.


 

KINH HIỀN NGU

HT.Thích Trung Quán dịch

--- o0o ---

 

Phần 4

31. Đại Kiếp Tân Ninh

32. Tỷ Khưu Ni Vi Diệu

33. Lê Kỳ Di

34. Thiết đầu La Kiện Ninh

35. A Du Ca

36. Bảy Lọ vàng

37. Sai Ma

38. Cái Sự

39. Đại Thí tát biển

40. A Nan Tổng Trì

 

Phẩm thứ ba mươi mốt

ĐẠI KIẾP TÂN NINH

 

CHÍNH tôi được nghe: Một thời Phật ở nước Xá Vệ, tại vườn Cấp Cô Độc, cây của Thái Tử Kỳ Đà.

Về phương nam nước Xá Vệ có một nước tên là Kim Địa, ông vua đó tên là Kiếp Tàn Ninh, con trai ông tên là Đại Kiếp Tân Ninh. Trí óc thông sáng sức lực khỏe mạnh, sau khi nhà vua băng hà, Thái Tử Đại Kiếp Tân Ninh lên nối ngôi, thống trị ba vạn sáu nước, quân lính rất nhiều, thiên hạ vô địch, tiếng anh hùng đã lừng lẫy bốn phương. Nhưng xứ Trung Quốc họ không tùng phục.

Bấy giờ có một người lái buôn đến nước Kim Địa buôn bán, đem dâng vua bốn thứ lụa Bạch Điệp rất tốt. Vua nhận rồi hỏi rằng:

- Vật này mua ở xứ nào?

- Tâu Bệ Hạ! Mua ở Trung Quốc!

- Trung Quốc tên chi?

- Tâu Bệ Hạ! Tên là La Duyệt Kỳ, Xá Vệ, và còn nhiều nước khác nữa.

- Các vua xứ Trung Quốc, tại sao không đem lụa này dâng ta?

- Tâu Bệ Hạ, đối với lực lượng họ cũng chẳng kém gì nên họ không dâng!

Vua Kim Địa thầm nghĩ như vầy:

- Thế lực của ta có thể toàn thu được thiên hạ về một mối, họ không chịu thần phục ta, ta sẽ cử đại hùng binh sang đánh!

Nghĩ xong hỏi lái buôn rằng:

- Các nước xứ Trung Quốc, nước nào lớn hơn và hùng mạnh hơn?

- Tâu Bệ Hạ, nước Xá Vệ lớn nhất, và hùng mạnh nhất!

Nhà vua nói:

- Tốt lắm, Trẫm nhận lẽ này cho anh, và cho anh ra!

- Dạ! Tâu Bệ Hạ, con xin cáo lui.

Nhà vua thảo tờ chiếu chỉ, sai người mang sang cho vua Ba Tư Nặc như sau:

- Ba Tư Nặc! Ông nên biết: Nước ta hùng mạnh khắp cõi Diêm Phù Đề đều biết, Khanh tuyệt giao với ta; Ta sai người mang chiếu chỉ này, bảo cho Khanh biết: Nếu Khanh đương nằm nghe thấy chiếu chỉ của ta đến, thì phải ngồi dậy ngay! Nếu đương ngồi phải đứng dậy ngay! Nếu đương ăn phải nhổ ra ngay! Nếu đương tắm phải quấn tóc lại ngay! Nếu đương đứng phải chạy đến đỡ lấy ngay, sau bảy ngày nữa sẽ biết ta! Nếu không theo đúng lời nói đây, ta sẽ đem đại hùng binh sang tiêu diệt nước của nhà người!

Vua Ba Tư Nặc tiếp được tờ chiếu chỉ vua Kim Địa, sợ toát mồ hôi! Bối rối không biết nghĩ sao liền đi cầu Phật giải quyết.

Bạch Phật rằng: - Kính lạy đức Thế Tôn! Vua Kim Địa cậy sức hùng mạnh, hẹn bảy ngày nữa đem binh sang đánh, con vừa nhận được thơ. Cúi xin đức Thế Tôn đoán cho!

Phật dạy: - Nhà vua không lo! Về bảo sứ giả rằng: Ta cũng có một ông Đại Vương nước lớn, ông đó theo Phật giáo, cũng gần đây, vậy nhà ngươi mang tờ chiếu này đến cho Đại Vương ta coi!

Sứ giả đi cùng vua Ba Tư Nặc đến rừng Kỳ Hoàn.

Đức Thế Tôn tự biến ra vua Chuyển Luân, sai ông Mục Kiền Liên làm một vị đại tướng cầm quân, cơ nào đội ấy rất hùng mạnh, biến rừng Kỳ Hoàn ra một cái thành lớn, bằng thất bảo, chung quanh thành có bảy lần hào lũy, thành có bảy lần hàng cây cũng bằng thấy bảo, dưới hào có hoa sen, đủ các sắc, quang minh sáng sủa, các cung điện trong thành thuần bằng thất bảo. Vua Chuyển Luân ngồi trên bảo điện tôn nghiêm đáng sợ.

Sứ Giả vào tới thành, nhìn thấy vua Chuyển Luân, lẫm liệt như ông Thiên Đế Thích trên cung trời Đao Lợi, tâm hồn kinh ngạc, sợ hãi! Thầm nghĩ như vầy:

- Vua Kim Địa vô cố lại chiêu cái họa vào thân!

Vừa run, vừa sợ! Không biết tính cách gì nói cho tiện, quỳ xuống dâng lá thơ thưa rằng:

- Kính tâu Đại Vương! Con là sứ thần của vua Kim Địa, tuân mạng dâng bức thơ này lên Đại Vương!

Vua Chuyển Luân, vất tờ thơ ấy xuống, đất, đạp lên trên nói:

- Ta làm một ông Đại Vương thống trị bốn thiên hạ, chúa nhà ngươi điên cuồng sao dám vô lễ, về ngay bảo cho chúa nhà ngươi biết rằng: Mau mau lại đây triều cống nước ta, đương nằm nghe thấy lời của ta đến, phải ngồi dậy ngay! Đương đứng phải bước lại ngay! Hẹn bảy ngày nữa phải đến! Nếu trái lệnh ta, khi chịu chết đừng có hối hận!

- Dạ muôn tâu Đại Vương! Hạ thần xin phụng mạng!

Sứ Giả về nước nhà! Tâu vua Kim Địa những lời nói trên, và trình bày thế lực cho nghe. Kim Địa nghe xong núng thế, tự trách mình đã quá kiêu ngạo, rồi thảo thơ đi mời các vua nước nhỏ đến, để điyết kiến vua Chuyển Luân (Phật).

Song hãy còn ngờ sai sứ đến tâu rằng:

- Tâu Bệ Hạ! Tiểu Vương Kim Đại phái hạ thần đến đây, kêu với Bệ Hạ đưa ba vạn sáu ngàn vua các nước đến yết kiến, hay đi một nữa, xin cho hạ thần được rõ?

- Đại Vương đáp: "Cho để lại một nữa, tới đây một nữa?"

Sứ Giả về tâu rằng:

- Tâu Bệ Hạ! Đại Vương cho để lại một nữa, sang một nữa!

Vua Kim Địa sửa soạn binh nhung đầy đủ lương thực, và đưa một vạn tám ngàn vua nước nhỏ sang. Tới nơi thấy thành quách trang nghiêm thuần bằng thất bảo, quân đội hùng mạnh, vua Chuyển Luân như ông trời Đế Thích, oai phong lẫm liệt, cảm giới không khác thiên cung. Song lại nghĩ như vầy:

Đức tướng và cảnh giới tuy hơn, nhưng lực lượng chưa chắc đã hơn ta.

- Vua Chuyển Luân biết ý nghĩ của ông như vậy, sai quân lấy cung cho vua Kim Địa giương thử. Kim Địa cầm cung giương không nổi.

Thấy giương không nổi, vua Chuyển Luân cầm lấy cung giương lên như bỡn, rồi Ngài trao cho Kim Địa bắn thử, nhưng bắn không nổi.

Vua Chuyển Luân cầm lấy cung, bắn tiếng kêu, làm chấn động ba ngàn thế giới, lại bắn thêm một phát nữa, hóa ra năm mũi tên, các đầu tên đều tảo ra vô số quang minh, trên đầu tia sáng đều có các hoa sen lớn, to như vành bánh xe, trên mỗi một hoa, đều có một ông Chuyển Luân Vương ngồi tòa thất bảo, ngọc nữ đông đủ. Những tia sáng của hoa làm đoạt ánh sáng mặt trời, mặt trăng, trong ba ngàn cõi, hào quang ấy làm cho tất cả chúng sinh trong năm thú được lợi ích.

Trên các cõi trời, những người được thấy ánh hào quang, và được nghe thuyết pháp, thân tâm họ đều được thanh tịnh an vui! Rồi có người đắc quả thứ hai, hoặc thứ ba; cũng có người phát tâm cầu đạo vô thượng chánh đẳng chánh giác, dự vào ngôi bất thoái.

Những chúng sinh ở đạo người được thấy hào quang, và nghe tiếng thuyết pháp, ai nấy đều vui mừng! Sau có người đắc nhị quả hoặc tam quả, cũng có người phát tâm xuất gia, và phát tâm cầu đạo vô thượng Bồ Đề, dự vào ngôi bất thoái.

Trong loài ngạ quỷ được thấy hào quang này và nghe tiếng thuyết pháp, đều tiêu hết nghiệp, thân tâm an lạc, nhiệt não tiêu tan, phát sinh tâm tôn kính Đức Phật, họ đều được giải thoát loài ngạ quỷ, sinh lên thiên đường hoặc sinh cõi nhân gian.

Loài súc sinh được gặp ánh quang minh này, lòng tham dục, sân si tự nhiên tiêu diệt, sinh lòng tôn kính Đức Phật, đều thoát khỏi loài súc sinh, hóa sinh về cõi người cõi trời.

Những người trong địa ngục, được gặp ánh quang minh này, kẻ rét được ấm áp, kẻ nóng được mát mẻ, kẻ đau khổ được an lành, thân tâm vui sướng kính mến Phật, liền thoát khoải địa ngục sinh về cõi người, cõi trời.

Đại Kiếp Tân Ninh và các ông vua thuộc xứ Kim Địa, thấy phép thần biến như vậy, vui sướng, tôn kính, cảm phục, sợ hãi vua Chuyển Luân có thần biến và đức độ vô biên, ngay lúc ấy tâm của các ông vua đều giũ hết mọi trần cấu Đắc Pháp Nhãn Tịnh.

Đức Phật thấy các ông đã chuyển tâm quy hướng, nên Ngài thu nhiếp thần lực, hiện lại nguyên hình, các đệ tử vây quanh trước sau.

Kim Địa và các ông vua thấy Phật, oai đức phi thường thần thông hiển hách, sinh tâm cung kính, cùng nhau quỳ thẳng chắp tay bạch Phật rằng:

- Kính lạy đức Thế Tôn! Chúng con tuy làm nhân chúa, còn mê muội chịu ách luân hồi sinh tử, muốn trút bỏ kiến thức hẹp hòi của chúng sinh, ràng buộc, cúi xin ngài từ bi cho xuất gia học đạo!

Đức Phật khen ngợi! Và nói lên rằng:

- Thiện Lai Tỷ Khưu!

Nói dứt lời râu tóc các ông đều rụng hết, áo Cà Sa thấy mặc tại mình, nghe Phật thuyết pháp được hết lậu nghiệp thành ngôi La Hán.

Thấy thế, tôi (A Nan) tới trước quỳ thẳng chắp tay bạch Phật rằng:

- Kính lạy đức Thế Tôn! Vua Kim Địa, trước tu hạnh gì, nay được làm nhân chúa, lại được gặp Thế Tôn, đắc quả La Hán cúi xin nói cho chúng con, và chúng sinh đời vị lai được rõ?

Phật dạy: - A Nan, tất cả chúng sinh do tạo, công đức lành đời trước mà được hưởng quả báo tốt đời này. Đây cũng một thời quá khứ sau, Phật Ca Diếp nhập Niết Bàn, có một ông Trưởng giả, bỏ tiền ra xây tháp, làm chùa, và các phòng xá, cúng dàng chư Tăng, nào áo mặc, thuốc thang giường tòa, các món ăn, sau khi ông chết trải qua lâu năm, chùa tháp hư hỏng và các món ăn cũng không còn nữa, nên các sư phải đi xứ khác. Con ông ta đi xuất gia làm Tỷ Khưu, trở về nhà thấy thế, ra khuyến hóa nhân dân, tu sửa chùa tháp, đặt các giường tòa, và các đồ ăn dùng cúng dàng chư Tăng đầy đủ, rồi phát nguyện rằng:

- Nguyện công đức này, đời mai sau cho con được phú quý tràng thọ, gặp Phật nghe pháp và đắc đạo quả!

A Nan ông nên biết, con Trưởng giả ở thời đó, chính là vua Kim Địa tên là Đại Kiếp Tân Ninh, còn những người dân góp tiền của chúng dàng, nay là một vạn tám ngàn các ông vua nước nhỏ bây giờ.

Nghe Phật nói xong ai nấy vui vẻ! Phát tâm cầu đạo tu phúc, tuân theo lời vàng ngọc, tạ lễ lui ra.

---o0o---

 

Phẩm thứ ba mươi hai

TỶ KHƯU NI VI DIỆU

CHÍNH tôi được nghe: Một thời đức Phật ở nước Xá Vệ, tại tinh xá Kỳ Hoàn, sau khi vua Ba Tư Nặc đã băng hà, Thái Tử Lưu Ly chấp chính, bạo ngược tham tàn, thả voi đạp chết nhân dân vô kể.

Bấy giờ các con gái trong nhà quý phái, thấy thế chán đời, rủ nhau đi xuất gia tu đạo để cầu giải tháot rất đông.

Nhân dân họ thấy các cô hoặc họ Thích, hoặc các nhà Hầu Tước, là những dòng họ tôn sang bỏ sự vinh hoa sung sướng, xuất gia tu đạo, cả thảy năm trăm người, nên họ rất tôn kính, tranh nhau cúng dàng.

Một hôm các cô ấy bàn nhau như vầy:

- Chúng ta tuy được xuất gia, mang danh là Tỷ Khưu Ni, song đối với Phật Pháp chưa hiểu biết gì; chưa được uống Pháp Dược, để tiêu những tập chướng Dâm, Nộ, Si từ đời vô thuỷ. Bây giờ phải đến bà Thâu Lan Nan Đà Tỷ Khưu Ni xin học hỏi, và để bà truyền pháp Bát kính cho. Các cô cùng nhau đến làm lễ và thưa rằng:

- Kính thưa bà, chúng con không biết có phúc duyên gì, được hạnh phùng Tam Bảo xuất gia tu đạo, làm Tỷ Khưu Ni, song đối với giáo lý cao siêu của đức Phật chưa hiểu biết gì, hôm nay chúng con cả thảy năm trăm người, đến đây cầu xin bà từ bi thí Pháp Nhũ, cho chúng con được ân triêm công đức!

Bà Thâu Lan Nan Đà nói:

- Các cô sinh trưởng nơi tôn sang, tôn vinh phú quý, vinh hoa thiếu chi, đương tầm tuổi trẻ, xuất gia học đạo làm gì cho khổ một đời tươi trẻ! Thôi đem áo bát cho tôi, trở về lấy chồng, hưởng cuộc đời êm ấm nơi khuê các, cho khoái lạc, tội chi làm Tỷ Khưu Ni ở nơi chốn chùa chiền khô quạnh, chôn dìm cuộc đời như đống tro tàn lạnh lẽo!

Các cô nghe bà nói xong, lòng dạ hoang mang, sa nước mắt tạ lễ lui ra. Trong khi đi bảo nhau rằng:

- Chúng ta muốn thoát khỏi con đường tình ái, ngu si, mê muội của thế gian, đến đây bà đã không khuyên bảo lũ ta được gì, lại đem những lời lẽ lôi kéo chúng ta vào nơi hang hầm miệng sói, trụy lạc đời đời. Vậy chị em ta đến bà Tỷ Khưu Ni Vi Diệu, cầu bà tế độ.

Năm trăm cô đến chỗ bà Tỷ Khưu Ni Vi Diệu, cúi đầu lễ sát đất thưa rằng:

- Kính thưa bà, chúng con ở tại tập tục mê muội, tuy đã đi xuất gia, nhưng tâm ý vẫn còn tham ái, lòng dục vẫn thường phát khởi như lửa đốt, không cách gì ngăn cản nổi, xin bà thuyết pháp để giải thoát cái tội căn ấy cho lũ chúng con!

Bà Tỷ Khưu Ni Vi Diệu đáp rằng:

- Trong ba đời: Quá khứ, hiện tại, vị lai, các cô muốn hỏi gì?

- Dạ! Kính thưa bà, đời quá khứ, và đời vị lai, còn viễn vọng, chúng con không dám hỏi, xin hỏi bà: Cái tội thắt chặt của sự dâm dục đời hiện tại, nó xấu hay tốt, nó hay hay nó dở, có kết quả gì cho mình không? Có lợi ích hay không có lợi cho tương lai, xin bà giải thích!

- Các cô muốn biết rõ hãy để ý nghe!

- Dạ chúng con xin chú ý nghe!

- Các cô nên biết! Tất cả trời người, cho đến vạn vật có hình thức trên vũ trụ này, loài nào cũng do nghiệp ái dục mà sinh ra; Dâm dục ví một dám lửa cháy dữ dội nó có thể đốt tiêu hủy núi rừng, cây, cỏ, gỗ, đá cho đến vũ trụ bao la, kẻ mắc phải dâm dục, cũng như bị giặc vào phá nhà; kẻ đó sẽ đọa xuống tam đồ ác đạo, không có kỳ hẹn được ra.

Những ai luyến gia nghiệp, đó là tham sự sum họp ân yêu vui vầy! Vì nhân duyên ấy nên sanh già bệnh chết, biệt ly, huyễn quan xúc não! Đương yêu nhau bị ly biệt, thương tiếc khóc than! Luyến ái tổn hại đến tâm can ngất đi sống lại, tâm ý trói buộc như lao ngục. Tôi vốn là một con nhà dòng Phạm Chí, cha tôi là một người được tôn quý nhất trong nước. Buổi đó ông Trưởng giả dòng Phạm Chí, có người con trai xinh đẹp trí óc thông minh. Thấy ta xinh đẹp lại dòng quý phái, nên ông nói với cha mẹ ta, cưới ta về cho con trai ông. Sau khi đã thành gia thất, vợ chồng ăn ở với nhau được một đứa con trai, đã lâu ngày xa cha cách mẹ, lòng nhớ mong không tả xiết? Giữa lúc ta đang có mang, sợ sinh tử vô thường nên ta, xin phép chồng về nhà thăm cha mẹ; chồng ta ưng thuận cho đi. Buổi sáng ấy, hai vợ chồng ẵm con và mang đồ hành lý ra đi, đi chừng được nữa đường trời vừa sẩm tối, vợ chồng nằm nghỉ dưới gốc cây to, không may lúc canh khuya ta đau bụng sinh, huyết chảy ra lênh láng, các loài rắn độc, thấy mùi tanh tìm lại, cắn chết chồng ta! Đương lúc ngủ say! Ta gọi mãi không thấy trả lời. Trời vừa tảng sáng, cầm tay kéo dậy, thấy lạnh buốt ngay đờ như cục gỗ, không còn tri giác, xem kỹ biết rằng rắn cắn, thương quá! Tời ơi! Khổ chi đến nỗi thế này! Khi đó hồn phách ta không biết bay đâu? Ngất đi mê mết! Thằng nhỏ ngồi bên vừa gọi vừa khóc! Dần dần tỉnh dậy. Rồi ta cõng thằng nhỏ trên vai, tay ẵm đứa con mới nở, vừa đi vừa khóc! Qua quãng đường vắng, tới một con sông lớn, nước không sâu lắm, không có thuyền qua, ta phải để thằng nhỏ trên bờ, ẵm đứa bé bơi qua sông, sang tới bờ đễ đứa bé bên này, lại ngồi sang đón thằng nhỏ, không may, thằng nhỏ té xuống sông lúc nào mất, ta lại bơi sang bờ sông bên này, thì đứa bé mới sinh đã bị hổ tha, chỉ thấy những giọt máu chảy ròng ròng trên mặt đất, ta buồn khổ quá! Chết ngất đi hồi mới tỉnh lại. Thơ thẩn một mình bước trên đường đi, vừa được vài dặm, gặp một người bạn thân của cha ta, ông hỏi rằng:

- Con đi đâu về? Sao bác coi con nhem nhuốc tiều tụy như vậy?

- Thưa bác! Hôm qua vợ chồng nhà con ẵm cháu về thăm cha mẹ, đêm qua không may chồng con bị rắn cắn chết, sáng hôm nay mất hai đứa cháu: Một đứa lăn xuống sông, một đứa bị hổ tha, thực là đau khổ cho con quá!

- Ôi thế ư! Hôm qua nhà con bị phát hỏa, cha mẹ con, và cả nhà con đều bị chết hết rồi, còn gì đau khổ hơn cho con nữa!

Nghe xong như sét đánh bên tai, ta ngã lăn ra đất, chết ngất đi hồi lâu mới tỉnh lại! Hết khóc lại than, thực là một sự vô cùng thảm khốc! Ông ấy thương ta đau khổ! Đưa ta về nhà nuôi nấng coi ta như con đẻ.

Qua thời gian lâu, ta dần dần nguôi cơn đau khổ, nơi đó có người con trai, cũng dòng Phạm Chí, thấy ta xinh đẹp, cậy người mối lái, muốn cùng ta kết bạn trăm năm. Thôi cũng liều nhắm mắt đưa chân, thử xem cuộc thế xoay vần đến đâu? Ta cùng người ấy kết duyên với nhau, thấm thoát đã có mang mãn tháng nọ ngày tới kỳ hoa nở, hôm đó giữa lúc canh khuya, ta đau bụng sanh, thì chồng của ta đi ăn uống nhậu nhẹt, hay cờ bạc ở đâu về, gõ cửa gọi, giữa giờ phút sanh cháu nhỏ, nên không ra mở cửa được, anh chàng tức giận phá cửa vào, đánh đập liên hồi, ta kêu van và nói:

- Thưa anh, em đương đau bụnh sanh, chứ không phải lười hay khinh mà không ra mở cửa cho anh! Kẻ vũ phu nổi giận giết tươi đứa con của ta mới sanh, rồi bắt ta phải ăn sống đứa con ấy. Ta không chịu ăn, vì đánh đau quá! Nên ta nhắm mắt ăn liều, ăn xong tự hối hận trong lòng: "Đời mình bạc phúc, gặp kẻ bất nhân". Sáng ngày hôm sau, bỏ nhà ấy đi đến nước Ba La Nại, ngồi ở ngoài thành, con trai ông Trưởng giả tại đây mới chết vợ, hàng ngày ra viếng mộ ở ngoài thành, thấy ta anh hỏi:

- Cô ở đâu tới, tại sao ngồi một mình ở đây?

Khi đó ta nói thật những chuyện như trên cho anh nghe, anh bảo ta rằng:

- Cô cùng tôi vào nơi quán uống nước!

Khi ngồi chơi uống nước chuyện trò vui vẻ, anh hỏi:

- Bây giờ có người muốn kết duyên cùng cô, vậy cô có đồng ý không?

- Thưa anh, em thấy ngán lắm! Vui không được bao nhiêu, mà sự khổ đưa lại dồn dập, kẻ hiền lương không gặp, gặp kẻ bất nhân, lại gây thêm phần đau khổ.

- Đời ở một mình sao?

- Em không ở một mình, nhưng nếu gặp hiền nhân, có đạo đức có học vấn.

- Thôi cô ơi! Nói gần nói xa chẳng qua nói thật, chính tôi con trai ông Trưởng giả thành này vừa mới chế vợ, thấy cô là người hiền đức, muốn làm bạn trăm năm cô nghĩ sao?

Ta thấy có vẻ tướng hiền hòa, lại dòng quý phái, nên đồng ý kết duyên cùng anh. Nhưng cũng không may cho ta, vợ chồng ăn ở với nhau chưa được ba năm, anh mắc bệnh chết.

Luật ấy, "nếu vợ chết thì chồng được phép lấy vợ khác, nhưng nếu chồng chết thì chôn theo cả vợ". Như thế, ta cũng bị chôn luôn với chồng một huyệt! Nhưng ta chưa chết hẳn, tối hôm đó tụi cướp đến đào mả để lấy những trang vật vàng bạc của ta, anh tướng cướp thấy ta xinh đẹp bắt về làm vợ, anh giặc này chưa được bao ngày, bị họ bắt được chém mất đầu, bọn bộ hạ của anh cướp lấy xác mang về bắt ta đem chôn sống cùng anh giặc một thể. Vừa được ba ngày các con hổ bới mả định ăn thịt, trời tang tảng sáng chúng thấy người đi chợ đông, bỏ chạy, nhân thế ta dùn mả lên, ngồi than một mình rằng:

- Chẳng biết kiếp trước ta làm tội gì, mà nay gặp nhiều tai nạn như vậy? Chết đi sống lại mấy lần, làm thân nữ nhi thực là tội nghiệp. Xét rằng: Muôn vàn các bạn gái khác, chồng con cũng chẳng qua dưới ách nô lệ, của tâm hồn mê muội ngu si, không biết nhận thức một hạnh trong sáng thanh cao, bước lên con đường chân chính, tìm hiểu chân lý, tu hành cho thoát khỏi nơi phàm tục! Đó cũng chỉ vì nghiệp tham ái vô minh che tối, khi mới biế nhận thức con người, đã ngăm ngăm trong đáy lòng toan tính những đường duyên nợ, chịu chết nơi sào huyệt của dục vọng cám dỗ, vì thế mới chìm đắm nơi biển cả sinh tử luân hồi, ta sực nhớ rằng: Trước đây có người họ Thích xuất gai tu đạo, nay đã thành Phật, vậy đến đó để nương thân cho thoát khổ. Đứng dậy bước đi, dạ đói thân đau, đường xa nhiều hiểm trở, vừa đi vừa hỏi thăm, đến nơi rừng Kỳ Hoàn trời vừasẩm tối, xa xa nhìn thấy đức Như Lai sáng rực như quả núi vàng, oai phong lẫm liệt, đầy vẻ từ bi, sung sướng quá! Ta quỳ xuống một lòng thành kính hướng về Ngài, tha thiết ân cần cầu tế độ. Ngài đến tận nơi, khi đó hình thể ta lõa lồ ngồi dưới đất, thẹn hổ phải lấy tay che vú, Phật sai Ngài A Nan đem cho ta tấm áo, ta tới trước đức Thế Tôn cúi đầu lễ dưới chân, và trình bày những thống khổ vừa qua và xin xuất gia tu đạo.

Ngài sai ông A Nan đem ta giao cho bà Đại Ái Đạo dạy bảo, theo lời dạy bà thọ giới Tỷ Khưu, rồi bảo ta pháp "Tứ Đế" là Khổ, Tập, Diệt, Đạo, Vô Thường, Vô Ngã.

Ta chăm chỉ tu hành chẳng bao lâu đã chúng được đạo quả, hiểu biết đời quá khứ, và đời vị lai, coi thấy những tội ta đã tạo từ đời quá khứ, nên phải chịu ác báo không sai một tí nào!

- Kính thưa bà, đời quá khứ bà phạm tội gì, đời này bị quả báo như vậy? Xin bà nói cho chúng con được rõ?

- Muốn biết các cô hãy để ý nghe!

- Dạ, chúng con xin chú ý nghe!

- Đời ấy cách đây đã quá lâu, thuở đó có ông Trưởng giả nhà giàu, nhưng không có con, sau ông lấy một người vợ lẽ; vì có sắc đẹp nên ông mến lắm! Hai người với tình yêu khắng khít, chẳng bao lâu sinh được đứa con trai; từ đó ông lại càng đằm thắm hơn xưa, thấy thế người vợ cả thầm nghĩ như vầy:

- Công ta khó nhọc, làm ăn chắt bóp nên được giàu có, sau này đứa con vợ lẽ nó hưởng tất, thật là luống công vô ích cho ta, chi bằng ta giết quách nó đi là xong!

Định kế như vậy rồi lấy một cái kim dài, chờ lúc vắng người, cấm ngập vào giữa đỉnh đầu đứa bé. Cách ít ngày đứa trẻ ấy chết, vợ nhỏ thương con khóc suốt ngày đêm không ngớt tiếng! Rồi tự nghĩ rằng:

- Con ta không ốm không đau, tự nhiên mà chết, chắc rằng chị cả giết nó đây!

- Hỏi: - Con tôi có tội gì, mà chị nỡ giết nó?

Vợ lớn đáp: - Ô hay! Cô nói quàng nói điên như vậy? Tôi thề rằng nếu tôi giết con cô, thì đời đời chồng tôi bị rắn cắn chết, có con thì bị nước ngập hổ tha, lang bắt, còn thân tôi sẽ bị chôn sống, và tôi tự ăn thịt con tôi, cha mẹ và cả nhà tôi sẽ vị chết cháy trong đống lửa. Các cô nên biết người vợ lớn của ông Trưởng giả thuở đó chính là tiền thân của ta; vì ta không biết tin tội phúc báo ứng, ác tâm giết đứa con trai của người vợ bé ngày đó, rồi lại tự thề như vậy, cho nên kiếp này chịu lấy quả báo đau khổ, cũng đúng như lời thề ngày xưa không khác.

- Kính thưa bà! Bà tu công đức gì, kiếp này được gặp Phật và đắc đạo giải thoát, xin bà nói cho chúng con được biết?

- Các cô để ý nghe: Đời quá khứ đã xa xưa, ở nước Ba La Nại có một quả núi lớn gọi là Tiên Sơn, trong núi có nhiều những vị Bích Chi Phật, Thanh Văn và ngoại đạo thần tiên. Khi đó có vị Duyên Giác vào thành khất thực bà Trưởng giả thành ấy hoan hỷ cúng dàng, Ngài dùng cơm xong bay lên hư không hiện ra các phép thần biến. Thấy thế bà Trưởng giả chắp tay cung kính, hướng lên Ngài mà khấn rằng:

- Kính lạy Đức Tôn Giả! Xin cho con đời sau cũng được đắc đạo như Ngài!

- Các cô nên biết: Bà Trưởng Giả ngày đó, chính là tiền thân của ta, vì sự thành kính cúng dàng vị Thánh Tăng, và phát nguyện nên đời nay được gặp Phật, đắc quả La Hán! Thân ta bây giờ tuy đắc quả La Hán nhưng thường thường bị đau nhói một cái từ đầu xuống chân không khác chi cái kim đâm đau thấu tận xương! Như thế đó, tội báo mặc dầu cho lâu kiếp đến đâu cũng không thể xóa nhòa được.

Năm trăm Ni Cô nghe bà kể lại lịch kiếp tiền sinh như vậy, ai nấy trong lòng run sợ, tự quan sát cái căn bản của dâm dục, cũng như một đám lửa cháy hừng, tâm tham dục mất hẳn. Coi những nỗi đau khổ của thế gian, khác chi lao ngục, trần cấu tự nhiên tiêu hết, tâm ý sáng tỏ, hiểu thấu đạo mầu. Bình tĩnh thâm tâm, nhập định Diệt Tận, thành ngôi La Hán, khi xuất định thưa với bà Vi Diệu rằng:

- Thưa bà, chúng con bị triền miên với lòng dâm dục không gỡ nổi, hôm nay nhờ ơn bà đã được giải thoát.

Phật khen bà Vi Diệu rằng:

- Quý hóa, bà Vi Diệu thuyết pháp lợi mình lợi người, chính là đệ tử của Tam thế chư Phật!

Các cô, và đại chúng dự thính ai nấy đều hoan hỷ tạ lễ mà lui.

---o0o---

Phẩm thứ ba mươi ba

LÊ KỲ DI

 

CHÍNH tôi được nghe: Một thời đức Phật ở nước Xá Vệ, tại vườn cây của ông Cấp Cô Độc và Thấi Tử Kỳ Đà. Tại bản triều vua Ba Tư Nặc có ông quan đại thần tên là Lê Kỳ Di, nhà giàu, sinh được bảy người con trai; sáu cậu đã lập gia đình xong xuôi, còn cậu thứ bảy chưa có vợ, ông tự nghĩ:

Tuổi đã già yếu, còn đứa con trai út, nếu lập gia đình cho nó thì phải tìm nơi xứng đáng, và con người xinh đẹp.

Một hôm có người bạn thân dòng Phạm Chí đến chơi, trong lúc chuyện trò vui vẻ! Ông nói:

- Thưa bác! Tôi còn thằng cháu trai út, muốn lấy vợ cho nó, nhưng chưa tìm được nơi đâu xứng đáng. Bác từ trước đến nay đi du lịch các nước đã nhiều, vậy phiền bác nơi đâu con nhà tử tế, có nết tinh khiết, hiền hậu hòa nhã, để bác giới thiệu cho cháu một người!

- Dạ! Việc chi chứ việc ấy, tôi có thể giúp được.

Qua thời gian sau, ông bạn thân này sang nước Đặc Xoa Thị Lợi, gặp năm trăm đồng nữ đi hái hoa. Ông theo sau để quan sát, tới một suối nước chảy cô nào cô ấy đều tụt giày dẹp lội qua, duy có một cô để cả giày lội theo, đi một lát tới con sông nhỏ, các cô kia đều vén quần lội qua, nhưng cô nói trên, không vén để cả quần lội theo, khi đi tới rừng cây, các cô kia đều trèo lên cây hái hoa, bắt trái, cô này không trèo, đợi các cô kia xuống, xin được rất nhiều, ông tới trước hỏi cô kia rằng:

- Thưa cô, tôi xin hỏi cô một vài điều có được không?

- Dạ, xin ông cứ hỏi, không sao!

- Vừa đây qua suối, các cô kia đều tụt giày dép lội qua riêng cô không tụt là có ý gì?

- Thưa ông, sở dĩ giày dép, chính là để giữ cho cái chân, khỏi dẫm phải gai góc mảnh sành, và các vật có thể làm hại chân; trên mặt đất, còn có thể trong thấy mà tránh, dưới nước làm sao trông thấy, những gai góc độc trùng mà tránh, vì thế nên tôi không tụt!

Ông hỏi tiếp: - Qua sông, các cô kia đều vén quần lội, riêng cô để cả quần là ý nghĩa chi?

- Thưa ông người con gái, phải có sự kín đáo nhiệm nhặt, lõa lồ thân thể, thô con mắt bàng quang, và tự thẹn cho mình nên tôi không vén!

Ông hỏi tiếp: - Các cô kia đều trèo cây, tại sao cô không trèo?

- Thưa ông leo cây sợ càng gãy, làm nguy hai cho mình, vì thế nên tôi không trèo?

Xin lỗi cô tên chi, cha mẹ cô thế nào!

- Thưa ông tên tôi là Tỳ Xá Ly, mẹ tôi là em vua Ba Tư Nặc tên là Đàm Ma La Tiện. Phạm tội trốn sang nước này, làm bạn với ba tôi sinh ra tôi.

- Cha mẹ cô bình sinh cả chứ?

- Dạ, thưa ông, cha mẹ cháu hãy còn bình sinh cả!

- Tôi muốn theo cô về thăm ông bà có được không?

- Dạ, thưa ông được!

- Cô đưa ông về tới nhà, rồi vào thưa với cha rằng:

- Thưa cha, có người Bà La Môn muốn vào thăm cha!

Ba cô bước ra nhà khách, hai người gặp nhau, chuyện trò vui vẻ! Ông Bà La Môn thưa rằng:

- Thưa ông, cô gái này là con ông phải không?

- Dạ, thưa phải cháu ngoan lắm!

- Ông đã lập gia đình cho cháu chưa?

- Dạ, chưa có, cháu còn đi học!

- Thưa ông, nước Xá Vệ có quan Đại thần là Lê Kỳ Di ông có quen không à?

- Dạ, chính tôi quen ông ấy đã lâu.

- Thưa ông, cậu con trai út của ông Lê Kỳ Di, người thông minh lắm muốn để xin cô gái của ông cho cậu ấy, có được không ạ?

- Dạ, được lắm, tôi rất bằng lòng, là vì ông ấy với tôi là bạn thân, hơn nữa nhà ông ấy là dòng quý phái, đôi bên đều xứng đôi cả.

- Dạ, xin ông tôi cáo lui.

Ông định về báo tin cho ông Lê Kỳ Di nhưng lại gặp một người bạn thân về nước Xá Vệ, ông biên thơ gửi cho ông Lê Kỳ Di.

Được thơ rồi, ông Lê Kỳ Di sắm sửa lễ vật, và tiền bạc lên xe sang nước Đặc Xoa Thị Lợi, đến nơi ông sai người vào hỏi han các công việc trước.

Ông Đàm Ma La Tiện tiếp đãi rất trịnh trọng. Lê Kỳ Di tới sau, chủ khách tương kiến hai họ vui vẻ! Hỏi han trao đổi ý kiến, thỏa thuận cuộc hôn thú của hai nhà, công việc đã xong, họ trai đưa cô dâu về nước Xá Vệ. Khi bước ra đi bà mẹ dặn cô rằng:

- Con về nhà chồng luôn phải mặc áo mới đẹp, ăn uống cho ngon lành, ngày nào cũng phải soi gương, chớ quên lời mẹ dặn!

- Dạ, lạy mẹ con xin vâng lời mẹ dăn không dám trái.

Ông Lê Kỳ Di nghe thấy bà dâu gia dặn con gái như vậy, tự hậu để tâm và thầm nghĩ rằng:

- Nhân sinh nhất thế, khổ, vui, áo mặc, miếng ăn ngon đâu có nhất định, ngày nào cũng soi gương, thực là cả một sự vô lý.

Sau khi hai họ từ biệt bước lên đường, cô dâu cùng chàng rể, ngựa võng nghênh ngang, người đông như hội, pháo nổ vang trời, cũng hình như một đám rước thần. Nửa đường tới một nhà hàng có hiên mát mẻ, những người đi trước đều vào nhà này nghĩ, cô dâu tới sau thưa với bố chồng rằng:

- Thưa cha! Nhà này không nghỉ được, mau mau phải ra ngoài nghỉ!

Ông cũng phải theo ý cô ra nghỉ một nơi khác, cũng có số người không chịu đi, một lát có đàn voi tới, cọ vào cột làm đổ nhà đè chết mấy người. Ông Lê Kỳ Di thầm nghĩ rằng:

- Mình thoát chết là nhờ con dâu!

Rồi lại bắt đầu đi, tới một bờ khe suối, mọi người dừng chân đứng nghỉ. Cô đến sau nói rằng:

- Nghỉ ở đây không hay, phải lên ngàn cao kia mới được!

Khi đó mọi người đều phải theo lời cô, lên tới ngàn cao, chỉ trong chốc lát mây kéo đen, sấm sét vang dội, mưa như trút nước xuống, chảy tràn ngập cả bờ khe suối ấy, ông Lê Kỳ Di tự niệm rằng:

- Ta thoát chết hai lần là do con dâu cứu sống!

Lại bắt đầu đi, lúc về tới nhà, họ hàng thân quen kẻ xa người gần, tấp nập đến chào mừng.

Hôm đó ông Lê Kỳ Di thiết đãi họ hàng ăn uống rất linh đình vui vẻ! Cuộc nghinh hôn tới đây đã xong.

Một hôm ông Lê Kỳ Di họp gia đình lại nói rằng:

- Các con, bây giờ cha đã già yếu, việc gia đình cha không thể kham nổi, tất cả cơ nghiệp tài sản này, kho tàng chìa khóa, con nào đảm đang nổi, cha sẽ giao phó cho?

Sáu cô dâu đều từ chối không dám nhận, cô Tỳ Xá Ly thứ bảy, đứng lên thưa rằng:

- Thưa cha các chị con không ai dám nhận, vậy con xin nhận để đỡ cha!

Ông Lê Kỳ Di vui vẻ giao phó cho cô tất cả công việc trong gia đình. Từ đó cô chăm chỉ thức khuya dậy sớm, bảo ban thầy tớ các công việc rất chu đáo, tới bữa dâng cơm cha mẹ ăn trước, sau đến các anh các chị cháu trai cháu gái, rồi đến các gia nhân, phân phó công việc được ổn thỏa, rồi cô mới đi ăn cơm, thường thường cứ như thế.

Ông thấy cô là một người trung kiên cẩn thận, khác hẳn những người thường, và quái sao? Không thấy cô theo lời mẹ dặn lúc bước ra đi.

Ông hỏi: - Trước khi con về làm dâu, mẹ con có dặn: Phải mặc áo mới đẹp, ăn thức ăn ngon lành, và ngày nào cũng soi gương, thế sao con không theo lời của mẹ con đã dặn?

Cô quỳ xuống thưa rằng:

- Thưa cha! Mẹ con dặn mặc áo mới đẹp nghĩa là: Áo mặc bao giờ cũng phải cho sạch sẽ, lúc khách tới nhà quan chiêm cho khỏi thô con mắt. Dặn con ăn thức ăn ngon lành: Không phải ăn những thứ thịt ngon béo, ý mẹ con dặn bao giờ cũng phải ăn sau, lúc đói gặp thứ ngon cũng tốt cả. Còn soi gương, là không phải gương bằng đồng bằng kính, ý nói phải dậy sớm bao phất trong nhà những giường ghế cho sạch sẽ cẩn thận, chăn chiếu mền mùng cho gọn gàng. Mẹ con dặn là ý như vậy!

- Ừ, hay lắm! Mẹ con là người có đức lớn, cha cũng phải kính phục.

Ông mừng thầm con dâu có tài, có đức, tinh thần minh mẫn, biệt đãi hơn trước, từ đó công việc trong gia đình ông cứ thản nhiên, không phải nghĩ tới.

Một hôm nhà vua cùng triều thần văn võ bá quan, đương ngồi trên bảo điện để bàn việc nước, tự nhiên thấy những chùm lúa tám cánh rơi xuống sân rồng, họ nhìn lên trời thấy một đàn chim nhạn bay qua, thấy thứ lúa quý, nhà vua giao cho mỗi ông quan một ít về trồng.

Ông Lê Kỳ Di đem về giao cho cô Tỳ Xá Ly là con dâu thứ bảy, đặn rằng: - Lúa này nhà vua giao cho đem về trồng, con hộ cha việc đó.

Sau một thời gian Vương Phu Nhân mắc bệnh, các thầy lang chẩn mạch xong tâu với vua rằng:

- Tâu Bệ Hạ, bệnh của phu nhân, phải dùng thứ lúa tám cánh ở bãi biển thì khỏi!

Nhà vua triệu các quan vào nói rằng:

- Trước đây tôi có giao cho các ông thứ lúa tám cánh, đem về trồng, nay lúa đã chín chưa?

Các ông kia tâu rằng: - Tâu Bệ Hạ! Vì không hợp thủy thổ, lúa có lên, nhưng không kết quả. Ông Lê Kỳ Di về nhà hỏi con dâu rằng:

- Con trồng lúa tám cánh có tốt không? Nhiều hột không? Nhà vua đương cần làm thuốc cho Hoàng Hậu!

- Thưa cha mùa này con trồng được nhiều lúa, tốt lắm, nếu dùng làm thuốc thì cấp cho toàn quốc cũng đủ!

- Con đem cho cha một ít vào dâng vua?

- Dạ, để con cho người xay giã cẩn thận đã.

Hôm sau ông đem gạo tám cánh vào dâng vua rồi tâu rằng:

- Tâu Bệ Hạ, tuân theo thánh chỉ, hạ thần trồng được rất nhiều, nay xin dâng Hoàng Thượng một mớ gạo tám cánh đã làm cẩn thận!

- Tốt lắm, Khanh khéo tay trồng cấy!

Vua sai người đem gạo ấy nấu cơm.

Hoàng Hậu ăn xong thì khỏi bệnh.

Thời đó nước Đặc Xoa Thị Lợi với nước Xá Vệ có sự xích mích về việc thương mãi, nên thường hay xảy ra cuộc xung đột giữa hai nước.

Tuy thế nhưng vua nước Đặc Xoa Thị Lợi vẫn còn e dè, sợ nước Xá Vệ có nhiều nhân tài, nên nhà vua lập thế để thử xem có hay không thì biết.

Lần đầu sai người mang sang nước Xá Vệ hai con ngựa cái, để xem có thể phân biệt được con nào là mẹ: con nào là con? Vì hai con đều lớn bằng nhau.

Khi đó tất cả vua quan triều thần văn võ bá quan đều không thể phân biệt nổi, đâu là mẹ, đâu là con.

Ông Lê Kỳ Di về nhà có vẻ buồn!

Cô dâu hỏi: - Thưa cha, hôm nay cha vào triều có chuyện chi? Thấy cha không vui!

- Con ơi! Nước Đặc Xoa Thị Lợi, cử người mang sang hai con ngựa cái, để xem con nào là mẹ, con nào là con, tất cả triều thần văn võ bá quan đều không ai biết, nếu không giảng nổi, họ sẽ đem quân sang đánh, vì thế nên cha buồn!

- Thưa cha việc ấy không khó! Chỉ lấy một bó cỏ ngon, cho ăn, nếu thấy con nào ăn thong thả và nhường, là mẹ, con nào ăn dành và hốp tốp là con.

Cha nghe có lý, vào tâu vua như lời cô nói. Nhà vua sai người lấy cỏ cho ngựa ăn thử, quả thấy như lời cô nói là đúng. Nhà vua kêu sứ thần đến chỉ vào con ngựa ăn chậm là mẹ, con ăn bốp là con, Sứ thần chịu nhận là phải. Sau khi sứ ra về, nhà vua rất mừng! Phong thưởng tước lộc cho ông Lê Kỳ Di rất nhiều.

Sứ thần về tới nước nhà tâu vua đúng sự thật như trên. Nhà vua lại mang sang hai con rắn, dài bằng nhau, lớn bằng nhau, đố biết con nào đực, con nào cái.

Tuân lệnh lần thứ hai, Sứ thần mang rắn sang hỏi vua Ba Tư Nặc, lần này từ vua đến quan tịt mít, không ai giải đáp nổi.

Ông Lê Kỳ Di về nhà nói với con dâu rằng:

- Con ơi: Hôm nay nước Đạc Xoa Thị Lợi, mang sang hai con rắn hỏi con nào đực, con nào cái, tất cả vua quan trong triều không ai đoán quyết nổi, vậy con có cách gì biết, nói cho cha rõ?

- Thưa cha, việc ấy cũng không khó! Chỉ lấy một thước lụa rất nhẵn, mềm, nhũn trải trên một cái nong, bỏ nó vào rồi nhìn xem: con nào nằm im, con hay chạy thì biết: vì con cái thuộc âm tính, thấy mát êm bụng, lòng dục phát động, nên nó nằm im; con đực thuộc dương tính (nóng động tính) thấy người thì sợ muốn tìm lối tẩu thoát nên chạy lung tung.

Ông nghe có lý, vào tâu vua như lời nói trên. Vua sai người lấy lụa làm đúng, quả nhiên thấy rõ sự thực.

Một diệu kế này biết đúng, nên nhà vua sai người gọi Sứ đến bảo cho biết. Sứ thần phải phục cái tài của nhà vua nhận xét đúng sự thật.

Sau khi Sứ thần ra về, nhà vua rất hài lòng và thưởng cho ông Lê Kỳ Di rất nhiều vàng bạc.

Sứ thần về tâu vua Đặc Xoa Thị Lợi sự nhận xét đúng của vua Ba Tư Nặc, nhà vua vẫn còn chưa tin hẳn, nên lại bắt sứ thần mang sang cây gỗ dài một trượng, gốc ngọn bằng nhau nhẵn trơn không óc dấu, vết, đố biết gốc ngọn?

Sứ thần tuân mạng mang sang nước Xá Vệ, lần này cũng không ai biết. Ông Lê Kỳ Di lại về hỏi con dâu:

- Con ơi! Lần này nước Đặc Xoa Thị Lợi mang sang một cây gỗ nhẵn trơn không có mấu vết, đố biết gốc ngọn, trong triều không ai quyết đoán nổi, vậy con có cách gì nói cho cha hay?

- Thưa cha, việc ấy càng không khó, chỉ đem bỏ xuống sông thì biết: đầu nào chìm là gốc; đầu nào nổi là ngọn; vì gốc bao giờ cũng nặng, nên chìm; ngọn bao giờ cũng nhẹ, nên nổi.

Ông Lê Kỳ Di tâu vua như lời nói trên, vua sai đem ra sông bỏ, quả nhiên một đầu chìm, và một đầu nổi, vua gọi Sứ ra nói rằng:

- Sứ thần ông nên biết: đầu chìm kia là gốc, đầu nổi là ngon.

Sứ thần nói: - Dạ Tâu Bệ Hạ, đúng như lời Ngài nói, hạ thần xin chịu!

Sứ thần về bản quốc tâu vua rằng:

- Tâu Bệ Hạ! Lần này vâng lệnh Bệ Hạ đưa gỗ sang, họ đều nói đúng cả, như vậy biết rằng nước Xá Vệ có rất nhiều nhân tài, theo như hạ thần nhận thấy.

Nhà vua nghe nói cũng phải cảm phục, và thôi việc gây chiến với nước Xá Vệ. Muốn để hai nước có tình thân mật, nên nhà vua nước Đặc Xoa Thị Lợi sai người mang vàng bạc và các của quý sang biếu vua Ba Tư Nặc rồi gởi lời nói:

- Chúng tôi đáng khen ngợi trong nước của nhà vua, lắm hiền tài vậy từ nay nên gắng công tu nghĩa hiếu, và dạy dân theo chánh giáo.

Khi đó vua Ba Tư Nặc triệu ông Lê Kỳ Di bào cung hỏi rằng:

- Các việc giải đáp vừa qua, tại sao Khanh biết?

- Tâu Bệ Hạ! Đó là con dâu của hạ thần, chứ tiểu thần đâu có trí tuệ siêu nhân, hơn các hàng nam tử văn khoa nhà vua nghe nói rất quý kính, rồi tặng cho có chức "Đệ tam muội".

Qua một thời gian nữa, cô Tỳ Xá Ly đẻ được ba mươi quả trứng, bửa ra được ba mươi hai cậu con trai, cậu thứ nhất, đoan nghiêm đặc sắc, sau lớn tuổi, sức lực hùng mạnh vô song, có thể đánh nổi ngàn người, cha mẹ rất yêu quý! Trong nước ai cũng kính nể. Sau cưới vợ cho các cậu, nguyên những con gái các nhà hào hiền trong nước.

Bà Tỳ Xá Ly vốn là người tín sùng ngôi Tam Bảo, thường hay đi nghe Phật thuyết pháp. Hôm ấy bà thỉnh Phật và chư Sư về cúng trai. Khi Phật dùng cơm xong thăng tòa thuyết pháp, cả nhà người lớn người nhỏ đều đắc quả Tu Đà Hoàn, duy có cậu con út của bà, sự hiểu biết kém, nên không đắc đạo quả gì. Cậu hãy còn có tính hung hăng, ngày ngày cỡi voi trắng đi chơi, hôm đó đi qua một cái cầu gỗ lớn, giữa cầu con trai quan Phụ Tướng ngồi trên xe, hai cậu tranh nhau: cậu nào cũng cậy ta là con nhà quan lớn, không chịu tránh. Cậu con bà Tỳ Xá Ly nổi giận, trên mình voi nhảy xuống, đẩy đổ xe và con quan con Phụ Tướng xuống hào lầy, thấy trược cả thân thể, máu me chảy đầm đìa trở dậy vừa đi vừa khóc, về nhà thưa với cha rằng:

- Thưa cha, con ứt của bà Tỳ Xá Ly vô cớ đẩy xe và con xuống hào; làm con bị đau đớn như thế này!

Quan Phụ Tướng thấy con đau quá nổi giận nói:

- Nó sức lực khỏe mạnh, hơn nũa lại thân với nhà vua, thôi con đừng khóc nữa, để cha trả thù cho!

Ông quan Phụ Tướng này mượn người làm ba mươi hai cái roi ngựa bằng thất bảo, trong ruột roi, cắm một con dao nhọn, rồi ông mang đi tặng cho con trai bà Tỳ Xá Ly mỗi cậu một cái.

Các cậu này còn ít tuổi, tính khí nông nổi, được roi vui mừng thường mang roi đi chơi, vô tâm, không hiểu cái thâm ý của quan Phụ Tướng.

Luật nước cấm ngặt khi vào nhà vua không được đeo dao, nếu ai trái lệnh sẽ bị tội tử hình.

Những con bà Tỳ Xá Ly ra vào nhà vua, là chuyện thường, không ai được cấm đoán, vì nhà vua rất yêu đãi đối với bà Tỳ Xá Ly.

Hôm đó quan Phụ Tướng vào tâu vua rằng:

- Tâu Bệ Hạ, ba mươi con bà Tỳ Xá Ly, khỏe mạnh lắm, một người có thể địch được ngàn người, chúng đương mưu kế để hại nhà vua!

Nhà vua nghe ông nói, nhưng cũng chưa lấy gì làm tin; ông lại thưa rằng:

- Tâu Bệ Hạ, việc này hạ thần quan sát có sự thật, và có bằng chứng lắm! Vì hạ thần thấy mỗi cậu có một cái roi; trong roi đều có một con dao nhọn ở trong ruột!

Nhà vua liền sai người lấy roi xem, quả nhiên thấy con dao ở trong roi thực, chứng tỏ như thế, nhà vua sai các lực sĩ, gọi ba mươi hai cậu vào trong cung, thu hết roi, rồi xử tử ngầm không cho ai biết, chặt đầu ba mươi hai cậu bỏ vào hòm gỗ niêm phong cẩn thận, mang lại cho bà Tỳ Xá Ly.

Giữa ngày hôm ấy, bà Tỳ Xá Ly mời Phật và chư Sư về nhà cúng trai, trong nhà đương nhộn nhịp; kẻ bưng cơm người rót nước tấp nập, bà thấy người nhà vua khiêng một cái hòm đến, tự mừng thầm và nói rằng:

- Hôm nay có lẽ nhà vua cho người mang các món ăn tốt đến giúp ta cúng dàng hẳn!

Bà sai người mở xem.

Phật nói: - Hãy khoan! Để ta dùng cơm xong rồi sẽ mở!

Khi thụ trai xong, đức Phật gọi bà lên ngồi một bên Ngài nói rằng:

- Thân này vô thường, nó chịu đựng những sự đau khổ! Rồi lại thành không, chính là không có ta; kiếp sống rất nhiều nguy hiểm tai nạn, sợ hãi mà nó không tồn lập được bao lâu; nó trói buộc bằng mọi sự phiền não, chua xót khó tả xiết, ân ái có ngày biệt ly! Thương luyến lẫn nhau, làm thân mình và thức tâm mệt nhọc, không ích gì cho đạo, ta nói đây, chỉ riêng những người có trí tuệ, mới nhận thức được pháp thiết yếu này.

Nghe Phật nói xong bà tín ngộ, liền chứng được quả A Na Hàm, vui mừng chắp tay bạch Phật rằng:

- Kính lạy đức Thế Tôn, con xin bốn đều như sau:

1.      Con xin cúng dàng các vị Tỷ Khưu bệnh, và các món ăn tùy theo bệnh.

2.      Con xin cúng dàng các vị khán bệnh.

3.      Các vị Tỷ Khưu ở xa tới con xin cúng dàng trước.

4.      Các vị Tỷ Khưu đi xa con xin cúng dàng lương thực.

Lạy Đức Thế Tôn! Các vị bệnh hoạn vì không có thuốc tốt và món ăn ngon lành nên bệnh lâu khỏi, hoặc khó chữa, hoặc nhân thế mà bị mạng chung. Các vị khám bệnh phải trông nom bệnh nhân, nên không đi khất thực được, vì thế nên con xin cúng. Các vị ở nơi xa mới tới, chưa quen biết ai, đi khất thực gặp chó dữ hoặc gặp kẻ bất nhân làm thương tổn đến thân thể, hoặc sỉ nhục, vì thế nên con xin cúng dàng trước. Các vị đi xa phải có bè bạn, nếu không có lương thực đem theo hoặc đi không kịp, đường sá nguy hiểm, nhiều độc thú, đi một mình, sợ mắc tai nạn, vì thế nên con xin cung cấp lương thực.

Đức Thế Tôn thấy bà xin bốn việc ấy nên Ngài khen rằng:

- Quý hóa có tâm như thế công đức rất lớn, như thế cũng khác chi cúng Phật!

Nói xong đức Phật và chư sư trở về rừng Kỳ Hoàn.

Sau khi đức Phật đã về, bà sai người mở hòm xem nhà vua cho cái gì, trái lại thấy ba mươi hai cái đầu lâu người, chính là con trai của bà. Vì bà đã hiểu biết đời là vô thường, và đắc quả A Na Hàm, tâm ái luyến thế gian đã đoạn hết, nên không có ảo não khóc than gì mà chỉ nghĩ thoáng câu:

- Đau khổ thay! Thương xót thay có sinh tất có tử; nổi chìm trong năm thú; khổ gì đến như thế!

Bấy giờ ba mươi hai nhà vợ, nghe biết con rể chết về tay nhà vua, họ nói rằng:

- Nhà vua vô cớ giết oan người lương thiện!

Lòng thương con rể phẫn uất nổi lên cực độ! Họ đem quân đến vây kinh thành nhà vua để báo thù.

Vua Ba Tư Nặc chạy sang với Phật, họ đuổi theo, sang vây rừng Kỳ Hoàn. Khi đó tôi (A Nan) ra mời họ vào để hỏi nguyên ủy là câu chuyện gì.

Ba mươi hai ông bố vợ của con bà Tỳ Xá Ly vào lễ Phật xong lui về một bên, tôi quỳ thẳng bạch Phật rằng:

- Kính lạy đức Thế Tôn! Ba mươi hai người con của bà Tỳ Xá Ly, đời quá khứ có tạo ác gì với nhà vua không? Mà nay bị ông giết, cúi xin Ngài chỉ giáo cho chúng con được rõ?

Phật dạy: - Truyện oan trái tiền khiên này, về đời quá khứ, cách đây đã lâu lắm. Thuở bấy giờ có ba mươi hai người chơi thân với nhau, một hôm đi bắt trộm được một trâu, để ăn uống cùng nhau cho thỏa chí. Gần đấy có một bà lão nhà nghèo, lại không có con, nên các anh này đưa trâu để giết nhờ. Bà cũng vui vẻ cho giết, trong nhà bà có đủ củi đóm, nồi nấu, dao, quạt, cho mượn. Lúc sắp giết, con trâu quỳ xuống nói rằng:

- Xin các anh tha tôi! Nếu các anh giết tôi đời sau tôi cũng không tha các anh đâu, dầu cho các anh tới ngày được đạo giải thoát, tôi quyết định trả thù bằng được.

Mấy anh thấy trâu nói, nhưng lòng bất nhân không nghe, xúm nhau lại vật trâu ra giết, mổ, sả, xào xáo, chưng kho, ăn uống no say. Bà lão hôm đó cũng được bữa no, rồi nói rằng:

Nhờ các anh được bữa thịt nên thân, hết thèm thuồng.

A Nan ông nên biết: Con trâu thuở đó, nay là vua Ba Tư Nặc, các anh ăn trộm trâu, ngày đó, nay là ba mươi hai người con của bà Tỳ Xá Ly. Bởi quả báo ấy nên trong năm trăm đời thường bị ông giết lại, cho đến ngày nay không thôi. Bà lão là người giúp đỡ và vui mừng trong cuộc giết trâu, nên trong năm trăm đời phải làm mẹ những người này, mà chịu lấy sự thống khổ chua xót ấy!

Nghe xong biết rõ câu chuyện oán báo của đôi bên, tôi lại hỏi Phật rằng:

- Kính lạy đức Thế Tôn! Những người này có phúc gì được sinh vào nhà giàu sang và thân thể khỏe mạnh, cúi xin Ngài chỉ bảo cho?

Phật dạy: - A Nan ông nên biết: Đây cũng là một đời quá khứ, thời đức Phật Ca Diếp, có một bà lão biết tin kính ngôi Tam Bảo, nhà rất giàu một hôm bà lấy các thứ hương hoa với dầu để sơn tháp, đi nữa đường gặp ba mươi hai cậu con trai, nhân dịp bà khuyên các cậu ấy rằng:

- Các cậu đi đâu? Đây có một việc phúc đức lắm, hôm nay tôi đi sơn tháp Phật, nếu các cậu sơn giúp tôi, thì đời được sức lực khỏe mạnh và đẹp đẽ!

- Thế ư cụ? Vâng cụ đã dạy, các cháu xin đi. Sơn xong các cậu ấy đều thưa rằng:

- Thưa cụ! Do cụ khuyên các cháu trồng phúc lành, xin đem công đức này, nguyện cho cháu sinh nơi nào cũng được tôn vinh phú quý, và đời đời chúng cháu được làm con cụ; cụ là mẹ chúng cháu, và được gặp Phật nghe pháp chóng đắc đạo quả!

Bà lão nói: - Quý hóa! Các cậu phát nguyện như thế! Nhờ công đức Tam Bảo gia hộ, sau này thế nào chả được như nguyện!

A Nan ông nên biết: Bà lão thuở đó nay là bà Tỳ Xá Ly, ba mươi cậu con trai này đó, nay làm con trai bà.

Khi đó những quan quân vây rừng Kỳ Hoàn, nghe Phật nói xong họ biết rằng đó là do sự oan báo trả nợ của đôi bên, nên lòng căm giận của họ tự nhiên tiêu mất, rồi tự đến trước vua Ba Tư Nặc tạ lỗi.

Tới đây đức Thế Tôn, nhân vì bốn chúng đệ tử, nói rộng các thiện nghiệp nên tu, ác nghiệp nên bỏ, và giảng giải rõ ràng pháp Tứ Diệu Đế.

Đức Phật thuyết xong, tất cả mọi người ai nấy đều vui mừng, tạ lễ lui ra.

---o0o---

 

Phẩm thứ ba mươi tư

THIẾT ĐẦU LA KIỆN NINH

CHÍNH tôi được nghe: Một thời đức Thế Tôn ở nước La Duyệt Kỳ, tại vườn Trúc. Khi đó tôi mặc áo chỉnh tề, tới trước quỳ thẳng chắp tay bạch Phật rằng:

- Kính lạy đức Thế Tôn! Nhóm ông Kiều Trần Như đời trước có nhân gì tốt với Ngài, trống Pháp bắt đầu kêu, bọn ông được nghe trước, nước Cam Lồ được uống trước, cúi xin nói rõ cho chúng con và chúng sinh đời sau được biết nguyên do?

Phật dạy: - A Nan ông nên biết: năm người này, đời xưa ăn thịt của ta trước tiên, nên được lành mạnh, qua lúc đói khổ, vì nhân duyên ấy, nên đời nay được nghe pháp của ta trước, và được giải thoát đầu tiên!

Tôi lại thưa rằng: Kính lạy Ngài! Đời trước bọn ông ấy ăn thịt của ta trước tiên, nên được lành mạnh, qua lúc đói khổ, vì nhân duyên ấy, nên đời nay được nghe pháp của ta trước, và được giải thoát đầu tiên!

Tôi lại thưa rằng: Kính lạy Ngài! Đời trước bọn ông ấy ăn thịt Ngài, câu chuyện đó tại nhân duyên sao! Cúi xin Ngài dạy bảo cho chúng con được biết?

Phật dạy: A Nan ông nên biết: Từ khi đó tới nay đã lâu lắm, có tới vô lượng vô kiếp A Tăng Kỳ, cũng Châu Diêm Phù Đề này, có một ông vua nước lớn, tên là Thiết Đầu La Kiện Ninh, thống trị tám vạn bốn ngàn nước nhỏ, sáu muôn núi sông, tám mươi ức tụ lạc, hai muôn phu nhân thể nữ. Nhà vua rất có từ bi, luôn luôn thương dân chăm làm những việc lợi ích cho quốc gia xã hội, ít có sự lợi ích cho riêng mình, gia đình mình, nên họ yêu quí ông như một người cha lành.

Thời ấy gặp hỏa tinh xuất hiện, các nhà thiên văn học tâu vua rằng:

- Tâu Bệ Hạ! Điềm bỏa tinh xuất hiện là triệu chứng đại hạn, có lẽ kéo dài mười hai năm. Vậy Bệ Hạ nên làm thế nào cho dân tránh khỏi sự chết đói?

Nghe lời các nhà thiên văn nói thế, nhà vua lo buồn quá! Đến nỗi ngày quên ăn, đêm quên ngủ! Như thế thì nhân dân sống sao? Quốc gia sẽ bị điêu đứng.

Liền triệu tập tất cả văn võ bá quan để cứu xét về việc này:

- Bây giờ các ông tính sao? Có cách gì làm mưa được, hay có biện pháp gì cho dân qua lúc hạn hán này mà sống được.

Các quan tâu vua rằng:

- Tâu Bệ Hạ! Bây giờ thông cáo cho các nước tính số dân hiện có bao nhiêu, và tính xem trong mười hai năm mỗi người ăn hết bao nhiêu?

Xong cuộc hội nghi này, theo sắc lệnh tính nhân khẩu và thóc biết rằng mỗi người dân, chỉ được một thăng gạo. Vì thế nên bị chết đói rất nhiều.

Nhà vua thương dân ngày đêm không ngớt nước mắt! Riêng mình được an vui! Nhìn thấy nhân dân đau khổ, không nỡ lòng như vậy. Nhân lúc phu nhân thể nữ, Thái Tử đi du ngoạn nơi viên quán, nhà vua cúi đầu lễ bốn phương khấn rằng:

- Kính lạy thập phương tam thế chư Phật! Hiện nay nhân dân bị chết đói rất nhiều, con xin bỏ thân này, nguyện làm một con cá lớn, để cung cấp thịt cho dân ăn qua lúc đói khát!

Khấn xong trèo lên cây đâm đầu xuống đất mà chết! Thần thức của ông hóa làm con cá lớn, mình dài năm trăm do tuần.

Khi đó có năm người thợ mộc, vác búa ra bờ sông đốn củi. Con cá nhìn thấy bảo họ rằng:

- Lũ các ông có đói thì lấy thịt tôi mà ăn, ăn no và cho đem về, sau này tôi thành Phật, tôi sẽ lấy pháp thực cứu thoát cho bọn các ông trước, và gọi nhân dân ra lấy thịt của tôi về mà ăn.

Nghe cá nói, năm người vui mừng quá! Đương đói, vác búa ra bổ lấy một tảng lớn đem củi đốt lửa thui ăn; ăn no, lại mang về, mách bảo mọi người lấy thịt cá.

Họ ồ ạt tranh nhau, kẻ vác búa, người cầm dao, kẻ cầm rổ, người mang thúng ra bổ xa lấy thịt, vì thế nên nhân dân hết nạn chết đói. Khi lấy hết một nửa mình bên hữu, cá xoay lại mình bên tả, cho lấy; lấy hết mình bên tả thì mình bên hữu đã mọc đầy thịt! Cứ như thế hết bên nọ lại chuyển sang bên kia, tất cả nhân dân, Châu Diêm Phù Đề tâm từ bi, sau khi chết được sinh lên Trời.

Nói tới đây Phật nhắc lại rằng:

- A Nan, ông nên biết vua Thiết Đầu La Kiền Ninh thuở đó, chính là tiền thân ta đấy! Năm người thợ mộc được ăn thịt cá đầu tiên, nay là nhóm ông Kiều Trần Như năm người; các nhân dân lúc đó, nay là tám vạn chư thiên, và các đệ tử được độ.

Lúc đó bọn ông được ăn thịt ta mà sống, vì thế nay ta bắt đầu thuyết pháp bọn ông được nghe trước, ta chỉ lấy một chút thịt của pháp thân, để trừ khỏi sự đói khát tam độc của họ ngày đó.

Khi đó tôi và tất cả hàng đệ tử nghe Phật nói xong, ai nấy đều tôn kính lòng từ bi bố thí của Ngài đã thực hành được, cúi đầu lễ tạ lui ra.

---o0o---

 

Phẩm thứ ba mươi lăm

A DU CA

 

CHÍNH tôi được nghe: Một thời đức Thế Tôn ở nước Xá Vệ, tại vườn Cấp Cô Độc cây của Kỳ Đà.

Một buổi sớm ấy đức Phật và tôi vào thành khất thực, gặp lũ trẻ con, đương nô nghịch đất giữa đường, nó đắp một cái thành, có đủ nhà cửa kho tàng thóc lúa bằng đất. Một đứa nó nhìn thấy Phật có hào quang sáng, tự phát tâm cung kính, vui mừng! Khi Phật đi tới nơi, nó chắp tay vái, và dâng một mẩu đất cúng dàng.

Phật cầm lấy giao cho tôi, và dặn tôi mang về bôi trên thềm nhà chỗ Ngài ngủ. Khi trở về rừng Kỳ Hoàn, tôi đem đất làm theo lời Ngài dạy. Ngài bảo rằng:

- A Nan vừa rồi đứa nhỏ hoan hỷ cúng đất công đức ấy sau khi ta vào Niết Bàn, khoảng độ trăm năm; nó sẽ được làm vua tên là A Du Ca còn các trẻ nhỏ đồng bạn, được làm quan đại thần cai trị tất cả các nước Châu Diêm Phù Đề; làm hưng long cho ngôi Tam Bảo phân phát Xá Lợi, xây tám vạn bốn ngàn ngọn tháp, khắp Châu Diêm Phù Đề cúng dàng ta.

Tôi vui mừng bạch Phật rằng:

- Kính lạy đức Thế Tôn! Đời quá khứ Ngài tu công đức gì, mà được phú báu nhiều tháp như thế? Cúi xin chỉ bảo cho chúng con được rõ?

- Phật dạy: - A Nan ông muốn biết hãy nghe cho kỹ ta sẽ nói cho hay!

- Dạ, lạy đức Thế Tôn con xin chú ý nghe!

- A Nan, thuở đời quá khứ đã xa xưa, có một ông vua nước lớn tên là Ba Tắc Kỳ, cai trị tám vạn bốn ngàn nước nhỏ, thời đó có đức Phật tên là Phất Sa ra đời. Nhà vua và nhân dân tôn sùng đạo Phật, thường ngày dâng lên bốn món cúng dàng thức ăn uống, áo mặc, giường tòa, thuốc thang rất trịnh trọng. Nhà vua nghĩ thầm như vầy:

- Đức Phật là phúc điền cõi nhân gian thiên thượng, ai trồng nhân lành gì được kết quả ấy, nhân dân nước ta thường được thấy Phật lễ Phật; cúng dàng Phật, còn các nước nhỏ ở xa xôi, nhân dân không biết nương đâu tu phúc, vậy ta hãy thuê người vẽ hình tượng Phật, ban phát cho các nước để cúng dàng cầu phước.

Nghĩ thế rồi gọi họa sĩ đến chốn Phật, nhìn vẽ cho đúng tướng của Ngài. Song họ vẽ mãi không thành. Sau đức Phật Phất Sa, Ngài sẽ tự vẽ lấy một kiểu để cho họ họa lại.

Các họa sĩ cứ thế phóng ra được tám vạn bốn ngàn bức rất đẹp, cũng giống như bức tranh Ngài vẽ.

Vua Ba Tắc Kỳ đem tranh ấy ban cho mỗi nước một bức, và truyền lệnh cho nhân dân các nước đem hương hoa âm nhạc nghinh thỉnh rước về.

Vua quan nhân dân các nước, tuy được bức tranh, nhưng lòng tôn kính cúng dàng như thấy đức Phật hiện tại không khác.

- A Nan ông nên biết: Vua Ba Tắc Kỳ thuở đó chính là tiền thân của ta đấy, do thời đó thuê một thợ vẽ tám vạn bốn ngàn hình tượng đức Phật Phất Sa, ban phát cho nhân dân các nước cúng dàng lễ lạy. Bởi công đức ấy đời đời được làm Đế Chúa trong cõi nhân thiên, sinh xứ nào thân thể cũng được đẹp đẽ tốt tươi, đủ ba mươi hai tướng tốt và tám mươi vẻ đẹp, đến nay thành Phật cũng do một trong công đức ấy; và sau khi vào Niết Bàn được quả báo tám vạn bốn ngàn tháp.

Tôi và tất cả mọi người nghe Phật nói xong, ai nấy đều vui vẻ phát tâm tu phúc cúng dàng, cúi đầu tạ lễ lui ra.

---o0o---

Phẩm thứ ba mươi sáu

BẢY LỌ VÀNG

 

CHÍNH tôi được nghe: Một thời đức Phật ở nước Xá Vệ, tại vườn Cấp Cô Độc, cây của Thái Tử Kỳ Đà.

Khóa an cư năm ấy, đức Phật cho các vị Tỳ Khưu được tùy ý đi các nơi kết tập.

Khi hết hạn, các vị đều về thăm Phật và nhận chịu lời dạy bảo của Ngài. Phật và các vị trong chín tuần xa cách, hôm nay về nơi Ngài đông đảo Ngài vui vẻ! Với lòng từ bi cất cánh tay ngàn vòng xoáy, xoa đầu các vị rồi hỏi:

- Các người ở xa, sự an cư có được yên không? Ăn uống có đầy đủ không? Ít bệnh ít não không?

- Dạ, lạy đức Thế Tôn! Nhờ công đức Thế Tôn, năm nay được an cư yên ổn! Mọi điều kiện đều được đầy đủ. Sự giáo hóa dễ dàng, chúng sinh vui vẻ!

Công đức của Phật như trời cao! Như biển cả! Khắp nhân gian thiên thượng ai bì kịp, hôm nay thấy Ngài tuy hỏi han các vị, nhưng có một vẻ khiêm kính, khác mọi lúc, chắc có một thâm ý gì khác, nên tôi tới trước quỳ thẳng chắp tay bạch rằng:

- Kính lạy đức Thế Tôn! Ngài xuất thế là một việc rất hiếm có, công đức và trí tuệ, rộng như hư không, lớn như pháp giới. Hôm nay Ngài hạ ý hỏi han các vị Tỳ Khưu một cách khiêm kính. Không rõ lời nói khiêm kính ấy là gần hay xa, cúi đầu chỉ bảo cho chúng con được rõ?

Phật dạy: - A Nan, muốn biết hãy để ý nghe, tôi sẽ vì ông mà nói!

- Dạ lạy đức Thế Tôn! Con xin chú ý nghe!

- A Nan, câu chuyện này từ đời quá khứ, đã lâu lắm, không thể tính được, cũng Châu Diêm Phù Đề này, có một nước lớn tên là Ba La Nại, có một người chăm làm giàu, được đồng nào chỉ mua vàng cất kỹ, không dám ăn uống may sắm dần dần được một lọ vàng đem chôn, cứ như thế chăm chỉ làm ăn cực khổ đã lâu năm không dám tiêu xài, và giúp đỡ cha mẹ anh em, sau được sáu lọ nữa cũng đem chôn giấu hết.

Qua thời gian chẳng may bị bệnh chết mất, vì tiếc vàng nên phải đọa làm thân con rắn độc, ở ngay nhà mình, để coi bảy lọ vàng. Trải qua lâu năm nhà ấy bị mục nát hư hỏng, con rắn ấy cũng chết: Bởi linh hồn rắn còn tham tiếc vàng, nên bị đọa làm thân rắn một lần nữa, chừng vài muôn năm, quanh quẩn coi giữ, trên đống đất chôn vàng; coi giữ mãi, thấy không có ích gì, sinh lòng chán ghét, thầm nghĩ như vầy:

- Ta vì tham tiếc vàng nên phải chịu thân thể xấu ác, vậy đem số vàng này cúng dàng, để cầu cho ta đời đời được nhiều phước tốt lành trên cõi nhân, thiên.

Nghĩ xong bò tới bên lề đường lẩn thân trong đám cỏ, chợt thấy một người đi qua, lớn tiếng gọi: Người ấy nghe tiếng gọi đứng lại nhìn xung quanh không thấy ai, lại bắt đầu đi, con rắn liền bò ra giữa đường gọi rằng:

- Này bác kia ơi! Bác lại gần đây tôi nhờ bác việc này!

Đáp: - Ngươi độc ác như vậy! Gọi ta làm chi, lại gần để hại ta hay sao?

- Phải, tôi ác như thế này, nếu không lại tôi sẽ tác hại đấy!

Người đó tuy sợ nhưng cũng phải đến gần.

Rắn nói: - Nhà tôi có lọ vàng, muốn nhờ bác đem đi cúng dàng cầu phước, bác có thể hộ tôi được không? Nếu không hộ, tôi sẽ cắn chết!

- Vâng, tôi xin giúp, không sao!

Rắn dẫn ông này về đống đất chôn vàng, bảo ông bới lên một lọ rồi nói rằng:

- Bác mang vàng này đến chùa cúng dàng, và lấy ra một ít, nhờ bác bán lấy tiền, mua gạo và các món ăn, hoa quả làm cơm chay cúng sư Tăng, định ngày nào cúng thì mang một cái gậy đến đây khiêng tôi đến chùa!

Người ấy mang vàng đến chùa đưa cho ông Tăng Duy Na, và nói lý do như trên cho ông nghe.

Ông Duy Na cười nói: - Rắn độc sao lại biết cúng dàng như vậy? Muốn cúng tôi sẽ định ngày cho!

- Thưa Ngài hôm nào ngài cho biết trước để sửa soạn?

- Ngày mười rằm tới, là ngày trai, cũng là ngày sám hối, cúng ngày đó công đức vô lượng!

- Dạ, xin phép Ngài tôi về để thu xếp công việc!

Tới ngày nói trên, ông mang một cái gậy đến, rắn thấy ông vui vẻ hỏi han? Rồi quấn mình vào cây gậy phủ cái chăn chiên lên trên cho người ta khỏi nhìn thấy, đi đường gặp người hỏi:

- Ông khiêng cái gì đẹp thế?

Ông lặng yên không trả lời, họ lại hỏi:

- Ông khiêng gì đẹp thế?

Họ hỏi đến ba lần, ông vẫn làm thinh không trả lời. Rằn thấy ông không trả lời, giận quá! Nghĩ như vầy:

- Anh này dở quá, người ta trịnh trọng hỏi đến ba lần, mà không nói, thực là ngu si quá!

Nghĩ như thế thì độc tâm lại càng bộc phát, định nhả độc phun chết ông. Xong lại thầm nghĩ:

- Người này vì ta làm phước, ơn đó chưa trả, vậy ta nên nhẫn đi.

Một lát đi tới chỗ đất không đồng vắng, rắn tự nói rằng:

- Bác để tôi xuống đây!

Vừa để xuống, rắn mắng rằng:

- Con người ta có mồm để nói để ăn, anh có mồm để làm gì? Mà người ta hỏi đến ba lần không nói? Anh ngu si quá!

Ông nghe rắn mắng, nhưng tâm không có giận, tự hối hận một vẻ khiêm tốn và xin lỗi. Rắn lại dặn rằng:

- Từ đây trở đi, anh không được thế nữa, ai hỏi phải nói đàng hoàng.

- Dạ từ nay tôi xin thọ giáo, không dám như trước nữa!

Khi đến chùa để rắn trước giảng đường, vừa đúng thời trai chư Tăng, ông đứng ở lối kinh hành.

Rắn sai ông dâng hương cúng sư Tăng; rắn nhìn ông dâng hương, bằng cặp mắt thành kính tín ngưỡng, không hề chớp. Khi Tăng chúng đi nhiễu quanh tháp. Rắn sai ông dâng nước, và giương đôi mắt cung kính quan sát!

Chư Tăng dùng cơm xong thuyết pháp cho nghe như sau:

- Bố thí cúng dàng được phước báu giàu sang, thân hình khỏe mạnh.

Giữ giới được sinh nhân, thiên, hưởng phúc tốt lành. Thấy Phật và sư Tăng hoan hỷ chiêm bái thì được thân tướng đoan nghiêm tươi đẹp. Keo sẻn tích trữ, không chịu bố thí, thì đọa làm loài quỷ đói. Tâm tham độc sân si, bị loài thú ác độc trùng, trăn, rắn.

Rắn nghe xong vui vẻ thưa rằng:

- Kính thưa Đại Đức! Mời Ngài đến chỗ con ở, hãy còn sáu lọ đem về chùa dâng lên Tam Bảo, làm lễ cầu nguyện, hướng phúc cho rắn, nhân sự cầu nguyện ấy và phước cúng dàng, rắn chết được lên cõi trời Đao Lợi.

Tới đây Phật thuật lại rằng:

- A Nan, ông nên biết: Người khiêng rắn ấy há phải ai đâu; chính là tiền thân của ta đấy! Rắn độc thuở đó; nay là ông Xá Lợi Phất.

Ngày ấy ta bị rắn mắng trách còn tự thẹn hổ, và sinh lòng khiêm hạ, kông những thế, ta đối với tất cả muôn loài, đều coi bình đẳng, cho đến nay không thoái chuyển.

Khi đó tôi và các vị Tỳ Khưu, nghe Phật nói xong, ai nấy đều kính phục, tâm bình đẳng khiêm nhượng của người, một lòng lễ kính, bái tạ lui ra.

---o0o---

Phẩm thứ ba mươi bảy

SAI MA

CHÍNH tôi được nghe: Một thời đức Phật ở nước La Duyệt Kỳ tại Tinh Xá rừng Trúc, với vô số đệ tử ở đó.

Bấy giờ có một người dòng Bà La Môn, nhà nghèo, tuy có chăm làm nhưng cũng không đủ ăn, đủ mặc, anh nghèo ấy hỏi người ta rằng:

- Ở thế gian làm những hạnh gì được phúc báu hiện tại?

Có người mách bảo rằng:

- Anh không biết ư? Hiện nay Đức Phật xuất thế độ sinh, làm lợi ích cho tất cả muôn loài. Ngài có bốn vị tôn đệ tử là: MA HA CA DIẾP, MỤC KIỀN LIÊN, XÁ LỢI PHẬT, A NA LUẬT. Bốn vị Hiền Sĩ này, hay thương những người nghèo đói, và tác phúc cho những chúng sinh đau khổ.

Nếu ai chí tâm tin kính cúng dàng những vị ấy, thì đời hiện tại này, muốn cầu gì cũng được toại nguyện.

Anh chàng Bà La Môn nghe mọi người đều nói như vậy, rất vui mừng! Tự đi làm thuê được món tiền nhỏ đem về mua sắm các món ăn, sửa soạn trai nghi trịnh trọng mời các vị Hiền Thánh Tăng đến nhà cúng dàng với lòng thành kính, thiết tha cầu phúc báu hiện tại. Vợ anh tên là Sai Ma (Tàu dịch: An Ôn).

Các vị tôn đệ tử tới nhà dùng cơm xong, thuyết pháp cho vợ chồng anh nghe như sau:

- Tội phúc, như bóng theo hình, như vang ứng tiếng, trồng nhân gì sẽ kết quả ấy. Muốn cho tội chướng tiêu trừ, phúc đức lớn lao, phải biết tôn kính ngôi Tam Bảo, thọ trì Tam Quy, Ngũ Giới; Bát Quan Trai giới, bố thí, cúng dàng, thì đời hiện tại, hay tương lai muốn cầu gì cũng được toại nguyện.

Vợ chồng cúi đầu lễ kính, xin thọ trì Tam Quy, Ngũ Giới và Bát Quan Trai giới, truyền giới xong các vị trở về Tinh Xá.

Bấy giờ vua Bình Sa vào rừng trở về, gặp một người phạm tội bị trói treo trên đầu cột dựng bên đường.

Người có tội ấy xin vua món ăn, nhà vua nhận lời cho, nhưng về thành quên mất, chợt nhớ ra thì trời đã tối; nhà vua sai người hầu hạ trong Hoàng cung mang cơm cho tội nhân, nhưng không ai dám đi, họ thưa với vua rằng:

- Tâu Bệ Hạ, giờ đã tối khuya, mãnh thú; ác quỷ rất nhiều, chúng tôi thà chết ở đây chứ không dám đi.

Nhà vua hết sức thương người đó đói khổ, sai người ra ngoài thành báo cáo rằng:

- Đêm nay nếu ai đem món ăn cho người có tội ở nơi mổ, thì nhà vua thưởng cho ngàn lạng vàng!

Không ai dám đi, Sai Ma thường nghe họ nói rằng:

- Nếu ai thọ phép Bát Quan Trai giới, thì ma quỷ, ác thú không dám làm hại!

Mạnh dạn với một lòng tin vững chắc, đến xin vua đi. Khi đi, nhà vua dặn: - Nếu được hoàn toàn trở về, ta sẽ cho ngàn lạng vàng.

Ra đi, Sai Ma chí thành, chí kính trì phép Bát Quan Trai, ra khỏi thành đã xa xa gặp một con quỷ La Sát tên là Lam Bà, vừa lúc ấy nó mới sinh được năm trăm quỷ con, đương lúc đói thấy Sai Ma muốn bắt ăn. Nhưng Sai Ma trì trai, quỷ trông thấy sợ hãi không dám ăn, quỷ hỏi Sai Ma rằng:

- Chị đi đâu? Có món ăn cho tôi một chút!

- Sai Ma trao cho một chút món ăn, tuy ít nhưng vì lực của quỷ nên cũng được no đủ.

Quỷ La Sát hỏi: - Chị tên chi?

- Tôi tên là Sai Ma!

Quỷ vui vẻ nói: - Hôm nay tôi sinh cháu được lành mạnh, cũng do phúc của chị, mà tôi được sống, lại được nghe danh hiệu tốt, nhà tôi có cái búa vàng, xin đền đáp ơn chị, lúc về qua đây, chị nhớ vào lấy.

- Dạ, chị có lòng tốt em xin nhớ lời dặn.

Quỷ lại hỏi: - Bây giờ chị đi đâu?

- Thưa chị, em mang thức ăn cho người có tội ở nơi mổ!

- Tôi có một em gái cũng ở gần đấy, tên là A Lam Bà, tôi gởi lời thăm và bảo cho biết: Tôi mới sanh được năm trăm cháu, thân thể lành mạnh.

Sai Ma đi tới chỗ quỷ A Lam Bà cũng nói như trên cho quỷ nghe.

A Lam Bà nghe xong vui vẻ hỏi:

- Chị tên chi?

- Em tên là Sai Ma!

Cô quỷ vui vẻ nói: - Chị tôi sinh được lành mạnh, tên cô cũng tốt lành lắm, nhà tôi có cái búa vàng, xin biếu cô, lúc về nhớ vào qua mà lấy.

- Dạ, quý hóa! Chị có lòng tốt tôi xin nhận!

Cô quỷ lại hỏi: - Bây giờ cô đi đâu?

- Thưa chị, theo lệnh nhà vua em mang món ăn, cho tội nhân nơi mổ!

Cô quỷ A Lam Bà nói: - Tôi cũng có một người em tên là Phân Na Kỳ ở gần đấy, tôi gởi lời hỏi thăm.

Sai Ma từ giã cô quỷ, đi đến chỗ quỷ Phân Na Kỳ, cũng đem lời hỏi thăm của hai bà chị nói cho nghe, và nói thêm bà chị cả sinh được năm trăm cháu đều vô sự. Được tin hai bà chị bình an rất vui vẻ và hỏi:

- Cô tên chi?

- Tôi tên là Sai Ma!

- Tên cô tốt lành, và được tin hai chị tôi mạnh khỏe, thực là quý hóa! Nhà tôi có cái búa vàng xin biếu cô, lúc về qua nhớ vào lấy.

- Quý hóa, có lòng cho, tôi xin nhận.

Sai Ma đi một lát tới nơi chỗ tội nhân, đưa món ăn và nói rằng:

- Nhà vua cho món ăn này, anh lấy mà dùng cho khỏi đói!

Anh vui mừng! Nhận cơm, và cảm tạ một cách rất tha thiết. Sai Ma trở về lấy ba cái búa vàng, và đến nhà vua lấy thưởng một ngàn lạng vàng.

Từ đó vợ chồng Sai Ma được giàu sang sung sướng, làm nhà cửa mua ruộng nương, nuôi đầy tớ, nhân dân đến làm thuê rất đông.

Vua Bình Sa thấy Sai Ma là người có đức, triệu vào cung cho làm quan đại thần, được lộc nước ơn vua, nhà lại giàu thêm, từ đó lòng tín kính Phật Pháp của Sai Ma càng tiến tới.

Một hôm Sai Ma sửa soạn trai nghi, mời Phật và Sư Tăng về nhà cúng dàng.

Khi Phật dùng cơm xong Ngài lên tòa thuyết pháp nói về phúc bố thí và phép trì giới, phép sinh thiên.

Sai Ma nghe xong tâm ý sáng tỏ, dắc quả Tu Đà Hoàn.

Bấy giờ tất cả mọi người dự cuộc thuyết pháp này, ai nấy đều hoan hỷ, phát tâm cúng dàng bố thí, giữ giới tu đức, cúi đầu lễ tạ mà lui.

---o0o---

Phẩm thứ ba mươi tám

CÁI SỰ

CHÍNH tôi được nghe: Một thời đức Phật ở nước La Duyệt Kỳ, tại tinh xá vườn Trúc. Lúc ấy tôi đương tọa thiền trong rừng tự nghĩ rằng:

- Đức Phật xuất thế thực là một điềm lạ lùng, độ người nhiều như vậy. Sự ăn uống đầy đủ, hơn nữa lại được hết khổ, tất cả vua, quan, dân chúng được lợi ích vô cùng tận. Vì sao? Vì Ngài vạch đường chỉ lối, cho thoát khỏi tam đồ ác đạo, đời vị lai được hưởng phúc báu trên cõi nhân thiên, hơn nữa lại được đạo Niết Bàn. Nghĩ thế rồi tôi đứng dậy về tinh xá. Khi đó đức Thế Tôn đương thuyết pháp cho đại chúng nghe. Tôi mặc áo chễ vai bên hữu, tới trước quỳ gối bên hữu xuống đất, chắp tay, chiêm ngưỡng rồi đem ý nghĩ trên bạch Phật.

Phật dạy: - A Nan! Ông nghĩ như thế phải đấy, Như Lai ra đời cũng rất lạ, vì tất cả chúng sinh được lợi ích lớn, và cũng không cứ gì ngày nay thế đâu, đời quá khứ ta cũng đã làm lợi ích cho nhiều.

- Kính lạy Ngài! Đời quá khứ Ngài làm lợi cho chúng sinh thế nào, cúi xin nói lại cho chúng con được biết?

- A Nan! Đời quá khứ tính số kiếp A Tăng Kỳ đã quá lâu, cũng Châu Diêm Phù Đề này, có bốn con sông, và hai ông vua nước lớn. Một ông tên là Ba La Đề Bà (Tàu dịch Phạm Thiên), ông này chiếm cứ ba con sông, nhân dân giàu thịnh, nhưng quân sự kém.

Một ông tên là Phạt Sà Kiện Đề (Tàu dịch: Kim Cương Tụ), ông này có một con sông, dân chúng ít, nhưng quân sự giỏi.

Vua Kim Cương Tụ thầm nghĩ như vầy:

- Quân ta hùng mạnh, có một con sông ít nước, vua Phạm Thiên quân lực kém, chiếm giữ ba con sông, phải sai người sang đòi lại một con sông, nếu trả thì ta chơi thân với, có của gì tốt ta sẽ biếu, nếu gặp sự nguy biến ta sẽ đem quân sang cứu; nếu không, ta sẽ mang quân đánh lấy lại!

Nghĩ thế rồi triệu các quan Đại Thần vào bàn việc nước. Sau cuộc hội nghị, nhà vua sai sứ mang thư sang cho vua Phạm Thiên, như trên đã định.

Vua Phạm Thiên xem thư xong, thần nghĩ như vầy:

- Giang sơn đất nước là của cha ta để lại, chớ không phải ta cướp đoạt của hắn mà hắn đòi.

Nghĩ xong bảo Sứ giả rằng:

- Giang sơn đất nước không phải tự ta mà có, đây là của cha ta truyền lại, vô cớ đem trả cho chúa nhà ngươi, cả một sự vô lý. Nếu chúa nhà ngươi dùng quân lực chiến đấu, thì ta đây cũng không hẹp gì!

Sứ giả về nước tâu vua như lời nói trên. Vua Kim Cương Tụ đem đại hùng binh sang đánh một trận. Quân vua Phạm Thiên thất trận chạy tán loạn! Thừa cơ, quân Kim Cương Tụ đuổi tới kinh thành, vây bốn mặt.

Quân vua Phạm Thiên sợ không dám ra chiến đấu, các quan thấy sự nguy ngập nên tâu rằng:

- Tâu Bệ Hạ! Quân họ mạnh, quân ta yếu. Bệ Hạ tiếc chi một con sông mà để di hại cho muôn dân, không chừng còn mất nước là đàng khác, cúi xin Bệ Hạ trả lại cho họ còn có tình nghĩa hơn.

Nhà vua đồng ý, sai người ra thưa với vua Kim Cương Tụ rằng:

- Tâu Bệ Hạ! Chúa công tôi xin chấp thuận lời yêu cầu trước của Bệ Hạ, để trả lại một con sông, và dâng vua thêm một người con gái. Từ đây trở đi nếu nước nào có vật gì quý thì tặng lẫn cho nhau, gặp lúc nguy hiểm thì sẽ bênh vực nhau!

Vua Kim Cương Tụ đồng ý rút quân, rồi đem người con gái ấy về làm vợ.

Qua một thời gian cô có thai, và luôn có một chiếc tán thất bảo che trên đầu, đi, đứng, nằm, ngồi thường như vậy. Mãn kỳ sinh được cậu con trai, thân sắc vàng, tóc xanh mướt, có bóng sáng lóng lánh nơi thân thể. Từ khi sinh cậu ra, thì cái tán ấy lại che trên đầu cậu.

Nhà vua với các thầy tướng vào xem, các thầy đều khen! Và tâu vua rằng:

- Tâu Bệ Hạ! Quý hóa lắm. Thái tử nhân tướng đầy đủ, đức lực viên mãn, trên đời có một không hai!

Nghe tướng sư nói, nhà Vua và Hoàng hậu rất vui mừng! Lại nhờ đặt tên cho Thái Tử.

Theo cổ truyền, đặt tên phải căn cứ vào hai việc:

1.      Điềm lành.

2.      Tinh tú.

Tướng sư tâu vua rằng:

- Tâu Bệ Hạ! Khi hoài thai có điềm gì lạ không?

- Trong khi hoài thai, có tán bằng thất bảo che trên đầu.

- Tâu Bệ Hạ! Cứ theo điềm này xin đặt là: Sái La Già Lợi (Tàu dịch: Cái Sự).

Thái tử đến tuổi trưởng thành thì vua chết, an táng cho vua xong, Thái tử lên nối ngôi, chấp chính được vài năm, thường đi chơi các miền quê để quan sát dân sự làm ăn.

Trời nắng như đốt, những người nông phu cởi trần trùng trục, với con trâu kéo cày, tiếng kêu "cót két", dưới bãi đất lầy một cách lao khổ, đọa đày thể xác.

Nhà vua hỏi tả hữu rằng: - Những người này làm gì khó nhọc thế?

- Tâu Bệ Hạ! Nước lấy dân làm gốc, dân lấy thóc làm mạng sống, nếu không làm lụng khó nhọc, thì không lấy gì bảo tồn được mạng sống của dân; dân nếu nghèo thì nước phải nguy vong!

Nhà vua nói: - Nếu phúc đức của tôi được làm vua, thì nhân dân không phải cấy cày, thóc lúa tự nhiên có đủ ăn dùng.

Nhà vua nguyện xong, thì tất cả trong nước nhà ai cũng có lúa thóc, tuỳ lòng ước muốn thứ lúa nào, thì có thứ lúa ấy, từ đó nhân dân không phải cày cấy, thức ăn tự nhiên có sẵn.

Thời gian sau, nhà vua đi ra lần thứ hai, thấy những người dân, đẵn củi, gánh nước, giã gạo mồ hôi nhễ nhại, coi rất khó nhọc. Nhà vua hỏi các quan rằng:

- Những người này làm gì mà lao khổ như thế?

- Tâu Bệ Hạ! Nhân dân mong ơn Bệ Hạ, được lúa thóc tự nhiên, không phải cày cấy. Nhưng phải xay giã, kiếm củi nấu chín mới ăn được; vì thế họ còn phải khó nhọc!

Nhà vua nói: - Nếu phúc đức tôi được làm vua, thì xin cho dân nước tôi, khi muốn thì các món ăn tự nhiên hiện ra trước mặt.

Nhà vua nói sao được vậy. Từ đó nhân dân đều được các món ăn tự nhiên chứ không phải làm.

Qua thời gian ấy vua lại đi chơi, thấy người kéo bông, se chỉ, dệt vải may áo, vua hỏi rằng:

- Những người này làm gì, coi vẻ khó nhọc như thế?

- Tâu Bệ Hạ! Nhân dân nhờ ơn đức hóa của Bệ Hạ, được món ăn tự nhiên, giờ đây họ dệt vải để may áo mặc.

Nhà vua nói: - Nếu phúc đức của tôi được làm vua, thì khiến cho những cây cối trong nước sinh ra các thứ áo!

Nói xong, tất cả cây cối trên mặt đất đều sinh ra các thứ áo xanh, vàng, đỏ, trắng, tuỳ theo ý muốn của từng người ưa thích.

Qua thời gian ấy vua lại đi chơi, thấy các người dân đua nhau làm các thứ âm nhạc, hỏi rằng:

- Những người này họ làm cái gì như vậy?

- Tâu Bệ Hạ! Nhân dân mong ơn Bệ Hạ, ăn mặc được đầy đủ, giờ đây họ làm các thứ âm nhạc, để ca hát vui chơi cho khoái chí!

Nhà vua nói: - Nếu phúc đức của tôi được làm vua, thì khiến cho các cây cối trên mặt đất, sinh ra các đồ âm nhạc, theo ý muốn của từng người ưa thích.

Nói xong, thì tất cả các cây trên mặt đất đều sinh ra các thứ nhạc khí.

Qua thời gian sau, các quan bản triều đến bái tạ! Nơi điện tiền nhà vua, khi tới bữa ăn, vua lưu lại dùng cơm. Hôm ấy các quân được thưởng thức các món ăn của nhà vua, nhận thấy ngon lành quá, nghĩa là chưa từng được ăn bao giờ, ăn vào thân thể khỏe mạnh sung sướng, họ đều tâu vua rằng:

- Tâu Bệ Hạ! Nhà Hạ Thần không bao giờ có các món ăn này, vừa ngon lành lại vừa khỏe mạnh, ăn vào thấy thân tâm an lạc.

- Nhà vua nói: - Các ông muốn thường được thức ăn như hôm nay, cứ theo đúng giờ ăn của tôi mà ăn, thì sẽ được các món ăn ngon lành.

Sau nhà vua sắc lệnh cho toàn quốc, khi tới giờ vua ăn, phải đánh trống báo cho nhân dân biết. Từ đó nhân dân hễ nghe tiếng trống báo, thì họ nghĩ đến việc ăn, cho nên toàn thể dân chúng trong nước, ai ai cũng được thức ăn ngon như nhà vua.

Khi đó vua Phạm Vương sai sứ sang nói với vua Cái Sự rằng:

- Tại thời cha ngươi, ta cho một con sông, bây giờ cha ngươi chết rồi thì trả lại cho ta!

Cái Sự bảo Sứ rằng:

- Bờ cõi giang sơn đây, cũng không phải ta áp bức của nhà ngươi mà lấy. Song ta làm vua không để mệt sức cho dân, nhưng đó là một việc nhỏ, hãy hoãn lại, sau đây ta với chúa của nhà ngươi được gặp nhau, để nói cái việc thiết yếu của giữa hai nước.

Sứ giả về tâu vua như lời nói trên. Phạm Vương đồng ý, định ngày để gặp.

Ngày hẹn đã tới, hai ông đều đem quân ra bờ sông giáp ranh giới, lên thuyền ra giữa sông để tương kiến.

Vua Phạm Thiên thấy vua Cái Sự thân sáng rực như núi vàng, tóc mượt như lưu ly, mắt sáng tợ sao ngôi, mồm tươi như hoa nở, mũi thẳng, mặt vuông, tai chùng, oai phong lẫm liệt, tự phát sinh lòng kính trọng, cho rằng: - Một ông Trời Đại Phạm, hai người gặp nhau bàn luận về việc đời nước sông!

Cái Sự nói: - Nhân dân nước tôi sự ăn dùng tự nhiên có, không phải tạo tác mệt nhọc, và cũng không phải thâu thuế phạt tiền, tôi không bao giờ bắt dân công làm việc cho nhà vua.

Đương đàm luận thì tới giờ ăn, quân gia của vua Cái Sự đánh trống. Vua Phạm Thiên run sợ! Cho rằng họ bắt mình để giết, liền đứng dậy tạ lỗi, chân tay lẩy bẩy.

Vua Cái Sự đứng lên đỡ ông ngồi xuống và nói rằng:

- Nhà vua làm sao sợ hãi như vậy? Đó là tới giờ ăn, quân đội của tôi đánh trống báo! Vì theo đúng giờ ăn của tôi, thì dân chúng sẽ được nhiều thức ăn ngon!

Vua Phạm Thiên chắp tay thưa rằng:

- Muôn xin Đại Vương thương đên quốc dân chúng tôi, cũng được các món ăn tự nhiên và từ nay chúng tôi xin hàng phục.

Từ đó vua Cái Sự cai trị tất cả nhân dân các nước Châu Diêm Phù Đề.

Sau ngày đăng vị ngồi trên bảo điện, quần liêu bách Quan đứng hầu túc trực suốt ngày đêm.

Buổi sớm ấy, khi mặt trời mới mọc, có xe Kim Luân bảo, bay từ phương Đông tới, vua Cái Sự từ trên tòa bước xuống, quỳ thẳng chắp tay hướng lên, lấy tay với, xe ấy dừng lại ngay, đẹp đẽ có quang minh chiếu ra bốn mặt.

Nhà vua nói rằng: - Nếu tôi được làm Chuyển Luân Vương, thì xin xe này ở lại đây!

Nói xong, xe Kim Luân ấy đứng trên hư không trước điện nhà Vua, cách đất bảy cây Đa La, rồi đó tượng bảo, thần châu, ngọc nữ, điển binh, điện tạng, lần lượt bay tới.

Vua Cái Sự từ đó được làm Chuyển Luân Vương, thất bảo đầy đủ, cai trị bốn thiên hạ, tất cả chúng sinh nhờ đức hóa an vui sung sướng. Theo chính sách của nhà Vua nhân dân tu theo mười điều lành:

1.      - Không sát sinh

2.      - Không trộm cướp

3.      - Không tà dâm

4.      - Không nói dối

5.      - Không nói lưỡi đôi chiều

6.      - Không nói ác

7.      - Không nói đơm đặt

8.      - Không tham lam

9.      - Không giận tức

10.  - Không si mê.

Sau khi mạng chung được sinh lên cõi Trời tất cả.

Nói tới đây, Phật nhắc lại rằng:

- A Nan! Ông nên biết: vua Cái Sự thuở đó, há phải là ai đâu, chính là tiền thân của ta đấy; vua Kim Cương Tụ là thân phụ ta ngày nay (vua Tịnh Phạn), và sinh ra vua Cái Sự, nay là mẫu thân ta (Ma Gia).

Bởi ta có từ tâm thương chúng sinh, thường cho của cải, cho đạo pháp, để dắt dẫn họ, vì nhân duyên ấy đến nay thành Phật, đặc tôn trong ba cõi, không ai sánh kịp. Cũng vì thế chúng sinh biết tu tập lòng từ bi rộng lớn, lợi ích vô biên.

Tôi lại thưa rằng: - Kính lạy đức Thế Tôn! Không hay đời quá khứ, vua Cái Sự làm Chuyện Luân Vương, tại nhân duyên gì mà được? Và khi nhập thai đã có tán thất bảo che theo, kính xin nói cho chúng con được rõ?

Phật dạy: - A Nan! Đời quá khứ cách nay đã lâu lắm, tính số kiếp A Tăng Kỳ có đến vô lượng, cũng Châu Diêm Phù Đề này, trong quả núi Tiên có vị Bích Chi Phật, mắc chứng bệnh phong, thầy thuốc nói phải dùng sữa bò mới khỏi.

Bấy giờ người lái buôn tên là A Lợi Gia Mật La (Tàu dịch: Thánh Hữu). Ngài Bích Chi Phật nói bệnh cho ông nghe và để ông cúng dàng sữa.

Ông lài buôn Thánh Hữu hoan hỷ cúng dàng. Ngài dùng được ba tháng thì khỏi bệnh. Cảm ơn ấy muốn cho thí chủ được ích lợi lớn nên Ngài bay lên hư không đi, đứng, nằm, ngồi, thân phun ra nước lửa, lúc hiện thân lớn đầy hư không, rồi thu nhỏ lại như chiếc lông mùa Thu; cứ như thế biến hiện ra mười tám lần.

Ông Thấnh Hữu thấy thế rất vui mừng! Và từ trên hư không hạ xuống để nạp thụ sự cúng dàng. Qua một thời gian ngài nhập Niết Bàn.

Ông Thánh Hữu thương nhớ, làm lễ hỏa thiêu cúng dàng, thu lấy Xá Lợi đựng vào bình vàng, và xây một bảo tháp, để bình vàng Xá Lợi vào trong, lại làm một cái tán che trên, hàng ngày đem hương hoa âm nhạc cúng dàng, suốt đời thờ phụng.

Nói tới đây Phật nhắc lại rằng:

- A Nan! Ông nên biết: ông Thánh Hữu do công đức cúng dàng vị Bích Chi Phật, nên được phúc báo vô lượng kiếp, sinhl lên cõi Trời hoặc cõi nhân gian, đều được tôn vinh sung sướng, khi ở thai có tán báu che trên. Ông nên biết: Thánh Hữu thuở đó chính là tiền thân ta đấy. Vậy tất cả chúng sinh bất luận xuất gia hay tại gia cũng nên tu phúc làm sự nhiệp, đời đời kiếp kiếp sẽ được lợi ích vô lượng vô biên như thế đó.

Bấy giờ tôi và mọi người trong cuộc thuyết pháp này, ai nấy đều vui sướng phát tâm tu phúc cúng dàng, cúi đầu tạ lễ lui ra.

---o0o---

Phẩm thứ ba mươi chín

ĐẠI THÍ TÁT BIỂN

CHÍNH tôi được nghe: Một thời đức Phật ở nước La Duyệt Kỳ, tại núi Linh Thứu, với các Tôn đệ tử, cùng một ngàn hai trăm năm mươi vị Tỷ Khưu ở đó. Khi ấy đức Thế Tôn muốn dùng một người Thị Giả.

Các vị Tôn đệ tử đều biết ý của Ngài như vậy. Khi đó ông Kiều Trần Như mặc áo trễ vai hữu, tới trước quỳ thẳng chắp tay bạch rằng.

- Kính lạy đức Thế Tôn! Con xin nguyện suốt đời làm Thị Giả hầu hạ Ngài, cúi xin từ bi hoan hỷ, chấp thuận cho con được ân triêm công đức!

Phật dạy: - Ông nay tuổi đã già yếu, việc hầu hạ không nỡ phiền ông!

Ông lễ tạ lui ra. Tiếp đến Ngài Ma Ha Ca Diếp, Ngài Xá Lợi Phất, Ngài Mục Kiền Liên, và năm trăm đệ tử lần lượt ra tác lễ cầu xin làm Thị Giả. Nhưng Phật không cho ai.

Khi đó, Ngài A Nan Luật xem biết ý Phật muốn dùng ông A Nan, và các bậc đại để tử cũng đều hiểu như thế.

Ngài Xá Lợi Phất và Ngài Mục Kiền Liên đứng dậy lại bên tôi nói sẽ rằng:

- Này ông A Nan! Ý Phật muốn dùng ông làm Thị Giả đấy! Riêng ông được diễm phúc hơn chúng tôi! Vậy ông mau mau đứng lên làm lễ bạch Phật xin thân thừa Ngài, để cho toàn thể Tăng chúng cũng được nhờ ông một phần lớn!

Tôi nghe lời hai Thượng Tọa nói rồi, chắp tay thưa rằng:

- Kính thưa hai Thượng Tọa! Thế Tôn đức rộng, tuệ sâu, tôi thân cận hầu hạ sợ sơ xuất phải tội, và chiêu họa thì sao?

Ngài Xá Lợi Phất nói:

- Chúng tôi xem biết đức Thế Tôn chú ý đến ông nhiều hơn, vì xét có thể kham năng được, nên Ngài muốn dùng ông làm Thị Giả!

Tôi thấy hai Thượng Tọa nói như vậy, chẳng biết làm thế nào! Tôi thưa rằng:

- Dạ! Nếu hai Thượng Tọa, thưa với Phật cho được ba điều nguyện này, thì tôi xin làm Thị Giả:

1.      - Áo cũ của đức Thế Tôn xin Ngài đừng cho tôi dùng.

2.      - Đức Thế Tôn ăn thừa xin chớ cho tôi ăn.

3.      - Thờit tiết tiến hiện (Chỉ), tùy tôi lo liệu, được như thế thì tôi xin làm.

Hai Thượng Tọa đem ý kiến của tôi lên bạch Phật, Phật bảo rằng:

- Ông A Nan sở dĩ không muốn mặc áo cũ của ta, là do lòng ông nghĩ xa, sợ các đệ tử sinh tâm hiềm khích. Vua quan nhân dân cúng Phật, những cái áo quý đẹp, cho rằng ông tham cầu mà làm Thị Giả. Hai là chuyện không ăn cơm của ta, là lo các đệ tử sinh lòng như vầy: Trong bát của Như Lai ăn thừa, trăm mùi ngon bổ, trên đời hiếm có, cho rằng ông tham cầu những món ấy mà thân cận Phật hay sao? Còn nguyện thứ ba, tự lo lượng thời tiết tiến hiện, là sợ các đệ tử, và các ngoại đạo lại nạn vấn, trong những thời giờ không hợp pháp, làm xúc não ta. Song làm Thị Giả, phải xem thời tiết mà dâng các món ăn cho thích hợp, để lợi ích thân thể Như Lai, mỗi mỗi việc đều phải có chế độ. Vì thế mà ông nguyện xin ba điều ấy. Nhưng cũng không cứ gì thời nay ông tự biết thời tiết mà xin thế đâu! Thời quá khứ ông đã hầu ta, và cũng khéo biết sự tiến hiện (Chỉ) như vậy:

Khi đó Ngài Xá Lợi Phất thưa rằng:

- Kính lạy đức Thế Tôn! Không hay đời quá khứ, ông A Nan hầu hạ Ngài, khép biết thời tiết, việc ấy thế nào xin nói cho chúng con được biết nguyên do?

Phật dạy: - Xá Lợi Phất! Ông muốn biết, hãy để ý nghe, ta sẽ nói cho ông hay!

- Dạ, lạy đức Thế Tôn! Con xin chú ý nghe!

- Xá Lợi Phất! Đời quá khứ cách đây tính theo số A Tăng Kỳ có đến vô lượng, thuở đó có một ông vua nước lớn cai trị tám vạn bốn ngàn nước nhỏ, tám mươi ức tụ lạc, tại Châu Diêm Phù Đề, vua ngự ở thành Bà Lâu Thi Xá. Trong thành ấy có một người Bà La Môn, có trí thông sáng, nhà vua tôn kính như một ông thầy, tám vạn bốn ngàn ông vua nước nhỏ đều mến mộ khâm phục, bốn phương hiến tặng, và thường sai Sứ sang thăm viếng, nói tóm lại cũng như bầy tôi thờ vua không khác. Nhà giàu ngang với nước, nhưng không có con để nối nghiệp nên lúc nào ông cũng buồn! Không biết nơi đâu có thể cầu nguyện được. Bấy giờ ông lên miếu thờ Phạm Thiên "Thiên Đế", Tứ Vương Ma Hê Thu La và tất cả chư Thiên khác, cầu đạo ròng rã mười hai năm, do sự cầu nguyện thành kính ấy, nên bà vợ lớn của ông có thai. Ông cho gọi người về xem trai hay gái; có một thiếu phụ đến xem nói: - Bà có mang con trai. Ông mừng thầm! Giao cho các cô con gái hầu hạ bà một cách chăm chỉ cẩn thận, không được làm trái ý.

Đủ tháng sinh được cậu con trai mình sắc vàng, tóc xanh mượt, trán cao, mũi thẳng, tai dày, mắt sáng, mồm tươi rộng, nhân tướng đầy đủ, ông vui mừng quá! Cho mời thầy về coi tướng.

Tướng Sư xem xong nói:

- Cậu đầy đủ phúc đức, thiên hạ chưa từng có, sau này có thể làm đến Quốc Sư!

Nghe Tướng Sư nói, ông rất hoan tâm, và nhờ đặt tên giùm. Lệ đặt tên bao giờ cũng y vào hai điều kiện:

1.      - Tinh tú.

2.      - Biến điềm lạ.

Tướng Sư hỏi: - Thưa ông! Trong khi bà có mang cậu bé này, thì có điềm gì lạ không?

- Thưa Ngài! Bà ác nghiệp lắm, ít lòng nhân, lại không chăm tu phước tuệ gì, từ khi có thai cháu, thì tâm tính cải đổi, thương xót kẻ nguy nạn, hay giúp đỡ kẻ nghèo đói, chăm bố thí, không tham lam tích cóp như xưa!

Tướng Sư hoan hỷ nói:

- Đó là trí lý của cậu con trai sử nhiên như vậy. Tôi xin đặt tên là Ma Ha Sà Ca Phàn (Tàu dịch: Đại Thí).

Sau khi lớn tuổi, ông bà quý lắm! Làm riêng cho một lâu đài chia làm ba cung, để tùy theo thời tiếc nóng lạnh của một năm: mùa đông ở cung ấm áp, mùa hạ ở cung mát, mùa xuân mùa thu ở cung giữa, sự nóng lạnh thuần hòa, cắt đặt những thiếu nữ hầu hạ, đêm ngày cho cậu vui chơi! Cậu có tính ham học, lại sẵn có trí thông minh, đọc thuộc mười tám bộ kinh của thế tục, học các kỹ thuật đều tinh xảo. Một hôm cậu thưa với ông rằng:

- Thưa cha! Con ở trong cung điện này đã lâu, xin cho con du ngoạn ngoài thôn quê, để xem dân chúng làm ăn.

- Ừ! Con đi chơi, cha cho con đi.

Ông sai người sửa sang đừơng sá, vảy nước thơm, dựng cờ treo phan đốt hương, một con voi trắng lớn, trên lưng đặt bành bằng thất bảo phủ vải gấm, teo chuông trang nghiêm cho cậu cỡi. Những người đi trước gảy các đồ âm nhạc, đánh trống thổi kèm; đi sau có hàng ngàn người cỡi voi cỡi ngựa theo cậu đi, trên một con đường lớn bằng phẳng, bầu trời mát mẻ, bóng tinh quang chiếu thành năm sắc, không khác một ông Chuyển Luân Vương giáng thế. Nhân dân nô nức ra xem, nhìn không chán mắt, ai nấy đều khen rằng:

- Thực là hiếm có, oai phong vòi vọi, lẫm liệt như một ông trời Phạm Thiên!

Một lát gặp bọn khất nhi, áo quần tả tơi, chân đi thất thểu, cầm cái bát vỡ kêu xin một chút món ăn, hoặc tiền. Đại Thí hỏi:

- Các ngươi tại sao mà khổ cực như vậy?

- Thưa cậu! Chúng tôi không có cha mẹ, anh em, vợ con, nghèo khổ không có chỗ nương thân!

Cũng có người nói rằng: - Chúng tôi mắc bệnh liên miên, không làm ăn gì được, hết lối sinh sống!

Cũng có người nói rằng: - Chúng tội gặp lúc cơ nguy, gia đình phá tán, nợ nần nhiều quá hết lối làm ăn, phải hành khất để nuôi thân trốn nợ!

Đại Thí nghe họ nói xong, trong lòng chua xót, than lòng mà bước đi! Đi được vài dặm, thấy lũ đồ tể mổ giết súc sinh.

Đại Thí hỏi: - Chao ôi, các ông làm gì thế?

- Thưa cậu! Tổ Phụ chúng tôi chỉ làm nghề sát sinh, để nuôi sống gia đình, nay nếu bỏ nghề này thì hết lối!

Đại Thí than thở rồi bước đi. Đi một quãng thấy các người cày ruộng: những sá cày lật đất, các con giun, con dế, con vi trùng chui lên, lại bị những con ếch, con chẫu bắt ăn; lại thấy những con rắn bắt ếch, bắt chẫu ăn, tiếng kêu thảm thiết; lại thấy giống chim khổng tước bắt rắn tha lên cành cây ăn.

Đại Thí hỏi: - Đây là họ làm gì?

- Thưa cậu! Họ cày ruộng để trồng lúa, đến mùa được thóc ăn và nộp thuế cho nhà Vua.

Đại Thí nghe xong, thương chúng sinh, than thở trong lòng mà đi. Đi một quãng thấy những người đi săn, giăng lưới, đặt cạm, giật bẫy, để bắt cầm thú, thấy chúng bị sa lưới, quằn mình quại thể, dãy dụa hết sức, gào kêu! Sợ hãi! Trông rất đau lòng.

Đại Thí hỏi: - Các ông làm gì đó?

- Thưa cậu! Chúng tôi chỉ chuyên nghề đi săn bắn, nếu không làm việc này, thì cũng không có nghề gì sinh sống!

Đại Thí nghe nói vừa thương, vừa ngậm ngùi! Rồi bước đi. Đi được một lúc thấy một con sông lớn, trên những chiếc thuyền lênh đênh, các anh thuyền chài, tung lưới kéo lên được rất nhiều cá, đổ lên bờ, con dãy, con ngáp, ngổn ngang.

Đại Thí hỏi: - Các ông làm gì thế?

- Thưa cậu! Từ cha ông chúng tôi, đến chúng tôi không có nghề gì khác, chỉ có nghề bắt cá để sinh sống.

Đại Thí nghe nói, để lòng thương! Và thầm nghĩ rằng:

- Tất cả người dân vì thiếu thốn áo mặc cơm ăn, nên tạo những ác nghiệp sát hại chúng sinh, sau chết đọa xuống Địa Ngục, Ngạ Quỉ, Bàng Sinh, từ chỗ mê tối lại sa vào chỗ mê tối hơn, thực đáng thương thay!

Tớiđây Đại Thí bảo với mọi người rằng:

- Thôi, các ông cho tôi về an nghỉ.

Vì thương đời lầm lạc, tạo áo nghiệp, nên Đại Thí không lúc nào được vui! Tìm cách để cứu tế chúng sinh khỏi sự đói thiếu về thể xác lẫn tinh thần, rồi lên thưa với cha rằng:

- Thưa cha, vừa rồi con đi về các miền thôn quê, thấy nhân dân vì sự ăn mặc, phải lao hình khổ trí sát hại muôn sinh để nuôi đời sống, lường gạt dối trá, lẫn nhau, tạo ác nghiệp ấy sau chết phải đọa vào ba đường ác, con rất thương họ! Vậy cho con một kho gạo để bố thí cho những kẻ nghèo đói.

- Tùy ý, của cha là của con, ý con muốn bố thí thì cha cũng vui lòng!

Được cha đồng ý, Đại Thí bá cáo cho nhân dân rằng:

- Tất cả nhân dân, ai thiếu thốn về cơm ăn áo mặc, tiền xài; xin lại nhà lấy, tùy theo ý muốn, tôi sẽ cấp giúp đầy đủ!

Quốc dân hay tin ông Đại Thí mở cuộc bố thí, tất cả những người nghèo khổ, bệnh tật, cô cùng, kéo nhau đến đông như hội; cũng có người ở xa từ trăm dặm, người hai, ba trăm ngàn dặm tới, có người từ ba ngàn, năm ngàn dặm tới; kẻ mạnh cõng người yếu, kẻ sáng dắt người mù, muốn cơm được cơm, muốn áo được áo, tất cả ai muốn gì cũng được toại ý.

Bố thí trong một thời gian, các kho ba phần đã hết một, người coi kho đến thưa với ông chủ rằng:

- Thưa ông, cậu Đại Thí ban phát cho dân các kho tàng ba phần đã hết một. Vua quan khách khứa đi lại còn đâu mà thết đãi! Ông nghĩ kỹ, kẻo hết rồi lại trách tôi không thưa trước!

Ông nghĩ như vầy: - Thà để kho không, chứ không làm trái ý con ta!

Bố thí trong một thời gian nữa thì ba phần đã hết hai. Người coi kho lại lên thưa với ông rằng:

- Thưa ông chủ! Kho tàng ba phần đã hết hai, nếu ông không đình chỉ việc bố thí lại, thì không còn cái gì mà ăn dùng nữa!

Ông nói: - Ta nặng tình yêu con quí của ta, nên không muốn làm trái ý. Vậy anh có phương tiện gì, giả thác ra một cách khác, nếu kẻ lại xin làm cho họ ít đến nữa may ra còn chút nào để dùng chăng!

Anh coi kho được ông cho phép, đóng luôn cửa lại rồi đi nơi khác.

Vì kho đóng nên những người xin đều đến chỗ cậu Đại Thí; cậu dẫn họ đến kho, thì anh coi kho đi vắng. Cậu sai người tìm mãi mới thấy, anh về mở kho cho, nhưng cũng không cho được bao nhiêu.

Đại Thí thầm nghĩ như vầy:

- Việc đình chỉ bố thí không phải kẻ giữ kho dám tự quyền, chắc là thừa lệnh của cha ta. Song phép làm con cũng không nên làm khánh kiệt kho tàng của cha mẹ, vả trong kho bây giờ cũng không còn được bao nhiêu nữa. Vậy ta phải làm thế nào, có tiền của cấp tế cho nhân dân, được no nê sung sướng! Mới mãn bổn nguyện bố thí của ta.

Khi đó Đại Thí hỏi mọi người rằng:

- Ở thế gian này, làm nghề nghiệp gì được nhiều tiền của?

Cáo người mách rằng:

- Thưa cậu! Bây giờ chỉ trồng cấy năm giống thóc thì được nhiều của.

Có người nói rằng:

- Nuôi thú vật bán có thể được nhiều tiền.

Cũng có người nói:

- Nếu không sợ tai nạn nguy hiểm, đi xa buôn bán có thể được nhiều tiền của.

Lại có người giới thiệu rằng:

- Thưa cậu! Mọi kế nói trên đều không kết quả được bao nhiêu, muốn cho tất cả chúng sinh trên cõi Diêm Phù Đề, được đầy đủ cơm áo mặc, chỉ vào biển tìm châu bảo là một diệu kế hơn hết!

Đại Thí nói: - Trồng cây, nuôi thú, đi xa buôn bán, không được lợi mấy, có lẽ vào biển tìm ngọc châu là một diệu kế hơn. Vậy tôi quyết định đi tìm ngọc châu.

Nói xong lên thưa với cha mẹ rằng:

- Thưa cha mẹ! Con xin ra biển tìm ngọc châu về cấp tế cho dân, xin cha mẹ vui lòng?

Ông bà lo quá, nói rằng:

- Con ơi! Những người ra biển là những người nghèo khổ vô kế sinh sống, không hòng đời sống của mình. Con nghèo khổ chi mà vào biển? Để cha mẹ lo sợ thân mạng của con! Muốn bố thí, thì trong kho còn bao nhiêu con cứ việc bố thí. Đi biển có nhiều tai nạn, sóng to, gió lớn, Cá Ma Kiệt, Rồng Độc, Quỷ La Sát, núi, nước khó mà qua nổi! Con đem thân vào chỗ tai nạn ấy làm chi? Không thể đi được đâu, thôi đừng giở hơi nữa.

Đại Thí buồn quá! Tự nghĩ như vầy:

- Ta muốn gây một đại nghiệp cho tương lai, mà tham tiếc thân sống thì sao thành?

Nghĩ xong, phục mình xuống trước cha mẹ mà thưa rằng:

- Kính lạy Song thân! Nếu Song thân ngăn chí nguyện của con, không cho con đi biển tìm ngọc châu để cứu dân, thì con nằm ở đây không đứng lên nữa!

Ông bà nghe câu nói ấy, tâm can não nhiệt như lửa đốt! Cùng với mọi người khuyên bảo rằng:

- Đương biển xa xôi nhiều hiểm trở, đi nhiều về ít, con nên nghĩ đến cha mẹ cầu đảo thành kính, trong mười hai năm ở miếu thần tiên mới có con ngày nay. Bây giờ lớn khôn lại bỏ cha mẹ đi thì không nên! Dậy đi con, ăn uống để cha mẹ vui lòng!

Cậu một lòng thưa rằng:

- Cha mẹ cho con đi thì con dậy, không thì con không dậy!

Cậu nằm mãi đến sáu ngày không ăn uống, ông bà luôn luôn khuyên bảo, dỗ dành, nhưng cậu quyết định không dậy, chịu nhịn đói.

Ông bà lo sợ quá! Bàn với nhau rằng:

- Con ta trước sau khăng khăng một mực không hề thoái tâm. Thôi, ta cũng nhắm mắt cho đi, còn mong có ngày về, nếu nằm quá bảy ngày chết lại đây, thực là vô ích.

Bàn xong, ông bà đến đỡ cậu dậy, và nói rằng:

- Thôi, con dậy ăn cơm, rồi cha mẹ cho con đi.

Đại Thí mừng quá! Đứng dậy đi ăn cơm, ăn xong, viết bảng cáo thị rằng:

- Tôi đi ra biển tìm ngọc châu, ai muốn đi thì cùng đi, tôi xin cung cấp đầy đủ hành lý.

Bấy giờ có năm trăm người đồng ý theo cậu. Giữa hôm lên đường ra đi, cha mẹ, vua, quan, dân chúng, số ngàn muôn người đưa chân đem tặng lương thực và tiền bạc để ăn đường. Cuộc tiễn đưa này, rất vui vẻ! Mọi người đều cầu chúc: "Cậu đi được bình an mau trở về".

Đi chừng vài ngày, tới một bãi cát rộng mênh mông, mọi người đều lên đó nghỉ, không may gặp bọn cướp đông quá, biết sức không chống nổi, nên Đại Thí đem tiền của lương thực cho họ hết rồi lại bắt đầu đi, đi tới một cái thành, gọi là thành Phóng Bát. Thành này có ông Trưởng Giả tên là Ca Tỳ Lệ dòng Bà La Môn, ông có cô con gái, mình sắc vàng, tóc xanh như ngọc lưu ly, xinh đẹp nhất thời, tám vạn bốn ngàn vương tử, ở các nước đến hỏi cô không ưng.

Đại Thí định đến vay tiền, đứng ngoài gõ cửa, cô thấy người gọi chạy ra, nhìn cậu, tự nhiên cảm động, vui mừng; vào nhà thưa với cha rằng:

- Thưa cha! Bên ngoài có người gõ cửa gọi, người đó chính là chồng con đấy!

Ông Ca Tỳ Lê mở cửa bước ra, thấy cậu tướng mạo oai nghi phi thường, mừng thầm hỏi rằng:

- Cậu tới đây có việc chi?

- Thưa Trưởng giả! Tôi vì lòng thương dân đói khát, đi ra biển tìm ngọc châu về phân cấp cho họ, không may đi nữa đường gặp bọn cướp lấy hết lương thực, muốn phiền Trưởng Giả cho vay ba ngàn lạng vàng, lúc trở về xin trả!

Ông vui vẻ nói:

- Mời cậu vào chơi, không khó, tôi xin cho cậu mượn ba ngàn hoặc mười ngàn, nhà tôi cũng sẵn.

Ông vào kho lấy vàng, dắt con gái đi theo, vừa cười vừa nói:

- Tôi xin tặng số vàng này cho cậu; đây là con gái tôi, nhiều Vương Tử đến hỏi nhưng tôi không gả. Hôm nay gặp cậu tôi rất vui lòng! Con gái tôi nó đồng ý kết duyên với cậu. Vậy cậu có nhận lời nói đây? Xin cho biết.

- Dạ! Thưa Trưởng Giả, hiện nay tôi đi ra biển, tai nạn nguy hiểm nhiều, có ngày đi không biết có ngày về, giờ nhận lời với ông, một ngày gần đây bị tai nạn, băng mình trong biển cả! Sai lời hẹn thì làm thế nào?

- Không sao! Nếu cậu được tốt lành trở về, thì xin nhận lời hứa!

Ông vui vẻ đưa cho cậu ba ngàn lạng vàng, và rất nhiều các thực phẩm khác. Cậu cảm ơn ông, rồi từ biệt lên đường đi.

Đưa vàng về, cậu bảo các người theo, đi mua thuyền tốt, dày bảy lần ván, để chống đỡ với sóng gió.

Mua thuyền xong, cột bằng bảy cái dây.

Đại Thí lắc chuông, lớn tiếng nói:

- Các bạn lắng tai nghe! Chú ý! Chú ý, đi biển nhiều nguy hiểm, nào hắc phong, quỷ La Sát, ác phong, độc khí, thuỷ hắc, núi đá, cá Ma Kiệt, tai nạn rất nhiều. Các bạn đi cùng tôi! Tới đây, ai muốn về, thì ở lại, kẻo đến khi gặp tai nạn, lúc ấy dầu có hối cũng không được; còn ai vững lòng bền chí, không tiếc thân mạng, vợ con, anh em, cha mẹ thì đi. Trái lại, nếu được an toàn trở về, tiền của con cháu bảy đời ăn không hết.

Nói xong, cắt một dây; cứ như thế, mỗi ngày tuyên bố một lần, lại cắt một dây; bảy ngày cắt hết bảy dây, thuyền bắt đầu đi, trương buồm thuận gió, thuyền chạy như bay.

Qua một thời gian khá lâu, mới đến chỗ có nhiều ngọc châu và vàng bạc.

Đại Thí là người tinh anh, học rộng, biết rành các thứ ngọc châu: thứ nặng, thứ nhẹ, hạng quý, hạng thường, hình sắc tốt hay xấu, để chỉ bảo cho mọi người lấy, và dặn lấy vừa phải đừng tham, sợ nặng bị đắm thuyền; nếu lấy ít thì không bõ công đi.

Anh em chăm chú lấy xong, khi sắp ra về, Đại Thí không muốn lên thuyền, anh em hỏi:

- Thưa cậu! Các thứ ngọc châu, bảo vật, chúng tôi lấy cho xuống thuyền đã đầy đủ, mời cậu lên thuyền đi về!

- Các bạn hãy về trước! Giờ đây tôi muốn đến điện vua Long Vương, để xin ngọc Như Ý, thì có thể bố thí cho chúng sinh toàn cõi Diêm Phù Đề được. Tôi cương quyết đi, nếu không xin được tôi quyết không về!

- Thưa cậu! Chúng tôi nhờ sự mạo hiểm và cương quyết của cậu mà ra tới đây, lấy được nhiều bảo vật, châu ngọc, mong được hoàn toàn trở về, bây giờ cậu lại bỏ rơi lũ chúng tôi mà đi một mình, chúng tôi rất không bằng lòng! Yêu cầu cậu trở về cùng chúng tôi.

- Thôi, các bạn cứ an tâm, tôi sẽ cầu nguyện cho các bạn được an lành trở về nước nhà, sung sướng cùng cha mẹ vợ con, riêng tôi các bạn không lo!

Toàn thể anh em ai cũng buồn! Họ đều chắp tay, cầu chúc cậu đi được tốt lành, và xin giã biệt trở về.

Buồm đã trương, những chiếc thuyền từ từ quay mũi. Anh em đứng trên thuyền nhìn cậu mà rớt nước mắt!

Thuyền đã chạy xa xa, bóng mờ mờ ngoài biển. Đại Thí dâng hương lễ mười phương chư Phật lập thề rằng:

- Kính lạy thập phương Đại Giác từ bi chứng giám! Con không quản đường xa dặm thẳm, nguy hiểm khó khăn, vào biển tìm châu để cứu tế quần sinh, qua khỏi nạn đói khát, khốn khổ! Nguyện đem công đức này, cầu thành Phật, xin dốc một lòng thành kính, cho lời thề nguyện của con được thành tựu, và những người này được an lành, về không gặp các tai nạn.

Đại Thí ra đi ngày thứ nhất, nước ngập đến đầu gối; đi trong bảy ngày nước sâu đến tận mông; đi bảy ngày nước đến ngang lưng; bảy ngày nữa nước ngập tới cổ; bơi bảy ngày nữa tới một quả núi. Đại Thí bẻ hai cành cây làm gậy chống, để leo núi; leo bảy ngày tới ngọn, đi bảy ngày trên đỉnh núi ấy, rồi lại trở xuống; suốt bảy ngày đến chân núi, tới một ven nước, dưới nước có hoa sen sắc vàng, lại có các con rắn độc nằm trên hoa, hoặc trên ngó.

Đại Thí thấy vậy, ngồi kết vòng tròn ngay ngắn, hệ tâm nhiếp niệm, nhập phép quán từ bi tam muội. Nghĩ tới những con rắn này, do kiếp trước tạo nghiệp sân nộ ghét ghen, nên đọa sinh ở nơi đây, chịu thân hình độc ác xấu xa. Bởi lòng từ bi của Đại Thí giao cảm, nên những con rắn đó, được hết nọc đọc.

Đại Thí đứng dậy đi trên những bông hoa ấy suốt bảy ngày thoát nạn rắn độc, nhìn trước mặt xa xa, thấy những con quỷ La Sát, vì chúng ngửi thấy hơi người mà tìm lại. Thấy thế, Đại Thí nhiếp tâm niệm nhập phép Từ Bi quán; nhờ phép quán ấy, nên các con quỷ tự phát tâm cung kính, vui vẻ tới gần hỏi:

- Bồ tát ở đâu tới đây?

- Thưa Ngài, tôi đi tìm ngọc Như Ý!

Quỷ vui vẻ, nghĩ như vầy:

- Người này có phúc đức đi đến chỗ vua Long Vương, nhưng hãy còn xa, làm sao đi nổi? Vậy chúng ta hãy đưa giúp, qua chỗ nguy hiểm này.

Nghĩ rồi, chúng dùng lực thần của quỷ, đưa Đại Thí qua bốn trăm do tuần, rồi trở về.

Tới đây, Đại Thí ngắm thẳng đường đi, thấy một cái thành lớn bằng bạc, sáng quắc như mặt trời. Đại Thí biết đích thành này của Long Vương, vui vẻ đi thẳng vào, thấy bên ngoài thành có bảy lần hào nhiễu quanh, trong hào thuần rắn độc coi rất ghê sợ!

Đại Thí tự nghĩ: - Những con rắn này lúc tiền sinh, ác tâm nộ hại nhiều, nên nay phải đọa làm rắn, chịu thân hình cực ác.

Đem lòng từ bi thương xót, thì các con rắn ấy tự nhiên lẩn mất. Đại Thí đi thẳng vào thành. Ở cổng thành thấy có hai con rồn cuộn khúc, hai đầu giao nhau, dáng như cánh cửa. Thấy Đại Thí vào, chúng ngóc đầu nhìn. Đại Thí nhập Từ Bi quán; Rồng cúi đầu không dám ngó nữa. Đại Thí bước lên đầu Rồng đi vào.

Giữa lúc vua Long Vương đương ngồi ở điện Thất Bảo, nhìn thấy có người vào lấy làm ngạc nhiên, thầm nghĩ:

- Thành của ta có bảy lần hào lũy, trong hào có rất nhiều Rắn độc, ngoài ra lại còn có các loài độc Long, Quỷ Dạ Xoa; người này làm sao vào được? Chắc họ có đức lớn!

Vua Long Vương phát khởi lòng cung kính, đón chào hỏi han, mời ngồi giường thất bảo, đem các món ăn ngon ra thết đãi. Ăn xong, vua Long Vương hỏi rằng:

- Ngài tới đây có chuyện gì cần thiết không?

- Thưa Long Vương! Nhân dân trên cõi Diêm Phù Đề, nghèo đói đau khổ! Do cơm ăn, áo mặc mà tạo các nghiệp ác, như: sát sanh, trộm cắp, nói dối, lừa bịp lẫn nhau, bởi thế chết đọa vào ba ngả ác. Tôi vì lòng thương! Muốn cứu chúng sinh, nên không quản đường xa dặm thẳm tới đây yết kiến Đại Vương để xin viên ngọc Như Ý về cứu giúp dân chúng, mong Đại Vương mở lượng từ bi bố thí cho!

- Dạ, ngọc Như Ý là một vật quý nhất, Ngài tới đây cũng là một công phu mạo hiểm quên thân; tôi đâu dám từ chối, nhưng xin Ngài lưu tâm ở lại đây một tháng; nhận chút cúng dàng mọn của tôi, và thuyết Pháp cho tôi nghe, thì tôi xin biếu Ngài!

- Dạ, quý hóa! Đại Vương có lòng cố lưu, và muốn nghe thuyết Pháp, tôi xin ở nán lại, không dám từ chối.

Vua Long Vương ngày ngày cúng dàng rất trịnh trọng, dâng đủ các món ngoan lạ dưới Long cung. Trong giờ ăn, các nhạc sĩ, vũ nữ, múa hát cúng dàng, gảy những cung đàn rất tuyệt! Ca những bài hát cực hay!

Đại Thí dùng biện tài vô ngại, giảng thuyết pháp Tứ Niệm Xứ cho Vua nghe. Hết một tháng, từ biệt lên đường. Vua Long Vương lấy ngọc Như Ý trong búi tóc ra tặng, và nói rằng:

- Đại Thí có lòng từ bi rộng lớn, tâm chí mãnh liệt, quyết định thành Phật. Sau khi Ngài được thành Phật. Tôi xin làm một để tử trí tuệ!

- Quý hóa! Thưa Long Vương, ngọc này có năng lực thế nào?

- Dạ! Thưa Đại Thí, ngọc này có năng lực làm mưa trong hai ngàn do tuần vuông bốn mặt; nước mưa ấy hóa ra những món chúng sinh cần dùng trong đời sống.

Đại Thí hoan hỷ đỡ lấy ngọc, rồi thầm nghĩ:

- Hạt ngọc này tuy quý thực, nhưng chỉ có hạn định, chưa cứu tế cho chúng sinh được nhiều, như ý nguyện của ta đã định.

Vua Long Vương và quần thần, đưa chân ra ngoài cổng thành; Đại Thí từ tạ bước lên đường. Đi được ít lâu, tới một cái thành, thuần bằng lưu ly xanh, ngoài thành có bảy lần hào vây xung quanh, trong hào có rất nhiều rắn độc.

Đại Thí thầm nghĩ như vầy:

- Những con rắn này, lúc tiền sinh tạo nhiều sân si tật đố, nên phải chịu thân hình xấu ác như vậy.

Nghĩ xong, ngồi ngay nghiêm nhập phép Từ Bi Quán, vì thương chúng đau khổ. Lòng từ bi lan cảm, làm cho bạt hết tâm độc của chúng.

Đại Thí đứng dậy, bước lên đầu những con rắn ấy, đi thẳng vào cổng thành; thấy hai con rồng, mình cuộn quanh thành, hai đầu giao nhau ở trước cửa, cũng như cách canh gác. Rồng thấy người, ngóc đầu, nháo mắt, nhìn một cách ác liệt.

Đại Thí liền nhập quán Đại Bi; Từ Tâm thông cảm. Rồng gục đầu, biểu lộ một vẻ hiền lành. Đại Thí tiến bước vào trong.

Vua Long Vương đương ngồi ở điện Thất Bảo, nhìn thấy có người vào, thầm nghĩ như vầy:

- Quái sao? Ngài thành có bảy lần hào, nào những Rắn độc, Rồng độc, quỷ Dạ Xoa, khó đi như thế, mà người này vào đây được? Chắc họ có đức lớn, không phải người thường!

Nghĩ xong, đứng lên ra đón chào hỏi han, rất kính cẩn, mời lên bảo điện ngồi tòa thất bảo, đem các món ngon quý ra thết đãi. Ăn xong, niềm nở nói chuyện, và hỏi:

Ngài ở đâu đến đây, có chuyện gì cần thiết không?

- Thưa Đại Vương! Tôi ở Châu Diêm Phù Đề, xuống đây để xin ngài hạt ngọc Như Ý!

- Thưa Ngài, ngọc Như Ý hiếm có lắm! Nếu Ngài muốn dùng xin ở lại đây hai tháng, giảng thuyết hạnh Bồ Tát và nhậm chút cúng dàng của chúng tôi.

- Dạ, quý hóa! Nếu Đại Vương có tâm mến mộ vô thượng Pháp Bảo của chư Phật, việc đó tôi xin thành kính, giảng giải.

Vua Long Vương sai bày tòa cao, mỗi ngày hai thời thỉnh thuyết Pháp, và sửa trai nghi cúng dàng rất trịnh trọng.

Đại Thí dùng vô ngại biện tài, phân biệt nói về "Tứ Thần Túc", hết hai tháng từ biệt ra về.

Vua Long Vương lấy ngọc Như Ý ra tặng và phát nguyện rằng:

- Đại Thí Từ Tâm phổ tế quần sinh, quảng đại vô biên, quyết được thành Phật, khi đó tôi nguyện làm một thần túc đệ tử.

- Dạ, hay lắm! Đại Vương nguyện như vậy, sẽ được thành tựu! Còn viên ngọc này có năng lực thế nào?

- Thưa Đại Thí! Viên ngọc này có năng lực làm mưa tất cả các món ăn dùng của chúng sinh, quy vuông bốn ngàn do tuần?

Đại Thí hoan hỷ, nhận lấy viên ngọc, rồi tự nghĩ rằng:

- Hòn ngọc này tuy cũng khá nhưng chưa xứng ý của ta đã định!

Vua Long Vương và quần thần tiễn chân ra ngoài cổng thành, chờ đi xa mới trở về.

Đại Thí đi chưa được bao lâu, thấy một cái thành bằng vàng, rất mỹ quan, sáng rực một trăm dặm, tới gần thấy bảy lần hào vây quanh, trong hào có rất nhiều rắn độc. Đại Thí thầm nghĩ:

- Những con rắn này, do đời trước đây tâm ác độc, ghen ghét nộ hại, nên phải chịu thân độc ác như vậy!

Nghĩ xong nhập Từ Tâm ái niệm, đánh bạt ác tâm rắn độc, chúng nằm rạp xuống, Đại Thí bước lên trên mà đi, tới cổng, thấy hai con Rồng cuộn khúc quanh thành hai đầu giao nhau, gác hai bên cổng, thấy người, chúng ngóc cổ trố mắt nhìn một các ác nghiệt.

Đại Thí liền nhập quán Từ Bi; Rồng cúi đầu, Ngài bước vào trong cổng.

Lúc đó vua Long Vương đương ngồi ở bảo điện thấy người vào, ngạc nhiên, thầm nghĩ:

- Ngoài thành có bảy lần hào vây quanh, nào Rắn độc, Rồng độc, quỷ Dạ Xoa, khó khăn như thế mà sao người này vào được? Chắc họ có đức lớn!

Nghĩ thế rồi khởi lòng tôn trọng kính cẩn, bước ra đón tiếp hỏi han, rồi mời Ngài vào điện, ngồi tòa thất bảo, đem các món ăn ngon quý dưới Long Cung thết đãi rất trịnh trọng. Ăn xong vua hỏi:

- Ngài ở đâu tới đây? Và có cần dùng việc gì không?

- Dạ, thưa Đại Vương! Chúng sinh trên cõi Diêm Phù Đề bạc đức cùng khổ; làm ăn lao lực, đến nỗi sát hại lẫn nhau, cũng chỉ vì miếng cơm manh áo, hoàn toàn làm mười điều ác, sau khi chết đọa vào ba đường sá xa xôi, bao lần nguy hiểm! Nghe biết Đại Vương có hạt ngọc Như Ý, có thể làm cho chúng sinh hết đau khổ, vì thế tới đây xin Ngài, để cứu tế cho nhân dân.

- Dạ, thưa Đại Thí! Ngọc Như Ý là một vật quý nhất dưới Hải Tạng, nếu Ngài muốn dùng xin ở lại đây bốn tháng nhận chút cúng dàng, và giảng giải cho chúng tôi được biết đạo lý.

- Dạ, như vậy hay lắm! Nếu Đại Vương muốn nghe giảng thuyết về Chánh Pháp của Như Lai, tôi xin thành thực cúng dàng Vô Thượng Pháp Bảo!

Vua Long Vương hoan hỷ! Ngày ngày dâng cúng các món ăn ngon quý dưới Long cung, lại bắt các nhạc sĩ mỗi ngày hai thời tấu nhạc cúng dàng.

Đại Thí dùng biện tài vô ngại giảng thuyết chân lý cao siêu.

Nhà vua chăm chỉ nghe pháp, chiều sớm ban hôm không để mất thời tiết. Các hàng Long và quỷ Dạ Xoa, đến xin hầu hạ, lúc tiến, khi lui, tự đặt ra thời giờ phụng sự, trong bốn tháng rất nghiêm kính và hợp phép tắc.

Hết kỳ bốn tháng từ giã ra về. Vua Long Vương cởi búi tóc lấy hạt ngọc Như Ý cúng dàng và thề nguyện rằng:

- Đại Thí hoằng thệ vô biên, Từ Tâm cao cả! Vì thương quần sinh, không quản khó nhọc, sau này quyết được thành Phật, tôi nguyện làm Thị Giả một đệ tử tổng trì!

- Quý hóa! Đại nguyện của Ngài sẽ được thành tựu mau chóng, còn năng lực của hòn ngọc này như thế nào?

- Dạ, thưa Đại Thí! Hạt ngọc này có năng lực, mưa thất bảo xuống tám ngàn do tuần quy vuông bốn mặt.

Đại Thí hoan hỷ nhận ngọc rồi tự nghĩ rằng:

- Đất Diêm Phù Đề này rộng bảy ngàn do tuần, công năng hạt ngọc này tám ngàn do tuần, như vậy mới đạt được nguyện vọng của ta!

Tất cả ba hạt ngọc đem gói vào góc vạt áo. Cảm tạ Long Vương lên đường. Vua và quần thần đưa chân ra khỏi cổng thành.

Đại Thí đi khỏi thành xa xa, để hạt ngọc trên bàn tay khấn rằng:

- Nếu thực hạt ngọc Như Ý, xin cho tôi bay được lên hư không!

Khấn xong, rướn mình bay lên hư không tựa như chim cắt. Một lát bay qua biển, tới bãi, xuống nghỉ.

Tới đây, Đại Thí nằm ngủ trên bải cát; bãi này có mấy con Rồng biết rằng Đại Thí đi xin ngọc của vua Long Vương về, chúng khởi tâm tham; thừa cơ Đại Thí ngủ cởi trộm, lặn xuống bể mất.

Đại Thí thấy động, mở choàng mắt ra, nhìn không thấy người, mất ba viên ngọc, nghĩ như vầy:

- Ở đây làm gì có người, mất ba viên ngọc này, chỉ có những con Rồng lấy của ta thôi! Ta mất bao công trình lao khổ mới được, đem về cứu chúng sinh cho mãn nguyện bố thí của ta; lũ bây lấy của ta, ta thề nếu không lấy lại được, quyết định không về, ta sẽ tát cho hết nước để bắt lũ bay, đầu chết cũng cam tâm, chứ chẳng chịu về không!

Vừa đi vừa nói trên bãi biển, bắt được cái mai rừa.

Ông Thần Biển hiện lên nói rằng:

- Biển này sâu ba trăm ba mươi sáu muôn dặm, dầu cho tất cả toàn cõi Diêm Phù Đề tát cũng không thể cạn nổi, huống một mình ông tát gì được?

Đáp: - Ông nên biết: ai cương quyết làm việc gì, thì việc ấy sẽ thành công. Tôi đi tìm hạt ngọc Như Ý, để giúp ích cho nhân loại, khó đến như thế, mà tôi cương quyết không lui chí hướng, để cầu thành Phật, thì việc tát bể đã lấy gì khó hơn.

Khi đó có một người ở cõi Trời Tịnh Cư, thấy Đại Thí nhất thân nhất ý với bao công trình khó nhọc, để cứu tế chúng sinh, bị Rồng ăn cắp ngọc, ông gọi một số đông người ẩn hình đến giúp việc tát biển.

Cứ mỗi khi Đại Thí múc nước, thì các ông ấy lấy áo cõi Trời, nhúng xuống biển, rồi lại đem áo vắt nước đi nơi khác. Cứ mỗi lần Đại Thí múc nước như vậy, thì nước biển cạn đi bốn mươi dặm; hai lần múc, cạn tám mươi dặm; ba lần múc cạn một trăm hai mươi dặm.

Thấy cạn nước nhiều quá, mấy con Rồng ăn cắp sợ hãi! Lên tận nơi nói rằng:

- Thôi! Thôi! Đại Thí đừng múc nước nữa! Đại Thí dùng hạt ngọc này để làm gì?

- Dùng để cứu cấp cho tất cả chúng sinh, Châu Diêm Phù Đề!

- Theo như lời Đại Thí nói; thì chúng tôi ở trong biển này nhiều lắm, sao Ngài không cho chúng tôi, lại lấy đi?

- Trong biển này tuy có chúng sinh, nhưng không bị đau khổ như chúng sinh Châu Diêm Phù Đề, vì miếng ăn manh mặc mà sát hại lẫn nhau, lừa bịp, dối trá lẫn nhau, tạo đủ mười điều ác, chết đọa xuống tam đồ ác đạo, ta muốn cho họ hiểu được Pháp ấy, nên xuống đây xin ngọc, trước cho họ ăn mặc đầy đủ, sau cho họ tu theo mười điều lành (Thập Thiện).

Rồng nghe xong, đem ba hạt ngọc Như Ý trả lại.

Khi đó ông Thần Biển thấy Ngài tinh tiến cứng rắn như vậy, đối trước Ngài lập thệ nguyện rằng:

- Đại Thí tinh tiến như thế, quyết định được thành Phật, khi đó tôi nguyện làm một tinh tiến đệ tử!

Nhận hạt châu rồi bay lên hư không, một lát gặp các người cùng đi với mình, đáp xuống. Các người đó nhìn thấy Đại Thí vừa ngạc nhiên vừa vui mừng! Hỏi rằng:

- Cậu ở đâu tới đây? Thật là vô cùng sung sướng, hôm nay lại gặp được ông bạn chí thân.

Nói xong tay bắt mặt mừng, cùng nhau về tới nước Phóng Bát.

Ông Ca Tỳ Lê được tin Đại Thí ra biển tốt lành trở về, vui vẻ ra đón chào hỏi han niềm nở, rồi mời tất cả về đãi ăn.

Ăn xong nói chuyện những công việc hành lộ vừa qua, rất là vui vẻ! Đại Thí đưa ngọc Như Ý chỉ vào các kho tàng, thì những kho tàng nhà ông đều đầy dẫy vàng bạc ngọc ngà, trân bảo. Mọi người đều tắc lưỡi khen lạ!

Ông Ca Tỳ Lê trang điểm cho con gái đẹp đẽ, trước rửa tay, sau dắt con gái giao cho Đại Thí!

Khi ra về, ông cho năm trăm người kỹ nữ có đủ tài năng, và năm trăm bạch tượng theo hầu con gái.

Đại Thí giao cho các bạn cỡi voi lên đường về nước nhà; hôm ấy cuộc tiễn chân rất là náo nhiệt! Rất vui vẻ! Tiếng hay đồn khắp muôn phương.

Từ khi Đại Thí đi, cha mẹ ở nhà, quá thương, khóc nhớ! Đêm ngày sầu khổ! Đến nỗi lòa cả đôi mắt.

Đại Thí ra lễ cha mẹ, và hỏi han sức khỏe, cùng các công việc nhà.

Ông bà mừng quá! Vì lòa không nhìn thấy con, lấy tay xoa đầu vuốt mặt một cách nồng nhiệt, nói rằng:

- Con nỡ bỏ cha mẹ đi xa xôi từ bấy đến nay, để cha mẹ ở nhà thương nhớ. Vậy con vào biển được những bảo vật gì?

- Dạ, thưa cha! Con xin vua Long Vương được hạt ngọc Như Ý, cha cầm thử xem có quý không?

Ông đỡ lấy rồi nói rằng:

- Hòn đá này trong kho của nhà ta, nào có thiếu chi; thế mà con liều thân hoại thể, trải bao tân khổ nơi biển cả với ba đào hiểm trở, lấy về đây làm gì?

Đại Thí cầm hạt châu chỉ vào mắt ông bà, tự nhiên cặp mắt trông sáng hơn xưa, cũng như một cơn gió thổi tan mây khói, bóng bình minh sáng giữa không gian. Ông bà được cặp mắt sáng tinh, cảm niệm lực oai thần của hạt ngọc châu vô biên công đức! Rồi nói:

- Quý hóa! Con tuy chịu đau khổ nhưng cũng không luống cống.

Đại Thí lại dâng hạt châu lên nguyện rằng:

- Nguyện xin tòa ngồi của cha mẹ tôi biến thành tòa Thất Bảo vào có tán Thất Bảo che trên!

Nguyện xong liền được như ý ngay.

Lại nguyện rằng: - Nguyện cho kho tàng của cha mẹ tôi, và vua quan, dân chúng đầy chật vàng bạc, của báu!

Nguyện xong, tất cả toàn quốc từ vua chí dân, nhà nào cũng có rất nhiều vàng, bạc, ngọc, ngà của cải.

Thấy thế ai cũng ngạc nhiên và vui mừng!

Sau thời gian này, Đại Thí sai người cỡi voi đi tám ngàn dặm báo cáo cho toàn thể quốc dân biết rằng:

- Cậu Đại Thí ra biển được tốt lành trở về, sau bảy ngày nữa, ngọc Như Ý sẽ mưa xuống tất cả áo mặc, thức ăn uống, tuỳ theo ai muốn dùng gì cũng được như ý.

Nhưng nhân dân trai giới thanh tịnh và thành kính mới được hưởng phúc vô biên ấy!

Đến ngày thứ bảy, Đại Thí tắm gội sạch sẽ, mặc áo mới; rồi đi đến một khu đất bằng phẳng cao rộng, để hạt ngọc Như Ý trên đầu ngọn phướn cao, tay cầm lư hương nguyện rằng:

- Tất cả chúng sinh trong cõi Diêm Phù Đề bần cùng tân khổ, tôi muốn cứu họ khỏi sự thiếu thốn, nếu thực là ngọc Như Ý, thì xin lần lượt, mưa xuống những món cần về đời sống của chúng sinh!

Lời cầu nguyện vừa xong, bốn phương mây kéo râm mát, một làn gió thổi mạnh làm tiêu tan tất cả những vật nhơ bẩn trên mặt đất, sau mưa qua một lượt cho sạch bụi, rồi bay xuống các món ăn ngon lành, tiếp tục năm thứ thóc rơi đầy mặt đất, quần áo, lụa vải, vàng bạc khắp nhân gian đầy dẫy.

Từ đây toàn cõi Diêm Phù Đề, nhà nào cũng đầy kho vàng bạc, lưu ly, kim cương, thức ăn, áo mặc thừa thãi.

Vì nhiều quá, nên bấy giờ họ coi vàng bạc, kim cương như đất đá, vô giá trị.

Đại Thí thấy dân đã đầy đủ các nguyện vọng, bèn sai người đi báo cáo cho toàn cõi Diêm Phù Đề biết rằng:

- Tất cả dân chúng trước đây, bị thiếu thốn về áo mặc thức ăn uống, châu bảo, vì thế sát hại lẫn nhau, thấy lợi quên nghĩa, không e dè tội phúc, chết đọa vào tam đồ ác đạo, cũng như người từ chỗ tối, lại đi vô chỗ tối thêm, đày đọa tội khổ nhiều kiếp lâu dài. Tôi thường thương xót không người cứu tế, vì thế mà tôi quên mình dấn thân nơi biển cả, trải bao sự khó khăn gian hiểm lấy được viện ngọc Như Ý, về cung cấp cho toàn thể quốc dân đầy đủ sung sướng! Giờ đây tôi mong tất cả nhân dân, gắng sức tu mười điều lành, giữ gìn thân, miệng, ý và có nhân từ, hiếu thảo, chớ nên phóng túng mới mong thoát khỏi ba đường ác, đời đời được sinh Nhân Thiên, phú quý tự tại tu chứng đạo Bồ Đề.

Sau viết thư cho vua quan các nước khuyên dân tu theo pháp Thập Thiện, ngoài ra còn dùng nhiều phương tiện dìu dắt chúng sinh, cải tà quy chính, bỏ ác làm lành.

Thuở đó tất cả nhân dân, trên Châu Diêm Phù Đề, được nhờ ơn Đại Thí đầy đủ về vật chất, với tinh thần khuyên tu Thập Thiện. Họ nghĩ không biết lấy gì đền đáp ơn cao cả ấy; họ chỉ biết tuân theo lời giáo hóa tu Thập Thiện, và chuyên rèn luyện lòng từ bi khiêm nhượng, giữ gìn thân, miệng, ý thanh tịnh, để trả ơn ông Đại Thí. Sau khi mạng chung đều được sinh về các tầng Trời cả.

Nói tới đây Phật nhắc lại rằng:

- Xá Lợi Phất! Ông nên biết: ông Ni Câu Lư Đà thuở đó, chính là cha ta (Tinh Phạn), bà sinh Đại Thí đó, nay là mẹ của ta (Ma Gia), còn ông Đại Thí chính là thiền thân của ta; ông vua Long Vương ở thành bằng bạc, nay là ông Xá Lợi Phất; vua Long Vương ở thành lưu ly nay là ông Mục Kiền Liên; ông Long Vương ở thành bằng vàng, nay là ông A Nan; ông Thần Bể nay là ông Ly Việt.

Ông A Nan khi đó làm Long Vương thết đãi ta một cách khiêm kính, khéo biết thời nghi, ngày nay cũng muốn hầu ta, cho đú鮧 thời tiết; ông ưng được ba nguyện ấy, là tùy ý muốn của ông.

Tôi rất hoan hỷ, khi đức Phật nói lại thuở tiền sinh, nên tôi liền đứng dậy, tới trước quỳ thẳng, chắp tay bạch rằng:

- Kính lạy đức Thế Tôn! Con xin thân hành thọ làm Thị Giả, cúi xin Ngài từ bi hứa khả cho!

Tất cả mọi người lúc đó ai nấy đều cảm niệm ơn đức lớn lao của Phật đã quên mình vì chúng sinh, rồi ngồi ngay nghiệm suy xét pháp Tứ Đế. Sau có người đắc quả Tu Đà Hoàn, cho đến quả A La Hán, cũng có người đắc nhân Bích Chi Phật, cũng có người phát tâm cầu đạo Vô Thượng Bồ Đề, có người dự ngôi Bất Thoát, tất cả đều vui mừng tạ lễ mà lui.

---o0o---

Phẩm thứ bốn mươi

A NAN TỔNG TRÌ

CHÍNH tôi được nghe: Một thời đức Phật ở nước Xá Vệ, tại vườn Cấp Cô Độc, rặng cây của Thái Tử Kỳ Đà.

Vào thời bấy giờ tôi là một người thông mình nhất, có trí nhớ nhất, nên các vị Tỷ Khưu sanh lòng nghĩ như vầy:

- Không rõ ông A Nan đời quá khứ làm công đức gì? Mà nay được Tổng trì? Nghe Phật nói đến đâu là nhớ đến đó, không quên một câu!

Các vị nghĩ thế rồi lên bạch Phật rằng:

- Kính đức Thế Tôn! Ông A Nan đời trước có công đức gì? Kiếp này được vô lượng Tổng Trì như vậy? Cúi xin Ngài dạy bảo cho chúng con được rõ?

Phật: - Hay lắm! Các ông muốn biết phúc đức Tổng trì của ông A Nan, hãy để ý nghe cho kỹ! Đây cũng là một đời thuộc kiếp quá khứ, có một vị Tỷ Khưu nuôi một bác Sa Di, ngày ngày bắt bác ấy, phải chăm tụng kinh và đúng thời khóa. Nếu bác tụng niệm thời khóa đầy đủ thì ông vui! Nếu trễ, hoặc tụng thiếu sót, không đủ thời khóa, thì ông buồn, và quở trách!

Như thế nên bác Sa Di, lúc nào cũng lo và buồn vì được ăn thì mất tụng; được tụng thì mất ăn. Hôm nào đi khất thực về sớm thì tụng niệm đủ khóa, hôm muộn thì mất khóa tụng kinh.

Không may ngày hôm đó người dân ít cúng dàng, nên phải đi mãi gần trưa mà chưa đủ hai thầy trò ăn, thành ra trễ khóa bị thầy mắng! Ngày hôm sau buồn quá, vừa đi vừa khóc!

Ông trưởng giả thấy thế hỏi rằng:

- Tại sao sư bác khóc thế?

- Thưa trưởng giả! Thầy tôi nghiêm khắc quá! Ngày ngày bắt tôi tụng kinh định hạn theo thời khóa; nếu hôm nào tụng đủ thời khóa thì Ngài hoan hỷ! Nếu thiếu trễ thì bẳn gắt. Vì đi khất thực không có nhất định, hôm nào người dân cúng dàng đông, thì về sớm, tụng niệm thời khóa đầy đủ; hôm nào người dân ít cúng dàng, phải đi mãi, về đến chùa bị trễ, thiếu khóa tụng kinh, vì thế nên tôi khóc?

Trưởng giả nói: Vậy từ ngày hôm nay trở đi, sư bác cứ đến nhà tôi, tôi xin cúng dàng đầy đủ để khỏi lo việc ăn uống, cứ việc chuyên tâm tụng kinh tu học!

Từ đó sư bác được cúng dàng đầy đủ của ông trưởng giả, hàng ngày chuyên tâm tụng kinh tu học, thời khóa lễ niệm hoàn toàn, cả hai thầy trò đều vui vẻ!

Phật nhắc lại rằng:

- Tỷ Khưu các ông nên biết! Ông thầy của bác Sa Di khi đó, là đức Phật Định Quang, còn bác Sa Di là tiền thân của ta, ông trưởng giả cúng dàng hằng ngày, nay là ông A Nan.

Do thời quá khứ ông làm hạnh tụng kinh, nên kiếp này được phúc báo Tổng trì không quên một câu kinh, hay một bài kệ, cho đến một chữ; do ta tuyên giảng chánh pháp. Bấy giờ các vị Tỷ Khưu nghe Phật nói xong, ai nấy đều vui vẻ! Khát ngưỡng công đức trì tụng, và cúng dàng cúi đầu tạ lễ mà lui.

---o0o---

Mục Lục | Phần 1 | Phần 2  | Phần 3 | Phần 4 | Phần 5

    
---o0o---
 

Vi tính:  Hoa Giác & Quảng Thức
Trình bày: Nguyên Hân - Nguyên Phúc

Cập nhật: 4-2003

Nguồn: www.quangduc.com

Về danh mục

66 câu thiền ngữ trong kinh điển van de duc tin trong dao phat that bai Chú Tiểu đi rồi thu nhat tu mieng phật giáo nói gì về quyền của động Xà 出家人戒律 những điều cần biết về huyết áp giản ï¾ï¼ Mùa Vu Lan nhớ mẹ văn Lợi ích tuyệt vời từ việc ngủ åº nhà Thở để chữa bệnh mua xuan sap di qua nhung y xuan luon o lai hanh tri mat tong tay tang tai viet nam Tuà nguyen nhan cua nhung giac mo địa tạng a nan Từ Bí quyết để sống vui sống khỏe nghia minh ni tu uống soda gây béo bụng và nhiều nguy cơ nha truyen giao noi tieng o ma lai tt Dấu hiệu bệnh khi thường xuyên khát VÃ Æ phã n 7 ác nghiệp đừng bao giờ làm PhÃƒÆ p la prajnatara Thanh long và 9 công dụng tuyệt vời Quan điểm của Phật giáo và tâm lý học gói kiên trúc chùa khmer tuoi chom gia nhin lai mot quang duong Số chinh ta la chu quyet dinh cuoc doi minh Đổ xô ăn chay cầu may rằm tháng Giêng Nghiep cua nguoi Mát tam hoan hy bÃÆo vì sao người dân bhutan không sợ chết nhung cai vui trong dao phat Thói quen ăn uống thế nào để khỏe giai thoai ve vi tam giao thien tang phat an dai Khủng hoảng tinh thần và những con số