Thiện Hiện! Ngươi lại quán nghĩa nào mà
nói tức chư Phật Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề hoặc hữu vi hoặc vô vi tăng
ngữ chẳng phải Bồ tát Ma ha tát ư? Bạch Thế Tôn! Chư Phật Vô thượng Chánh
đẳng Bồ đề hữu vi vô vi, hãy rốt ráo bất khả đắc, vì tánh chẳng phải có
vậy. Huống là có chư Phật Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề hữu vi vô vi tăng
ngữ. Tăng ngữ đây đã chẳng phải có, làm sao nói được: Tức chư Phật Vô
thượng Chánh đẳng Bồ đề hoặc hữu vi hoặc vô vi tăng ngữ là Bồ tát Ma ha
tát vậy.
Thiện Hiện! Ngươi lại quán nghĩa nào mà
nói tức chư Phật Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề hoặc hữu lậu hoặc vô lậu tăng
ngữ chẳng phải Bồ tát Ma ha tát ư? Bạch Thế Tôn! Chư Phật Vô thượng Chánh
đẳng Bồ đề hữu lậu vô lậu, hãy rốt ráo bất khả đắc, vì tánh chẳng phải có
vậy. Huống là có chư Phật Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề hữu lậu vô lậu tăng
ngữ. Tăng ngữ đây đã chẳng phải có, làm sao nói được: Tức chư Phật Vô
thượng Chánh đẳng Bồ đề hoặc hữu lậu hoặc vô lậu tăng ngữ là Bồ tát Ma ha
tát vậy.
Thiện Hiện! Ngươi lại quán nghĩa nào mà
nói tức chư Phật Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề hoặc sanh hoặc diệt tăng ngữ
chẳng phải Bồ tát Ma ha tát ư? Bạch Thế Tôn! Chư Phật Vô thượng Chánh đẳng
Bồ đề sanh diệt, hãy rốt ráo bất khả đắc, vì tánh chẳng phải có vậy. Huống
là có chư Phật Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề sanh diệt tăng ngữ. Tăng ngữ đây
đã chẳng phải có, làm sao nói được: Tức chư Phật Vô thượng Chánh đẳng Bồ
đề hoặc sanh hoặc diệt tăng ngữ là Bồ tát Ma ha tát vậy.
Thiện Hiện! Ngươi lại quán nghĩa nào mà
nói tức chư Phật Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề hoặc thiện hoặc phi thiện tăng
ngữ chẳng phải Bồ tát Ma ha tát ư? Bạch Thế Tôn! Chư Phật Vô thượng Chánh
đẳng Bồ đề thiện phi thiện, hãy rốt ráo bất khả đắc, vì tánh chẳng phải có
vậy. Huống là có chư Phật Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề thiện phi thiện tăng
ngữ. Tăng ngữ đây đã chẳng phải có, làm sao nói được: Tức chư Phật Vô
thượng Chánh đẳng Bồ đề hoặc thiện hoặc phi thiện tăng ngữ là Bồ tát Ma ha
tát vậy.
Thiện Hiện! Ngươi lại quán nghĩa nào mà
nói tức chư Phật Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề hoặc hữu tội hoặc vô tội tăng
ngữ chẳng phải Bồ tát Ma ha tát ư? Bạch Thế Tôn! Chư Phật Vô thượng Chánh
đẳng Bồ đề hữu tội vô tội, hãy rốt ráo bất khả đắc, vì tánh chẳng phải có
vậy. Huống là có chư Phật Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề hữu tội vô tội tăng
ngữ. Tăng ngữ đây đã chẳng phải có, làm sao nói được: Tức chư Phật Vô
thượng Chánh đẳng Bồ đề hoặc hữu tội hoặc vô tội tăng ngữ là Bồ tát Ma ha
tát vậy.
Thiện Hiện! Ngươi lại quán nghĩa nào mà
nói tức chư Phật Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề hoặc hữu phiền não hoặc vô
phiền não tăng ngữ chẳng phải Bồ tát Ma ha tát ư? Bạch Thế Tôn! Chư Phật
Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề hữu phiền não vô phiền não, hãy rốt ráo bất khả
đắc, vì tánh chẳng phải có vậy. Huống là có chư Phật Vô thượng Chánh đẳng
Bồ đề hữu phiền não vô phiền não tăng ngữ. Tăng ngữ đây đã chẳng phải có,
làm sao nói được: Tức chư Phật Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề hoặc hữu phiền
não hoặc vô phiền não tăng ngữ là Bồ tát Ma ha tát vậy.
Thiện Hiện! Ngươi lại quán nghĩa nào mà
nói tức chư Phật Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề hoặc thế gian hoặc xuất thế
gian tăng ngữ chẳng phải Bồ tát Ma ha tát ư? Bạch Thế Tôn! Chư Phật Vô
thượng Chánh đẳng Bồ đề thế gian xuất thế gian, hãy rốt ráo bất khả đắc,
vì tánh chẳng phải có vậy. Huống là có chư Phật Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề
thế gian xuất thế gian tăng ngữ. Tăng ngữ đây đã chẳng phải có, làm sao
nói được: Tức chư Phật Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề hoặc thế gian hoặc xuất
thế gian tăng ngữ là Bồ tát Ma ha tát vậy.
Thiện Hiện! Ngươi lại quán nghĩa nào mà
nói tức chư Phật Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề hoặc tạp nhiễm hoặc thanh tịnh
tăng ngữ chẳng phải Bồ tát Ma ha tát ư? Bạch Thế Tôn! Chư Phật Vô thượng
Chánh đẳng Bồ đề tạp nhiễm thanh tịnh, hãy rốt ráo bất khả đắc, vì tánh
chẳng phải có vậy. Huống là có chư Phật Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề tạp
nhiễm thanh tịnh tăng ngữ. Tăng ngữ đây đã chẳng phải có, làm sao nói
được: Tức chư Phật Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề hoặc tạp nhiễm hoặc thanh
tịnh tăng ngữ là Bồ tát Ma ha tát vậy.
Thiện Hiện! Ngươi lại quán nghĩa nào mà
nói tức chư Phật Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề hoặc thuộc sanh tử hoặc thuộc
Niết bàn tăng ngữ chẳng phải Bồ tát Ma ha tát ư? Bạch Thế Tôn! Chư Phật Vô
thượng Chánh đẳng Bồ đề thuộc sanh tử thuộc Niết bàn, hãy rốt ráo bất khả
đắc, vì tánh chẳng phải có vậy. Huống là có chư Phật Vô thượng Chánh đẳng
Bồ đề thuộc sanh tử thuộc Niết bàn tăng ngữ. Tăng ngữ đây đã chẳng phải
có, làm sao nói được: Tức chư Phật Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề hoặc thuộc
sanh tử hoặc thuộc Niết bàn tăng ngữ là Bồ tát Ma ha tát vậy.
Thiện Hiện! Ngươi lại quán nghĩa nào mà
nói tức chư Phật Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề hoặc ở trong hoặc ở ngoài hoặc
ở giữa hai tăng ngữ chẳng phải Bồ tát Ma ha tát ư? Bạch Thế Tôn! Chư Phật
Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề ở trong ở ngoài ở giữa hai, hãy rốt ráo bất khả
đắc, vì tánh chẳng phải có vậy. Huống là có chư Phật Vô thượng Chánh đẳng
Bồ đề ở trong ở ngoài ở giữa hai tăng ngữ. Tăng ngữ đây đã chẳng phải có,
làm sao nói được: Tức chư Phật Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề hoặc ở trong
hoặc ở ngoài hoặc ở giữa hai tăng ngữ là Bồ tát Ma ha tát vậy.
Thiện Hiện! Ngươi lại quán nghĩa nào mà
nói tức chư Phật Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề hoặc khả đắc hoặc bất khả đắc
tăng ngữ chẳng phải Bồ tát Ma ha tát ư? Bạch Thế Tôn! Chư Phật Vô thượng
Chánh đẳng Bồ đề khả đắc bất khả đắc, hãy rốt ráo bất khả đắc, vì tánh
chẳng phải có vậy. Huống là có chư Phật Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề khả đắc
bất khả đắc tăng ngữ. Tăng ngữ đây đã chẳng phải có, làm sao nói được: Tức
chư Phật Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề hoặc khả đắc hoặc bất khả đắc tăng ngữ
là Bồ tát Ma ha tát vậy.
Bạch Thế Tôn, Sắc thảy pháp và tăng ngữ,
sắc thảy thường vô thường thảy pháp và tăng ngữ đã bất khả đắc. Mà nói sắc
thảy pháp tăng ngữ và sắc thảy thường vô thường thảy pháp tăng ngữ là Bồ
tát Ma ha tát, ấy là không có lẽ vậy.
Phật bảo: Thiện Hiện! Hay thay! Hay thay!
Như vậy! Như vậy! Như Ngươi đã nói. Thiện Hiện! Sắc thảy pháp và sắc thảy
thường vô thường thảy pháp vì bất khả đắc, nên sắc thảy pháp tăng ngữ và
sắc thảy thường vô thường thảy pháp tăng ngữ cũng bất khả đắc. Vì pháp và
tăng ngữ bất khả đắc, nên Bồ tát Ma ha tát cũng bất khả đắc. Vì Bồ tát Ma
ha tát bất khả đắc, nên sở hành Bát nhã Ba la mật đa cũng bất khả đắc.
Thiện Hiện! Các Bồ tát Ma ha tát khi tu
hành Bát nhã Ba la mật đa, nên cứ như thế mà học.
Lại nữa, Thiện Hiện! Ngươi trước đã nói
tôi chẳng thấy có pháp đáng gọi Bồ tát Ma ha tát ấy. Như vậy như vậy! Như
lời Ngươi đã nói.
Thiện Hiện! Các pháp chẳng thấy các pháp,
các pháp chẳng thấy pháp giới; pháp giới chẳng thấy các pháp, pháp giới
chẳng thấy pháp giới.
Thiện Hiện! Pháp giới chẳng thấy sắc giới,
sắc giới chẳng thấy pháp giới. Pháp giới chẳng thấy thọ tưởng hành thức
giới, thọ tưởng hành thức giới chẳng thấy pháp giới.
Thiện Hiện! Pháp giới chẳng thấy nhãn xứ
giới, nhãn xứ giới chẳng thấy pháp giới. Pháp giới chẳng thấy nhĩ tỷ thiệt
thân ý xứ giới, nhĩ tỷ thiệt thân ý xứ giới chẳng thấy pháp giới. Pháp
giới chẳng thấy sắc xứ giới, sắc xứ giới chẳng thấy pháp giới. Pháp giới
chẳng thấy thanh hương vị xúc pháp xứ giới, thanh hương vị xúc pháp xứ
giới chẳng thấy pháp giới.
Thiện Hiện! Pháp giới chẳng thấy nhãn
giới, sắc giới, nhãn thức giới; nhãn giới, sắc giới, nhãn thức giới chẳng
thấy pháp giới. Pháp giới chẳng thấy nhĩ giới, thanh giới, nhĩ thức giới,
thanh giới, nhĩ thức giới; nhĩ giới, thanh giới, nhĩ thức giới chẳng thấy
pháp giới. Pháp giới chẳng thấy tỷ giới, hương giới, tỷ thức giới; tỷ
giới, hương giới, tỷ thức giới chẳng thấy pháp giới. Pháp giới chẳng thấy
thiệt giới, vị giới, thiệt thức giới; thiệt giới, vị giới, thiệt thức giới
chẳng thấy pháp giới. Pháp giới chẳng thấy thân giới, xúc giới, thân thức;
thân giới, xúc giới, thân thức giới chẳng thấy pháp giới. Pháp giới chẳng
thấy ý giới, pháp giới, ý thức giới; ý giới, pháp giới, ý thức giới chẳng
thấy pháp giới.
Thiện Hiện! Pháp giới chẳng thấy địa giới,
địa giới chẳng thấy pháp giới. Pháp giới chẳng thấy thủy hỏa phong không
thức giới, thủy hỏa phong không thức giới chẳng thấy pháp giới.
Thiện Hiện! Pháp giới chẳng thấy khổ thánh
đế giới, khổ thánh đế giới chẳng thấy pháp giới. Pháp giới chẳng thấy tập
diệt đạo thánh đế giới, tập diệt đạo thánh đế giới chẳng thấy pháp giới.
Thiện Hiện! Pháp giới chẳng thấy vô minh
giới, vô minh giới chẳng thấy pháp giới. Pháp giới chẳng thấy hành thức
danh-sắc lục-xứ xúc thọ ái thủ hữu sanh lão tử sầu thán khổ ưu não giới,
hành cho đến lão tử sầu thán khổ ưu não giới chẳng thấy pháp giới.
Thiện Hiện! Pháp giới chẳng thấy Dục giới,
Dục giới chẳng thấy pháp giới. Pháp giới chẳng thấy Sắc, Vô sắc giới; Sắc,
Vô sắc giới chẳng thấy pháp giới.
Thiện Hiện! Hữu vi giới chẳng thấy vô vi
giới, vô vi giới chẳng thấy hữu vi giới. Vì sao thế? Thiện Hiện! Vì chẳng
rời hữu vi mà thi thiết vô vi và chẳng phải rời vô vi mà thi thiết hữu vi
được!
Thiện Hiện! Như vậy Bồ tát Ma ha tát khi
tu hành Bát nhã Ba la mật đa, đối tất cả pháp đều vô sở kiến. Khi mà đối
tất cả pháp vô sở kiến, tâm kia mới bất kinh bất khủng bất bố, vì đối tất
cả pháp tâm chẳng chìm đắm, cũng chẳng ưu hối. Sở vì sao?
Là Bồ tát Ma ha tát này khi tu hành Bát
nhã Ba la mật đa chẳng thấy sắc, chẳng thấy thọ tưởng hành thức; chẳng
thấy nhãn xứ, chẳng thấy nhĩ tỷ thiệt thân ý xứ; chẳng thấy sắc xứ, chẳng
thấy sắc xứ, chẳng thấy thanh hương vị xúc pháp xứ; chẳng thấy nhãn giới,
sắc giới, nhãn giới; chẳng thấy nhĩ giới, thanh giới, nhĩ thức giới; chẳng
thấy tỷ giới, hương giới, tỷ thức giới; chẳng thấy thiệt giới, vị giới,
thiệt thức giới; chẳng thấy thân giới, xúc giới, thân thức giới; chẳng
thấy ý giới, pháp giới, ý thức giới. Chẳng thấy địa giới, chẳng thấy thủy
hỏa phong không thức giới. Chẳng thấy khổ thánh đế, chẳng thấy tập diệt
đạo thánh đế. Chẳng thấy vô minh; chẳng thấy hành, thức, danh sắc, lục xứ,
xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử sầu thán khổ ưu não. Chẳng thấy Dục
giới, chẳng thấy Sắc giới, Vô sắc giới. Chẳng thấy hữu vi, chẳng thấy vô
vi. Chẳng thấy tham sân si, chẳng thấy diệt tham sân si. Chẳng thấy ngã;
chẳng thấy hữu tình, mạng giả, sanh giả, dưỡng giả, sĩ phu, bổ đặc già la,
ý sanh, nho đồng, tác giả, khiến tác giả, khởi giả, khiến khởi giả, thọ
giả, khiến thọ giả, tri giả kiến. Chẳng thấy Thanh văn, chẳng thấy pháp
Thanh văn. Chẳng thấy Ðộc giác, chẳng thấy pháp Ðộc giác. Chẳng thấy Bồ
tát, chẳng thấy pháp Bồ tát. Chẳng thấy Phật, chẳng thấy pháp Phật và
chẳng thấy Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề.
Thiện Hiện! Như vậy Bồ tát Ma ha tát đối
tất cả pháp đều vô sở kiến. Khi mà đối tất cả vô sở kiến, tâm kia mới bất
kinh bất khủng bất bố. Ðối tất cả pháp tâm chẳng chìm đắm, cũng chẳng ưu
hối!
Cụ thọ Thiện Hiện thưa: Bạch Thế Tôn! Vì
nhân duyên gì nên Bồ tát Ma ha tát này đối với tất cả pháp tâm chẳng chìm
đắm, cũng chẳng ưu hối? Phật bảo: Thiện Hiện! Bồ tát Ma ha tát này khắp
đối tất cả pháp tâm, tâm sở bất đắc, bất kiến. Do nhân duyên đây nên Bồ
tát Ma ha tát này đối tất cả pháp tâm chẳng chìm đắm, cũng chẳng ưu hối.
Cụ thọ Thiện Hiện lại thưa: Bạch Thế Tôn!
Vì sao Bồ tát Ma ha tát này đối tất cả pháp, tâm kia bất kinh bất khủng
bất bố? Phật bảo: Thiện Hiện! Bồ tát Ma ha tát này khắp đối tất cả ý giới,
ý thức giới bất đắc, bất kiến. Như vậy Bồ tát Ma ha tát đói tất cả pháp,
tâm kia bất kinh bất khủng bất bố. Thiện Hiện! Các Bồ tát Ma ha tát đối
với tất cả pháp đều vô sở đắc, nên hành Bát nhã Ba la mật đa.
Thiện Hiện! Các Bồ tát Ma ha tát khi tu
hành Bát nhã Ba la mật đa, đối tất cả chỗ bất đắc Bát nhã Ba la mật đa,
bất đắc danh Bát nhã Ba la mật đa; bất đắc Bồ tát, bất đắc danh Bồ tát,
bất đắc tâm Bồ tát.
Thiện Hiện! Nên như vậy mà dạy bảo dạy
trao cho các Bồ tát Ma ha tát, khiến cho đối với Bát nhã Ba la mật đa tu
học rốt ráo!
Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện thưa Phật: Bạch
Thế Tôn! Bồ tát Ma ha tát muốn mãn bố thí Ba la mật đa, phải học Bát nhã
Ba la mật đa. Bồ tát Ma ha tát muốn mãn tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến,
tĩnh lự, bát nhã Ba la mật đa, phải học Bát nhã Ba la mật đa.
Bồ tát Ma ha tát muốn biết khắp sắc, phải
học Bát nhã Ba la mật đa. Bồ tát Ma ha tát muốn biết khắp thọ tưởng hành
thức, phải học Bát nhã Ba la mật đa. Bồ tát Ma ha tát muốn biết khắp nhãn
xứ, phải học Bát nhã Ba la mật đa. Bồ tát Ma ha tát muốn biết khắp nhĩ tỷ
thiệt thân ý xứ, phải học Bát nhã Ba la mật đa. Bồ tát Ma ha tát muốn biết
khắp sắc xứ, phải học Bát nhã Ba la mật đa. Bồ tát Ma ha tát muốn biết
khắp thanh hương vị xúc pháp xứ, phải học Bát nhã Ba la mật đa. Bồ tát Ma
ha tát muốn biết khắp nhãn giới, sắc giới, nhãn thức giới và nhãn xúc,
nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ, phải học Bát nhã Ba la mật đa.
Bồ tát Ma ha tát muốn biết khắp nhĩ giới,
thanh giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc, nhĩ xúc làm duyên sanh ra các thọ,
phải học Bát nhã Ba la mật. Bồ tát Ma ha tát muốn biết khắp tỷ giới, hương
giới, tỷ thức giới và tỷ xúc, tỷ xúc làm duyên sanh ra các thọ, phải học
Bát nhã Ba la mật đa. Bồ tát Ma ha tát muốn biết khắp thiệt giới, vị giới,
thiệt thức giới và thiệt xúc, thiệt xúc làm duyên sanh ra các thọ, phải
học Bát nhã Ba la mật đa. Bồ tát Ma ha tát muốn biết khắp thân giới, xúc
giới, thân thức giới và thân xúc, thân xúc làm duyên sanh ra các thọ, phải
học Bát nhã Ba la mật đa. Bồ tát Ma ha tát muốn biết khắp ý giới, pháp
giới, ý thức giới và ý xúc, ý xúc làm duyên sanh ra các thọ, phải học Bát
nhã Ba la mật đa.
Bồ tát Ma ha tát muốn biết khắp địa giới,
phải học Bát nhã Ba la mật. Bồ tát Ma ha tát muốn biết khắp thủy hỏa phong
không thức giới, phải học Bát nhã Ba la mật đa. Bồ tát Ma ha tát muốn biết
khắp khổ thánh đế, phải học Bát nhã Ba la mật đa. Bồ tát Ma ha tát muốn
biết khắp tập diệt đạo thánh đế, phải học Bát nhã Ba la mật đa. Bồ tát Ma
ha tát muốn biết khắp vô minh, phải học Bát nhã Ba la mật đa. Bồ tát Ma ha
tát muốn biết khắp hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu,
sanh, lão tử sầu thán khổ ưu não, phải học Bát nhã Ba la mật đa.
Bồ tát Ma ha tát muốn dứt hẳn tham sân si,
phải học Bát nhã Ba la mật đa. Bồ tát Ma ha tát muốn dứt tát đa da kiến,
giới cấm thủ, nghi, dục, tham sân nhuế, phải học Bát nhã Ba la mật đa. Bồ
tát Ma ha tát muốn dứt hẳn sắc tham, vô sắc tham, vô minh, mạn, điệu cử,
phải học Bát nhã Ba la mật đa. Bồ tát Ma ha tát muốn dứt hẳn triền kiết,
tùy miên, phải học Bát nhã Ba la mật đa. Bồ tát Ma ha tát muốn dứt hẳn bốn
thực, phải học Bát nhã Ba la mật đa. Bồ tát Ma ha tát muốn dứt hẳn bốn
dòng bạo lưu ách thủ, phải học Bát nhã Ba la mật đa. Bồ tát Ma ha tát muốn
dứt hẳn bốn trói thân, bốn điên đảo, phải học Bát nhã Ba la mật đa. Bồ tát
Ma ha tát muốn dứt hẳn ba lậu, ba bất thiện căn, phải học Bát nhã Ba la
mật đa.
Bồ tát Ma ha tát muốn xa lìa mười bất
thiện nghiệp đạo, phải học Bát nhã Ba la mật đa. Bồ tát Ma ha tát muốn tập
hành mười thiện nghiệp đạo, phải học Bát nhã Ba la mật đa. Bồ tát Ma ha
tát muốn tu bốn tĩnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc, phải học Bát nhã
Ba la mật đa. Bồ tát Ma ha tát muốn tu bốn niệm trụ, phải học Bát nhã Ba
la mật đa. Bồ tát Ma ha tát muốn tu bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn,
năm lực, bảy đẳng giác chi, tám thánh đạo chi, phải học Bát nhã Ba la mật
đa.
Bồ tát Ma ha tát muốn được Phật mười lực,
phải học Bát nhã Ba la mật đa. Bồ tát Ma ha tát muốn được bốn vô sở úy,
bốn vô ngại giải, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất
cộng, nhất thiết trí, đạo tướng trí, nhất thiết tướng trí, phải học Bát
nhã Ba la mật đa. Bồ tát Ma ha tát muốn được sáu thần thông tự tại, phải
học Bát nhã Ba la mật đa. Bồ tát Ma ha tát muốn được bốn tĩnh lự, bốn định
vô sắc, định diệt tận thứ lớp vượt lên thuận nghịch tự tại, phải học Bát
nhã Ba la mật đa.
Bồ tát Ma ha tát muốn nơi tất cả pháp môn
đà la ni, pháp môn tam ma địa đều được tự tại, phải học Bát nhã Ba la mật
đa. Bồ tát Ma ha tát muốn được tam ma địa Ðủ giác chi, tam ma điạ Sư tử du
hý, tam ma địa Sư tử phấn tấn, tam ma địa Sư tử tần thân, tam ma địa Sư tử
xuy khư, tam ma địa Kiện hành, tam ma địa Bảo ấn, tam ma địa Diệu nguyệt,
tam ma địa Nguyệt tràng tướng, tam ma địa Nhất thiết pháp ấn, tam ma địa
Quán đỉnh ấn, tam ma địa Pháp giới quyết định, tam ma địa Quyết định tràng
tướng, tam ma địa Kim cương dụ, tam ma địa Nhập nhất thiết pháp ấn, tam ma
địa An trụ định vương, tam ma địa Vương ấn, tam ma địa Tinh tiến lực, tam
ma địa Ðẳng dũng, tam ma địa Nhập nhất thiết ngôn từ quyết định, tam ma
địa Nhập nhất thiết ngôn từ quyết định, tam ma địa Nhập nhất thiết danh tự
quyết định, tam ma địa Quán phương, tam ma địa Ðà la ni ấn, tam ma địa Vô
vong thất, tam ma địa Chư pháp đẳng thú hải ấn, tam ma địa Biến phú hư
không, tam ma địa Tam luân thanh tịnh, tam ma địa Thú hướng bất tối chuyển
thần thông, tam ma địa Khí trung dũng xuất, tam ma địa Tối thắng tràng
tướng, tam ma địa Thiêu chư phiền não, tam ma địa Hàng phục bốn ma, tam ma
địa Ðại trí huệ cự và tam ma địa Xuất sanh mười lực. Bồ tát Ma ha tát muốn
được như thế thảy vô lượng trăm ngàn pháp môn tam ma địa, phải học Bát nhã
Ba la mật đa.
Bồ tát Ma ha tát muốn mãn tâm sở nguyện
của tất cả hữu tình, phải học Bát nhã Ba la mật đa. Bồ tát Ma ha tát muốn
mãn thù thắng thiện căn như thế, do nhờ thiện căn đây hẳn chẳng đọa ác
thú, chẳng sanh nhà bần tiện, chẳng đọa Thanh văn và bực Ðộc giác, với Bồ
tát Ðỉnh quyết chẳng lai đọa, phải học Bát nhã Ba la mật đa.
Khi ấy, Xá Lợi Tử hỏi Thiện Hiện rằng: Vì
sao gọi là Bồ tát Ðỉnh đọa? Thiện Hiện đáp: Nếu các Bồ tát không có phương
tiện khéo léo mà hành sáu Ba la mật đa, không có phương tiện khéo léo trụ
ba môn giải thoát, là đọa nơi Thanh văn hoặc bực Ðộ giác, chẳng vào được
Bồ tát Chánh tánh Ly sanh. Như vậy gọi là Bồ tát Ðỉnh đọa. Tức Ðỉnh đọa
này cũng gọi là Sanh đấy.
Tức thì Xá Lợi Tử lại hỏi nữa: Vì duyên gì
Bồ tát Ðỉnh đọa gọi Sanh? Thiện Hiện đáp: Sanh nghĩa là pháp ái. Nếu các
Bồ tát thuận đạo pháp ái gọi là Sanh. Xá Lợi Tử hỏi: Bồ tát thuận đạo pháp
ái nghĩa là gì? Thiện Hiện đáp: Nếu Bồ tát Ma ha tát khi tu hành Bát nhã
Ba la mật đa, với sắc trụ không mà khởi tưởng đắm, với thọ tưởng hành thức
trụ không mà khởi tưởng đắm. Với sắc trụ vô tướng mà khởi tưởng đắm, với
thọ tưởng hành thức trụ vô thường mà khởi tưởng đắm. Với sắc trụ vô nguyện
mà khởi tưởng đắm, với thọ tưởng hành thức trụ vô tướng mà khởi tưởng đắm.
Với sắc trụ vô nguyện mà khởi tưởng đắm, với thọ tưởng hành thức vô trụ vô
nguyện mà khởi tưởng đắm. Với sắc trụ vô thường mà khởi tưởng đắm, với thọ
tưởng hành thức trụ vô thường mà khởi tưởng đắm. Với sắc trụ khổ mà khởi
tưởng đắm, với thọ tưởng hành thức trụ khổ mà khởi tưởng đắm. Với sắc trụ
vô ngã mà khởi tưởng đắm, với thọ tưởng hành thức trụ vô ngã mà khởi tưởng
đắm. Với sắc trụ bất tịnh mà khởi tưởng đắm, với thọ tưởng hành thức trụ
bất tịnh mà khởi tưởng đắm. Với sắc trụ tịch tĩnh mà khởi tưởng đắm, với
thọ tưởng hành thức trụ tịch tĩnh mà khởi tưởng đắm. Với sắc trụ viễn ly
mà khởi tưởng đắm, với thọ tưởng hành thức trụ viễn ly mà khởi tưởng đắm.
Ðấy gọi là Bồ tát thuận đạo pháp ái.
Lại nữa, Xá Lợi Tử! Nếu Bồ tát Ma ha tát
tác khởi nghĩ này: Ðây sắc phải dứt, đây thọ tưởng hành thức phải dứt. Do
đấy nên sắc cần dứt, do đấy nên thọ tưởng hành thức cần dứt. Ðây khổ phải
biết khắp, do đấy nên khổ cần biết khắp. Ðây tập phải dứt hẳn, do đấy nên
tập cần dứt hẳn. Ðây diệt phải tác chứng, do đấy nên diệt phải tác chứng.
Ðây đạo phải tu tập, do đấy nên đạo phải tu tập. Ðây tạp nhiễm, đây thanh
tịnh. Ðây nên gần gũi, đây chẳng nên gần gũi. Ðây nên hành, đây chẳng nên
hành. Ðây đạo, đây phi đạo. Ðây nên học, đây chẳng nên học.
Ðây là bố thí Ba la mật, đây chẳng phải bố
thí Ba la mật đa. Ðây là tịnh giới Ba la mật đa, đây chẳng phải tịnh giới
Ba la mật đa. Ðây la an nhẫn Ba la mật đa, đây chẳng phải an nhẫn Ba la
mật đa. Ðây là tinh tiến Ba la mật đa, đây chẳng phải tinh tiến Ba la mật
đa. Ðây là tĩnh lự Ba la mật đa, đây chẳng phải tĩnh lự Ba la mật đa. Ðây
là bát nhã Ba la mật đa, đây chẳng phải bát nhã Ba la mật đa. Ðây là
phương tiện khéo léo, đây chẳng phải phương tiện khéo léo. Ðây là Bồ tát
sanh, đây là Bồ tát ly sanh.
Xá Lợi Tử! Nếu Bồ tát Ma ha tát khi tu
hành Bát nhã Ba la mật đa an trụ như thế mà sanh tưởng đắm, đấy là Bồ tát
thuận đạo pháp ái. Pháp ái như thế gọi danh là Sanh. Như ăn đồ cách đêm
năng đêm sanh bệnh hoạn.
Lúc đó, Xá Lợi Tử hỏi Thiện Hiện rằng: Bồ
tát Ma ha tát vào Chánh tánh Ly sanh là nghĩa ra sao?
Thiện Hiện đáp: Nếu Bồ tát Ma ha tát khi
tu hành Bát nhã Ba la mật đa, chẳng thấy nội không, chẳng đợi nội không mà
quán ngoại không. Chẳng thấy ngoại không, chẳng đợi ngoại không mà quán
nội không; chẳng đợi ngoại không mà quán nội ngoại không. Chẳng thấy nội
ngoại không, chẳng đợi nội ngoại không mà quán ngoại không; chẳng đợi nội
ngoại không mà quán không không. Chẳng thấy không không, chẳng đợi không
không mà quán đại không. Chẳng thấy đại không, chẳng đợi đại không mà quán
thắng nghĩa không. Chẳng thấy thắng nghĩa không, chẳng đợi thắng nghĩa
không mà quán hữu vi không. Chẳng thấy hữu vi không, chẳng đợi hữu vi
không mà quán thắng nghĩa không; chẳng đợi hữu vi không mà quán vô vi
không. Chẳng thấy vô vi không, chẳng đợi vô vi không mà quán tất cảnh
không. Chẳng thấy tất cảnh không, chẳng đợi tất cảnh không mà quán vô vi
không; chẳng đợi tất cảnh không mà quán vô tế không. Chẳng thấy vô tế
không, chẳng đợi vô tế không mà quán tất cảnh không; chẳng đợi vô tế không
mà quán tán không. Chẳng thấy tán không, chẳng đợi tán không mà quán vô tế
không; chẳng đợi tán không mà quán vô biến dị không. Chẳng thấy vô biến dị
không, chẳng đợi vô biến dị không mà quán tán không; chẳng đợi vô biến dị
không mà quán bổn tánh không. Chẳng thấy bổn tánh không, chẳng đợi bổn
tánh không mà quán vô biến dị không; chẳng đợi bổn tánh không mà quán tự
tướng không. Chẳng thấy tự tướng không, chẳng đợi tự tướng không mà quán
bổn tánh không; chẳng đợi tự tướng không mà quán cộng tướng không. Chẳng
thấy cộng tướng không, chẳng đợi cộng tướng không mà quán tự tướng không;
chẳng đợi cộng tướng không mà quán nhất thiết không; chẳng đợi cộng tướng
không mà quán nhất thiết pháp không. Chẳng thấy nhất thiết pháp không,
chẳng đợi nhất thiết pháp không mà quán cộng tướng không; chẳng đợi nhất
thiết pháp không mà quán bất khả đắc không. Chẳng thấy bất khả đắc không,
chẳng đợi bất khả đắc không mà quán nhất thiết pháp không; chẳng đợi bất
khả đắc không mà quán vô tánh không. Chẳng thấy vô tánh không, chẳng đợi
vô tánh không mà quán bất khả đắc không; chẳng đợi vô tánh không mà quán
tự tánh không. Chẳng thấy tự tánh không, chẳng đợi tự tánh không mà quán
vô tánh không; chẳng đợi tự tánh không mà quán vô tánh tự tánh không.
Chẳng thấy vô tánh tự tánh không, chẳng đợi vô tánh tự tánh không mà quán
tự tánh không.
Xá Lợi Tử! Khi hành Bát nhã Ba la mật đa,
nếu Bồ tát Ma ha tát tác khởi quán này, gọi là vào Bồ tát Chánh tánh Ly
sanh.
Lại nữa, Xá Lợi Tử! Khi tu hành Bát nhã Ba
la mật đa các Bồ tát Ma ha tát nên học như vậy: Sắc nên biết chẳng nên
chấp, thọ tưởng hành thức nên biết chẳng nên chấp; danh sắc nên biết chẳng
nên chấp, danh thọ tưởng hành thức nên biết chẳng nên chấp. Nhãn xứ nên
biết chẳng nên chấp, nhĩ tỷ thiệt thân ý xứ nên biết chẳng nên chấp; danh
nhãn xứ nên biết chẳng nên chấp, danh nhĩ tỷ thiệt thân ý xứ nên biết
chẳng nên chấp. Sắc xứ nên biết chẳng nên chấp, thanh hương vị xúc pháp xứ
nên biết chẳng nên chấp; danh sắc xứ nên biết chẳng nên chấp, danh thanh
hương vị xúc pháp xứ nên biết chẳng nên chấp.
Nhãn giới, sắc giới, nhãn thức giới nên
biết chẳng nên chấp; danh nhãn giới, sắc giới, nhãn thức giới nên biết
chẳng nên chấp. Nhĩ giới, thanh giới, nhĩ thức giới nên biết chẳng nên
chấp; danh nhĩ giới, thanh giới, nhĩ thức giới nên biết chẳng nên chấp. Tỷ
giới, hương giới, tỷ thức giới nên biết chẳng nên chấp; danh tỷ giới,
hương giới, tỷ thức giới nên biết chẳng nên chấp. Thiệt giới, vị giới,
thiệt thức giới nên biết chẳng nên chấp; danh thiệt giới, vị giới, thiệt
thức giới nên biết chẳng nên chấp. Thân giới, xúc giới, thân thức giới nên
biết chẳng nên chấp; danh thân giới, xúc giới, thân thức giới nên biết
chẳng nên chấp. Ý giới, pháp giới, ý thức giới nên biết chẳng nên chấp;
danh ý giới, pháp giới, ý thức giới nên biết chẳng nên chấp.
Ðịa giới nên biết chẳng nên chấp, thủy hỏa
phong không thức giới nên biết chẳng nên chấp; danh địa giới nên biết
chẳng nên chấp, danh thủy hỏa phong không thức giới nên biết chẳng nên
chấp.
Khô thánh đế nên biết chẳng nên chấp, tập
diệt đạo thánh đế nên biết chẳng nên chấp; danh khổ thánh đế nên biết
chẳng nên chấp, danh tập diệt đạo thánh đế nên biết chẳng nên chấp.
Vô minh nên biết chẳng nên chấp, hành thức
danh-sắc lục-xứ thọ ái thủ hữu sanh lão tử sầu thán khổ ưu não nên biết
chẳng nên chấp; danh vô minh nên biết chẳng nên chấp, danh hành cho đến
lão tử sầu thán khổ ưu não nên biết chẳng nên chấp.
Bốn tĩnh lự nên biết chẳng nên chấp, bốn
vô lượng, bốn vô sắc định nên biết chẳng nên chấp; danh bốn tĩnh lự nên
biết chẳng nên chấp, danh bốn vô lượng, bốn vô sắc định nên biết chẳng nên
chấp.
Năm nhãn nên biết chẳng nên chấp, sáu thần
thông nên biết chẳng nên chấp; danh năm nhãn nên biết chẳng nên chấp, danh
sáu thần thông nên biết chẳng nên chấp.
Bố thí Ba la mật đa nên biết chẳng nên
chấp, tịnh giới an nhẫn tinh tiến tĩnh lự bát nhã Ba la mật đa nên biết
chẳng nên chấp; danh bố thí Ba la mật đa nên biết chẳng nên chấp, danh
tịnh giới an nhẫn tinh tiến tĩnh lự bát nhã Ba la mật đa nên biết chẳng
nên chấp.
Bốn niệm trụ nên biết chẳng nên chấp; bốn
chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy đẳng giác chi, tám thánh
đạo chi nên biết chẳng nên chấp. Danh bốn niệm trụ nên biết chẳng nên
chấp, danh bốn chánh đoạn cho đến tám thánh đạo chi nên biết chẳng nên
chấp.
Phật mười lực nên biết chẳng nên chấp; bốn
vô sở úy, bốn vô ngại giải, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp
Phật bất cộng, nhất thiết trí, đạo tướng trí, nhất thiết tướng trí nên
biết chẳng nên chấp. Danh Phật mười lực nên biết chẳng nên chấp, danh bốn
vô sở úy cho đến nhất thiết tướng trí nên biết chẳng nên chấp.
Lại nữa, Xá Lợi Tử! Khi tu hành Bát nhã Ba
la mật đa các Bồ tát Ma ha tát nên học như vầy: Bồ đề tâm nên biết chẳng
nên chấp, danh Bồ đề tâm nên biết chẳng nên chấp. Vô đẳng đẳng tâm nên
biết chẳng nên chấp, danh vô đẳng đẳng tâm nên biết chẳng nên chấp. Quảng
đại tâm nên biết chẳng nên chấp, danh quảng đại tâm nên biết chẳng nên
chấp. Vì sao thế? Là tâm này phi tâm, vì bản tánh tịnh vậy.
Lúc ấy, Xá Lợi Tử hỏi Thiện Hiện rằng: Tâm
này vì sao bản tánh thanh tịnh? Thiện Hiện đáp: Bản tánh tâm này chẳng
tương ưng với tham, mà chẳng phải tương ưng. Chẳng tương ưng với sân, mà
chẳng phải chẳng tương ưng. Chẳng tương ưng với si, mà chẳng phải chẳng
tương ưng. Chẳng tương ưng với triền kiết, tùy miên, mà chẳng phải chẳng
tương ưng. Chẳng tương ưng các kiến, thú, lậu, bộc lưu ách thủ thảy, mà
chẳng phải chẳng tương ưng. Chẳng tương ưng các tâm Thanh văn, Ðộc giác
thảy, mà chẳng phải chẳng tương ưng. Xá Lợi Tử! Tâm này bản tánh thanh
tịnh như thế!
Xá Lợi Tử! Tâm này là hữu tâm phi tâm tánh
chăng? Thiện Hiện đáp: Chẳng phải. Hỏi: Trong phi tâm tánh hữu tánh vô
tánh là khá được chăng? Xá Lợi tử nói: Chẳng phải vậy, thưa Ngài! Thiện
Hiện đáp: Trong phi tâm tánh hữu tánh vô tánh đã chẳng khá được, làm sao
nói được tâm này là hữu tâm phi tâm tánh chăng!
Xá Lợi Tử hỏi: Những gì gọi là tâm phi tâm
tánh? Thiện Hiện đáp: Ðối tất cả pháp không biến khác, không phân biệt,
đấy gọi tâm phi tâm tánh. Xá Lợi Tử hỏi rằng: Như tâm không biến khác,
không phân biệt; sắc cũng không biến khác, không phân biệt ư? Thiện Hiện
đáp rằng: Như thế. Hỏi: Như tâm không biến khác, không phân biệt; thọ
tưởng hành thức cũng không biến khác, không phân biệt ư? Ðáp: Như thế.
Hỏi: Như tâm không biến khác, không phân biệt; nhãn xứ cũng không biến
khác, không phân biệt ư? Ðáp: Như thế. Hỏi: Như tâm không biến khác, không
phân biệt; nhĩ tỷ thiệt thân ý xứ cũng không biến khác, không phân biệt ư?
Ðáp: Như thế. Hỏi: Như tâm không biến khác, không phân biệt; sắc xứ cũng
không biến khác, không phân biệt ư? Ðáp: Như thế. Hỏi: Như tâm không biến
khác, không phân biệt; thanh hương vị xúc pháp xứ cũng không biến khác,
không phân biệt ư? Ðáp: Như thế.
Hỏi: Như tâm không biến khác, không phân
biệt; nhãn giới, sắc giới, nhãn thức giới cũng không biến khác, không phân
biệt ư? Ðáp: Như thế. Hỏi: Như tâm không biến khác, không phân biệt; nhĩ
giới, thanh giới, nhĩ thức giới cũng không biến khác, không phân biệt ư?
Ðáp: Như thế. Hỏi: Như tâm không biến khác, không phân biệt; tỷ giới,
hương giới, tỷ thức giới cũng không biến khác, không phân biệt ư? Ðáp: Như
thế.
Hỏi: Như tâm không biến khác, không phân
biệt; thiệt giới, vị giới, thiệt thức giới cũng không biến khác, không
phân biệt ư? Ðáp: Như thế. Hỏi: Như tâm không biến khác, không phân biệt;
thân giới, xúc giới, thân thức giới cũng không biến khác, không phân biệt
ư? Hỏi: Như tâm không biến khác, không phân biệt; ý giới, pháp giới, ý
thức giới cũng không biến khác, không phân biệt ư? Ðáp: Như thế.
Hỏi: Như tâm không biến khác, không phân
biệt; địa giới cũng không biến khác, không phân biệt ư? Ðáp: Như thế. Hỏi:
Như tâm không biến khác, không phân biệt; thủy hỏa phong không thức giới
cũng không biến khác, không phân biệt ư? Ðáp: Như thế.
Hỏi: Như tâm không biến khác, không phân
biệt; khổ thánh đế cũng không biến khác, không phân biệt ư? Ðáp: Như thế.
Hỏi: Như tâm không biến khác, không phân biệt; tập diệt đạo thánh đế cũng
không biến khác, không phân biệt ư? Ðáp: Như thế.
Hỏi: Như tâm không biến khác, không phân
biệt; vô minh cũng không biến khác, không phân biệt ư? Ðáp: Như thế. Hỏi:
Như tâm không biến khác, không phân biệt; hành, thức, danh sắc, lục xứ,
xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lảo tử sầu thán khổ ưu não cũng không biến
khác, không phân biệt ư? Ðáp: Như thế.
Hỏi: Như tâm không biến khác, không phân
biệt; bốn tĩnh lự cũng không biến khác, không phân biệt ư? Ðáp: Như thế.
Hỏi: Như tâm không biến khác, không phân biệt; bốn vô lượng, bốn vô sắc
định cũng không biến khác, không phân biệt ư? Ðáp: Như thế.
Hỏi: Như tâm không biến khác, không phân
biệt; năm nhãn cũng không biến khác, không phân biệt ư? Ðáp: Như thế. Hỏi:
Như tâm không biến khác, không phân biệt; sáu thần thông cũng không biến
khác, không phân biệt ư? Ðáp: Như thế.
Hỏi: Như tâm không biến khác, không phân
biệt; bố thí Ba la mật đa cũng không biến khác, không phân biệt ư? Ðáp:
Như thế. Hỏi: Như tâm không biến khác, không phân biệt; tịnh giới an nhẫn
tinh tiến tĩnh lự bát nhã Ba la mật đa cũng không biến khác, không phân
biệt ư? Ðáp: Như thế.
Hỏi: Như tâm không biến khác, không phân
biệt; bốn niệm trụ cũng không biến khác, không phân biệt ư? Ðáp: Như thế.
Hỏi: Như tâm không biến khác, không phân biệt; bốn chánh đoạn, bốn thần
túc, năm căn, năm lực, bảy đẳng giác chi, tám thánh đạo chi cũng không
biến khác, không phân biệt ư? Ðáp: Như thế.
Hỏi: Như tâm không biến khác, không phân
biệt; Phật mười lực cũng không biến khác, không phân biệt ư? Ðáp: Như thế.
Hỏi: Như tâm không biến khác, không phân biệt; bốn vô sở úy, bốn vô ngại
giải, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng cho đến
Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề cũng không biến khác, không phân biệt ư? Ðáp:
Như thế.
Khi ấy, Xá Lợi Tử khen Thiện Hiện rằng:
Hay thay! Hay thay! Thật như lời đã nói. Ngài là chơn Phật tử, từ tâm Phật
sanh, từ miệng Phật sanh, từ pháp Phật sanh và từ pháp hóa sanh, nhận phần
Phật pháp, chẳng nhận phần của cải; đối trong các pháp, thân tự làm chứng,
huệ nhãn hiện thấy mới năng khởi nói. Ðức Thế Tôn nói Ngài với trong chúng
Thanh văn an trụ định Vô tránh rất là đệ nhất, như lời Phật đã nói, chơn
thật chẳng hư.
Thiện Hiện! Ðối Bát nhã Ba la mật đa, Bồ
tát Ma ha tát nên như vậy mà học. Ðối Bát nhã Ba la mật đa, nếu Bồ tát Ma
ha tát năng học được như vậy, phải biết đã trụ bậc Bất thối chuyển, chẳng
rời Bát nhã Ba la mật đa.
Thiện Hiện! Kẻ muốn học bậc Thanh Văn, nên
cần siêng năng nghe tập, đọc tụng, thọ trì nơi Bát nhã Ba la mật đa, đúng
như lý suy nghĩ, khiến cho rốt ráo. Kẻ muốn học bậc Ðộc giác, nên cần
siêng năng nghe tập, đọc tụng, thọ trì nơi Bát nhã Ba la mật đa, đúng như
lý suy nghĩ, khiến cho rốt ráo. Kẻ muốn học bậc Bồ tát, nên cần siêng năng
nghe tập, đọc tụng, thọ trì nơi Bát nhã Ba la mật đa, đúng như lý suy
nghĩ, khiến cho rốt ráo. Và kẻ muốn học bậc Như Lai, nên cần siêng năng
nghe tập, đọc tụng, thọ trì nơi Bát nhã Ba la mật đa, đúng như lý suy
nghĩ, khiến cho rốt ráo. Vì sao thế? Vì trong Bát nhã Ba la mật đa như
vầy, rộng thuyết khai thị pháp Tam thừa vậy. Nếu Bồ tát Ma ha tát học Bát
nhã Ba la mật đa, thời là học khắp Tam thừa, cũng ở trong pháp Tam thừa
đều được khéo léo.
Bấy giờ, cụ thọ Thiện Hiện thưa Phật: Bạch
Thế Tôn! Ðối Bồ tát Ma ha tát và với Bát nhã Ba la mật đa, tôi đều bất đắc
bất kiến, làm sao khiến tôi đem pháp tương ưng Bát nhã Ba la mật đa dạy
bảo dạy trao các Bồ tát Ma ha tát! Bạch Thế Tôn! Tôi đối các pháp bất đắc
bất kiến, hoặc nhóm hoặc tan, nếu đem pháp này dạy bảo dạy trao các Bồ tát
Ma ha tát, hoặc sẽ có ăn năn. Bạch Thế Tôn! Tôi đối các pháp bất đắc bất
kiến, hoặc nhóm hoặc tan, làm sao nói được: Ðây là Bồ tát Ma ha tát, đây
là Bát nhã Ba la mật đa! Bạch Thế Tôn! Danh Bồ tát Ma ha tát này và danh
Bát nhã Ba la mật đa đều vô sở trụ, cũng chẳng phải chẳng trụ. Vì sao thế?
Là hai danh nghĩa này vì đã vô sở hữu, vậy nên hai danh này đềy vô sở trụ,
cũng chẳng phải chẳng trụ. Bạch Thế Tôn! Tôi đối sắc thọ tưởng hành thức
bất đắc bất kiến, hoặc nhóm hoặc tan, làm sao nói được đây là sắc, cho đến
đây là thức? Bạch Thế Tôn! Danh sắc thảy đây đều vô sở trụ, cũng chẳng
phải chẳng trụ. Vì sao thế? Là danh nghĩa sắc thảy vì đã vô sở hữu, vậy
nên danh sắc thảy đều vô sở trụ, cũng chẳng phải chẳng trụ.
Bạch Thế Tôn! Tôi đối nhãn nhĩ tỷ thiệt
thân ý xứ bất đắc bất kiến, hoặc nhóm hoặc tan, làm sao nói được đây là
nhãn xứ, cho đến ý xứ? Bạch Thế Tôn! Danh nhãn xứ thảy đây đều vô sở trụ,
cũng chẳng phải chẳng trụ. Vì sao thế? Là danh nghĩa nhãn xứ thảy, vì đã
vô sở hữu, vậy nên danh nhãn xứ thảy đều vô sở trụ, cũng chẳng phải chẳng
trụ.
Bạch Thế Tôn! Tôi đối sắc thanh hương vị
xúc pháp xứ bất đắc bất kiến, hoặc nhóm hoặc tan, làm sao nói được đây là
sắc xứ, cho đến đây là pháp xứ? Bạch Thế Tôn! Danh sắc xứ thảy đây đều vô
sở trụ, cũng chẳng phải chẳng trụ. Vì sao thế? Là danh nghĩa sắc xứ thảy,
vì đã vô sở hữu, vậy nên danh sắc xứ thảy đều vô sở trụ, cũng chẳng phải
chẳng trụ.
Bạch Thế Tôn! Tôi đối nhãn giới, sắc giới,
nhãn thức giới và nhãn xúc, nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ bất đắc bất
kiến, hoặc nhóm hoặc tan, làm sao nói được đây là nhãn giới, cho đến đây
là nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ? Bạch Thế Tôn! Danh nhãn giới thảy
đây đều vô sở trụ, cũng chẳng phải chẳng trụ. Vì sao thế? Là danh nghĩa
nhãn giới thảy, vì đã vô sở hữu, vậy nên danh nhãn giới thảy đều vô sở
trụ, cũng chẳng phải chẳng trụ.
Bạch Thế Tôn! Tôi đối nhĩ giới, thanh
giới, nhĩ thức giới và nhĩ xúc, nhĩ xúc làm duyên sanh ra các thọ bất đắc
bất kiến, hoặc nhóm hoặc tan, làm sao nói được đây là nhĩ giới, cho đến
đây là nhĩ xúc làm duyên sanh ra các thọ? Bạch Thế Tôn! Danh nhĩ giới thảy
đây đều vô sở trụ, cũng chẳng phải chẳng trụ. Vì sao thế? Là danh nghĩa
nhĩ giới thảy, vì đã vô sở hữu, vậy nên danh nhĩ giới thảy đều vô sở trụ,
cũng chẳng phải chẳng trụ.
Bạch Thế Tôn! Tôi đối tỷ giới, hương giới,
tỷ thức giới và tỷ xúc, tỷ xúc làm duyên sanh ra các thọ bất đắc bất kiến,
hoặc nhóm hoặc tan, làm sao nói được đây là tỷ giới, cho đến đây là tỷ xúc
làm duyên sanh ra các thọ? Bạch Thế Tôn! Danh tỷ giới thảy đây đều vô sở
trụ, cũng chẳng phải chẳng trụ. Vì sao thế? Là danh nghĩa tỷ giới thảy, vì
đã vô sở hữu, vậy nên danh tỷ giới thảy đều vô sở trụ, cũng chẳng phải
chẳng trụ.
Bạch Thế Tôn! Tôi đối thiệt giới, vị giới,
thiệt thức giới và thiệt xúc, thiệt xúc làm duyên sanh ra các thọ bất đắc
bất kiến, hoặc nhóm hoặc tan, làm sao nói được đây là thiệt giới, cho đến
đây là thiệt xúc làm duyên sanh ra các thọ? Bạch Thế Tôn! Danh thiệt giới
thảy đây đều vô sở trụ, cũng chẳng phải chẳng trụ. Vì sao thế? Là danh
nghĩa thiệt giới thảy, vì đã vô sở hữu, vậy nên danh thiệt giới thảy đều
vô sở trụ, cũng chẳng phải chẳng trụ.
Bạch Thế Tôn! Tôi đối thân giới, xúc giới,
thân thức giới và thân xúc, thân xúc làm duyên sanh ra các thọ bất đắc bất
kiến, hoặc nhóm hoặc tan, làm sao nói được đây là thân giới, cho đến đây
là thân xúc làm duyên sanh ra các thọ? Bạch Thế Tôn! Danh thân giới thảy
đây đều vô sở trụ, cũng chẳng phải chẳng trụ. Vì sao thế? Là danh nghĩa
thân giới thảy, vì đã vô sở hữu, vậy nên danh thân giới thảy đều vô sở
trụ, cũng chẳng phải chẳng trụ.
Bạch Thế Tôn! Tôi đối ý giới, pháp giới, ý
thức giới và ý xúc, ý xúc làm duyên sanh ra các thọ bất đắc bất kiến, hoặc
nhóm hoặc tan, làm sao nói được đây là ý giới, cho đến đây là ý xúc làm
duyên sanh ra các thọ? Bạch Thế Tôn! Danh ý giới thảy đây đều vô sở trụ,
cũng chẳng phải chẳng trụ. Vì sao thế? Là danh nghĩa ý giới thảy, vì đã vô
sở hữu, vậy nên danh ý giới thảy đều vô sở trụ, cũng chẳng phải chẳng trụ.
Bạch Thế Tôn! Tôi đối địa thủy hỏa phong
không thức giới bất đắc bất kiến, hoặc nhóm hoặc tan, làm sao nói được đây
là địa giới, cho đến đây là thức giới? Bạch Thế Tôn! Danh địa giới thảy
đây đều vô sở trụ, cũng chẳng phải chẳng trụ. Vì sao thế? Là danh nghĩa
địa giới thảy, vì đã vô sở hữu, vậy nên danh địa giới thảy đều vô sở trụ,
cũng chẳng phải chẳng trụ.
Bạch Thế Tôn! Tôi đối khổ tập diệt đạo
thánh đế bất đắc bất kiến, hoặc nhóm hoặc tan, làm sao nói được đây là khổ
thánh đế, cho đến đây là đạo thánh đế? Bạch Thế Tôn! Danh khổ thánh đế
thảy đây đều vô sở trụ, cũng chẳng phải chẳng trụ. Vì sao thế? Là danh
nghĩa khổ thánh đế thảy, vì đã vô sở hữu, vậy nên danh khổ thánh đế thảy
đều vô sở trụ, cũng chẳng phải chẳng trụ.
Bạch Thế Tôn! Tôi đối vô minh, hành, thức,
danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử sầu thán khổ ưu não
bất đắc bất kiến, hoặc nhóm hoặc tan, làm sao nói được đây là vô minh, cho
đến đây là lão tử sầu thán khổ ưu não? Bạch Thế Tôn! Danh vô minh thảy đây
đều vô sở trụ, cũng chẳng phải chẳng trụ. Vì sao thế? Là danh nghĩa vô
minh thảy, vì đã vô sở hữu, vậy nên danh vô minh thảy đều vô sở trụ, cũng
chẳng phải chẳng trụ. Bạch Thế Tôn! Tôi đối vô minh diệt, cho đến lão tử
sầu thán khổ ưu não diệt bất đắc bất kiến, hoặc nhóm hoặc tan, làm sao nói
được đây là vô minh diệt, cho đến đây là lão tử sầu thán khổ ưu não diệt?
Bạch Thế Tôn! Danh vô minh diệt thảy đây đều vô sở trụ, cũng chẳng phải
chẳng trụ. Vì sao thế? Là danh nghĩa vô minh diệt thảy, vì đã vô sở hữu,
vậy nên danh vô minh diệt thảy đều vô sở trụ, cũng chẳng phải chẳng trụ.
Bạch Thế Tôn! Tôi đối tham, sân, si, triền
kiết, tùy miên, kiến thủ, bất thiện căn thảy bất đắc bất kiến, hoặc nhóm
hoặc tan, làm sao nói được đây là tham thảy, cho đến đây là bất thiện
thảy? Bạch Thế Tôn! Danh tham thảy đây đều vô sở trụ, cũng chẳng phải
chẳng trụ. Vì sao thế? Là danh nghĩa tham thảy, vì đã vô sở hữu, vậy nên
danh tham thảy đều vô sở trụ, cũng chẳng phải chẳng trụ.
Bạch Thế Tôn! Tôi đối bốn tĩnh lự, bốn vô
lượng, bốn vô sắc định bất đắc bất kiến, hoặc nhóm hoặc tan, làm sao nói
được đây là bốn tĩnh lự, cho đến đây là bốn vô sắc định? Bạch Thế Tôn!
Danh bốn tĩnh lự thảy đây đều vô sở trụ, cũng chẳng phải chẳng trụ. Vì sao
thế? Là danh nghĩa bốn tĩnh lự thảy, vì đã vô sở hữu, vậy nên danh bốn
tĩnh lự thảy đều vô sở trụ, cũng chẳng phải chẳng trụ.
Nguồn: www.quangduc.com