấy
miền An Dưỡng và vị hóa chủ ở cõi ấy. Tấm lòng luôn luôn nghĩ đến sự lợi
ích cho chúng sanh này, cũng là bi tâm của Bồ tát.
"Ngũ khổ" có vị cho là năm món trước của bát khổ. Nhưng
thuyết này nếu căn cứ nơi đại bản Mi Đà, thì dường như đúng hơn. Theo kinh
Vô Lượng Thọ, những chúng sanh thọ sự bức não của ngũ ác, ngũ thống, ngũ
thiêu gọi là ngũ khổ. Ngũ ác là phạm năm điều lỗi của ngũ giới . Khi phạm
năm điều này, đương nhân phải chịu những kết qủa đau buồn do lầm lỗi của
mình, gọi là ngũ thống. Và do những tội lỗi ấy, tương lai sẽ bị đọa tam đồ
gọi là ngũ thiêu.
Mười Sáu Phép
Quán
1--Quán Sát Mặt Trời Sắp Lặn (Nhật Quán)
Đức Phật bảo: "Vi Đề Hy! Ngươi và chúng sanh nên chuyên
tâm, buộc niệm một chỗ, để tưởng cảnh giới tây phương. Phương pháp này
quán tưởng ấy như thế nào ?
Phàm tất cả những người, nếu không phải bị mù từ lúc sơ,
sanh, đều thấy mặt trời lặn. Vậy ngươi nên ngồi ngay thẳng, hướng về
phương tây, tâm chúng định một chỗ không được ái động, rồi quán tưởng mặt
trời sắp lặn hình như cái trống treo. Khi đã thấy thình tướng ấy, phải chú
tưởng cho thuần thục, làm sao lúc nhắm mắt mở mắt đều được thấy rõ ràng.
Môn nhật quán này là phương pháp quán tưởng thứ nhứt.
Câu "Vi Đề Hi! ngươi và chúng sanh" là lời trân trọng
khuyến nhủ của đức Phật, ý bảo: nếu Vi Đề Hy phu nhơn cùng chúng sanh muốn
lìa biển trần lao, lên bờ giải thoát, phải chú tâm nghe, suy nghĩ, và tu
tập theo phương pháp sau đây:
Môn quán thứ nhất "tưởng mặt trời sắp lặn" có ba thâm ý:
1. Tâm ý chúng sanh vẫn thường tán loạn, muốn thành tựu các
phép quán vi diệu sau, trước phải tập trung tư tưởng để lần lần đi sâu vào
thâm định.
2. Cõi Cực Lạc ở phương tây, đức Phật muốn cho hành giả tâm
niệm khuynh hướng về Tây phương, để sự vãng sanh d được thành tựu. Theo
Kinh Vô Lượng Thọ thì nếu kẻ nào dùng tâm nghi ngờ tu công đức tịnh độ,
tất sẽ lạc vào biên địa cõi Tây phương và có thể bị đọa trở lại kiếp thai
sanh. Vì thế cổ đức cho đây là phương tiện phá nghi và kiên cố thêm niềm
tin Cực Lạc.
3. Để cho hành giả tự biết nghiệp chướng mình nhẹ hay nặng
mà chuyên tâm sám hối.
Theo Thiện Đạo đại sư, vị tổ thứ hai của Tịnh độ tông, thì
người muốn trụ tâm nơi nhật quán, trước phải lựa chỗ thanh vắng ngồi kiết
dà, tuần tự giữ đúng theo pháp điều thân và điều tức. Kế đó lại tưởng tứ
đại nơi thân mình, địa đại tan về phương tây, thủy đại tan về phương bắc,
phong đại tan về phương đông, hỏa đại tan về phương nam, cho đến không còn
một mảy trần. Lại tưởng không đại của thân dung hợp với hư không mười
phương, khắp các nơi toàn là hư không, chẳng còn một điểm trần nào. Xong,
lại tưởng năm đại của tự thân đều không, duy còn có thức đại ngưng đọng
lặng trong, dường như mặt gương toàn sáng. Sau khi trải qua các phương
tiện trên, loạn tưởng được tiêu trừ, tâm lần lần an định. Rồi mới từ từ
xoay tâm hướng về phương Tây quán kỹ tướng mặt trời sắp lặn.
Nếu là bậc thượng căn, thì khi khởi quán, liền thấy tướng
mặt trời lặn hiện ra, đang khi cảnh hiện, hành giả hoặc thấy vầng nhật như
đồng tiền lớn, hoặc như mặt gương tròn to. Cứ nơi hiện tướng ấy mỗi người
tự thấy nghiệp chướng mình nặng hay nhẹ. Các tướng nghiệp ấy như sau: 1.
Hắc chướng, như mây đen che mặt trời. 2. Hoàng chướng, như mây vàng che
mặt trời. 3. Bạch chướng như mây trắng che mặt trời. Đại để như khi mặt
nhật bị các thứ mây khói che thì hình tướng không hiển lộ; khi tâm chúng
sanh bị nghiệp che, tất quán cảnh không đưọc sáng lặng rõ ràng. Nếu thấy
biết nghiệp tướng của mình, hành giả phải sửa sang đạo tràng cho nghiêm
sạch, rồi chí tâm sám hối, kỳ chừng nào nghiệp tiêu hết mới thôi.
Lúc tâm được thanh tịnh, tướng mặt nhật hiện ra sáng suốt
rõ ràng, hành giả cũng đừng sanh tâm chấp trước. Nếu khởi lòng tham chấp,
nhật tướng sẽ rung động, hoặc mờ ám, hoặc biến đổi thành nhiều màu, tự tâm
mình cũng không yên. Phải dứt lòng tham trước, nhiếp tâm vào định, các
tướng ấy sẽ mất. sự tà, chánh, đắc, thất của các môn quán sau cũng đồng
như đây. Đại để như quán mặt trời thấy mặt trời, tâm cảnh sáng lặng tương
ưng, gọi là chánh quán. Nếu quán mặt trời thấy các hình tướng tạp, tâm
cảnh rối động không tương ưng là tà quán.
2.
Quán Nước Ðóng Thành Băng (Thủy Quán)
Kế lại quán tưởng nước, thấy một vùng nước trong suốt đứng
lặng; phải thấy cho rõ ràng, ý đừng phân chia rối loạn. Khi thấy tướng ấy
rồi nên tưởng nước đóng thành băng. Đã thấy băng trong ngần sáng ánh, lại
tưởng đó là đất lưu ly.
Đây là môn thủy tưởng, cũng là phép quán thứ hai.
Môn quán này dẫn nhập có ba lớp chuyển biến; trước tưởng
nước, kế đó tưởng băng, sau lại tưởng lưu ly. Vì đất lưu ly ở cõi này
tuyệt không, mà nước đóng thành băng loài người có thể thấy biết được, nên
phải mượn phương tiện trên. Lại đất ở cõi này có núi non gò nỗng hầm hố
cao thấp không đồng, nên Phật muốn đem mặt nước để chỉ sự bằng phẳng của
bảo địa nơi cõi kia.
Theo cổ đức, người muốn tu phép quán này, về oai nghi trụ
thân cũng đồng như môn nhật quán. Hành giả nên ở chỗ vắng lặng, nơi giữa
đôi mày dán một miếng giấy trắng tròn bằng hạt đậu, rồi ngồi đối trước bồn
nước, một lòng chăm chú nhìn vào điểm trắng của bóng mình in trong nước.
Ví như người đứng gần ao nước sóng gợn thì thấy bóng gương mặt mình in
trong nước thoạt dài thoạt ngắn, thoạt rộng thoạt hẹp, thoạt có thoạt
không. Nếu người ấy đem hết tâm tư chăm chú nhìn vào bóng gương mặt, thì
giây lâu cảm thấy sóng lần lần nhỏ, tướng gương mặt lần hiển lộ. Đó là do
công năng của định tâm. Phương tiện chăm chú nhìn điểm trắng giữa đôi mày
của bóng mình in trong nước để đi đến định tâm cũng như thế. Nếu khi nhìn
thấy điểm trắng di động là tâm mình còn chưa lắng yên. Lúc thấy điểm trắng
không di động, phải thử xem định tâm của mình thuần nhất chưa; trước tiên
lấy hạt gạo; kế đó lấy hạt đậu, sau lại lấy hạt táo liệng vào bồn nước.
Nếu cả ba lần thử, vẫn thấy điểm trắng bất động, đó là tâm đã an trụ.
Phương tiện này khi tập thành, sự tưởng nước đứng lặng, tưởng băng, tưởng
đất lưu ly không khó.
3. Quán
Cảnh Tướng Trên Dưới Ðất Lưu Ly (Bảo Ðịa Quán)
Môn tưởng này thành rồi, tiếp quán thấy đất lưu ly trong
ngoài chói suốt. Dưới ấy có tràng kim cương thất bảo vàng ánh đỡ đất lưu
ly. Tràng này có đủ tám góc theo tám phương, mỗi mỗi phương diện do trăm
thứ báu hợp thành, mỗi mỗi bảo châu có ngàn tia sáng, mỗi mỗi tia sáng có
tám vạn bốn ngàn màu, chói đất lưu ly như ngàn ức mặt trời, nhìn không thể
xiết!
Đây là chuyển quán từ thể đất lưu ly trong suốt, hiện ra
các tướng trang nghiêm. Trong Vãng Sanh Luận, ngài Thiên Thân đã din tả:
"Quán tướng thế giới kia. Thắng diệu hơn ba cõi. Cứu cánh như hư không.
Rộng lớn không biên tế". Mấy câu này là thuyết minh chung về phần lượng
đất đai ở cõi Cực Lạc.
Đoạn kinh văn trên đây đã chỉ rõ sự trang nghiêm dưới bảo
địa. Trong ấy nếu tế phân ra, có bảy sự kiện. 1. Thuyết minh tràng thể là
chất vô lậu kim cương. 2. Bảo tràng đỡ đất sáng rỡ trang nghiêm. 3. Bảo
tràng có các góc theo tám phương. 4. Tràng ấy do trăm thứ báu hợp thành,
số lượng như trần sa. 5. Các báu phóng ra không lường tia sáng chiếu suốt
đến vô biên tế. 6. Ánh sáng nhiều màu sắc lạ khác nhau, soi khắp các
phương tùy cơ biến hiện. 7. Những quang sắc ấy tỏa muôn phương sáng rỡ như
ngàn ức mặt trời; người mới sanh về không thể nhìn khắp hết được. Có lời
khen rằng:
Kim cương thất bảo tràng,
Rực rỡ sắc thần quang!
Tám mặt thành châu báu,
Muôn phương tỏa ánh vàng.
Nhiệm mầu trăm niệm dứt,
Trong sạch điểm trần tan.
Quán ngộ vô sanh nhẫn,
Siêu vào Cực Lạc bang!
Trên đất lưu ly
có dây hoàng kim xen lẫn cùng thất bảo, phân chia các khu vực rành rẽ
trang nghiêm. Mỗi mỗi thứ báu có năm trăm sắc kỳ quang. Các ánh sáng này
hình như hoa, hoặc như trăng, sao, chiếu lên hư không kết thành đài quang
minh lơ lửng. Ngàn muôn lâu các do trăm thứ báu hợp thành, mỗi mỗi lâu
đài, hai bên đều có trăm ức tràng hoa cùng vô lượng nhạc khí để trang
nghiêm. Tám thứ gió nhẹ mát từ những đài quang minh thổi ra, cổ động các
nhạc khí, din thành tiếng: khổ, không, vô thường, vô ngã.
Trước đã nói sự trang nghiêm dưới đất lưu ly, đoạn này lại
trần thuật cảnh trang nghiêm nơi bảo địa và hư không. Theo ngài Thiện Đạo,
dây vàng chỉ cho đường sá bằng vàng ròng phân chia các khu vực dường như
những sợi dây bằng vàng. Có chỗ nói là từng khoảng cột trụ thấp treo dây
liên tỏa bằng vàng. - Cực Lạc, hoặc lấy tạp bảo làm đất, lưu ly làm đường;
hoặc lấy lưu ly làm đất, bạch ngọc làm đường, hoặc lấy tử kim, bạch ngân
làm đất, trăm báu làm đường; hoặc lấy ngàn muôn thứ báu làm đất, hai, ba
thứ trân bảo làm đường; hoặc lấy bất khả thuyết thứ báu làm đất, bất khả
thuyết thứ báu làm đường. Như thế, đất đai và đường sá do từ một cho đến
vô lượng thứ báu thay đổi xen lẫn hợp thành, mỗi mỗi hào quang, màu sắc
đều không đồng ma không tạp loạn. Hành giả chớ lầm tưởng đường sá chỉ bằng
vàng mà không có các thứ báu khác.
Từ câu "mỗi mỗi thứ báu có năm trăm sắc kỳ quang" về sau,
là nói sự trang nghiêm trên hư không. Trong ấy có sáu điểm: 1. châu báu
phóng ra nhiều ánh sáng; 2. Nói các thí dụ để hiển tướng của ánh sáng; 3.
Ánh sáng kết thành đài quang minh; 4. Ánh sáng biến thành lâu các; 5. Áng
sáng biến thành tràng hoa và nhạc khí; 6. Từ quang đài phát ra gió nhẹ cổ
động nhạc khí thành tiếng pháp. Gió sanh từ tám phương nên nói tám thứ, vì
cõi kia không thời tiết, đức Phật muốn tỷ đối cõi này nên gọi là "tám". Có
lời khen rằng:
Đất báu trang
nghiêm khó sánh lường,
Nhiệm mầu quang
sắc chiếu mười phương,
Lầu châu các
ngọc hòa thanh nhạc,
Lá bích hoa
quỳnh lẫn diệu hương.
Bảo đài lấp lánh
vẻ kim ngân,
Bảo cái quang
huy tự chuyển vần
Phi phất bảo
tràng theo gió thoảng,
Hư không nghìn
sắc bảo hương vân.
Tùy tâm nhạc báu
lững lờ xoáy,
Buông tiếng viên
âm, ánh sáng dài.
Trần niệm ngàn
muôn đều tuyệt tích.
Không gian thánh
chúng nhẹ nhàng bay.
Khi môn tưởng
này đã thành, phải quán mỗi mỗi chi tiết cho cực rõ ràng, nhắm mắt mở đều
có thể thấy, không để tan mất duy trừ giờ ăn ngủ, ngoài tất cả thời đều
ghi nhớ việc ấy. Tưởng được như thế gọi là thấy cõi Cực Lạc về phần thô.
Nếu được tam muội, hành giả sẽ thấy rõ ràng cảnh tướng của đất nước kia,
không thể kể xiết.
Đây là môn địa tưởng, thuộc về phép quán thứ ba.
Đức Phật bảo ngài A Nan: "Ông nên ghi nhớ dạy của ta, để vì
tất cả chúng sanh muốn thoát khổ đời sau truyền thuyết môn địa quán này.
Nếu thành tựu phép tưởng đây, sẽ trừ được trong tám mươi ức kiếp sanh tử.
Khi xả báo thân, kẻ ấy quyết định sanh về tịnh quốc, nơi lòng không còn
nghi ngại".
Quán như thế, gọi là chánh quán. Nếu tưởng sai khác, là tà
quán.
Cảnh Cực Lạc tuy nhiệm mầu, nhưng người tu nếu dùng lòng
tín thành chuyên chú, y theo lời dạy mà hành trì, nhờ sức Phật gia bị, sẽ
tự được thấy. Môn tưởng này có hai phần: nếu thấy phần thô thuộc về tiệm
tưởng quán, thấy phần tế diệu gọi là thật quán.
Chúng sanh từ vô lượng kiếp đến nay hằng đọa tam dồ chịu
nhiều nỗi khổ, dù được hưởng phước nhơn thiên cũng mong manh như bọt nước,
sương mai. Người nào truyền pháp Tịnh độ để cho loài hữu tình được giải
thoát, tức là làm thỏa mãn bi tâm của Phật và bản hoài xuất thế của Như
Lai. Cho nên đấng Điều Ngự mới ân cần bảo ngài A Nan tuyên hoá. Kinh Thanh
Tịnh Giác nói: "Nếu người nào đối với môn Tịnh Độ nghe như không nghe,
biết như không biết, tất kẻ ấy vừa ở tam ác đạo ra hoặc còn nhiều tội
chướng, nên không sanh được lòng tin tưởng. Như Lai nói kẻ ấy kém phúc
duyên trên đường giải thoát. Lại Kinh nói: "Nếu người nào nghe pháp Tịnh
Độ liền thương mừng rơi lệ, cảm động đến các chân lông nơi thân đều rợn
đứng, nên biết kẻ ấy đời trước đã từng nghe, tin và tu tập môn này. Như kẻ
ấy chánh niệm tu hành, tất sẽ được vãng sanh".
Tóm lại, môn địa quán nếu tu thành, tất diệt được vô biên
tội chướng. Đời nhà Đường bên Trung Hoa, Đại Hạnh pháp sư cất am ở Thới
Sơn tu tịnh nghiệm. Qua hai mươi mốt ngày chuyên tưởng, tâm nhãn pháp sư
thông suốt, thấy rõ đất lưu ly. Đến sau trong lúc đau bịnh, tướng ấy lại
hiện, ngài bảo đồ chúng: "Ta không quán tưởng mà đất báu hiện ra, đây tất
là duyên lành sanh An dưỡng vậy".
Công đức địa quán quả thật không lường!
4. Quán
Tưởng Cây Báu (Bảo Thọ Quán)
Đức Phật bảo A Nan và Vi Đề Hy: "Môn địa tưởng đã thành, kế
tiếp quán cây báu. Muốn tu phép quán này, phải tưởng rành rẽ bảy lớp hàng
cây, mỗi cây cao tám ngàn do tuần, đầy đủ hoa lá thất bảo. Mỗi mỗi hoa lá
hiển phát những quang sắc báu lạ. Trong sắc lưu ly chiếu ánh sáng vàng,
trong sắc pha lê chiếu ánh sáng đỏ, trong sắc mã não chiếu ánh sáng xa cừ,
trong sắc xa cừ chiếu ánh sáng lục chân châu. Đại khái các cây, hoa, lá
đều bằng san hô, hổ phách, hoặc tất cả thứ dị bảo, trang nghiêm rực rỡ.
Trên mỗi mỗi cây có bảy lớp lưới diệu chân châu che phủ;
giữa mỗi tầng lưới có năm trăm ức cung điện diệu hoa, nghiêm đẹp như cung
Phạm vương. Trong đó có các thiên đồng, mỗi vị trang nghiêm bằng các chuỗi
ngọc gồm năm trăm ức hạt Thích Ca Tỳ Lăng Già Ma Ni. Ánh sáng của những
hạt ngọc này chiếu xa đến một trăm do tuần, vô cùng rực rỡ như quang minh
của trăm ức vầng nhật nguyệt hòa hợp. Ngoài những hạt ngọc nghiêm sức còn
xen lẫn các châu báu khác, màu sắc đều là bậc thượng.
Cõi Cực Lạc rộng rãi vô biên, mỗi khu vực đều có bảy lớp
hàng cây, đây là chỉ diển tả một phương xứ. Do tuần cũng gọi du thiện na,
là khoảng cách giữa hai dịch đình (trạm) bên Thiên Trúc; theo nhiều nhà
chú giải, lấy bốn mươi dặm làm chuẩn định. Các cây thất bảo, có cây thuần
là một thứ báu, có cây do hai, ba, bốn, cho đến nhiều thứ báu tạo thành.
Chẳng hạn như thân cây bằng tử kim, cành bằng bạch ngân, lá bằng san hô,
hoa bằng bạch ngọc, trái bằng chân châu. Những chất báu, có thứ màu nào
chiếu ánh sáng nấy, có thứ lại phóng ra ánh sáng khác. Đây đều do tịnh tâm
vô lậu và công đức vi diệu của Phật A Mi Đà lưu xuất.
Các bảo thọ, mỗi cây có bảy tầng cao, trên mỗi tầng có lưới
châu bao phủ, giữa mỗi tầng lưới có cung điện diệu hoa, trong cung điện có
các thiên đồng, và mỗi thiên đồng hình mạo nghiêm đẹp, trang sức bằng
chuỗi ngọc cùng các thứ dị thảo, Thích Ca Tỳ Lăng Già, Trung hoa dịch là
Năng Thánh; Ma Ni, dịch là Vô Cấu, hoặc Như ý châu. Có lời khen rằng:
Tịnh tâm, công đức nhiệm mầu
sanh,
Bảy lớp hàng cây diệu quả
thành,
Ngọc vàng lá lá
Châu báu cành cành
Rực rỡ ma ni sắc diệu thanh.
Từ bi đạo chánh
Xuất thế căn lành
Lưới báu tầng tầng phủ khắp
quanh.
Cung điện diệu hoa bày lộng
lẫy,
Nghiêm đẹp thiên đồng trình mỗi
vẻ,
Ngàn muôn khôn tả nét tinh anh!
Những cây báu ấy
hàng hàng đối nhau, lá lá thuận nhau, giữa khoảng các lá sanh hoa đẹp mầu,
trên hoa tự nhiên có trái thất bảo. Mỗi mỗi lá cây rộng hai mươi lăm do
tuần, có ngàn màu sắc, và trăm thứ đường gân hình như chuỗi anh lạc của
chư Thiên. Các hoa chói lộ sắc vàng diêm phù đàn, rực rỡ như những vòng
lửa, uyển chuyển giữa lá. Từ hoa lạ nổi sanh trái quí hình như bình báu
của trời của trời Đế Thích. Và từ trái mầu chiếu ánh sáng rực rỡ hóa thành
tràng phan cùng vô lượng bảo cái. Trong bảo cái ảnh hiện tất cả Phật sự
của ba ngàn thế giới và y chánh mười phương cõi Phật.
Khi thấy bảo thọ rồi, nên theo thứ lớp quán thân cây, cành,
lá, hoa, quả, mỗi mỗi đều cho rõ ràng.
Đây là môn thọ tưởng, thuộc về phép quán thứ tư.
Tất cả cây báu ở cõi Cực Lạc đều do công đức vi diệu của
Phật A Mi Đà hóa hiện, nên khác với cây nơi nõi Ta Bà. Những cây ấy đều
cao lớn bằng nhau, không có cây nào mới sanh hoặc cỗi chết, cũng không có
từ thấp nhỏ rồi lần lần lớn lên. Đoạn trên là thuyết minh sự trang nghiêm
sai biệt của cành, lá, hoa, quả các bảo thọ. Phật sự là những tướng: thị
sanh, xuất gia, thành đạo, thuyết pháp, nhập nê hoàn. Chánh báo chỉ cho
người, y báo chỉ cho cảnh. Các bảo thọ, từ thân cây, cành, lá, hoa, quả,
mỗi loại đều do từ một cho đến nhiều thứ báu hợp thành; cây cao tàng rộng,
hoa quả lại nhiều, sự thần biến cũng vô lượng. Một cây đã vậy thì các cây
khắp trong nước cũng thế, duy trừ bồ đề thọ của Phật. Trong câu kết, vì sợ
tâm ý hành giả tạp loạn, nên đức Phật dạy phải tuần tự quán mỗi chi tiết
từ thân cây, lưới báu, cung điện, thiên đồng cho đến trái mầu hiện ra
tràng phan, bảo cái. Khi sức quán tưởng đã thành thục rồi, các cảnh ấy
đồng thời hiện ra trước mắt. Có lời khen rằng:
Trang nghiêm đâu chỉ một,
Mầu nhiệm có muôn ngàn!
Khắp xứ kỳ trân bảo,
Đầy trời vô cấu quang.
Cây hòa lưới báu trùm không
điện,
Trái hiện mười phương cõi thế
gian.
5 - Quán Ao
Nước Bát Công Ðức (Bảo Trì Quán)
Kế lại quán tưởng nước các bảo trì. - cõi Cực Lạc có tám ao
nước bát công đức, mỗi ao do bảy báu hợp thành. Những thứ báu công đức,
mỗi ao do bảy báu hợp thành. Những thứ báu này tánh chất nhu nhuyn, từ như
ý châu vương sanh ra. Nước ao phân thành mười bốn chi nhánh, mỗi dòng
chiếu lộ sắc mầu bảy báu. Thành ao bằng vàng ròng, đáy ao trải cát kim
cương tạp sắc. Mỗi ao nước có sáu mươi ức hoa sen thất bảo, và mỗi hoa sen
tròn rộng mười hai do tuần.
- Cõi Cực Lạc có rất nhiều ao báu, trong đây nói tám ao là
chỉ kể một khu phận và để cho vừa với cảnh của quán trí. Theo lời giải của
cổ đức, tám bảo trì có những lạch thông nhau, chia thành mười bốn dòng
nước chảy qua lại các ao. Từ thành bực, các lót, cho đến nước trong ao đều
là bảy báu do Như ý châu vương sanh ra. Trong đây nói thành ao bằng vàng
ròng, đáy ao trải cát kim cương tạp sắc, cho đến nói bảy báu, cũng là chỉ
kể một phương diện. Thật ra các bảo trì hoặc thuần một chất báu, hoặc do
hai, ba, bốn cho đến vô lượng chất báu xen lẫn tạo thành.
Nước ao đã từ Như ý châu vương sanh, tức là thuộc về như ý
thủy. Nước này có tám công đức: 1. Trong sạch, trơn nhuần, nhiếp về sắc
nhập. 2. Thơm tho không mùi hôi, nhiếp về hương nhập. 3. Nhẹ nhàng. 4. Mát
mẻ. 5. Nhu nhuyễn; ba điều này nhiếp về xúc nhập. 6. Ngon ngọt, nhiếp về
vị nhập. 7. Uống vào điều hòa, thích ý. 8. Uống xong, tăng ích thân căn,
tiêu trừ các bệnh; hai điều nhiếp về pháp nhập.
Nước ma ni trong ao chảy lên xuống theo cọng sen và luồn
vào các cánh hoa, phát ra tiếng nhiệm mầu. Âm thanh này tuyên din những
pháp khổ, không, vô thường, vô ngã, các môn Ba La Mật, hoặc khen ngợi
tướng tốt của chư Phật. Từ như ý châu vương lại tuôn ra ánh sánh vàng mầu
nhiệm, hóa thành các sắc chim bá bảo. Tiếng chim thanh diệu hòa nhã cùng
trổi giọng khen ngợi niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng.
Đây là môn tưởng ao nước bát công đức, thuộc về phép quán
thứ năm.
Đoạn nước ma ni chảy lên xuống, theo trong chánh văn có mấy
chữ "tầm thọ thượng hạ". Ngài Nguyên Chiếu giải chữ "thọ" là cọng sen, ý
nói nước ma ni chảy lên cọng sen luồn vào các cánh hoa phát ra tiếng pháp,
rồi theo cọng sen chảy xuống ao. Ngài Thiện Đạo lại giải rộng hơn, là
chẳng những nước chảy lên cọng sen mà còn lên bờ chảy lên xuống theo các
cây báu quanh ao, vì đây thuộc về như ý thủy. Nước báu phát ra diệu âm
không những chỉ nói bao nhiêu pháp, mà còn thuyết minh niệm mê vọng của
chúng sanh, tâm bi trí của Bồ tát hoặc nói pháp nhơn thiên, pháp nhị thừa,
pháp đại thừa về hàng địa tiền, địa thượng, hoặc nói tam thân của Phật;
trong chánh văn duy dẫn phần đại lược. "Các sắc chim bá bảo", ý nói chẳng
phải một loài chim mà có nhiều thứ, như trong tiểu bản nói các hóa cầm:
bạch hạc, khổng tước, anh võ, xá lợi, ca lăng tần già, và những giống:
phù, nhạn, oan ương theo kinh văn sau đây.
"Phật" là đấng Thầy Vô Thượng phá tà chấp, khuyên hướng
thượng của chúng sanh. "Pháp" là thuốc mầu trừ bịnh độc phiền não, hồi
phục pháp thân thanh tịnh cho loài hữu tình. "Tăng" là ruộng phước của
quần sanh, nếu kẻ nào dùng lòng tín hướng cúng dường sẽ được quả phước
nhơn thiên và gieo nhân giải thoát.
Ma ni châu đã sanh nước bát đức, lại phóng sắc kim quang,
hiển rõ chẳng những có công năng phá trừ tối tăm, mà còn hay thi tác Phật
sự.
Có lời khen rằng:
Trang nghiêm sáng sạch trời
Thanh Thái
Ao báu mênh mang dường đại hải
Chim hót thanh âm giục tỉnh mơ
Nước diệu trong ngần trôi lững
lờ
Ánh sáng thành ao buông rực rỡ
Nhiều sắc hoa sen đua hớn hở.
Bồ tát nhẹ đi tỏa bảo hương
Bảo hương tụ thành mây bảo
quang
Bảo quang vân hiện nghìn bảo
cái
Bảo cái hư không che bảo tràng
Bảo tràng phi phất vây kim điện
Kim điện lưới châu thần diệu
biến
Diệu biến vô cùng bảo ngọc linh
Bảo linh bảo nhạc ngàn trùng
chuyển.
Kim điện Phật tuyên pháp diệu
thường
Hằng sa thánh chúng lắng tư
lương
Hữu duyên mong kẻ đồng tâm
nguyện
Xả thọ đồng sanh tịnh pháp
đường.
6. Quán
Chung Về Ðất Cây, Ao, Lầu Báu (Tổng Tướng Quán)
Nơi cõi báu Cực Lạc mỗi khu vực có năm trăm ức bảo lâu.
Trong những lâu các ấy có vô lượng chư thiên thường trổi thiên nhạc. Lại
có vô lượng nhạc khí lơ lửng giữa hư không như bảo tràng ở cõi trời, không
ai trổi tự nhiên phát thành tiếng. Những tiếng này đều din nói môn niệm
Phật, niệm Pháp, niệm Tỳ Khưu Tăng.
Khi tưởng chung các tướng trên gồm bảo địa, bảo thọ, bảo
trì, bảo lâu được thành rồi, gọi là thấy thế giới Cực lạc về phần thô.
Đây là môn tổng tưởng, thuộc về phép quán thứ sáu.
Nếu thấy tướng này, sẽ trừ được nghiệp ác rất nặng trong vô
lượng ức kiếp. Khi mạng chung, kẻ ấy quyết định được sanh về cõi cực Lạc.
Quán như thế, gọi là chánh quán. Nếu tướng sai khác, là tà
quán.
Nếu hành giả duy tưởng đất cây, ao, mà chưa quán lầu các,
thì sự thấy cõi Cực Lạc chưa được tinh, mà cảnh Tịnh độ cũng chưa gọi là
trang nghiêm. Thế giới Cực Lạc rất rộng lớn gồm nhiều khu vực, mỗi khu vực
có năm trăm ức bảo lâu. "Chư thiên thường trổi thiên nhạc" là lược thuật
sự trang nghiêm bên trong lầu các; "nhạc khí lơ lửng giữa hư không" là nói
sự trang nghiêm bên ngoài.
Đoạn chánh văn trên, trước tiên đức Phật dạy tưởng riêng về
lầu các, sau bảo quán chung cả đất, cây, ao, lầu báu. Cho nên môn thứ sáu
này có hai phương diện: phần riêng là bảo lâu quán, phần chung là tổng
tưởng quán nay chỉ lấy tổng quán làm điểm chánh.
Đức Phật bảo A Nan và Vi Đề Hy: "Hãy để tâm lắng nghe và
khéo suy nghĩ! Ta sẽ vì các ngươi mà giảng thuyết phân biệt pháp trừ khổ
não. Các ngươi nên ghi nhớ rồi giải nói rành rẽ lại cho khắp trong đại
chúng nghe".
Khi đức Thế Tôn vừa nói lời ấy xong, thì Phật Vô Lượng Thọ
đã hiện thân trụ lập giữa hư không, hai vị đại sĩ Quán Thế Âm, Đại Thế Chí
đứng đầu tả hữu. Ánh quang minh từ thân của Tây phương tam thánh tỏa ra
rực rỡ, nhìn không thể xiết, dù cho trăm ngàn sắc vàng diêm phù đàn cũng
không thể sánh ví được.
Vi Đề Hy phu nhơn được thấy Vô Lượng Thọ Như Lai, liền cúi
đầu đảnh l Phật và thưa rằng: "Bạch đức Thế Tôn! nay con nhờ từ lực được
thấy Phật A Mi Đà và hai vị Bồ Tát. Chúng sinh đời sau phải làm thế nào để
quán tưởng Tây phương tam thánh?"
Đức Thế Tôn vì thương xót chúng sanh bị lửa tam độc thiêu
đốt, mãi trôi nổi trong biển luân hồi, nên mới bảo ngài A Nan và Vi Đề Hy
phu nhơn thọ trì quán pháp sau đây rồi tuyên thuyết lại cho đại chúng cùng
nghe. Bởi đấng Hóa Chủ cõi Ta Bà vì lợi sanh mà trụ tưởng nơi tây phương,
nên bậc Từ tôn miền An Lạc cảm thông mới hiện thân ở trời đông độ. Đây là
đạo giáo hóa của hai bậc chí thánh tương ưng để mở đầu cho sự khai giảng
pháp Quán Phật tam muội. Và cũng bởi thánh chúng trong pháp hội, phần
nhiều căn cơ còn kém nên Tây phương tam thánh mới giúp duyên bằng cách
trình tượng giữa hư không.
Hỏi: Đức của Phật A Mi Đà rất tôn cao, ngài đã vì bản
nguyện mà đến Ta Bà, sao không thị hiện ngồi đoan chính trên hoa sen, lại
hiện thân đứng?
Đáp: Đó là vì chúng sanh ở cõi này bị nhiều sự khổn ác vây
quanh, kiếp sống lại vô thường ngắn ngủi, cần được mau vớt khỏi dòng mê,
nên đức Vô Lượng Thọ Như Lai mới hiện tướng đại bi cấp cứu.
Hỏi: Y chánh cõi Tây phương quá nhiệm mầu, mà chúng sanh
miền ngũ trược loạn tưởng phân vân, màn vô minh dày đặc, làm sao tác quán
được tường tất?
Đáp: Nếu duy cứ theo vọng nghiệp của chúng sanh thì chỉ
luống công mệt sức. Như hành giả biết chí tâm nương cầu sức Phật gia bị,
tất tùy theo chỗ quán đều sẽ được thấy. Muốn như thế, hành giả nên trang
nghiêm đạo tràng, quì trước tượng Phật hết lòng hổ thẹn, bi thương rơi lệ,
sám hối tội chướng của mình. Lúc ấy nên khải thỉnh đức Thích Ca Mâu Ni và
mười phương hằng sa chư Phật, lại niệm bản nguyện của Mi Đà Thế Tôn, tâm
nghĩ miệng nói: "Đệ tử pháp danh.... là kẻ phàm phu, tội chướng sâu nặng.
Nguyện Phật xót thương hộ niệm, khiến cho con được khai ngộ và thành tựu
cảnh sở quán. Nay con nguyện xả thân mạng, nương về đức A Mi Đà Thế Tôn,
như được thấy cùng không đều nhờ ân lực của Phật". Kế đó tiếp tục chí tâm
l sám, rồi dẹp hết muôn duyên y theo phương pháp bền chí một lòng tu tập.
Hành trì như thế lâu ngày tự sẽ được thấy, bằng chẳng vậy dù tiêu hao
nhiều năm tháng, quán hạnh cũng khó thành. Khi quán cảnh hiện ra có hai
thứ: 1. Do tưởng mà thấy, vì còn có tri giác, nên tuy cảnh hiện sự thấy
chưa được rõ ràng. 2. Do định mà thấy, bởi tri giác trong ngoài đã diệt,
nên tịnh cảnh hiện ra nhiệm mầu không thể so sánh nghĩ bàn được.
7- Quán
Tưởng Tòa Sen (Hoa Tòa Quán)
Đức Phật bảo Vi Đề Hy: Muốn quán đức Phật kia, trước tiên
phải khởi tưởng trên đất thất bảo có hoa sen. Mỗi cánh sen này ửng sắc bá
bảo, có tám muôn bốn ngàn đường gân dường như bức vẽ thiên nhiên. Mỗi
đường gân có tám muôn bốn ngàn tia sáng, chiếu suốt rõ ràng. Các chi tiết
trên đây, phải quán thấy cho rành rẽ.
Toàn hoa sen có đủ tám muôn bốn ngàn cánh, cánh nhỏ nhứt
cũng rộng hai trăm năm mươi do tuần. Trong mỗi cánh có trăm ức hạt Ma Ni
Châu Vương trang nghiêm sáng chói. Mỗi hạt châu ma ni phóng ra ngàn sắc
quang minh như lọng thất bảo che khắp trên mặt đất.
Muốn tưởng đức Phật, trước phải quán tòa sen của ngài
thường ngự, ví như bề tôi cung kính chiêm bái vua, trước tiên từ dưới thềm
nhìn lên. Đường gân như bức vẽ thiên nhiên, là chỉ cho sự khéo đẹp. Hoa
sen có tám muôn bốn ngàn cánh, tiêu biểu cho đức Vô Lượng Thọ Như Lai đã
trừ diệt 84.000 trần lao, thành tựu 84.000 diệu hạnh. Cánh sen nhỏ nhứt
rộng 250 do tuần, hiển thị tòa sen này to lớn vô cùng, tất nhiên thân
tướng của Phật cũng cao lớn vô tỷ. Mỗi cánh sen trang nghiêm bằng trăm ức
hạt ma ni châu vương, mỗi hạt châu phóng lên hư không ngàn tia sáng tụ lại
hình như tàng lọng thất bảo che khắp trên mặt đất; một hạt châu đã thế,
trăm ức hạt châu cũng như vậy, mỗi cánh sen đã thế, 84.000 cánh cũng như
vậy, chỉ rõ sự trang nghiêm kỳ lạ của hoa tòa thật vô cùng!
Đài sen được tạo thành bằng chất báu chính là Thích Ca Tỳ
Lăng Già. Ngoài ra, còn có tám vạn ngọc báu kim cương, chân thúc ca, phạm
ma ni và lưới diệu chân châu trang sức. Trên đài sen tự nhiên có bốn trụ
Bảo Tràng; mỗi trụ cao lớn như trăm ngàn muôn ức núi Tu Di. Trên Bảo Trụ
có mành báu và năm trăm ức vi diệu bảo châu che phủ, hình như cung trời Dạ
Ma trang nghiêm rực rỡ. Mỗi hạt bảo châu có tám muôn bốn ngàn ánh sáng,
mỗi ánh sáng phát ra tám muôn bốn ngàn kim sắc khác lạ soi khắp cõi báu,
tùy mỗi nơi hiện mỗi mỗi tướng kim sắc khác nhau. Các tướng ấy như đài kim
cương, hoặc lưới chơn châu hay mây tạp hoa... ở khắp mười phương, tùy ý
biến hiện làm những Phật sự.
Đây là môn hoa tòa tưởng, thuộc về phép quán thứ bảy.
Châu thúc ca, Trung Hoa dịch là xích sắc bảo, một loại báu
sắc đỏ. Phạm ma ni là thứ ngọc như ý trong ngần sáng sạch vô cùng. Dạ Ma
Trung Hoa dịch: Thời Phận, thuộc về cõi trời Không cư, ở tầng thứ ba của
Dục giới. Cõi trời này hoa quang cực trang nghiêm sáng suốt, nên trong
kinh đem ra để thí dụ. Nói "tùy ý", chỉ rõ còn nhiều biến tướng khác lạ
nữa.
Đại khái đoạn kinh này din tả trên đài sen (tức gương sen)
có bốn trụ bảo tàng trên trụ có mành báu và diệu châu, các châu báu phóng
vô lượng quang sắc khác nhau soi khắp mười phương, tùy ý hiện ra vô số
tướng lạ để làm những Phật sự.
Đức Thế Tôn bảo A Nan: Hoa sen mầu nhiệm ấy do nguyên lực
của Tỳ Khưu Pháp Tạng thành tựu. Muốn quán đức Phật Kia, trước phải tưởng
hoa tòa này. Khi tu môn tưởng đây, không được quán tạp, phải quán từ đài
sen đến mỗi mỗi cánh, hạt châu, ánh sáng, trụ bảo tràng, đều cho rõ ràng,
như người soi gương tự thấy mặt mình. Phép tưởng này nếu thành, sẽ diệt
trừ tội chướng trong năm muôn ức kiếp sanh tử, quyết định được sanh về thế
giới Cực Lạc.
Quán như thế, gọi là chánh quán. Nếu tưởng sai khác, là tà
quán.
Đức Phật A Mi Đà trong nhiều kiếp lâu xa về trước, tiền
thân là một vị quốc vương, được gặp Thế Tự Tại Vương Như Lai, bỏ nước xuất
gia, hiệu là Pháp Tạng. Vị Tỳ kheo này phát bốn mươi tám điều đại nguyện
để tạo thành cõi Tịnh độ. Thế thì quả tướng trang nghiêm ở Cực Lạc đều do
nguyện lực mà thành, đâu phải chỉ riêng tòa sen? Chẳng qua điểm này được
nêu lên, chính để hiển thị miền An Dưỡng tức là nguyện thể của Phật, và
nguyện do tâm mà phát nên cũng là tâm thể của Phật, và nguyện do tâm mà
phát nên cũng là tâm thể của Như Lai. Thế thì biết nguyện lực không thể
nghĩ bàn vậy. Có lời khen rằng:
Sen mầu lạ,
Muôn cánh chói kỳ trân.
Đài ánh bảo tràng trùm lưới
báu.
Quang thi Phật sự biến hoa
thần.
Nghìn xứ nổi hương vân!
8- Quán Tưởng Phật và
Bồ Tát (Tưởng Quán)
Này A Nan, Vi Đề Hy! Khi thấy tướng hoa tòa rồi, kế tiếp
nên quán hình tượng Phật. Việc ấy như thế nào? Chư Phật Như Lai là thân
pháp giới vào trong tất cả tâm tưởng của chúng sanh. Cho nên khi tâm các
ngươi tưởng Phật, tâm ấy chính là ba mươi hai tướng, tám mươi vẻ đẹp tùy
hình; tâm ấy làm Phật, tâm ấy là Phật. Biển chánh biến tri của Phật từ nơi
tâm tưởng mà sanh. Vì thế các ngươi nên một lòng hệ niệm quán kỹ đức Đa Đà
A Dà Độ, A La Ha Tam Miệu Tam Phật Đà kia.
Chúng sanh từ vô lượng kiếp đến nay, phần nhiều chưa thấy
chân thân của Phật, chỉ thấy hình tượng, nên trước tiên đức Thế Tôn dạy về
môn tượng quán. Câu "việc ấy như thế nào" có những ý nghĩa; Việc quán Phật
như thế nào? Tại sao phải tu môn Phật tưởng? Đoạn trước bà Vi Đề Hy chỉ
hỏi đức A Mi Đà, nay Như Lai lại nói chúng chư Phật là muốn hiển thị chư
Phật đồng một pháp thân. Danh từ "pháp giới" đây, hàm ba ý nghĩa: tâm cùng
khắp, thân cùng khắp, và không chướng ngại. Pháp thân vẫn tự tại khắp nơi
nên khi chúng sanh dùng tịnh tâm tưởng Phật, thì Phật thân tùy ứng. Trạng
thái này như gương trăng tròn sáng trên nền trời cao, vẫn không có ý tư
riêng, nếu nước lặng trong thì muôn dòng đều hiện bóng. "Tâm ấy" chỉ cho
tâm quán Phật của hành giả, vì do quán tưởng Phật nên tướng hiện trong
tâm, tức nơi tâm đủ tướng hảo của Phật. Chúng sanh y theo lời dạy, tâm
này, nên gọi "tâm này làm Phật". Vì e hành giả tưởng lầm môn Phật quán khi
thành do từ bên ngoài mà được, nên lại nói "tâm ấy là Phật". Trí huệ của
Như Lai đầy khắp pháp giới bao la, sáng suốt không chướng ngại, biết các
Pháp một cách chính xác gọi là "biến chánh biến tri". Đức của Phật vô
biên, nay chỉ lược cử một chánh biến tri để nhiếp tất cả các thứ khác. Và
vì muôn đức của Như Lai sở dĩ được thành tựu, khởi thỉ đều do sự phát tâm
tu hành, nên gọi "từ nơi tâm tưởng mà sanh".
Buộc tâm chuyên chú một cảnh gọi là hệ niệm. Đa đà a dà độ,
Trung Hoa dịch là Như Lai, A la Ha là Ứng cúng, Tam miệu tam Phật đà là
Chánh biến tri. Đây là lược cử 3 đức hiệu trong mười hiệu của Phật.
Muốn quán Phật Vô Lượng Thọ trước phải tưởng hình tượng làm
sao cho khi nhắm mắt mở mắt đều thấy một bảo tượng như sắc vàng diêm phù
đàn, ngồi trên tòa sen kia. Lúc thấy Phật tượng rồi tâm nhãn tự được mở
mang rõ ràng sáng suốt. Bấy giờ hành giả thấy cõi Cực Lạc bảy báu trang
nghiêm, như: Bảo địa, bảo trì, hàng bảo thọ, trên cây có mành báu chư
thiên che phủ, các lưới báu giăng khắp giữa hư không.
Khi thấy cảnh tướng rất rõ ràng như nhìn vào bàn tay rồi
lại tưởng hai hoa sen lớn, một ở bên tả, một ở bên hữu của Phật, cả hai
đều giống như tòa sen trước. Xong lại tưởng hình tượng Quán Thế Âm Bồ Tát
ngồi tòa sen bên trái, tượng Đại Thế Chí Bồ Tát ngồi tòa sen bên mặt, thân
tướng đều rực rỡ như sắc vàng diêm phù đàn.
Tướng hảo của Tây phương tam thánh rất nhiệm mầu, hàng phàm
phu thô tâm không thể thấy hết được, nên phải mượn hình tượng tiêu biểu
cho chơn thân, dùng phương tiện từ d đi vào khó. Câu "ngồi trên tòa sen"
tức chỉ cho hoa đã din tả ở đoạn trước. Câu "bấy giờ hành giả..." đến
"giữa hư không", ý bảo dù đã thấy tượng Phật, cũng nên chú tâm đến y báo ở
Tây phương, đừng cho quên mất. Theo ngài Nguyên Chiếu, tòa sen của hai vị
Bồ tát tuy giống như hoa tòa của Phật, nhưng cứ nơi thân lượng, phải hơi
nhỏ hơn; kinh văn trên đây chỉ nói đại lược song học giả phải hiểu phần
thâm ý.
Phép quán này thành rồi, lại tưởng thân tướng của Phật và
Bồ Tát đều phóng ánh sáng vàng, chiếu các cây báu. Nơi mỗi gốc cây đều có
tượng Phật và hai vị Bồ tát ngồi trên tòa sen, như thế cho khắp cả bảo độ.
Quán như thế xong, hành giả lại tưởng tiếng nước chảy, ánh
sáng, các cây báu, những loài chim: phù, nhạn, oan ương nói pháp mầu, cho
đến khi xuất định, nhập định hằng được nghe thấy. Pháp mầu nầy dù cho khi
xuất định, hành giả phải ghi nhớ đừng quên, và cần phải hợp với Tu đa la.
Nếu pháp không hợp với khế kinh, gọi là vọng tưởng; như hợp, gọi là tưởng
thấy thế giới Cực Lạc về phần thô.
Đây là môn tưởng thứ tám. Phép quán này tu thành, trừ diệt
tội trong vô lượng ức kiếp sanh tử, ngay hiện đời hành giả tất chứng được
Niệm Phật tam muội.
Tưởng mỗi gốc cây đều có tượng Phật, Bồ tát, gọi là Đa thân
quán, tiêu biểu cho sự thần thông ứng hiện của Tam Thánh ở Tây Phương. Tu
đa la, Trung Hoa dịch là khế kinh. Môn tượng quán nếu thành, tất sẽ thấy
chơn thân, nên nói "hiện đời chứng được Niệm Phật tam muội".
9- Quán
Chân Thân Phật Vô Lượng Thọ (Phật Thân Quán)
Đức Phật bảo A Nan và Vi Đề Hy: Môn tưởng này đã thành tựu,
kế lại quán thân tướng quang minh của Phật Vô Lượng Thọ. Này A Nan! Ông
nên biết thân Phật A Mi Đà rực rỡ như sắc vàng diêm phù đàn của trăm ngàn
muôn ức cung trời Dạ ma. Phật thân cao sáu mươi sáu vạn ức na do tha hằng
hà sa do tuần. Tướng bạch hào giữa đôi mày uyển chuyển xoay về bên hữu như
năm núi Tu di. Mắt Phật xanh trắng phân minh, rộng như nước bốn biển lớn.
Các chơn lông nơi thân tuôn ra ánh sáng như Diệu cao sơn. Viên quang của
Phật to rộng như trăm ức tam thiên đại thiên thế giới. Trong ấy có trăm
muôn ức na do tha hằng hà sa Hóa Phật, mỗi vị đều có vô số Hóa bồ tát làm
thị giả.
Vô Lượng Thọ Như Lai có tám muôn bốn ngàn tướng, mỗi tướng
có tám muôn bốn ngàn vẻ đẹp tùy hình, và mỗi vẻ đẹp lại có tám muôn bốn
ngàn tia sáng. Những tia sáng ấy soi khắp các cõi ở mười phương, thâu
nhiếp tất cả chúng sanh niệm Phật.
"Rực rỡ như sắc vàng diêm phù đàn" là nói về thể sắc; "trăm
ngàn muôn ức cung trời Dạ Ma", nói về thân lượng to rộng. Na do tha cũng
gọi Na du đa, Trung Hoa dịch là Ức. Số ức có ba hạng: mười muôn, trăm
muôn, ngàn muôn, nên các cổ đức định về số này không đồng. Thân Phật tuy
cao sáu mươi sáu vạn ức na do tha hằng hà sa do tuần, nhưng khi quán tùy
theo căn cơ, tâm lượng, mỗi chúng sanh đều thấy khác nhau. Theo ngài Thiện
Đạo,nếu kẻ nào tâm lực kém yếu, chỉ nên thành kính chú tưởng một trong ba
tướng: nhục kế, bạch hào, hay thiên bức luân nơi chơn, sẽ lần lần được
thấy các tướng hảo khác.
Hỏi: Nếu tu các hạnh lành hồi hướng về Tây phương, đều có
thể vãng sanh. Tại sao ánh sáng của Phật soi khắp mười phương, lại chỉ
thâu nhiếp chúng sanh niệm Phật?
Đáp: Trong ấy có ba nghĩa. 1. Thuyết minh về thân duyên:
Chúng sanh khi khởi hạnh, thân l Phật, Phật liền thấy; miệng niệm Phật,
Phật liền nghe; ý tưởng Phật, Phật liền biết. Chúng sanh nhớ tưởng Phật,
Phật cũng ức niệm chúng sanh, kia và đây tương quan nhau, nên gọi là "thâu
nhiếp". 2. Thuyết minh về cận duyên: Chúng sanh nguyện thấy Phật, Phật
liền tùy niệm hiện thân, có cảm tất có ứng, gọi là "thâu nhiếp". 3. Thuyết
minh về tăng thượng duyên: Chúng sanh niệm hồng danh được tiêu tội trong
nhiều kiếp, khi lâm chung Phật cùng thánh chúng đến tiếp nghinh, các tà
nghiệp không thể làm chướng ngại. Có tiếng tất có vang, đây gọi là "thâu
nhiếp". Tóm lại, vì lý cơ cảm tương quan, nên ánh sáng của Phật mới thâu
nhiếp chúng sanh niệm Phật. Cho nên các hạnh khác dù gọi là lành, so với
công đức niệm Phật vẫn kém phần trực thiệp.
Hỏi: Người không niệm Phật, quang minh của Phật có thâu
nhiếp chăng?
Đáp: Nghĩa thâu nhiếp trên đây là luận về sự cơ cảm giữa
chúng sanh và Phật mà thôi. Thật ra, Phật A Mi Đà trải lòng từ bi bình
đẳng, phóng quang soi khắp mười phương, những chúng sanh niệm Phật cùng
không, đều ở trong vùng nhiếp thủ của Phật. Vậy sự đắc ích hay vãng sanh
được cùng không là do chúng sanh chớ không thể nói quang minh của Phật
thâu nhiếp có riêng tư. Như mặt trời buông ánh sáng soi khắp mọi nơi,
nhưng kẻ mù lòa không thấy là do họ tối mắt chớ không phải tại vầng nhật.
Vì thế Kinh Lăng Nghiêm nói: "Chư Phật mẫn niệm chúng sanh như mẹ trông
nhớ con, nếu con cứ bỏ đi, thì mẹ dù nhớ cũng không biết làm sao được!"
Những tướng hảo, quang minh cùng hóa Phật đó vô cùng, nói
không thể xiết! Hành giả chỉ nên thành kính nhớ tưởng, khiến cho tâm nhãn
được thấy.
Thấy được tướng này, tất thấy tất cả chư Phật mười phương.
Vì thấy chư Phật, nên gọi là niệm Phật tam muội. Tu phép quán này gọi là
quán thân tất cả chư phật. Và vì quán thân Phật nên cũng thấy tâm Phật.
Tâm Phật là tâm Đại từ bi, dùng vô duyên từ nhiếp tất cả chúng sanh niệm
Phật. Quán như thế, khi xả báo thân sẽ vãng sanh về trước chư Phật, được
vô sanh nhẫn. Cho nên người trí phải hệ niệm quán kỹ Phật Vô Lượng Thọ.
Muốn quán Phật Vô Lượng Thọ, phải từ một tướng hảo mà đi
vào. Trước tiên phải quán tướng lông trắng giữa đôi mày cho cực rõ ràng.
Khi thấy được tướng bạch hào, tự nhiên tám muôn bốn ngàn tướng tốt sẽ
hiện. Và thấy được Phật A Mi Đà, tức thấy vô lượng chư Phật ở mười phương.
Vì thấy vô lượng chư Phật, nên được chư Phật hiện tiền thọ ký.
Đây là môn tưởng tất cả tướng nơi sắc thân, thuộc về phép
quán thứ chín. Quán như thế gọi là chánh quán. Nếu tưởng sai khác, là tà
quán.
"Tâm nhãn" ở đây là chỉ cho dùng ý mà duyên tưởng. Vì chư
Phật đồng một pháp thân, các tướng không ngoài bản thể mà có, nên nói
"thấy được tướng này, tức thấy tất cả chư Phật mười phương". Các pháp đều
duy tâm, thân là tướng của tâm, nên nói: "vì quán thân Phật, nên cũng thấy
tâm Phật". Bởi Phật tướng đã không, tất cả đều duy tâm, chỉ là một thể đại
từ bi, nên gọi: "tâm Phật là tâm đại từ bi". Vô duyên từ là đức Phật dùng
tâm từ bi bình đẳng soi khắp pháp giới, không duyên trụ nơi các tướng có,
không, cùng thời gian, không gian, mà phổ nhiếp tất cả chúng sanh. Trạng
thái này, ví như mặt trăng trong tuy in bóng khắp muôn dòng nước lặng,
song thỉ chung trăng vẫn vô tâm. Quán lý trên đây, duy bậc trí huệ mới có
thể thâm nhập, nên nói: "người trí phải hệ niệm quán kỹ Phật Vô Lượng
Thọ".
Tướng bạch hào gồm nhiếp các tướng, nên khi quán tướng này
thì các tướng khác đều hiện. Cứ theo chánh văn, thì đây là quán tướng bạch
hào lớn như năm núi Tu Di, chớ không phải hào tướng của kim thân một
trượng sáu, nên mới nói: "tự nhiên tám muôn bốn ngàn tướng tốt sẽ hiện".
"Thọ ký" là trao lời ghi nhận cho đương nhơn sẽ chứng các đạo quả, hoặc
thành Phật.
10- Quán
Thân Tướng Ðức Quán Thế Âm (Quán Thế Âm Quán)
Này A Nan, Vi Đề Hy! Khi đã thấy Phật Vô Lượng Thọ rõ ràng
rồi, lại nên quán tưởng Bồ tát Quán Thế Âm. Vị Đại sĩ này thân cao tám
mươi muôn ức na do tha do tuần, sắc tử kim, đảnh có nhục kế. Viên quang
nơi đầu của Bồ Tát, mỗi phía đều rộng trăm ngàn do tuần. Trong viên quang
có năm trăm Hóa Phật như Thích Ca Mâu Ni Như Lai. Mỗi vị hóa Phật đều có
năm trăm Hóa Bồ Tát và vô lượng chư thiên làm thị giả. Trong thân quang
của Bồ Tát hiện tất cả sắc tướng của ngũ đạo chúng sanh.
Bồ Tát đầu đội thiên quang bằng chất báu Tỳ Lăng già Ma ni.
Nơi thiên quang có một vị Hóa Phật đứng, cao hai mươi lăm do tuần. Quán
Thế Âm Đại sĩ mặt như sắc vàng diêm phù đàn, tướng bạch hào giữa đôi mi có
đủ sắc thất bảo, chiếu ra tám muôn bốn ngàn thứ quang minh. Mỗi ánh quang
minh có vô lượng vô số trăm ngàn Hóa Phật. Mỗi vị Hóa Phật lại có vô số
Hóa Bồ tát làm thị giả. Các Hóa Bồ tát này biến hiện tự tại đầy khắp mười
phương thế giới.
Cánh tay của Bồ tát như sắc hoa sen hồng, có tám mươi ức
tia sáng nhiệm mầu dường như chuỗi anh lạc, trong ấy hiện ra tất cả việc
trang nghiêm. Bàn tay Bồ tát như năm trăm ức sắc tạp liên hoa, nơi đầu mỗi
ngón tay có tám muôn bốn ngàn làn chỉ đẹp dường như nét vẽ của chiếc ấn.
Mỗi làn chỉ đều có tám muôn bốn ngàn sắc, mỗi sắc lại có tám muôn bốn ngàn
tia sáng nhu nhuyn soi khắp các nơi. Bồ tát thường dùng tay báu này tiếp
dẫn chúng sanh các cõi.
Nơi lòng bàn chân của Quán Thế Âm Đại sĩ có tướng Thiên bức
luân. Khi Bồ Tát dở chân lên, từ nơi luân tướng ấy hóa hiện ra năm trăm ức
đài quang minh. Lúc để chân xuống tự nhiên có vô số hoa kim cương ma ni
tuôn rải tản mác khắp mọi nơi.
Ngoài ra, các tướng khác nơi thân bồ Tát đều đầy đủ và xinh
đẹp như đức Vô Lượng Thọ Thế Tôn; duy trừ nhục kế và tướng vô kiến đảnh là
không bằng Phật.
Đây là môn tưởng sắc thân chân thật của Bồ Tát Quán Thế Âm,
thuộc về phép quán thứ mười.
Đoạn chánh văn trên đây đã din tả chơn thân của Quán Thế Âm
Bồ Tát. Câu "năm trăm Hóa Phật như Thích Ca Mâu Ni Như Lai" là chỉ cho chư
Hóa Phật đều cao một trượng sáu và có đủ ba mươi hai tướng như thân tướng
của đức Thích Ca Mâu Ni. Những tướng lạ nơi tay của Bồ Tát, tiêu biểu cho
năng dụng từ bi, sự hóa hiện nơi chân hiển thị về quả pháp công đức.
"Thiên bức luân" là hình tướng bánh xe có ngàn cây căm. Câu"duy trừ nhục
kế và tướng vô kiến đảnh là không bằng Phật" hiển minh phần quả nguyện của
Bồ Tát chưa bằng Phật, nên hai tướng ấy phải kém hơn.
A Nan! Nếu chúng sanh nào muốn quán thân tướng của Bồ Tát
Quán Thế Âm, phải nên quán tưởng đúng như vậy. Kẻ tu thành môn quán nầy
không còn gặp các tai họa, trừ sạch nghiệp chướng và tội lỗi trong vô số
kiếp sanh tử. Chúng sanh chỉ nghe danh hiệu vị Bồ Tát ấy còn được vô lượng
phước, huống nữa là quán kỹ sắc thân? Kẻ nào muốn quán tưởng Bồ Tát Quán
Thế Âm, trước nên quán nhục kế trên đảnh, tiếp quán đến thiên quan, bao
nhiêu tướng khác cũng lần lượt quán cho rõ ràng, như; thấy các làn chỉ
trong bàn tay.
Quán như thế, gọi là chánh quán. Nếu tưởng sai khác, là tà
quán.
Đoạn văn trên, đức Phật đã nhấn rõ lại nghi thức tu quán.
Quán Thế Âm Bồ tát có bản nguyện tìm tiếng cứu khổ, chúng sanh nào chỉ
thường xưng niệm danh hiệu cũng được trừ tội, sanh phước, khỏi các tai
nạn, huống chi là quán đến sắc thân? Cho nên kẻ nào tu thành môn quán này,
không những hiện đời được lợi ích, mà khi lâm chung cũng chắc chắn sẽ được
sanh về Tây phương vậy.
11- Quán
Thân Tướng Ðức Ðại Thế Chí (Ðại Thế Chí Quán)
Kế đến Bồ Tát Đại Thế Chí. Thân lượng của vị đại sĩ nầy
cũng tương đương với Bồ Tát Quán Thế Âm. Viên quang nơi đảnh của Đại Thế
Chí Bồ Tát mỗi phía đều rộng một trăm hai mươi lăm do tuần; từ quang thể
nầy ánh sáng lại chiếu xa thêm hai trăm năm mươi do tuần nữa.
Quang minh toàn thân của Bồ Tát ánh ra mầu sắc từ kim,
chiếu khắp các cõi ở mười phương, những chúng sanh hữu duyên đều được
trông thấy. Chúng sanh nào chỉ thấy ánh sáng nơi một lỗ chân lông của vị
bồ Tát nầy, tức thấy quang minh trong sạch nhiệm mầu của mười phương vô
lượng chư Phật. Vì thế, vị đại sĩ này được gọi là Vô Biên Quang. Và bởi Bồ
Tát dùng ánh sáng trí huệ soi khắp tất cả chúng sanh, khiến cho xa lìa tam
đồ, được sức vô thượng, nên lại có tên là Đại Thế Chí.
Thiên quang của Đại Thế Chí Bồ Tát có năm trăm bảo hoa, mỗi
bảo hoa có năm trăm bảo đài. Trong mỗi bảo đài hiện rõ tướng quốc độ tịnh
diệu rộng rãi của mười phương chư Phật. Nhục kế nơi đảnh của Bồ Tát hình
như hoa bát đầu ma. Trên nhục kế có một bảo bình đựng các thứ quang minh,
hiện Phật sự khắp mọi nơi. Ngoài ra, các tướng khác nơi thân, cũng đồng
như Quán Thế Âm Bồ Tát.
Khi vị đại sĩ này cất chân bước đi, mười phương thế giới
thảy đều chấn động. Ngay chỗ Bồ Tát bước tự nhiên hóa hiện năm trăm ức bảo
hoa, mỗi bảo hoa trang nghiêm cao sáng như diệu tướng ở cõi Cực Lạc. Lúc
Bồ Tát ngồi xuống, cả cõi thất bảo đồng thời rung chuyển. Giữa khoảng từ
cõi Phật Kim Quang ở phương dưới cho đến cõi Phật Quang Minh Vương ở
phương trên, có vô lượng trần số những phân thân của Phật Vô Lượng Thọ,
Quán Thế Âm và Đại Thế Chí, đều vân tập đầy dẫy nơi hư không cõi Cực Lạc.
Tất cả phân thân của Tam thánh đều ngồi trên hoa sen din nói pháp mầu, độ
chúng sanh mê khổ.
Đây là môn tưởng thân tướng của Đại Thế Chí Bồ Tát, thuộc
về phép quán thứ mười một. Tu môn quán này sẽ trừ được a tăng kỳ sanh tử
trong vô số kiếp, không còn ở bào thai, thường dạo chơi nơi các quốc độ
tịnh diệu của chư Phật. Môn tưởng này thành, gọi là đã quán thấy đầy đủ
sắc thân của Bồ Tát Quán Thế Âm và Đại Thế Chí.
Quán như thế, gọi là chánh quán. Nếu tưởng sai khác là tà
quán.
Quang minh của Đại Thế Chí Bồ Tát thuộc ánh sáng trí huệ vô
lậu, vì thể vô lậu vẫn đồng nhau, nên nói "chỉ thấy ánh sáng nơi một lỗ
chân lông của vị Bồ Tát này, tức thấy quang minh trong sạch nhiệm mầu của
mười phương vô lượng chư Phật". "Sức vô thượng" tức là thập lực của Phật.
"Bát đầu ma" chính là hoa sen đỏ. Khi Đại Thế Chí Bồ Tát bước đi, tự nhiên
hóa hiện ra nhiều bảo hoa, vì thứ hoa báu ấy có nhiều kỳ trần nghiêm sức
rực rỡ, nên mới ví như tướng trang nghiêm ở cõi Cực Lạc.
Hỏi: - Kinh Mi Đà nói: "Chúng sanh ở cõi kia không có các
sự khổ, chỉ hưởng những điều vui." Như thế, tại sao trong chánh văn đây
lại nói các phân thân tham thánh thuyết pháp độ chúng sanh mê khổ?
Đáp: - Hai chữ mê khổ trong đây, ý nói: cảnh giới của bậc
địa tiền không bằng bậc địa thượng, trí chứng bậc sơ địa không bằng bậc
nhị địa, chẳng phải chỉ cho sự khổ vui như tam giới ở cõi Ta Bà. Tam thánh
thuyết pháp để đưa chư thượng thiện nhơn từ quả vị thấp lên quả vị cao,
khiến cho vô minh phần diệt, chơn trí tăng sanh, nên mới gọi là "độ mê
khổ." Bởi thánh chúng ở Cực Lạc đều lấy vô lậu làm thể, đại bi làm dụng,
tâm an trụ nơi lý chân thường, lìa sự sanh diệt của phân đoạn, có tướng
trạng gì gọi là khổ ư?
A tăng kỳ, Trung Hoa dịch là Vô số, hoặc Vô ương số. Không
còn ở bào thai, là không còn bị đọa vào bào thai, thường được hóa sanh về
các tịnh độ của mười phương chư Phật.
12-
Quán Thấy Mình (Tự Vãng Sanh Quán)
Khi đã thấy việc ấy, hành giả nên từ nơi chân tâm, khởi
tưởng mình sanh về thế giới Cực Lạc ở phương tây, ngồi kiết dà trong hoa
sen. Kế tưởng hoa sen khép lại, rồi tưởng hoa sen nở ra. Khi hoa sen nở,
tưởng có năm trăm sắc quang minh soi chiếu đến thân mình. Lại tưởng mình
mở mắt ra, thấy Phật và Bồ Tát đầy giữa hư không, những âm thanh phát ra
từ các Hóa Phật cho đến chim, nước, rừng, cây, đều din nói pháp mầu, hợp
với mười hai bộ kinh. Khi xuất định, vẫn phải ghi nhớ đừng để quên mất.
Thấy được tướng này, gọi là thấy Phật Vô Lượng Thọ và thế
giới Cực Lạc. Hành giả sẽ được vô số hóa thân của Phật Vô Lượng Thọ cùng
Quán Thế Âm, Đại Thế Chí thường quang lâm đến chỗ mình.
Đây là môn phổ quán tưởng, thuộc về phép quán thứ mười hai.
Trong môn quán này, nếu tuần tự phân ra, có mười chi tiết:
Trụ tâm nơi chân
tánh của mình.
Khởi tưởng sanh
về Tây.
Tưởng ngồi kiết
dà trong hoa sen.
Hoa sen khép.
Hoa sen nở.
Bảo quang soi
đến thân.
Đã được quang
minh chiếu đến, tưởng mình mở mắt.
Khi mở mắt ra
thấy Phật, Bồ Tát cùng cảnh giới Cực Lạc.
Nghe pháp mầu
hợp với khế kinh.
Lúc xuất định
không quên mất.
Nếu hành giả
quán thành, tất có sự cảm ứng thường được Phật và Bồ Tát đến an ủi, thuyết
pháp, ấn hứa cho vãng sanh.
13- Quán Xen Về
Phật và Bồ Tát (Tạp Tưởng Quán)
Đức Phật bảo A
Nan và Vi Đề Hy:
- Nếu kẻ nào chí
tâm muốn sanh về Tây Phương, trước nên quán thân Phật A Mi Đà cao một
trượng sáu đứng trên bờ ao thất bảo.
Như trước đã nói, thân Phật Vô Lượng Thọ rộng lớn vô biên,
tâm lực của phàm phu khó nổi quán cho khắp được. Tuy nhiên, nhờ đức Như
Lai kia có túc nguyện lực, nên nếu chí tâm quán tưởng tất sẽ được thành
tựu. Chúng sanh chỉ tưởng hình tượng Phật còn được vô lượng phước, huống
chi quán đầy đủ thân tướng của Như Lai? Phật A Mi Đà có sức thần thông như
ý, biến hiện tự tại khắp các cõi ở mười phương, hoặc hiện thân lớn đầy cả
hư không, hoặc hiện thân nhỏ cao một trượng sáu, hay tám thước. Những thân
hóa hiện đều là sắc chân kim. Còn tướng viên quang, Hóa Phật cùng hoa sen
báu, như trước đã din tả.
Về thân lượng của hai vị Bồ Tát Quán Thế Âm, ở khắp tất cả
chỗ, nên quán đồng như thân của các bậc thượng thiện nhơn. Hành giả chỉ
cần phân biệt sự sai khác của tướng đầu để biết đó là Bồ Tát Quán Thế Âm
hay Đại Thế Chí. Hai vị đại sĩ này thường phụ trợ Phật A Mi Đà, giáo hóa
tất cả chúng sanh.
Đây là môn tạp tưởng quán, thuộc về phép quán thứ mười ba.
Trước đức Phật đã din tả thân lượng của Tây Phương tam
thánh rộng rãi vô biên, tướng nhiệm mầu không thể kể xiết! Nhưng vì thương
xót chúng sanh ở cõi này tâm lượng phần nhiều kém nhỏ, khó nổi quán chân
thân của ba vị đại thánh, nên đức Như Lai lại tùy cơ mà nói ra quán cảnh
này. Bởi Phật A Mi Đà thần thông tự tại, tùy nơi mà biến hiện lớn nhỏ, nên
quán thân cao một trượng sáu cũng gọi là thấy sắc thân của Phật. Và khi
quán thân Phật nhỏ, tất phải tưởng thân của hai vị Bồ Tát thị giả cũng nhỏ
đồng như thân ba mươi hai tướng của các bậc thượng thiện nhơn. "Phân biệt
sự sai khác của tướng đầu," là nơi thiên quan của đức Quán Thế Âm có hình
Hóa Phật đứng, thiên quan của đức Đại Thế Chí có bình báu chiếu ánh quang
minh.
Nếu quán cảnh này thành, hành giả có thể thấy sắc thân của
Tây Phương tam thánh lơn hơn tùy theo tâm lượng. Từ môn Nhật quán đến môn
Tạp tưởng Quán này đã thuyết minh xong phần đức Thế Tôn đáp ứng lời thỉnh
vấn "dạy về phép tư duy và chánh thọ" của bà Vi Đề Hy. Có lời kể tổng tán
rằng:
Trước dạy Nhật quán trừ hôn ám
Tưởng nước thành băng để định
tâm
Dưới đất bảo tràng châu sáng rỡ
Trên không thiên nhạc pháp thâm
trầm.
Mây, lọng, thần quang muôn ức
đạo
Cây ngọc hoa quỳnh sanh trái
báu
Ao Vàng nước đức chảy trong hoa
Lầu xinh các lạ nghìn kỳ xảo
Hoa tòa mầu nhiệm đẹp vô cùng
Bảo trụ mành châu ánh vạn trùng
In bóng mười phương nhiều Phật
sự
Trang nghiêm dường thể Dạ Ma
cung.
Không lường tướng hảo ngợi Mi
Đà
Tay báu Quan Âm cứu ái hà
Thế Chí thần uy hay chấn động
Huệ quang soi khắp cõi hằng sa.
Cực Lạc sanh về tưởng thấy mình
Ngồi trong hoa báu định tâm
tình
Cánh sen tưởng khép rồi tươi nở
Soi đến trăm màu ánh tịnh minh.
Vì đâu Điều Ngự động ai lân?
Cảnh tướng chân thân khó vạn
phần!
Trượng sáu mở bày môn tiệm quán
Bên bờ ao báu tưởng kim thân!
14- Quán
Sanh Về Thượng Phẩm (Thượng Phẩm Sanh Quán)
Đức Phật bảo A Nan và Vi Đề Hy: "Thượng phẩm thượng sanh là
thế nào? Nếu chúng sanh muốn sanh về cõi kia, nên phát ba thứ tâm, là tâm
chí thành, tâm sâu thiết, tâm hồi hướng phát nguyện, tất sẽ được vãng
sanh. Lại có ba hạng hữu tình được sanh về Cực Lạc: Một là hạng có lòng
xót thương, không giết hại, giữ tròn các giới hạnh. Hai là hạng đọc tụng
kinh điển Phương Đẳng đại thừa. Ba là hạng tu hành lục niệm, hồi hướng
phát nguyện sanh về An Dưỡng. Nếu đủ các công đức như thế, từ một ngày cho
đến bảy ngày, liền được vãng sanh.
Do kẻ ấy tinh tấn dõng mãnh, nên lúc vãng sanh Phật A Mi Đà
cùng hai Bồ Tát Quán Thế Âm, Đại Thế Chí, vô số Hóa Phật, trăm ngàn Thanh
Văn Tỳ Kheo đại chúng, vô lượng chư thiên và cung điện thất bảo đều hiện
đến. Khi ấy Quán Thế Âm Bồ Tát bưng đài kim cang, cùng Đại Thế Chí Bồ Tát
tới trước hành giả. Phật A Mi Đà phóng đại quang minh chiếu đến thân người
vãng sanh, rồi cùng chư Bồ Tát đồng đưa tay tiếp dẫn. Hai vị Đại thánh
Quan Thế Âm, Đại Thế Chí lại cùng vô số Bồ Tát đồng thanh khen ngợi,
khuyến tấn. Hành giả mục kích cảnh ấy rồi, sanh tâm vui mừng khấp khởi, tự
thấy mình ngồi trên đài kim cang, theo sau Phật và Thánh Chúng, trong
khoảng khảy ngón tay, sanh về Cực Lạc.
Khi đã sanh về cõi kia, lại thấy kim thân của Phật đầy đủ
các tướng, chư Bồ Tát sắc tướng cũng cụ túc trang nghiêm; các ánh sáng và
rừng báu đều din thuyết pháp mầu. Hành giả nghe xong, liền ngộ vô sanh
pháp nhẫn, trong giây phút thừa sự chư Phật khắp mười phương, được thọ ký
trước chư Phật, rồi trở về bản quốc, chứng vô lượng trăm ngàn môn Đà La
Ni. Đây gọi là thượng phẩm thượng sanh.
Về tâm chí thành, "chí" là chơn, "thành" là thật. Đây ý nói
người muốn vãng sanh, điểm cần yếu là ba nghiệp thân, miệng, ý, trong khi
tu, đều phải từ nơi tâm chân thật mà phát ra, không nên bề ngoài hiện
tướng tinh tấn hiền lành, bên trong lại ẩn niệm lơ là giả dối. Nếu đem tâm
hư ngụy cẩu thả mà tu, thì dù ngày đêm hành trì bất tuyệt, trạng như lửa
đốt đầu, chung qui cũng là hạnh tạp độc. Lại sự chân thật có hai, là tự
lợi chân thật và lợi tha chân thật. Tự lợi chân thật là tâm không còn mảy
may tham luyến phước báu ngũ dục cõi người cõi trời, ở đời này hoặc đời
sau, chỉ tha thiết nguyện sanh về Tây Phương. Trong khi thân l Phật, miệng
tụng niệm, ý quán tưởng, cùng tu các hạnh lành, đều phải cung kính chí
thành. Lợi tha chân thật là thành thật khen ngợi công đức y chanh ở Cực
Lạc, khuyên người tinh tấn tu hành, thấy ai làm được việc lành nhỏ mọn
cũng sanh tâm tùy hỉ. Tâm sâu thiết, tức lòng tin hiểu sâu. Tâm này cũng
có hai:
Hành giả phải tin hiểu sâu chắc mình là kẻ phàm phu tội
chướng, từ kiếp vô thỉ đến nay mãi trôi chìm trong vòng lục đạo, gây nên
nghiệp ác không lường.
Phải tin sâu rằng Phật A Mi Đà có nguyện lực rộng lớn, nếu
chúng sanh nào thành tâm hệ niệm quy hướng, thì dù có bao nhiêu tội
chướng, cũng quyết định sẽ được tiếp dẫn vãng sanh. Tâm hồi hướng phát
nguyện là hành giả tu bao nhiêu công đức lành, dù là một chút mảy may nhỏ
ít, cũng đều đem hồi hướng cầu sanh về Tây Phương, không một niệm cầu
phước báu nhơn thiên chi khác. Phải biết sự an vui nghiêm tịnh ở Cực Lạc
còn vượt hơn tam giới rất xa, và được sanh về Cực Lạc thì bao nhiêu hạnh
nguyện độ mình, độ người đều sẽ thành tựu một cách chắc chắn.
"Lục niệm" là: niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng, niệm Thí,
niệm Giới, niệm Thiên. Đây là sáu niệm của đại thừa, riêng về niệm Thiên
tức là nhớ giữ mười nghiệp lành, chớ không phải niệm cầu sanh về cõi trời.
Câu "nếu đủ công đức như thế từ một ngày cho đến bảy ngày", thuyết minh
ảnh hưởng của Bồ Tát hạnh lớn lao vô cùng, chỉ một niệm còn có thể làm
Phật chủng, huống chi từ một ngày đến bảy ngày ư? Đà la ni, Trung Hoa dịch
là Tổng trì, có nghĩa hay giữ pháp lành, ngăn pháp ác; đây là chỉ cho sự
thông đạt vô lượng pháp môn.
Thượng phẩm trung sanh là thế nào? Có chúng sanh tuy không
thọ trì kinh Phương Đẳng, nhưng khéo hiểu nghĩa thú, đối với đệ nhất nghĩa
tâm không kinh động, tin sâu lý nhân quả, không phỉ báng pháp đại thừa.
Nếu hành giả đem công đức này niệm Phật hồi hướng cầu sanh Cực Lạc, thì
khi lâm chung Tây Phương tam thánh cùng vô lượng đại chúng quyến thuộc
bưng đài tử kim, hiện đến trước mặt khen rằng: "Pháp tử! Ngươi tu đại
thừa, hiểu đệ nhất nghĩa, nên nay ta đến tiếp nghinh. Liền đó đức Vô Lượng
Thọ Thế Tôn cùng với một ngàn Hóa Phật đồng thời đưa tay xuống tiếp dẫn.
Bấy giờ hành giả tự thấy mình ngồi trên đài tử kim, chắp tay khen ngợi chư
Phật, rồi trong khoảng một niệm liền sanh về nơi ao thất bảo ở cõi Cực
Lạc.
Đài tử kim ấy như hoa báu lớn, trải một đêm liền nở. Bấy
giờ hành giả thân sắc tử kim, dưới chơn lại có hoa sen tha-'t bảo, được
Phật và Bồ Tát đồng thời phóng quang soi đến mình, mắt liền mở sáng. Do
túc tập trước kia, lúc đó tự nghe các âm thanh khắp nơi đều nói thuần là
pháp đệ nhất nghĩa đế rất thâm mầu. Nghe xong, liền bước xuống kim đài l
Phật và chắp tay khen ngợi đức Thế Tôn. Trải qua bảy ngày, liền được không
thối chuyển nơi quả A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề, có thể tự tại bay đi
khắp mười phương thừa sự chư Phật, tu các môn tam muội. Như thế qua một
tiểu kiếp, chứng được vô sanh nhẫn và mong chư Phật thọ ký. Đây là cảnh
thượng phẩm trung sanh.
Hiểu đệ nhất nghĩa là rõ suốt các pháp thảy đều vắng lặng;
đây là lý duyên khởi không tự tánh, vì nó tuyệt đối, vượt hơn các pháp,
nên gọi "đệ nhất." "Tâm không kinh động", là bậc khéo hiểu nghĩa không của
đại thừa, tuy nghe nói những đạo lý: tất cả pháp đều không, sanh tử niết
bàn vẫn không, phàm thánh mê ngộ cũng không, cảnh lục đạo của thế gian và
vị tam hiền thập thánh của xuất thế nguyên đồng thể tánh, lòng vẫn thản
nhiên, không nghi trệ. "Tin sâu lý nhân quả" là rõ biết các pháp tuy
không, song nhân quả lành dữ không mảy may sai lạc. Hiểu như thế mới gọi
là không phỉ báng pháp đại thừa.
Bậc có tín giải đại thừa nếu chẳng nguyện về Tây Phương thì
cũng còn ở trong vòng luân chuyển, khó bảo đảm không thối thất, nên đức
Thế Tôn khuyên hồi hướng cầu sanh Cực Lạc. Bảy ngày và một tiểu kiếp trên
đây, theo lời bình giải của các cổ đức, là ước về thời gian ở cõi Ta Bà
chớ không phải Cực Lạc. Như thế thì bảy ngày chỉ là một khoảnh khắc ở Cực
Lạc mà thôi.
Thượng phẩm hạ sanh là thế nào? - Có chúng sanh tuy cũng
tin nhân quả, không báng đại thừa, nhưng chỉ phát tâm cầu đạo vô thượng,
rồi đem công đức ấy niệm Phật nguyện về Cực Lạc. Hành giả ấy khi lâm chung
được Phật A Mi Đà, Quán Thế Âm, Đại Thế Chí cùng chư Bồ Tát cầm hoa sen
vàng, hóa hiện năm trăm vị Phật đến nghinh tiếp. Lúc đó năm trăm Hóa Phật
đồng thời đưa tay xuống và khen rằng: "Pháp tử! Ngươi nay thanh tịnh, phát
vô thượng đạo tâm, nên ta đến rước ngươi."
Khi hành giả mục kích cảnh ấy rồi, liền thấy mình ngồi nơi
hoa sen vàng, ngồi xong cánh hoa khép lại, theo sau đức Thế Tôn sanh về ao
thất bảo. Như thế trải qua một ngày đêm, hoa sen nở ra, bảy hôm sau mới
được thấy Phật. Nhưng tuy thấy Phật, đối với các tướng hảo tâm còn chưa rõ
ràng, đợi qua hai mươi mốt ngày, mới nhận được minh bạch. Bấy giờ người
vãng sanh nghe các âm thanh đều din pháp mầu, bay dạo mười phương cúng
dường chư Phật, và được nghe pháp thậm thâm trước các đức Thế Tôn. Trải
qua ba tiểu kiếp như thế, được bách pháp minh môn, trụ sơ hoan hỷ địa. Đây
là cảnh thượng phẩm hạ sanh.
Trên đây là môn tưởng thượng bối vãng sanh, thuộc về phép
quán thứ mười bốn.
Câu "tuy cũng tin nhân quả", chỉ cho lòng tin còn chưa được
sâu. Cũng bởi chưa tin sâu nhân quả khổ vui, nên lòng lành thường thối,
niệm ác hằng sanh. Nếu kẻ đã hiểu sâu sự khổ luân hồi, thì đối với các tội
nghiệp không còn tái phạm. Và đã tin sâu cảnh vui tịnh độ tất khi phát tâm
tu không còn lui sụt biếng lười. Câu "không báng đại thừa" là nói lòng tin
tuy có gián đoạn, song đối với pháp đại thừa không còn nghi báng; nếu quả
có tâm nghi báng thì dù ngàn Phật hiện thân, cũng không thể cứu độ. Câu
"ngươi nay thanh tịnh" chỉ cho tội chướng của hành giả đã được tiêu trừ.
Các điều lành tin lý nhân quả, không báng đại thừa, tuy
dường như vô công song nhờ hành giả phát tâm niệm chán khổ, ưa cảnh giới
chư Phật, muốn mau thành tựu nguyện đại bi để cứu độ chúng hữu tình, nên
mới được vãng sanh. Đây chính là tâm vô thượng bồ đề vậy. Được Bách pháp
minh môn là thế nào? - Kinh Hoa Nghiêm nói: "Bậc Sơ địa Bồ Tát trong
khoảng sát na, chứng một trăm môn tam muội, thấy được một trăm đức Phật,
sức thần thông có thể đi qua và làm chấn động một trăm Phật sát, ánh sáng
soi khắp một trăm Phật độ, thành tựu chắc chắn được một trăm chúng sanh,
biết quá khứ vị lai trăm ức kiếp, hay vào trăm pháp môn và hóa thân trong
trăm cõi. Lại bậc Bồ Tát này mỗi mỗi hóa thân đều có một trăm Bồ Tát trang
nghiêm làm quyến thuộc." Sơ Hoan hỷ địa tức là Sơ Địa, vì khi Bồ Tát chứng
được ngôi này tâm rất vui mừng, nên gọi là hoan hỷ. Có lời khen rằng:
Thượng bối nguyên là bậc lợi
căn,
Cầu sanh cõi tịnh tuyệt tham,
sân.
Công tu sai khác thành ba phẩm,
Ngôi vị đồng chung bậc thượng
nhân.
Một đến bảy ngày chuyên tịnh
niệm,
Tăng cùng tục khách thoát phù
trần.
Mừng duyên phước gặp môn mầu
nhiệm!
Sớm chứng chơn thường diệu pháp
thân.
15- Quán Sanh
Về Trung Phẩm (Trung Phẩm Sanh Quán)
Đức Phật bảo A Nan và Vi Đề Hy: Trung phẩm thượng sanh là
thế nào? Nếu chúng sanh thọ trì ngũ giới, giữ bát quan trai, hoặc tu các
giới khác, không tạo tội ngũ nghịch và các điều lỗi lầm, rồi đem căn lành
ấy hồi hướng cầu sanh về thế giới Cực Lạc ở phương Tây. Chúng sanh đó khi
lâm chung, được Phật A Mi Đà cùng các Tỳ khưu quyến thuộc vi nhiu, phóng
kim quang soi đến mình, din thuyết các pháp khổ, không, vô thường, vô ngã,
cùng khen ngợi hạnh xuất gia thoát khổ. Mục kích cảnh ấy, hành giả sanh
tâm vui mừng, tự thấy mình ngồi trên đài sen, vội quì gối chắp tay cúi
xuống l Phật. Lúc chưa ngước mặt lên, đã sanh về thế giới Cực Lạc.
Sau khi vãng sanh, vừa lúc hoa sen nở ra, hành giả nghe các
âm thanh khen ngợi pháp tứ đế, liền chứng quả A La Hán, đầy đủ tam minh,
lục thông và bát giải thoát. Đây là cảnh trung phẩm thượng sanh.
Trên đây là cảnh giới vãng sanh của hạng tiểu căn, nên hành
giả chỉ thấy Phật và chúng Thanh Văn, không thấy chư Bồ Tát. A La Hán,
Trung Hoa dịch là Vô sanh, vì bậc này hoặc nghiệp đã tiêu trừ, không còn
phải thọ thân sau nữa. Tam minh: Túc mạng minh, Lậu tận minh và Thiên nhãn
minh; vì đối với quá khứ, hiện tại, vị lai đều thấu suốt, nên gọi là
"minh." Lục thông: Thiên nhãn, Thiên nhĩ, Tha tâm, Túc mạng, Như ý và Lậu
tận; vì với cả sáu môn này không còn bị ủng trệ, nên gọi là "thông." Bát
giải thoát cũng gọi Bát bội xả; là:
Nội hữu sắc
ngoại quán.
Nội vô sắc ngoại
quán.
Duyên tịnh bội
xả.
Không xứ bội xả.
Thức xứ bội xả.
Vô sở hữu xứ bội
xả.
Phi phi tưởng xứ
bội xả.
Diệt thọ tưởng
bội xả.
Trung phẩm trung
sanh là thế nào? Nếu chúng sanh giữ chín chắn giới bát quan trai hoặc giới
Sa Di hay giới Cu Túc trong một ngày đêm, các oai nghi đều toàn vẹn, đem
công đức huân tu giới hương đó hồi hướng cầu sanh Cực Lạc. Khi lâm chung,
hành giả này thấy Phật A Mi Đà cùng quyến thuộc cầm hoa sen thất bảo phóng
kim quang hiện đến trước mặt mình. Bấy giờ đương nhơn nghe giữa hư không
có tiếng khen rằng: "Lành thay thiện nhơn! Ngươi đã biết thuận theo lời
dạy của chư Phật ba đời mà tu tập, nên nay ta đến rước ngươi. Khi đó hành
giả thấy mình ngồi nơi hoa sen, cánh hoa khép lại, liền được sanh về bảo
trì ở cõi Cực Lạc.
Qua bảy ngày hoa sen nở ra, hành giả chắp tay khen ngợi
Phật, được nghe pháp diệu, sanh tâm hoan hỷ, liền chứng quả Tu Đà Hoàn, và
nửa kiếp sau mới chứng quả A La Hán. Đây là cảnh trung phẩm trung sanh.
Trên đây là cảnh giới vãng sanh của hạng phàm phu thuộc về
tiểu thừa hạ thiện. Muốn được vãng sanh hành giả phải giữ oai nghi và một
trong ba giới ít nhứt là khoảng một ngày đêm cho thanh tịnh, đừng để
khuyết phạm. Trong một ngày đêm nếu phạm giới khinh, kể như đã phạm trọng
tội, sự vãng sanh khó thành. "Giới hương" là người giữ giới thanh tịnh, có
đức hạnh tiếng tốt lan xa, ví như mùi hương. "Được nghe pháp diệu" chính
là nghe pháp tứ đế và khổ, không, vô thường, vô ngã. Tứ đế là khổ, tập,
diệt, đạo; khổ, tập thuộc về nhân quả thế gian, diệt đạo thuộc về nhân quả
xuất thế. Tu Đà Hoàn, Trung Hoa dịch là Nhập lưu hay Nghịch lưu. Nhập lưu
là vào dòng thánh, Nghịch lưu có nghĩa: ngược dòng sanh tư luân hồi.
Trung phẩm hạ sanh là thế nào? - Nếu thiện nam tử, thiện nữ
nhơn hiếu dưỡng cha mẹ, tu hạnh nhân từ theo thế gian, khi lâm chung gặp
thiện tri thức giảng cho nghe về sự vui nơi cõi Phật A Mi Đà và bốn mươi
tám đại nguyện của Tỳ kheo Pháp Tạng. Kẻ ấy nghe xong hoan hỷ niệm Phật mà
qua đời, thần thức liền được sanh ngay về Tây Phương Cực Lạc thế giới, lẹ
như khoảng co duỗi cánh tay của người tráng sĩ.
Qua bảy ngày sau, hành giả được gặp Bồ Tát Quán Thế Âm và
Đại Thế Chí, nghe pháp nhiệm mầu, sanh tâm vui đẹp, được quả Tu Đà Hoàn,
sau một tiểu kiếp mới chứng quả A La Hán. Đây là cảnh trung phẩm hạ sanh.
Môn tưởng này gọi là trung bối vãng sanh, thuộc về phép
quán thứ mười lăm.
Hạnh nhân từ theo thế gian, tức là hạnh bác ái, thường bố
thí, an ủi, giúp đỡ mọi người; nhà Nho gọi là "suy ái cập vật." Trong
chánh văn không nói hoa nở, là hàm ý: vì còn tùy theo niệm tinh tấn ít
nhiều của người vãng sanh, mà hoa nở có sớm hay muộn. Ba cảnh vãng sanh
trên đây đều thuộc về trung phẩm của hạng trung căn nên gọi là trung bối
vãng sanh. Có lời khen rằng:
Trung bối căn lành thuộc bậc
trung,
Giữ tròn nghi giới một ngày
đêm.
Phước lành hiếu thuận tâm hằng
nguyện
Nhân đẹp từ bi hạnh giúp thêm.
Ánh ngọc bảo trì về đến cảnh,
Sen vàng kim các bước lên thềm.
Bảy hôm hoa nở, lòng cùng nở,
Lòng nở bừng trong tiếng pháp
âm.
16- Quán Sanh Về Hạ
Phẩm (Hạ Phẩm Sanh Quán)
Đức Phật bảo A Nan và Vi Đề Hy: Hạ phẩm thượng sanh là thế
nào? - Hoặc có chúng sanh ngu tối, tuy không phỉ báng kinh điển Phương
Đẳng, nhưng tạo nhiều nghiệp ác không biết hổ thẹn, kẻ ấy khi lâm chung
gặp thiện tri thức nói cho nghe danh đề của mười hai loại kinh đại thừa,
liền được trừ diệt nghiệp ác rất nặng trong một ngàn kiếp. Bậc tri thức
lại bảo phải chắp tay niệm "Nam Mô A Mi Đà Phật"; do đương nhơn thành tâm
xưng danh hiệu Phật, nên tiêu trừ tội trong năm mươi ức kiếp sanh tử. Ngay
lúc ấy đức Vô Lượng Thọ Như Lai cảm biết, liền sai Hóa Phật, Hóa Quán Âm
và Hóa Thế Chí hiện đến trước hành giả khen rằng: "Lành thay thiện nhơn!
Người đã xưng danh hiệu Phật, nên các tội tiêu diệt, ta đến đây để rước
ngươi."
Bấy giờ hành giả thấy ánh sáng của Hóa Phật đầy khắp nhà
mình, trong lòng vui mừng, liền xả thọ, ngồi trên hoa sen báu theo Hóa
Phật sanh về ao thất bảo. Sau khi vãng sanh trải qua bốn mươi chín ngày
hoa sen mới nở. Vừa lúc hoa nở, Đại Bi Quán Thế Âm và Bồ Tát Đại Thế Chí
phóng ánh sáng lớn, trụ trước người ấy, giảng thuyết cho nghe nghĩa lý
thâm diệu của mười hai loại kinh. Đương nhơn nghe rồi tin hiểu, phát tâm
vô thượng bồ đề, trải qua mười hai tiểu kiếp, thành tựu bách pháp minh
môn, được vào Sơ địa. Đây là cảnh hạ phẩm thượng sanh.
"Tạo nhiều nghiệp ác", ý nói không phải thuộc về nghiệp cực
ác. "Không phỉ báng kinh điển Phương Đẳng", là còn có lòng chánh tín. Mười
hai loại kinh là: Khế kinh, Trùng tụng, Thọ ký, Phúng tụng, Cô khởi, Nhân
duyên, Thí dụ, Bản sanh, Bản sự, Phương quảng, Vị tằng hữu và Luận nghị.
Đây cũng gọi là mười hai phần giáo. Theo bảo Cao Ly, có nói đủ về việc
nghe danh hiệu Phật, Pháp, Tăng; bản này chỉ lược thuyết Phật và Pháp mà
thôi. Ba phẩm trung ở đoạn trước vì muốn thuyết minh nhân quả của thượng
thiện, hạ thiện thuộc tiểu thừa và thượng thiện thuộc thế gian, nên mới
nói về tiểu quả; kỳ thật trung phẩm cũng lần lượt vào đại thừa và chứng
trước hạ phẩm.
Hỏi: - Tại sao nghe danh đề của mười hai loại kinh đại thừa
chỉ trừ tội trong ngàn kiếp, mà chỉ xưng niệm câu hồng danh lại được tiêu
tội đến năm mươi ức kiếp?
Đáp: - Người tạo nghiệp bị chướng nặng, gia dĩ lúc lâm
chung sự khổ bức bách, nghe tên nhiều loại kinh tâm d phù tán, nên sức
diệt tội phải kém. Còn danh hiệu Phật chỉ là một, đương nhơn d nhiếp tâm
chuyên chú, gây thành tác dụng mạnh, nên diệt tội được nhiều.
Hạ phẩm trung sanh là thế nào? - Hoặc có chúng sanh ngu tối
hủy phạm ngũ giới, bát giới, giới cụ túc, trộm của tăng kỳ và vật hiện
tiền tăng, bất tịnh thuyết pháp, lòng không hổ thẹn, dùng các nghiệp ác để
tự trang nghiêm. Kẻ tạo tội chướng như thế, tất phải bị đọa vào địa ngục,
nên lúc lâm chung các tướng lửa của địa ngục đồng thời hiện ra. Nhưng
người này may mắn được gặp thiện tri thức giảng nói cho nghe về oai đức
thập lực, sức thần thông quang minh của Phật A Mi Đà, cùng những pháp:
giới, định, huệ, giải thoát, giải thoát tri kiến. Đương nhơn nghe xong
sanh lòng tín trọng nên trừ diệt tội trong tám mươi ức kiếp sanh tử, lửa
dữ địa ngục hóa thành gió mát thổi các hoa trời, trên hoa có Hóa Phật và
Hóa Bồ Tát hiện thân tiếp dẫn, trong khoảng một niệm liền được sanh về hoa
sen nơi ao thất bảo.
Sau khi vãng sanh, trải qua sáu kiếp hoa sen mới nở. Vừa
lúc hoa nở, Bồ Tát Quán Thế Âm, Đại Thế Chí hiện đến, dùng tiếng phạm âm
an ủi và vì giảng thuyết pháp thậm thâm của đại thừa. Hành giả nghe xong,
liền phát đạo tâm vô thượng. Đây là cảnh hạ phẩm trung sanh.
Trên đây nói phạm ngũ giới cho đến Cụ Túc chỉ là lược
thuyết, trong ấy đã bao trùm có giới Sa Di. Tăng kỳ, Trung Hoa dịch là Đại
chúng, tức của thường trụ, có hai:
Thường trụ
thường trụ, như chùa chiền, ruộng đất, thuộc về bất động sản.
Thập phương thường trụ, như lúc gạo, thức ăn, có thể cúng
dường chung cho chư tăng mười phương.
Vật hiện tiền
tăng cũng có hai:
Hiện tiền hiện
tiền, tức là vật riêng hay phần chia riêng của chư Tăng.]
Thập phương hiện tiền, tức là của tác pháp phổ thí.
Bất tịnh thuyết
pháp là thuyết pháp với dụng tâm không trong sạch, mục đích mưu cầu danh
vọng, sự cúng dường. "Dùng các nghiệp ác để tự trang nghiêm" ý nói nghiệp
ác dẫy đầy, người thấy đều khinh chán. Thập lực là mười trí lực của Phật,
gồm có: Thị xứ phi xứ lực, Nghiệp trí lực, Định lực, Căn lực, Dục lực,
Tánh lực, Chí xứ đạo lực, Túc mạng lực, Thiên nhãn lực và Lậu tận lực. Năm
phần: Giới, Định, Huệ, Giải thoát, Giải thoát tri kiến, ba pháp trước có
thể suy danh để hiểu, còn phần thứ tư, tu nhân cảm quả gọi là Giải thoát,
và sau khi đắc quả khởi ra trí dụng tự tại, gọi là Giải thoát tri kiến.
Vì cảnh tùy tâm chuyển, người ác nghe công đức của Phật
sanh niệm tín trọng, nên chuyển ác thành thiện; các tướng lửa như: vạc
dầu, nước đồng sôi, thiết trụ, thiết hoàn, hỏa luân, hỏa xa, đều biến
thành gió mát, hoa trời, được Phật Bồ Tát hóa thân đến tiếp dẫn. Đây là
thuyết minh sức diệu dụng biến hiện của tự tâm.
Hạ phẩm hạ sanh là thế nào? - Hoặc có chúng sanh tạo tội
ngũ nghịch thập ác, làm đủ các việc chẳng lành; kẻ ngu ấy do nghiệp ác
đáng lẽ phải bị đọa vào ác đạo, trải qua nhiều kiếp chịu khổ vô cùng.
Nhưng khi lâm chung, người này nhờ gặp thiện tri thức dùng nhiều cách an
ủi, nói phép mầu cho nghe, lại dạy bảo tưởng niệm Phật. Đương nhơn tuy
nghe lời dạy, song vì sự khổ bức ách, không yên rảnh để quán tưởng đức Vô
Lượng Thọ Như Lai. Thấy thế, thiện hừu lại bảo: "Nếu ông không thể tưởng
đức Phật kia, thì nên chí thành xưng "Nam Mô A Di Đà Phật" tiếng tăm liên
tiếp không dứt cho đủ mười niệm." Hành giả vâng lời. Và do nhờ xưng danh
hiệu Phật nên mỗi mỗi niệm trừ được tội trong tám mươi ức kiếp sanh tử.
Khi mạng chung, người ấy thấy hoa sen vàng rực rỡ như vầng nhật hiện ra
trước mặt. Trong khoảng một niệm, liền được vãng sanh về thế giới Cực Lạc.
Như thế mãn mười hai Đại kiếp hoa sen mới nở. Khi hoa nở,
hai vị đại sĩ Quán Thế Âm, Đại Thế Chí dùng tiếng đại bi vì hành giả nói
rộng về thật tướng của các pháp và cách trừ diệt tội chướng. Đương nhơn
nghe rồi thân tâm vui đẹp, liền phát lòng vô thượng bồ đề. Đây là cảnh hạ
phẩm hạ sanh.
Môn tưởng trên gọi là hạ bối vãng sanh, thuộc về pháp quán
thứ mười sáu.
Tội ngũ nghịch là: giết cha, giết mẹ, giết A La Hán, phá sự
hòa hợp của chư Tăng, và làm cho thân Phật ra máu. Vì năm tội này trái ân
phụ đức, nên gọi là "nghịch." Thập ác là ba nghiệp dữ của thân, bốn nghiệp
dữ của miệng, và ba nghiệp dữ của ý; tất cả ác nghiệp đều nhiếp về mười
điều này. "Mười niệm", ước về số ít là mười câu, nhiều là mười hơi.
Hỏi: - Theo kinh Vô Lượng Thọ, đoạn bốn mươi tám điều đại
nguyện, có câu "duy trừ những người tạo ngũ nghịch và báng chánh pháp,
ngoài ra đều được vãng sanh." Nay trong chương Hạ phẩm hạ sanh của Quán
kinh đây lại nhiếp thủ người tạo ngũ nghịch, không thâu kẻ báng chánh pháp
là ý thế nào?
Đáp: - Việc ấy nên hiểu theo nghĩa ức chỉ môn, tức là lời
nói ngăn đón trong Phật pháp. Bởi người đã tạo tội ngũ nghịch tất nghiệp
chướng rất nặng nề, khó hồi tâm hướng về chánh pháp, nên đức Như Lai mới
nói lời rào đón trước, để cho kẻ ấy được d dàng trong sự vãng sanh. Nếu
người tạo ngũ nghịch thập ác mà biết hồi tâm niệm Phật, tất đức Phật sẵn
sàng tiếp dẫn. Chư Phật lòng từ vi vô lượng, đối với kẻ lỗi lầm biết quay
đầu về hướng thiện, lẽ nào lại không tiếp độ? Cho nên quán kinh nhiếp thủ
người tạo ngũ nghịch, là bởi ý đó.
Trong kinh đây không nói đến kẻ báng pháp, là bởi nếu đã
tạo tội nặng mà biết tin tưởng chánh pháp, thì còn có thể hóa độ, bằng
trái lại thì dù có khuyên bảo, chỉ e luống vô công. Tuy nhiên, nếu có
người trước kia không tin tưởng, thường phỉ báng chánh pháp sau bị tai
nạn, hay thấy ác tướng, hoặc gặp duyên sự gì, biết thức tỉnh trở lại nẻo
chánh chơn, thì chư Phật với tâm bình đẳng từ bi vẫn sẵn sàng tiếp độ. Vì
thế, kinh Quán Phật Tam Muội nói: "Nếu trong hàng tứ chúng, có kẻ báng
kinh đại thừa, tạo tội ngũ nghịch, phạm bốn trọng giới, mà biết chí tâm hệ
niệm quán tưởng một tướng hảo của Phật trong một ngày đêm, thì các tội
chướng thảy đều tiêu diệt." Thế thì những kẻ báng chánh pháp nếu có thể
hồi tâm, tất đều vãng sanh chớ chẳng phải là không được thâu nhiếp đâu!
Nhưng người báng chánh pháp dù được vãng sanh, phải ở trong
hoa sen, trải qua nhiều kiếp. Trong thời gian lâu xa ấy, đương nhơn tuy
hưởng sự vui như tam thiền, song còn ba điều chướng là: không được thấy
Phật và Thánh chúng, không được nghe chánh pháp, không được thừa sự cúng
dường các đức Thế Tôn. Tuy thế, cũng còn hơn là kẻ không hồi tâm để bị đọa
vào địa ngục A Tỳ! Về hạ phẩm vãng sanh đến đây đã xong.
Có lời khen rằng:
Hạ bối căn non, kém hiểu biết,
Ngũ nghịch, thập ác, gây nhiều
nghiệp
Phá giới, phạm trai, trộm của
Tăng,
Không tin đại thừa, báng chánh
pháp.
Lâm chung tướng khổ hội như
mây,
Ưng đọa A Tỳ vô lượng kiếp.
Thiện hữu khuyên xưng niệm Phật
danh
Mi Đà hóa hiện tay vàng tiếp.
Mười niệm khuynh tâm đến bảo
trì,
Luân hồi từ ấy thoát trường kỳ.
Mười hai đại kiếp hoa sen nở
Đại nguyện theo với tiếng đại
bi.
Khi đức Thế Tôn
nói lời ấy rồi, Vi Đề Hy phu nhơn cùng năm trăm thị nữ liền thấy tướng
rộng dài của thê giới Cực Lạc, sắc thân của Phật A Mi Đà và hai vị Bồ Tát.
Tất cả đều sanh lòng vui mừng, khen là việc chưa từng có. Phu nhơn hoát
nhiên đại ngộ, chứng vô sanh pháp nhẫn. Năm trăm thị nữ phát tâm A Nậu Đa
La Tam Miệu Tam Bồ Đề, nguyện sanh về Cực Lạc. Đức Thế Tôn thọ ký cho tất
cả đều được vãng sanh và sau khi sanh về tịnh độ đều chứng Chư Phật Hiện
Tiền tam muội.
Vô lượng chư thiên phát tâm vô thượng bồ đề.
Trước chỉ nói bà Vi Đề Hy thấy cõi Cực Lạc, nay lại thuyết
minh năm trăm thị nữ đều thấy, đây là mật ý chỉ cho phu nhơn và năm trăm
thị nữ đều có nhơn duyên với miền An Dưỡng.
Hỏi: - Luận Vãng Sanh nói: "Người nữ kẻ căn thiếu. Nhị thừa
chủng không sanh." Như thế tại sao trong kinh này Phật lại ấn hứa cho
người nữ được vãng sanh?
Đáp: - Đó là ý nói ở Cực Lạc không có người nữ cùng kẻ sáu
căn không đủ, chứ chẳng phải nữ nhơn và kẻ thiếu căn niệm Phật không được
vãng sanh đâu! Còn "nhị thừa chủng" là chỉ cho hàng định tánh Thanh Văn
lấy quả Vô dư niết bàn làm cứu cánh, không tin có cõi Cực Lạc. Nếu những
vị này hướng về đại thừa, phát tâm niệm Phật tất đều được vãng sanh.
III - Phần
Lưu Thông
Khi ấy Tôn giả A Nan liền từ chỗ ngồi đứng dậy, l Phật và
thưa rằng:
- Bạch đức Thế Tôn! Kinh này tên gọi là chi? Chúng con phải
thọ trì pháp yếu này như thế nào?
Đức Phật bảo: "Kinh này tên Quán Cực Lạc Quốc Độ Vô Lượng
Thọ Phật, Quán Thế Âm Bồ Tát, Đại Thế Chí Bồ Tát", cũng gọi là "Tịnh Trừ
Nghiệp Chướng, Sanh Chư Phật Tiền." Ông nên như thế mà thọ trì, chớ để
quên mất. Người tu môn tam muội này, hiện đời sẽ được thấy Phật Vô Lượng
Thọ và hai vị đại sĩ. Nếu thiện nam thiện nữ nào chỉ nghe danh hiệu của
đức Phật và hai vị đại sĩ kia, còn trừ được tội trong vô lượng kiếp sanh
tử, huống chi là tưởng niệm! Như có người nào niệm Phật, nên biết kẻ ấy
chính là hoa phân đà lợi trong loài người. Bồ Tát Quán Thế Âm và Đại Thế
Chí sẽ là thắng hữu của người ấy. Kẻ ấy sẽ ngồi nơi đạo tràng, sanh vào
nhà chư Phật. Này A Nan! Ông nên ghi nhớ lời này, thọ trì lời này chính là
thọ trì danh hiệu Phật Vô Lượng Thọ."
Khi Phật nói lời ấy xong, hai tôn giả Mục Kiền Liên, A Nan,
Vi Đề Hy phu nhơn cùng quyến thuộc, thảy đều hoan hỷ.
Bấy giờ đức Thế Tôn bước trên hư không, trở lại núi Kỳ Xà
Quật. Khi về đến nơi, Tôn giả A Nan lại vì đại chúng trùng tuyên việc ấy.
Vô lượng chư thiên, long, dạ xoa nghe lời của Phật nói, đều rất vui mừng,
đảnh l đức Thế Tôn rồi lui bước trở về.
Thọ trì là thế nào? Theo Luận Trí Độ: "Sức tin tưởng gọi là
thọ, sức ghi nhớ gọi là trì." Kinh có hai danh đề, danh đề trước "Quán Cực
Lạc Quốc Độ Vô Lượng Thọ Phật, Quán Thế Âm Bồ Tát, Đại Thế Chí Bồ Tát",
gọi tắt "Quán Vô Lượng Thọ", là muốn nói chánh báo để kiêm y báo, thuật
hóa chủ để gồm đồ chúng. Danh đề sau "Tịnh Trừ Nghiệp Chướng, Sanh Chư
Phật Tiền" ý nói sự diệt tội được vãng sanh là lực dụng của kinh. Phân đà
lợi tức là hoa sen trắng. Câu "Thọ trì lời này chính là thọ trì danh hiệu
Phật Vô Lượng Thọ" là đức Thế Tôn vì lòng đại bi, mật ý đem môn trì danh
niệm Phật mà phú chúc cho người đời sau.
Kinh này có hai điểm lưu thông, là nơi vương cung và núi Kỳ
Xà Quật. Ngài A Nan trùng tuyên lại lời đức Phật, nên gọi "nghe lời của
Phật nói."
Thiện Đạo đại sư khi xưa, lúc sắp sớ giải kinh này, đã quì
trước bàn Phật cầu xin gia bị, rồi tụng luôn ba biến kinh Mi Đà, niệm Phật
ba muôn câu. Đêm ấy, ngài mộng thấy cảnh giới Cực Lạc trang nghiêm, Phật,
Bồ Tát và Thánh chúng hoặc ngồi, hoặc đứng, hoặc thuyết pháp, hoặc đi kinh
hành. Từ đó về sau, mỗi đêm trong giấc chiêm bao, đều có một vị Tăng đến
chỉ bảo về huyền nghĩa kinh Quán Vô Lượng Thọ. Sau khi bản thảo đã viết
xong, trong bảy hôm, mỗi ngày đêm đại sư tụng kinh Mi Đà mười biến, niệm
Phật ba muôn câu, sám hối quy mạng, cầu xin chứng minh. Đêm đầu thấy có ba
cỗ xe tự chạy đi trên đường, bỗng có một người cỡi lạc đà trắng đến khuyên
rằng: "Sư nên tinh tấn, đừng thối chuyển, cõi này nhơ ác khổ não, chớ nên
tham đắm sự vui điên đảo vô thường." Đêm thứ hai, ngài thấy Phật A Mi Đà
thân sắc chân kim ngồi trên hoa sen nơi gốc cây báu, xung quanh có mười vị
tăng cũng đều ngồi dưới bảo thọ. Trên cây báu chỗ Phật ngồi, có thiên y
treo vây phất phơ rất đẹp. Sang đem thứ ba, đại sư lại thấy hai cây trụ
tuyệt cao, có treo tràng phan năm sắc, đường báu rộng rãi thênh thang.
Những tướng như thế rất nhiều, đây chỉ là lược thuật.
Thế thì biết: Cõi báu chẳng không, kinh điển lưu truyền vẫn
tại. Lòng thành có cảm, thoại trưng ghi chép còn đây. Chỉ thương người
chấy lý trệ không, cho là lời thí dụ. Lại tiếc kẻ theo tình quên tánh,
uổng mất phước vãng sanh. Nhưng thôi, non cao nước chảy cũng đành chờ
khách tri âm; đá cứng ngọc lành, âu hãy đợi người minh thức. Cõi mầu hằng
tịnh, ai kẻ hữu duyên.
--- o0o ---
Chân thành cảm ơn
đạo hữu Tâm Diệu đã gởi tặng bản điện tử này
Cập nhật 05-2003
Trình bày: Nhị Tường
Nguồn: www.quangduc.com
Về danh mục