.

 

 

KINH  THUYẾT  VÔ  CẤU  XỨNG

Hán dịch: Ðại Ðường, Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang

Việt dịch:  Thích nữ Tịnh Nguyên

 Chứng nghĩa: Tỳkheo Thích Ðỗng Minh,

Tỳ kheo Thích Tâm Hạnh.

--- o0o ---

 

Quyển thứ sáu

 

 

XII - PHẨM QUÁN NHƯ LAI

Bấy giờ,  Thế Tôn hỏi Vô Cấu Xứng:

- Này thiện nam! Trước đây vì muốn thấy thân Như Lai nên ông đến đây. Ông thấy Như Lai như thế nào?

Vô Cấu Xứng nói:

- Con quán Như Lai hoàn toàn không có chỗ thấy. Con quán như vậy. Vì sao? Vì con quán Như Lai trước không đến, sau không đi, hiện tại không trụ. Vì sao? Vì bảo con quán tánh Chơn như của sắc Như Lai, tánh ấy chẳng phải tánh chơn như của sắc thọ; tánh ấy chẳng phải tánh chơn như của thọ tưởng; tánh ấy chẳng tánh chơn như của tưởng hành; tánh ấy chẳng phải tánh chơn như của hành thức; tánh ấy chẳng phải thức; không trụ trong bốn giới; đồng với hư không giới; chẳng phải do sáu xứ sanh khởi; vượt qua sáu căn; không bị tạp nhiễm trong ba cõi; xa lìa ba cấu; thuận với ba giải thoát; đạt đến ba minh; chẳng phải minh mà lại minh; chẳng phải thông đạt nhưng lại thông đạt tất cả pháp không bị chướng ngại; thật tế chẳng phải tế; chơn như chẳng phải như, đối với cảnh chơn như thấy không có chỗ trụ; đối với trí chơn như không sáng suốt; tánh của trí và cảnh chơn như đều lìa cả hai; chẳng phải do nhân sanh ra; chẳng phải do duyên khởi; chẳng phải hữu tướng; chẳng phải vô tướng; chẳng phải tự tướng; chẳng phải tha tướng; chẳng phải một tướng; chẳng phải tướng khác; chẳng phải sở tướng; chẳng phải lìa sở tướng; chẳng phải đồng sở tướng; chẳng phải khác sở tướng; chẳng phải năng tướng; chẳng phải lìa năng tướng; chẳng phải đồng năng tướng; chẳng phải khác năng tướng; chẳng phải bờ bên này; chẳng phải bờ bên kia; chẳng phải giữa dòng; chẳng phải ở đây; chẳng phải ở kia; chẳng phải ở chặn giữa; chẳng phải trong chẳng phải ngoài; chẳng phải cả hai không cả hai; chẳng phải đã đi chẳng phải sẽ đi chẳng phải đang đi; chẳng phải đã đến chẳng phải sẽ đến chẳng phải đang đến; chẳng phải trí chẳng phải cảnh; chẳng phải năng thức chẳng phải sở thức; chẳng phải ẩn chẳng phải hiện; chẳng tối chẳng sáng; chẳng đứng chẳng đi; không danh không tướng; không mạnh không yếu; không trụ một nơi không lìa một nơi; chẳng tạp nhiễm chẳng thanh tịnh; chẳng phải hữu vi chẳng phải vô vi; chẳng tịch diệt hẳn chẳng phải không tịch diệt; không có việc nhỏ nào để hiển bày, không có nghĩa nhỏ nào để nói; không bố thí không xan tham; không giữ giới không phạm giới; không nhẫn nhục không sân giận; không siêng năng không biếng nhác; không định tâm không tán loạn; không trí huệ không ngu si; không nhớ kỹ không quên mất; không xuất không nhập; không đi không đến; tất cả ngôn ngữ (nói năng) việc làm đều đoạn diệt, chẳng phải ruộng phước, chẳng phải không có ruộng phước; chẳng phải được cúng dường chẳng phải không đáng cúng dường; chẳng phải năng chấp chẳng phải sở chấp; chẳng phải năng thủ chẳng phải sở thủ; chẳng phải tướng chẳng phải không có tướng; chẳng phải vi chẳng phải bất vi; không có số lìa các số; không chướng ngại lìa các sự chướng ngại; không tăng không giảm; bình đẳng bình đẳng; đồng vói chân thật tế đồng đẳng với tánh pháp giới, chẳng phải năng xưng chẳng phải sở xưng vượt qua các xưng tánh; chẳng phải năng lường chẳng phải sở lường vượt ra khỏi các tánh lường; không hướng đến không quay ngược vượt khỏi các sự hướng đến quay ngược; chẳng mạnh chẳng yếu vượt ra khỏi các mạnh yếu; chẳng lớn chẳng nhỏ chẳng rộng chẳng hẹp; không thấy không nghe không hay không biết, lìa các sự trói buộc an nhiên giải thoát; chứng nhập bình đẳng với trí Nhất thiết trí; chứng đắc chúng sanh không có hai; thông đạt các pháp không sai khác; biết rõ tất cả không tội không lỗi, không đục không dơ, không bị chướng ngại; lìa các phân biệt; không tạo tác không phát sanh; không hư không thật; không phát khởi không cùng tận; không từng có không sẽ có, không sợ không nhiễm; không buồn không vui không chán không thích; phân biệt tất cả đều không có năng duyên; tất cả danh ngôn không có năng thuyết.

Bạch Thế Tôn! Thân tướng của Như Lai là như vậy, phải quán như vậy không nên quán khác. Ai quán như vậy gọi là chánh quán. Nếu quán khác gọi là tà quán.

Bấy giờ, Xá Lợi Tử bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn! Vô Cấu Xứng này qua đời ở cõi nào mà đến sanh vào cõi kham nhẫn này?

Thế Tôn dạy:

- Ông hãy hỏi ông ta thử xem.

Xá Lợi Phất hỏi Vô Cấu Xứng:

- Ông qua đời ở cõi nào mà sanh đến cõi này?

Vô Cấu Xứng nói:

- Thưa ngài Xá Lợi Tử! Ông biết rất rõ về tác chứng các pháp. Vậy có pháp nhỏ nào có thể diệt hay sanh không?

Xá Lợi Tử nói:

- Thưa Vô Cấu Xứng! Không có pháp nhỏ nào có thể diệt hay sanh cả.

Vô Cấu Xứng hỏi:

- Nếu biết rõ tác chứng tất cả pháp không diệt hay sanh. Vậy sao ngài hỏi tôi: Ông ở cõi nào qua đời mà sanh đến cõi này? Thưa ngài Xá Lợi Tử! Ý ngài thế nào? Những nam nữ do huyễn hóa tạo ra chết ở cõi nào mà đến sanh ở đây?

Xá Lợi Tử trả lời:

- Nam nữ được huyễn hóa ấy không thể đưa ra nói có chết hay sanh.

Vô Cấu Xứng nói:

- Như Lai đâu không nói tất cả các pháp như huyễn hóa sao?

Xá Lợi Tử:

- Ðúng vậy! Ðúng vậy!

Vô Cấu Xứng nói:

- Nếu tự tánh tự tướng của các pháp như huyễn như hóa, vì sao ngài lại hỏi rằng ông chết ở cõi nào mà đến sanh cõi này. Thưa ngài Xá Lợi Tử! Chết tức là tướng đoạn diệt của các hành; sống là tướng liên tục của các hành. Mặc dầu Bồ tát qua đời nhưng không đoạn tất cả hành tướng của các pháp lành. Mặc dầu Bồ tát sanh nhưng không tiếp tục tất cả hành tướng của pháp ác.

Bấy giờ, Thế Tôn dạy Xá Lợi Tử:

- Có thế giới Phật tên Diệu Hỷ, Như Lai hiệu Vô Ðộng, vì độ chúng sanh nên Vô Cấu Xứng ở cõi đó mà qua đời sanh vào cõi này.

Xá Lợi Phất:

- Thật kỳ diệu thay bạch Thế Tôn! Ðại sĩ này thật chưa từng có, có thể bỏ cõi Phật thanh tịnh mà thích đến chỗ đầy tạp nhiễm ô uế này.

Vô Cấu Xứng nói:

- Thưa ngài Xá Lợi Tử! Ý ngài thế nào? Ánh sáng mặt trời có thích nhập xen lẫn với tối tăm thế gian không?

Xá Lợi Phất trả lời:

- Không, cư sĩ! Mặt trời vừa nhô lên thì bóng tối mất hẳn.

Vô Cấu Xứng nói:

- Mặt trời vì sao đi qua Thiệm Bộ Châu?

Xá Lợi Phất trả lời:

- Vì chiếu ánh sáng diệt trừ tối tăm.

Vô Cấu Xứng nói:

- Bồ tát cũng vậy, vì độ hữu tình mà sanh vào cõi Phật ô uế nhưng không ở xen tạp với những phiền não, chỉ vì diệt trừ tối tăm phiền não của chúng sanh mà thôi.

Bấy giờ, đại chúng đều khao khát muốn thấy cõi Phật công đức trang nghiêm thanh tịnh Diệu Hỷ, thấy đức Như Lai Vô Ðộng và chúng Bồ tát Thanh văn.

Biết tâm niệm của đại chúng, đức Thế Tôn bảo Vô Cấu Xứng:

- Này thiện nam! Tất cả đại chúng những vị thần tiên trong đại hội này đều khao khát muốn thấy cõi Phật trang nghiêm công đức thanh tịnh Diệu Hỷ, Như Lai Vô Ðộng và chúng Bồ tát, Thanh văn, ông hãy hiện để họ mãn nguyện.

Khi ấy Vô Cấu Xứng suy nghĩ: “ Ngay chỗ ngồi này, ta nên dùng sức thần thông dời mau thế giới Diệu Hỷ và núi Thiết Vi, vườn rừng, ao hồ, suối rạch hang cốc, biển cả, sông lớn, núi Tu Di, núi đồi vây quanh, mặt trời mặt trăng, sao, trời rồng, quỉ thần, chúng hội, cung điện Ðế thích Phạm vương, chúng Bồ tát Thanh văn... xóm làng thành ấp, đô thành nhà ở của nam nữ lớn nhỏ nói rộng cho đến Vô Ðộng Như Lai Ứng Chánh Ðẳng Giác, cây đại Bồ đề, ngồi nghe pháp, biển hội đại chúng, các hoa sen báu đến mười phương cõi, vì các hữu tình mà làm Phật sự, có ba thang cấp báu tự nhiên vọt ra từ Thiệm Bộ Châu thẳng đến đỉnh núi Tu Di. Cõi trời ba mươi ba vì muốn chiêm ngưỡng kính lạy cúng dường Bất Ðộng Như Lai và nghe pháp nên mỗi ngày theo thang cấp báu này đi xuống. Người cõi Thiệm Bộ Châu cũng muốn thấy nhà cửa vườn rừng cõi trời Ba mươi ba mà theo thang cấp báu này đi lên. Thế giới Diệu Hỷ thanh tịnh được thành lập do vô lượng công đức hợp lại, dưới đến thủy luân trên đến trời sắc cứu cánh. Ta lấy đặt trong lòng bàn tay phải, giống như bánh xe của người thợ gốm, giống như xâu vòng hoa rồi ta để vào thế giới này để hiển bày cho đại chúng”. Sau khi nghĩ như vậy, ngay trên giường Vô Cấu Xứng nhập Tam ma địa hiện thần thông thù thắng, nhanh chóng lấy thế giới Diệu Hỷ đặt trong lòng bàn tay phải rồi để vào trong thế giới này. Các Thanh văn, Bồ tát, trời, người, đại chúng cõi ấy, ai có thiên nhãn đều sợ hãi và cùng nói:

- Ai đem chúng con đi? Ai đem chúng con đi vậy? Cúi xin Thế Tôn cứu hộ chúng con, cúi xin bậc Thiện Thệ cứu giúp chúng con.

Khi ấy Phật Vô Ðộng dùng phương tiện giáo hóa chúng sanh, nên nói:

- Này các thiện nam! Các ông đừng sợ sệt! Các ông đừng sợ sệt! Ðó do sức thần thông của Vô Cấu Xứng chứ chẳng Như Lai làm ra đâu.

Trời, người và người mới học ở cõi ấy chưa đắc thiên nhãn thông thù thắng đều an nhiên không hay không biết. Sau khi nghe nói vậy, họ đều hoảng hốt hỏi nhau:

- Chúng ta đang đi đâu vậy?

Mặc dầu cõi Diệu Hỷ nhập vào cõi này nhưng tướng của cõi này không giảm không tăng. Cõi Kham nhẫn cũng không chật hẹp. Mặc dầu hai cõi xen lẫn với nhau nhưng đều thấy chỗ ở như cũ không thay đổi gì cả.

Bấy giờ, Thế Tôn Thích Ca Mâu Ni dạy đại chúng:

- Các ông có thấy thế giới Diệu Hỷ, cõi Phật trang nghiêm Vô Ðộng và các Bồ tát, Thanh văn không?

Ðại chúng đều thưa:

- Bạch Thế Tôn! Ðã thấy.

Lúc ấy Vô Cấu Xứng liền dùng thần lực hóa hiện những hoa trời thượng diệu và các hương vụn khác, đưa cho đại chúng để rải cúng dường Ðức Thích Ca Mâu Ni, Vô Ðộng Như Lai và các Bồ tát...

Thế Tôn dạy đại chúng:

- Các ông muốn thành tựu cõi Phật trang nghiêm công đức như vậy thì các Bồ tát phải theo học hành những hạnh Bồ tát mà trước kia Như Lai Vô Ðộng đã từng tu hành.

Khi Vô Cấu Xứng dùng sức thần thông thị hiện thế giới Diệu Hỷ như vậy thì có tám mươi bốn na do tha trời người trong cõi kham nhẫn đều phát tâm Vô Thượng Chánh Ðẳng Giác, ai nấy đều muốn được sanh về cõi Diệu Hỷ. Thế Tôn thọ ký cho tất cả sẽ sanh về cõi Phật Như Lai Vô Ðộng.

Lúc đó Vô Cấu Xứng dùng sức thần thông dời các Bồ tát của Như Lai Vô Ðộng cõi Diệu Hỷ như vậy là vì muốn làm lợi ích cho hữu tình cõi kham nhẫn này. Việc ấy đã xong rồi thì Vô Cấu Xứng đem cõi ấy về lại chỗ cũ. Khi cả hai cõi phân riêng ra, đại chúng hai nơi đều thấy.

Bấy giờ Thế Tôn dạy Xá Lợi Tử:

- Ông đã thấy Như Lai Vô Ðộng và các Bồ tát thế giới thế giới Diệu Hỷ rồi phải không?

Xá Lợi Phất thưa:

- Bạch Thế Tôn! Con đã thấy. Con nguyện cho các hữu tình đều ở cõi Phật trang nghiêm như vậy, con nguyện cho các hữu tình được thành tựu công đức viên mãn phước đức trí huệ như thế. Tất cả đều giống như Như Lai Vô Ðộng. Con nguyện cho các hữu tình đều được thần thông tự tại như Vô Cấu Xứng.

Bạch Thế Tôn! Chúng con có lợi ích tốt lành nên được chiêm ngưỡng gần gũi đại sĩ ấy. Nếu các hữu tình chỉ nghe pháp môn thù thắng này thì nên biết rằng còn gọi là thiện hoạch thắng lợi huống chi đã nghe rồi tin hiểu thọ trì đọc tụng thông suốt, giảng nói cho người khác, và lại dùng phương tiện tinh tấn tu hành. Nếu các hữu tình đạt được pháp môn thù thắng như vậy tức là đạt được kho tàng pháp bảo. Nếu các hữu tình tin hiểu pháp môn thù thắng này tức là tiếp nối chư Phật. Nếu các hữu tình đọc tụng pháp môn thù thắng là thành Bồ tát bạn của Phật. Nếu các hữu tình thọ trì pháp môn này là giữ gìn chánh pháp vô thượng. Nếu ai cúng dường pháp này nên biết rằng nhà người ấy có Như Lai. Nếu ai ghi chép cúng dường pháp môn thù thắng này tức là giữ gìn tất cả phước đức, trí Nhất thiết trí. Nếu ai tùy hỷ pháp môn này tức là thiết đại pháp hội. Nếu giảng giải cho người một bài tụng bốn câu của pháp môn thù thắng này thì đạt được địa vị Bất thối chuyển. Nếu thiện nam hay thiện nữ đối với pháp môn thù thắng này mà tin hiểu, thọ trì, ưa thích, quán sát  thì được thọ ký Vô thượng Chánh Ðẳng Bồ đề.

 

 

XIII - PHẨM CÚNG DƯỜNG PHÁP

Bấy giờ, Thiên Ðế Thích bạch Phật:

- Mặc dầu con được nghe đức Phật và Diệu Cát Tường nói hơn trăm ngàn pháp môn sai biệt, nhưng con chưa từng nghe nói về môn giải thoát thần thông tự tại bất khả tư nghì này. Theo sự hiểu biết của con về nghĩa lý mà Phật đã nói, nếu các hữu tình được nghe pháp môn này mà tin hiểu thọ trì đọc tụng thuộc lòng giảng nói cho người thì người đó chắc chắn là pháp khí, không nghi ngờ gì cả. Huống chi tinh tấn tu tập đúng như lý. Hữu tình ấy đã bít lất tất cả con đường nguy hiểm đến cõi ác, khai mở tất cả con đường đến cõi lành, luôn được gặp tất cả chư Phật, Bồ tát, chiến thắng tất cả tà luận của ngoại đạo; diệt hết thảy quân ma bạo ác; làm thanh tịnh đạo Bồ đề ở an ổn trong diệu pháp, bước theo con đường mà Như Lai đã đi.

Bạch Thế Tôn! Nếu các hữu tình được nghe pháp môn này mà tin hiểu, thọ trì, cho đến tinh tấn tu tập đúng như lý thì con sẽ cùng quyến thuộc cung kính cúng dường thiện nam hay thiện nữ ấy.

Bạch Thế Tôn! Nếu có thành ấp xóm làng, đô thành nào thọ trì đọc tụng, giảng nói pháp môn này, thì con cùng tất cả quyến thuộc đến đó để nghe pháp. Ai chưa tin con khiến cho họ tin. Ai tin rồi, con sẽ như pháp hộ trì để họ không gặp chướng ngại.

Bấy giờ, Thế Tôn dạy Thiên Ðế Thích:

- Lành thay! Lành thay! Ðúng như lời ông đã nói. Ông đã tùy hỷ với pháp môn vi diệu mà Như Lai đã nói ra. Thiên Ðế Thích nên biết! Chư Phật trong quá khứ, vị lai và hiện tại chứng Vô Thượng Chánh Ðẳng Bồ đề đều giảng nói chỉ bày pháp môn đã nói này. Cho nên nếu có thiện nam, thiện nữ nào nghe pháp môn này mà tin hiểu thọ trì, đọc tụng, thuộc lòng, giảng cho người, ghi chép cúng dường tức là cúng dường chư Phật trong quá khứ, vị lai và hiện tại.

Này Thiên Ðế Thích! Giả sử Như Lai hiện diện đầy khắp ba ngàn đại thiên thế giới nhiều như mía, lau, tre, mè, lúa. Nếu thiện nam hay thiện nữ nào qua một kiếp hay hơn một kiếp cung kính tôn trọng ca ngợi phụng thờ và đem những món cúng dường thượng hạng của người cùng những vật an ổn thượng diệu để sống mà dâng cúng dường chư Như Lai ấy. Sau khi các Ngài Bát Niết bàn lại xây tháp bảy báu cúng dường toàn thân xá lợi của mỗi Ngài. Tháp ấy rộng lớn khoảng bằng bốn châu thế giới, cao vót lên đến cõi Phạm thiên, có hiển tướng pháp luân, hương hoa cờ lộng, trân bảo, âm nhạc, trang hoàng rất đẹp đẽ. Sau khi xây tháp bảy báu cho mỗi Như Lai rồi qua một kiếp hay hơn một kiếp nữa đem tất cả món cúng dường thượng hạng vòng hoa, hương đốt, hương xoa, hương vụn, y phục, cờ lộng, đèn, trân bảo, âm nhạc dâng cung kính cúng dường, tôn trọng, ca ngợi. Ý ông thế nào? Nhờ việc làm này, thiện nam hay thiện nữ ấy được phước có nhiều không?

Thiên Ðế Thích thưa:

- Bạch Thế Tôn! Rất nhiều! Bạch Thiện Thế! Phước ấy khó lường được, dù trải qua trăm ngàn câu chi na kiếp cũng không nói hết lượng phước của người ấy được.

Phật dạy:

- Này Thiên Ðế Thích! Ðúng vậy! Ðúng vậy! Ta thật sự nói với ông. Nếu thiện nam hay thiện nữ nghe pháp môn giải thoát thần thông tự tại bất tư nghì này mà tin hiểu thọ trì đọc tụng, thuộc lòng, giảng nói cho người thì phước đức hơn người kia rất nhiều. Vì sao? Vì ngôi Vô Thượng Chánh Ðẳng Bồ đề của chư Phật từ đây mà sanh. Chỉ có sự cúng dường pháp mới có thể cúng dường pháp môn này, chẳng tốn tài vật.

Thiên Ðế Thích nên biết! Công đức Vô thượng Bồ đề thì nhiều, nhưng còn phước của người cúng dường pháp này càng nhiều hơn.

Thế Tôn dạy Ðế Thích:

- Về quá khứ bất khả tư nghì vô số kiếp không thể tính có Phật ra đời, hiệu là Dược Vương Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Ðiều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật Thế Tôn. Thế giới tên Ðại Nghiêm, kiếp tên Nghiêm Tịnh. Dược Vương Như Lai sống hai mươi trung kiếp, có ba mươi sáu chi na do tha Thanh văn, mười hai câu chi na do tha Bồ tát. Bấy giờ có Luân vương tên Bảo Cái, có đầy đủ báy báu, cai trị bốn đại châu, có cả thảy một ngàn người con đẹp đẽ, dõng mãnh có thể đánh bại quân địch.

Lúc đó vua Bảo Cái cùng quyến thuộc cung kính, cúng dường, tôn trọng, ca ngợi, phụng thời Dược Vương Như Lai suốt năm trung kiếp, đem những món cúng dường an ổn thượng diệu ở cõi trời người cùng những món an ổn tuyệt diệu để sống mà dâng cúng. Qua năm trung kiếp, vua Bảo Cái bảo một ngàn người con:

- Các con nên biết! Phụ vương đã cúng dường Dược Vương Như Lai. Các con cũng nên cúng dường cung kính như phụ vương vậy.

Nghe phụ vương nói, một ngàn người con vui mừng vâng lệnh và cũng thưa:

- Lành thay! Chúng con đồng tâm cùng quyến thuộc cung kính, tôn trọng, ca ngợi, phụng thờ Dược Vương Như Lai suốt năm trung kiếp. Chúng con đem tất cả món cúng dường an ổn thượng hạng và những vật an ổn tuyệt diệu để sinh sống mà cúng dường.

Lúc ấy có một vương tử tên Nguyệt Cái, một mình ở chỗ vắng suy nghĩ: “ Ta cung kính, cúng dường Dược Vương Như Lai, có cách cung kính, cúng dường nào thù thắng tối thượng hơn đây không?” Nhờ thần lưc của Phật, giữa hư không có vị trời nói với vương tử rằng:

- Nguyệt Cái nên biết! Trong các sự cúng dường, thì cúng dường pháp rất là thù thắng”.

Vương tử liền hỏi: “ Sao gọi là cúng dường pháp?”

Vị trời nói với Nguyệt Cái:

- Ông hãy đến hỏi Dược Vương Như Lai rằng: “ Bạch Thế Tôn! Sao gọi là cúng dường pháp?” Ðức Phật ấy sẽ giảng giải khai thị cho ông.

Sau khi nghe vị trời nói, vương tử Nguyệt Cái liền đến hỏi Dược Vương Như Lai, cung kính, ân cần lạy sát chân ngài, đi nhiễu ba vòng rồi lui qua một bên thưa:

- Bạch Thế Tôn! Con nghe nói trong tất cả sự cúng dường thì cúng dường pháp rất là tối thượng. Vậy tướng sự cúng dường pháp ấy như thế nào?

Dược Vương Như Lai nói với Vương tử:

- Nguyệt Cái nên biết! Cúng dường pháp nghĩa là đối với kinh điển do Phật nói ra thì tướng nó rất vi diệu sâu xa, thế gian rất khó tin, khó được độ, khó thấy, sâu kín, tinh túy, không nhiễm, liễu nghĩa, chẳng phải dùng phân biệt để biết, bởi vì đó là kho tàng của Bồ tát. Kinh tổng trì ấy được đóng dấu ấn của Phật, phân biệt khai thị bất thối pháp luân; sáu độ từ đây mà có; giữ gìn hoàn hảo những gì đáng giữ gìn, thực hành theo pháp Bồ đề phần; bảy giác chi đích thân dẫn đầu; giảng nói khai thị đại từ đại bi, cứu giúp đem sự an lạc đến các hữu tình; xa lìa tất cả kiến thú ma oán; phân biệt xiển dương lý duyên khởi sâu xa; biết rằng trong không có ngã, ngoài không có hữu tình; đối với hai bên và chặn giữa không có thọ mạng, không có người nuôi dưỡng; hoàn toàn không có chút tánh Bổ đặc già la; tương ưng với không, vô tướng, vô nguyện, vô tác, vô khởi. Kinh pháp ấy đưa người đến diệu giác, chuyển bánh xe pháp; trời rồng, kiền đạt phược đều cung kính tôn trọng ca ngợi cúng dường, hướng dẫn chúng sanh cúng dường đại pháp; làm viên mãn đại pháp thí cho chúng sanh, tất cả Thánh Hiền đều thọ trì; khai mở tất cả diệu hạnh của Bồ tát. Kinh pháp ấy làm chỗ qui về pháp nghĩa chân thật. Sự tối thắng vô ngại từ kinh pháp này mà phát sanh, nói rõ các pháp là vô thường, khổ, vô ngã, tịch tịnh; phát sanh bốn pháp Ôn Ðà Nam (bốn pháp ấn), diệt trừ tất cả xan tham, phá giới, sân hận, biếng nhác, vọng niệm, ác huệ, sợ hãi, tất cả tà luận ngoại đạo, ác kiến, chấp trước. Kinh pháp ấy phát sanh thế lực tăng thượng pháp lành cho hữu tình chiến thắng tất cả quân ác ma, được chư Phật Thánh hiền khen ngợi. Kinh pháp ấy có thể trừ khổ lớn trong sanh tử, thị hiện niềm vui lớn Niết bàn, chư Phật mười phương ba đời đều nói. Với kinh ấy, ai thích nghe, tin hiểu, thọ trì, đọc tụng, thuộc lòng, tư duy quán sát nghĩa lý sâu xa, làm cho kinh ấy sáng rỡ, thi thiết an lập phân biệt khai thị sáng suốt, lại giảng rõ ràng cho người, dùng phương tiện thiện xảo mà giữ gìn chánh pháp, thì người đó gọi là cúng dường pháp.

Lại nữa, này Nguyệt Cái! Người cúng dường pháp nghĩa là với các pháp phải điều phục như pháp, với các pháp phải tu hành như pháp; tùy thuận theo duyên khởi; xa lìa các tà kiến; tu tập vô sanh bất khởi pháp nhẫn; ngộ nhập không có ngã và không có hữu tình; không chống đối với lý nhân duyên; không tranh cải, không sanh dị luận; tách rời ngã và ngã sở không bị lệ thuộc; căn cứ theo nghĩa mà không căn cứ nơi văn từ; y theo trí không y theo thức; y theo liễu nghĩa đã được nói trong khế kinh, tuyệt đối không y theo lời nói bất liễu nghĩa thuộc kinh điển thế tục rồi sanh chấp trước; y theo tánh mà không y theo sự thấy có sở đắc của Bổ đặc già la. Theo tánh tướng đó mà giác ngộ hiểu các pháp, nhập vào Vô tạng nhiếp, diệt A lại da, trừ khử vô minh cho đến lão tử; dứt trừ sầu bi khổ não; quán sát mười hai nhân duyên ấy không chỗ cùng tận hay chỗ phát sanh; nguyện các hữu tình lìa bỏ các kiến thú. Ðó là cúng dường pháp tối thượng.

Bấy giờ, Phật dạy Thiên Ðế:

- Ðược nghe Phật Dược Vương nói sự cúng dường pháp rất là tối thượng ấy, vương tử Nguyệt Cái đắc được Thuận pháp nhẫn và liền cởi áo báu với những đồ trang sức dâng cúng dường Dược Vương Như Lai và thưa rằng: “ Bạch Thế Tôn! Sau khi Phật Bát Niết bàn, con nguyện giữ gìn chánh pháp, thực hành cúng dường pháp để giữ gìn chánh pháp. Cúi xin Như Lai dùng sức thần lực thương xót gia hộ con chiến thắng bọn ma khó chiến thắng mà giữ gìn chánh pháp tu hạnh Bồ tát”.

Biết tâm ý tăng thượng của Nguyệt Cái, Dược Vương Như Lai liền thọ ký:

- Sau khi Như Lai Niết bàn, ông sẽ giừ gìn thành lũy chánh pháp.

Nghe được Phật thọ ký, vương tử Nguyệt Cái vui mừng khôn xiết. Trong thánh pháp đời của Dược Vương Như Lai, ông ta đem lòng tin thanh tịnh, xả bỏ pháp tại gia đi đến nơi không nhà. Sau khi xuất gia, ông ta tinh tấn dõng mãnh tu tập các pháp lành, siêng năng tu điều thiện. Xuất gia chưa bao lâu, ông ta chứng được năm thần thông, đạt đến cứu cánh đắc Ðà la ni, biện tài vô ngại. Sau khi Dược Vương Như Lai Bát Niết bàn, ông ta đem trí lực thần thông đã đắc được suốt mười trung kiếp chuyển bánh xe chánh pháp mà Như Lai đã chuyển. Suốt mười trung kiếp, Bí số Nguyệt Cái chuyển bánh xe chánh pháp, hộ trì chánh pháp, dõng mãnh tinh tấn, an lập cả trăm ngàn câu chi hữu tình để họ đối với Vô Thượng Chánh Ðẳng Bồ đề đắc được Bất thối chuyển, giáo hóa mười bốn na do tha chúng sanh, giáo hóa hàng Thanh văn, Ðộc giác thừa để tâm được điều thuận hoàn toàn; dùng phương tiện chỉ dạy vô lượng hữu tình để họ sanh lên cõi trời.

 Phật dạy Thiên Ðế:

- Chuyển Luân Vương Nguyệt Cái thuở đó đâu phải người nào lạ. Ðừng sanh nghi ngờ, đừng quán gì khác. Vì sao? Nên biết rằng vị ấy chính là Bảo Diệm Như Lai, một ngàn người con ấy tức là một ngàn Bồ tát trong Hiền Kiếp sẽ lần lượt thành Phật, vị Phật đầu tiên hiệu là Ca Lạc Ca Tôn Ðà Như Lai. Vị Phật sau cùng hiệu là Lô Chí, xuất hiện ra đời đã bốn vị rồi, còn các vị còn lại sẽ ra đời vào kiếp tương lai. Nguyệt Cái hộ pháp thuở ấy đâu phải người nào mà chính là thân ta ấy.

Thiên Ðế nên biết! Ta nói tất cả sự thiết bày cúng dường chư Phật, thì cúng dường pháp là tối tôn, tôi thắng, tối thượng, tối diệu, là vô thượng. Cho nên Thiên Ðế muốn được cúng dường Phật thì hãy cúng dường Pháp, không cúng bằng tài vật.

 

XIV - PHẨM CHÚC LỤY 

Ðức Phật dạy Bồ tát Từ Thị:

- Ta đem đại pháp Vô Thượng Chánh Ðẳng Bồ đề đã được tập hợp trong vô lượng vô số trăm ngàn câu chi na do tha kiếp mà giao phó cho ông. Kinh điển này được sức oai thần Phật giữ gìn, được sức oai thần của Phật gia hộ. Sau khi Như Lai Bát Niết bàn, trong đời ác năm trược ông cũng dùng thần lực mà giữ gìn bảo hộ Kinh Pháp này, đem giảng giải khắp Thiệm Bộ Châu đừng để lạc mất. Vì sao? Vì tương lai, có người nam người nữ, trời, rồng, Dạ xoa, Kiền đạt phược... đã trồng vô lượng căn lành thù thắng; đối với Vô Thượng Chánh Ðẳng Bồ đề tâm đã thắng giải sâu rộng, nếu họ không được nghe kinh điển này thì sẽ làm mất vô lượng thắng lợi. Còn ai nghe kinh này chắc chắn sẽ tin thích phát tâm hy hữu, hoan hỷ cung kính lãnh thọ. Ta giao phó các thiện nam thiện nữ ấy cho ông. Ông nên hộ niệm đừng để họ gặp chướng ngại. Khi nghe thọ tu học kinh điển này cũng giảng giải rộng rãi theo pháp môn mà Phật đã nói.

Từ Thị nên biết! Nói chung có hai loại tướng ấn Bồ tát. Thế nào là hai?

1- Tướng ấn tin thích những văn từ trau chuốt.

2- Tướng ấn không sợ pháp môn thâm sâu, ngược lại ngộ nhập vào tánh tướng của nó.

Bồ tát nào tôn trọng tin thích văn từ trau chuốt, thì nên biết rằng đó là Bồ tát mới học.

Bồ tát nào với pháp thâm sâu mà không nhiễm, không chấp trước, thần thông tự tại bất tư nghì, đối với pháp môn giải thoát, kinh điển vi diệu không còn sợ sệt. Sau khi nghe, tin hiểu thọ trì đọc tụng thuộc lòng, giảng giải cho người khác, như thật ngộ nhập, tinh tấn tu hành, đạt được lòng tin thích thanh tịnh xuất thế gian, thì nên biết rằng đó là Bồ tát đã học lâu rồi.

Từ Thị nên biết! Do bốn duyên mà Bồ tát mới học tự làm mình tổn thương không thể đắc pháp nhẫn thâm sâu. Những gì là bốn?

1- Mới nghe kinh điển thâm sâu mà từ xưa chưa từng nghe thì sợ hãi, nghi ngờ không tùy hỷ.

2- Nghe rồi lại phỉ báng khinh chê nói rằng: Kinh điển ấy trước đây tôi chưa nghe đến, vậy ở đâu mà có.

3- Thấy có thiện nam... thọ trì, giảng nói pháp môn thâm sâu này thì không thích gần gũi cung kính lễ lạy.

4- Sau đó khinh mạn oán ghét hủy nhục phỉ báng.

Do bốn duyên này mà Bồ tát mới học tự làm mình tổn thương không thể đắc pháp Nhẫn thậm thâm.

Từ Thị nên biết! Lại có bốn duyên dù Bồ tát tin hiểu pháp môn thậm thâm nhưng vẫn tự mình làm tổn thương không thể mau chứng Vô sanh pháp nhẫn. Thế nào là bốn?

1- Khinh chê Bồ tát sơ học mới tu hành Ðại thừa.

2- Không thích chỉ dạy giảng giải.

3- Không kính trọng tha thiết với chỗ học sâu xa rộng lớn.

4- Thích giáo hóa chúng sanh bằng tài thí thế gian, không thích pháp thí thanh tịnh xuất thế gian.

Do bốn duyên này, dù Bồ tát tin hiểu pháp môn sâu xa nhưng vẫn tự mình làm tổn thương, không thể mau chứng Vô sanh pháp nhẫn.

Sau khi nghe Phật dạy, Bồ tát Từ Thị vui mừng hớn hở và thưa Phật:

- Pháp Thế Tôn rất là hy hữu, Pháp Như Lai giảng rất là vi diệu. Theo lỗi lầm của Bồ tát mà Phật đã dạy, con sẽ xa lìa hoàn toàn. Con sẽ giữ gìn không làm mất đại pháp Vô Thượng Chánh Ðẳng Bồ đề mà đức Như Lai đã tập hợp trong vô lượng vô số trăm ngàn câu chi na do kiếp. Nếu vào đời tương lai, có thiện nam hay thiện nữ nào học đại thừa, đó chính là chơn pháp khí. Con sẽ làm cho trong tay họ có được kinh điển sâu xa này và sẽ cho họ có sức trí huệ để thọ trì, đọc tụng, thuộc lòng, ghi chép cúng dường kinh này, tu hành không điên đảo và giảng cho người khác nghe.

Bạch Thế Tôn! Ðời sau, với kinh này nếu có ai nghe tin hiểu thọ trì, đọc tụng, thuộc lòng, tu hành không điên đảo, giảng nói cho người, thì nên biết rằng đó là do sức oai thần giữ gìn gia hộ của con.

Thế Tôn dạy:

- Lành thay! Lành thay! Ông rất là tốt. Như Lai tùy hỷ cho ông lãnh thọ giữ gìn chánh pháp này.

Bấy giờ, tất cả chúng hội trong cõi này và các Bồ tát đến từ phương khác đều chắp tay thưa:

- Bạch Thế Tôn! Sau khi Như Lai Bát Niết bàn, chúng con từ các thế giới phương khác cũng đến đây giữ gìn đại pháp Vô Thượng Chánh Ðẳng Bồ đề mà Như Lai đã chứng đắc không cho mất và đem giảng giải rộng rãi. Nếu thiện nam thiện nữ tin hiểu thọ trì đọc tụng thuộc lòng kinh này, tu hành không điên đảo, giảng nói cho người thì con sẽ hộ trì và cho họ có sức nhớ để họ không gặp chướng ngại.

Khi ấy, trong chúng bốn Ðại Thiên Vương cũng chắp tay thưa:

- Bạch Thế Tôn! Nếu ở xóm làng, thành ấp, đô thị nào lưu hành pháp môn này, chúng con cùng quyến thuộc thống lãnh quân chúng sẽ đến nơi ấy bảo hộ người nghe pháp và người nói pháp pháp môn này để có thể giảng nói, thọ trì, đọc tụng pháp môn này. Làm cho trong phạm vi bốn phía cả đến một trăm du thiện na được an ổn, không có các chướng nạn nguy hiểm, không có ai rình rập làm hại.

Bấy giờ, Thế Tôn bảo Cụ Thọ A Nan:

- Ông nên thọ trì pháp môn này đem giảng giải cho người để pháp môn này được lưu bố rộng rãi.

A Nan thưa:

- Con đã thọ trì pháp môn này. Pháp môn Như Lai nói đặt tên là gì và con thọ trì như thế nào?

Thế Tôn dạy:

- Pháp môn này tên là “ Thuyết Vô Cấu Xứng bất khả tư nghì tự tại thần biến giải thoát pháp môn” nên thọ trì như vậy.

Sau khi đức Phật nói kinh này, Bồ tát Vô Cấu Xứng, Bồ tát Diệu Cát Tường, Cụ thọ A Nan Ðà và các Bồ tát, đại Thanh văn... chư thiên, trời, người, A tố lạc... đều hoan hỷ tín thọ phụng hành.

                              

Hết quyển thứ sáu

 

--- o0o ---

Quyển thứ 1 | Quyển thứ 2 | Quyển thứ 3

Quyển thứ 4 | Quyển thứ 5 | Quyển thứ 6

--- o0o ---

 

Vi tính: Thọ Huệ

Trình bày: Nhị Tường

Cập nhật: 5-2003

Nguồn: www.quangduc.com

Về danh mục

đản con nguoi trach moc phat khong giup do chua vien giac giïa thiên çŠ biệt trẻ Gạo lứt muối mè Ăn sao cho khoẻ lội ò tho ngam loi duc phat day la ha u la ve long chinh thuÑc già Rau quả giúp giảm béo hiệu quả nhá thu Kinh đia tạng Nhà hàng Việt Chay kỷ niệm 10 năm cÃn m¹ cẠi 四十八願 chùa Óng Ngủ không ngon làm xơ cứng động mạch that người nghệ sĩ phật giáo đúng nghĩa hầu Đại lão Hòa thượng Thích Huệ Quang Chạy phat co nen dat ten mon chay gia man hay khong Một số loại thuốc an thần có thể gây nghi le mo nhung dung danh mat y nghia truyen Tháºy o Làng Trung Kiên Chiếc nôi sản sinh nhiều Lửa cột trò chơi súc sắc lẽ một con người bình thường chiem nguong dai tuong phat a di da japan mot dau nam huong ve tam chữa nhìn lại thân mình ï¾ ï¼ PhÃÆp nang luc phan xet hoc phai di doi voi hanh Lễ húy kỵ lần thứ 19 cố Đại Ê benh gi ca Ð Ð Ð Chu anh hai lễ Chế î ï nhung gia dinh dau long nguoi dan ba ke chuyen thiêng liêng những sắc màu thí