Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa
(Trọn bộ 24 tập)

Hán dịch: Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang
Việt dịch: Hòa Thượng Thích Trí Nghiêm
Khảo dịch: Hòa Thượng Thích Thiện Siêu
Sàigòn - 1998

--- o0o ---

Tập 3

 

Quyển Thứ 57

Hội Thứ Nhất

Phẩm Khen Ðại Thừa

Thứ 16 – 2

 

Lại nữa, Thiện Hiện!  Nếu chơn như thật có tánh ấy, thời Ðại thừa đây chẳng phải tôn, chẳng phải diệu, chẳng vượt tất cả thế gian, trời, người, a tố lạc thảy.  Bởi chơn như chẳng phải thật có tánh vậy, nên Ðại thừa đây là tôn là diệu, vượt hơn tất cả thế gian, trời, người, a tố lạc thảy.  Thiện Hiện!  Nếu pháp giới, pháp tánh, bất hư vọng tánh, bất biến dị tánh, bình đẳng tánh, ly sanh tánh, bất tư nghì giới, hư không giới, đoạn giới, ly giới, diệt giới, vô tánh giới, vô tướng giới, vô tác giới, vô vi giới, an ẩn giới, tịch tĩnh giới, pháp định, pháp trụ, bổn vô, thật tế thật có tánh ấy.  Thời Ðại thừa đây chẳng phải tôn, chẳng phải diệu, chẳng vượt tất cả thế gian, trời, người, a tố lạc thảy.  Bởi pháp giới cho đến thật tế, chẳng phải thật có tánh vậy, nên Ðại thừa đây là tôn là diệu, vượt hơn tất cả thế gian, trời, người, a tố lạc thảy.

Thiện Hiện!  Nếu nội không thật có tánh ấy, thời Ðại thừa đây chẳng phải tôn, chẳng phải diệu, chẳng vượt tất cả thế gian, trời, người, a tố lạc thảy.  Bởi nội không chẳng phải thật có tánh vậy, nên Ðại thừa đây là tôn là diệu, vượt hơn tất cả thế gian, trời, người, a tố lạc thảy.  Thiện Hiện!  Nếu ngoại không, nội ngoại không, không không, đại không, thắng nghĩa không, hữu vi không, vô vi không, tất cảnh không, vô tế không, tán không, vô biến dị không, bổn tánh không, tự tướng không, cộng tướng không, nhất thiết pháp không, bất khả đắc không, vô tánh không, tự tánh không, vô tánh tự tánh không thật có tánh ấy.  Thời Ðại thừa đây chẳng phải tôn, chẳng phải diệu, chẳng vượt tất cả thế gian, trời, người, a tố lạc thảy.  Bởi ngoại không cho đến vô tánh tự tánh không, chẳng phải thật có tánh vậy, nên Ðại thừa đây là tôn là diệu, vượt hơn tất cả thế gian, trời, người, a tố lạc thảy.

Thiện Hiện!  Nếu bố thí Ba la mật đa thật có tánh ấy, thời Ðại thừa đây chẳng phải tôn, chẳng phải diệu, chẳng vượt tất cả thế gian, trời, người, a tố lạc thảy.  Bởi bố thí Ba la mật đa chẳng phải thật có tánh vậy, nên Ðại thừa đây là tôn là diệu, vượt hơn tất cả thế gian, trời, người, a tố lạc thảy.  Thiện Hiện!  Nếu tịnh giới an nhẫn tinh tiến tĩnh lự bát nhã Ba la mật đa thật có tánh ấy.  Thời Ðại thừa đây chẳng phải tôn, chẳng phải diệu, chẳng vượt tất cả thế gian, trời, người, a tố lạc thảy.  Bởi tịnh giới an nhẫn tinh tiến tĩnh lự bát nhã Ba la mật đa chẳng phải thật có tánh vậy, nên Ðại thừa đây là tôn là diệu, vượt hơn tất cả thế gian, trời, người, a tố lạc thảy.

Thiện Hiện!  Nếu bốn tĩnh lự thật có tánh ấy, thời Ðại thừa đây chẳng phải tôn, chẳng phải diệu, chẳng vượt tất cả thế gian, trời, người, a tố lạc thảy.  Bởi bốn tĩnh lự chẳng phải thật có tánh vậy, nên Ðại thừa đây là tôn là diệu, vượt hơn tất cả thế gian, trời, người, a tố lạc thảy.  Thiện Hiện!  Nếu bốn vô lượng, bốn vô sắc định thật có tánh ấy, thời Ðại thừa đây chẳng phải tôn, chẳng phải diệu, chẳng vượt tất cả thế gian, trời, người, a tố lạc thảy.  Bởi bốn vô lượng, bốn vô sắc định chẳng phải thật có tánh vậy, nên Ðại thừa đây là tôn là diệu, vượt hơn tất cả thế gian, trời, người, a tố lạc thảy.

Thiện Hiện!  Nếu bốn niệm trụ thật có tánh ấy, thời Ðại thừa đây chẳng phải tôn, chẳng phải diệu, chẳng vượt tất cả thế gian, trời, người, a tố lạc thảy.  Bởi bốn niệm trụ chẳng phải thật có tánh vậy, nên Ðại thừa đây là tôn là diệu, vượt hơn tất cả thế gian, trời, người, a tố lạc thảy.  Thiện Hiện!  Nếu bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy đẳng giác chi, tám thánh đạo chi thật có tánh ấy.  Thời Ðại thừa đây chẳng phải tôn, chẳng phải diệu, chẳng vượt tất cả thế gian, trời, người, a tố lạc thảy.  Bởi bốn chánh đoạn cho đến tám thánh đạo chi, chẳng phải thật có tánh vậy, nên Ðại thừa đây là tôn là diệu, vượt hơn tất cả thế gian, trời, người, a tố lạc thảy.

Thiện Hiện!  Nếu không giải thoát môn, thật có tánh ấy, thời Ðại thừa đây chẳng phải tôn, chẳng phải diệu, chẳng vượt tất cả thế gian, trời, người, a tố lạc thảy.  Bởi không giải thoát môn chẳng phải thật có tánh vậy, nên Ðại thừa đây là tôn là diệu, vượt hơn tất cả thế gian, trời, người, a tố lạc thảy.  Thiện Hiện!  Nếu vô tướng, vô nguyện giải thoát môn thật có tánh ấy, thời Ðại thừa đây chẳng phải tôn, chẳng phải diệu, chẳng vượt tất cả thế gian, trời, người, a tố lạc thảy.  Bởi vô tướng, vô nguyện giải thoát môn, chẳng phải thật có tánh vậy, nên Ðại thừa đây là tôn là diệu, vượt hơn tất cả thế gian, trời, người, a tố lạc thảy.

Thiện Hiện!  Nếu năm nhãn thật có tánh ấy, thời Ðại thừa đây chẳng phải tôn, chẳng phải diệu, chẳng vượt tất cả thế gian, trời, người, a tố lạc thảy.  Bởi năm nhãn chẳng phải thật có tánh vậy, nên Ðại thừa đây là tôn là diệu, vượt hơn tất cả thế gian, trời, người, a tố lạc thảy.  Thiện Hiện!  Nếu sáu thần thông thật có tánh ấy, thời Ðại thừa đây chẳng phải tôn, chẳng phải diệu, chẳng vượt tất cả thế gian, trời, người, a tố lạc thảy.  Bởi sáu thần thông chẳng phải thật có tánh vậy, nên Ðại thừa đây là tôn là diệu, vượt hơn tất cả thế gian, trời, người, a tố lạc thảy.

Thiện Hiện!  Nếu Phật mười lực thật có tánh ấy, thời Ðại thừa đây chẳng phải tôn, chẳng phải diệu, chẳng vượt tất cả thế gian, trời, người, a tố lạc thảy.  Bởi Phật mười lực chẳng phải thật có tánh vậy, nên Ðại thừa đây là tôn là diệu, vượt hơn tất cả thế gian, trời, người, a tố lạc thảy.  Thiện Hiện!  Nếu bốn vô sở úy, bốn vô ngại giải, đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, mười tám pháp Phật bất cộng, nhất thiết trí, đạo tướng trí, nhất thiết tướng trí thật có tánh ấy, thời Ðại thừa đây chẳng phải tôn, chẳng phải diệu, chẳng vượt tất cả thế gian, trời, người, a tố lạc thảy.  Bởi bốn vô sở úy cho đến nhất thiết tướng trí, chẳng phải thật có tánh vậy, nên Ðại thừa đây là tôn là diệu, vượt hơn tất cả thế gian, trời, người, a tố lạc thảy.

Thiện Hiện!  Nếu Thập địa Bồ tát thật có tánh ấy, thời Ðại thừa đây chẳng phải tôn, chẳng phải diệu, chẳng vượt tất cả thế gian, trời, người, a tố lạc thảy.  Bởi Thập địa Bồ tát chẳng phải thật có tánh vậy, nên Ðại thừa đây là tôn là diệu, vượt hơn tất cả thế gian, trời, người, a tố lạc thảy.  Thiện Hiện!  Nếu Tịnh quán địa, Chủng tánh địa, Ðệ bát địa, Dự lưu pháp, Nhất lai pháp, Bất hoàn pháp, A la hán pháp, Ðộc giác pháp, Bồ tát Ma ha tát pháp, Tam miệu tam Phật đà pháp thật có tánh ấy, thời Ðại thừa đây chẳng phải tôn, chẳng phải diệu, chẳng vượt tất cả thế gian, trời, người, a tố lạc thảy.  Bởi Tịnh quán địa, Chủng tánh địa, Ðệ bát địa pháp, cho đến Tam miệu tam Phật đà pháp chẳng phải thật có tánh vậy, nên Ðại thừa đây là tôn là diệu, vượt hơn tất cả thế gian, trời, người, a tố lạc thảy.

Thiện Hiện!  Nếu Tịnh quán địa bổ đặc già la thật có tánh ấy, thời Ðại thừa đây chẳng phải tôn, chẳng phải diệu, chẳng vượt tất cả thế gian, trời, người, a tố lạc thảy.  Bởi Tịnh quán địa bổ đặc già la chẳng phải thật có tánh vậy, nên Ðại thừa đây là tôn là diệu, vượt hơn tất cả thế gian, trời, người, a tố lạc thảy.  Thiện Hiện!  Nếu Chủng tánh địa bổ đặc già la, Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn, A la hán, Ðộc giác, Bồ tát Ma ha tát, Tam miệu tam Phật đà thật có tánh ấy, thời Ðại thừa đây chẳng phải tôn, chẳng phải diệu, chẳng vượt tất cả thế gian, trời, người, a tố lạc thảy.  Bởi Chủng tánh  địa bổ đặc già la cho đến Tam miệu tam Phật đà chẳng phải thật có tánh vậy, nên Ðại thừa đây là tôn là diệu, vượt hơn tất cả thế gian, trời, người, a tố lạc thảy.

Thiện Hiện!  Nếu tất cả thế gian, trời, người, a tố lạc thật có tánh ấy, thời Ðại thừa đây chẳng phải tôn, chẳng phải diệu, chẳng vượt tất cả thế gian, trời, người, a tố lạc thảy.  Bởi tất cả thế gian, trời, người, a tố lạc thảy chẳng phải thật có tánh vậy, nên Ðại thừa đây là tôn là diệu, vượt hơn tất cả thế gian, trời, người, a tố lạc thảy.

Thiện Hiện!  Nếu Bồ tát Ma ha tát sơ phát tâm cho đến được ngồi tòa diệu Bồ đề, trong thời gian giữa khởi lên các tâm thật có tánh ấy, thời Ðại thừa đây chẳng phải tôn, chẳng phải diệu, chẳng vượt tất cả thế gian, trời, người, a tố lạc thảy.  Bởi Bồ tát Ma ha tát từ sơ phát tâm cho đến được ngồi tòa diệu Bồ đề, trong thời gian giữa khởi lên các tâm chẳng phải thật có tánh vậy, nên Ðại thừa đây là tôn là diệu, vượt hơn tất cả thế gian, trời, người, a tố lạc thảy.

Thiện Hiện!  Nếu trí Kim cương dụ của Bồ tát Ma ha tát thật có tánh ấy, thời Ðại thừa đây chẳng phải tôn, chẳng phải diệu, chẳng vượt tất cả thế gian, trời, người, a tố lạc thảy.  Bởi trí Kim cương dụ của Bồ tát Ma ha tát chẳng phải thật có tánh vậy, nên Ðại thừa đây là tôn là diệu, vượt hơn tất cả thế gian, trời, người, a tố lạc thảy.  Thiện Hiện!  Nếu trí Kim cương dụ của Bồ tát Ma ha tát sở dứt tập khí phiền não nối nhau thật có tánh ấy, thời trí Kim cương dụ năng dứt đây, chẳng thể đạt được cái lẽ dứt kia, là đều vô tự tánh đã chứng được Nhất thiết trí trí.  Bởi trí Kim cương dụ sở dứt tập khí phiền não nối nhau chẳng phải thật có tánh vậy, nên trí Kim cương dụ năng dứt đây mới năng thấu đạt được cái bị dứt kia, là đều vô tự tánh đã chứng được Nhất thiết trí trí.

Thiện Hiện!  Nếu ba mươi hai đại sĩ tướng và tám mươi tùy hảo được trang nghiêm nơi thân của các Ðức Như Lai Ứng Chánh Ðẳng Giác thật có tánh ấy, thời oai quang diệu đức của các Ðức Như Lai Ứng Chánh Ðẳng Giác chẳng vượt tất cả thế gian, trời, người, a tố lạc thảy.  Bởi ba mươi hai đại sĩ tướng và tám mươi tùy hảo trang nghiêm nơi thân các Ðức Như Lai Ứng Chánh Ðẳng Giác chẳng phải thật có tánh vậy, nên oai quang diệu đức của các Ðức Như Lai Ứng Chánh Ðẳng Giác vượt hơn tất cả thế gian, trời, người, a tố lạc thảy.

Thiện Hiện!  Nếu quang minh của các Ðức Như Lai Ứng Chánh Ðẳng Giác đã phóng ra thật có tánh ấy, thời quang minh của các Ðức Như Lai Ứng Chánh Ðẳng Giác đã phóng ra đó, chẳng thể soi khắp được thế giới các Phật mười phương đều nhiều hơn hằng hà sa thảy.  Bởi quang minh của các Ðức Như Lai Ứng Chánh Ðẳng Giác đã phóng ra đó, chẳng phải thật có tánh vậy, nên quang minh của các Ðức Như Lai Ứng Chánh Ðẳng Giác đã phóng ra đó, đều năng soi khắp được thế giới các Phật mười phương, đều nhiều hơn hằng hà sa thảy.

Thiện Hiện!  Nếu các Như Lai Ứng Chánh Ðẳng Giác được đủ sáu mươi các thứ tiếng tăm mỹ diệu thật có tánh ấy, thời các Như Lai Ứng Chánh Ðẳng Giác được đủ sáu mươi các thứ tiếng tăm mỹ diệu, chẳng năng khắp các thế giới các Phật mười phương vô lượng vô số trăm ngàn trăm ức muôn ức hằng hà sa thảy.  Bởi các Như Lai Ứng Chánh Ðẳng Giác được đủ sáu mươi các thứ tiếng tăm mỹ diệu, chẳng phải thật có tánh vậy, nên các Như Lai Ứng Chánh Ðẳng Giác được đủ sáu mươi các thứ tiếng tăm mỹ diệu, đều năng khắp các thế giới các Phật mười phương vô lượng vô số trăm ngàn trăm ức muôn ức hằng hà sa thảy.

Thiện Hiện!  Nếu các Như Lai Ứng Chánh Ðẳng Giác đã quay xe pháp thật có tánh ấy, thời các Như Lai Ứng Chánh Ðẳng Giác đã quay xe pháp chẳng cực thanh tịnh, cũng chẳng phải là tất cả thế gian, Sa môn, Bà la môn, Trời, Ma, Phạm thảy chẳng thể nào quay được.  Bởi các Như Lai Ứng Chánh Ðẳng Giác đã quay xe pháp chẳng phải thật có tánh vậy, nên các Như Lai Ứng Chánh Ðẳng Giác đã quay xe pháp rất cực thanh tịnh, tất cả thế gian, Sa môn, Bà la môn, Trời, Ma, Phạm thảy chẳng thể nào quay được.

Thiện Hiện!  Nếu các Như Lai Ứng Chánh Ðẳng Giác quay xe diệu pháp hữu tình khắp nhờ thật có tánh ấy, thời các Như Lai Ứng Chánh Ðẳng Giác đã quay xe pháp, chẳng thể khiến các loại hữu tình kia đối với cõi Vô dư y Niết bàn đã vào, đang vào, sẽ vào Niết bàn.  Bởi các Như Lai Ứng Chánh Ðẳng Giác quay xe diệu pháp hữu tình khắp nhờ chẳng phải thật có tánh vậy, nên các Như Lai Ứng Chánh Ðẳng Giác đã quay xe pháp, đều năng khiến được các loại hữu tình kia đối với cõi Vô dư y Niết bàn đã vào, đang vào, sẽ vào Niết bàn.

Thiện Hiện!  Do vì vô lượng nhân duyên như vậy thảy, nên nói Ðại thừa vượt hơn tất cả thế gian, trời, người, a tố lạc thảy, rất tôn rất diệu.

Lại nữa, Thiện Hiện!  Ngươi nói Ðại thừa như vậy cùng hư không ngang đồng ấy.  Như vậy, như vậy.  Như lời ngươi vừa nói.  Sở vì sao?  Thiện Hiện!  Ví như hư không chẳng có phương phần đông tây nam bắc, tứ duy, thượng hạ khá được.  Ðại thừa cũng vậy, chẳng có phương phần đông tây nam bắc, tứ duy, thượng hạ khá được, nên nói Ðại thừa cùng hư không ngang đồng.

Thiện Hiện!  Lại như hư không chẳng có dài ngắn vuông tròn cao thấp tà chính hình sắc khá được.  Ðại thừa cũng vậy, chẳng có dài ngắn vuông tròn cao thấp tà chính hình sắc khá được, nên nói Ðại thừa cùng hư không ngang đồng.  Thiện Hiện!  Lại như hư không chẳng có xanh vàng đỏ trắng đen tím hay màu hồ thủy thảy các hiển sắc khá được.  Ðại thừa cũng vậy, chẳng có xanh vàng đỏ trắng đen tím hay mầu hồ thủy thảy các hiển sắc khá được, nên nói Ðại thừa cùng hư không ngang đồng.

Thiện Hiện!  Lại như hư không chẳng quá khứ vị lai hiện tại.  Ðại thừa cũng vậy, chẳng quá khứ vị lai hiện tại, nên nói Ðại thừa cùng hư không ngang đồng.  Thiện Hiện!  Lại như hư không chẳng tăng chẳng giảm, chẳng tiến chẳng thối.  Ðại thừa cũng vậy, chẳng tăng chẳng giảm, chẳng tiến chẳng thối, nên nói Ðại thừa cùng hư không ngang đồng.

Thiện Hiện!  Lại như hư không chẳng tạp nhiễm, chẳng thanh tịnh.  Ðại thừa cũng vậy, chẳng tạp nhiễm, chẳng thanh tịnh, nên nói Ðại thừa cùng hư không ngang đồng.  Thiện Hiện!  Lại như hư không chẳng sanh chẳng diệt, chẳng trụ chẳng dị.  Ðại thừa cũng vậy, chẳng sanh chẳng diệt, chẳng trụ chẳng dị, nên nói Ðại thừa cùng hư không ngang đồng.  Thiện Hiện!  Lại như hư không chẳng thiện chẳng phi thiện, chẳng hữu ký chẳng vô ký.  Ðại thừa cũng vậy, chẳng thiện chẳng phi thiện, chẳng hữu ký chẳng vô ký, nên nói Ðại thừa cùng hư không ngang đồng.

Thiện Hiện!  Lại như hư không chẳng thấy chẳng nghe, chẳng giác chẳng biết.  Ðại thừa cũng vậy, chẳng thấy chẳng nghe, chẳng giác chẳng biết, nên nói Ðại thừa cùng hư không ngang đồng.  Thiện Hiện!  Lại như hư không chẳng sở tri, chẳng sở đạt.  Ðại thừa cũng vậy, chẳng sở tri, chẳng sở đạt, nên nói Ðại thừa cùng hư không ngang đồng.  Thiện Hiện!  Lại như hư không chẳng biến tri, chẳng vĩnh đoạn, chẳng tác chứng, chẳng tu tập.  Ðại thừa cũng vậy, chẳng biến tri, chẳng vĩnh đoạn, chẳng tác chứng, chẳng tu tập, nên nói Ðại thừa cùng hư không ngang đồng.  Thiện Hiện!  Lại như hư không chẳng dị thục, chẳng có pháp dị thục.  Ðại thừa cũng vậy, chẳng dị thục, chẳng có pháp dị thục, nên nói Ðại thừa cùng hư không ngang đồng.

Thiện Hiện!  Lại như hư không chẳng có pháp tham, chẳng có pháp lìa tham.  Ðại thừa cũng vậy, chẳng có pháp tham, chẳng có pháp lìa tham, nên nói Ðại thừa cùng hư không ngang đồng.  Thiện Hiện!  Lại như hư không chẳng có pháp sân, chẳng có pháp lìa sân.  Ðại thừa cũng vậy, chẳng có pháp sân, chẳng có pháp lìa sân, nên nói Ðại thừa cùng hư không ngang đồng.  Thiện Hiện!  Lại như hư không chẳng có pháp si, chẳng có pháp lìa si.  Ðại thừa cũng vậy, chẳng có pháp si, chẳng có pháp lìa si, nên nói Ðại thừa cùng hư không ngang đồng.

Thiện Hiện!  Lại như hư không chẳng đọa cõi Dục, chẳng đọa cõi Sắc, chẳng đọa cõi Vô sắc.  Ðại thừa cũng vậy, chẳng đọa cõi Dục, chẳng đọa cõi Sắc, chẳng đọa cõi Vô sắc, nên nói Ðại thừa cùng hư không ngang đồng.

Thiện Hiện!  Lại như hư không chẳng có sơ địa phát tâm khá được cho đến đệ thập địa phát tâm khá được.  Ðại thừa cũng vậy, chẳng có sơ địa phát tâm cho đến đệ thập địa phát tâm khá được, nên nói Ðại thừa cùng hư không ngang đồng.  Thiện Hiện!  Lại như hư không chẳng có Tịnh quán địa, Chủng tánh địa, Ðệ bát địa, Cụ kiến địa, Bạc địa, Ly dục địa, Dĩ biện địa, Ðộc giác địa, Bồ tát địa, Như Lai địa khá được.  Ðại thừa cũng vậy, chẳng có Tịnh quán địa cho đến Như Lai địa khá được, nên nói Ðại thừa cùng hư không ngang đồng.

Thiện Hiện!  Lại như hư không chẳng có Dự lưu hướng Dự lưu quả, Nhất lai hướng Nhất lai quả, Bất hoàn hướng Bất hoàn quả, A la hán hướng A la hán quả, Ðộc giác hướng Ðộc giác quả, Bồ tát, Như Lai khá được.  Ðại thừa cũng vậy, chẳng có Dự lưu hướng Dự lưu quả cho đến Bồ tát, Như Lai khá được, nên nói Ðại thừa cùng hư không ngang đồng.  Thiện Hiện!  Lại như hư không chẳng có Thanh văn địa, Ðộc giác địa, Chánh đẳng giác địa khá được.  Ðại thừa cũng vậy, chẳng có Thanh văn địa, Ðộc giác địa, Chánh đẳng giác địa khá được, nên nói Ðại thừa cùng hư không ngang đồng.

Thiện Hiện!  Lại như hư không chẳng có hữu sắc chẳng có vô sắc, chẳng hữu kiến chẳng vô kiến, chẳng hữu đối chẳng vô đối, chẳng tương ưng chẳng bất tương ưng.  Ðại thừa cũng vậy, chẳng có hữu sắc chẳng có vô sắc, chẳng hữu kiến chẳng vô kiến, chẳng hữu đối chẳng vô đối, chẳng tương ưng chẳng bất tương ưng, nên nói Ðại thừa cùng hư không ngang đồng.

Thiện Hiện!  Lại như hư không chẳng thường chẳng vô thường, chẳng vui chẳng khổ, chẳng ngã chẳng vô ngã, chẳng tịnh chẳng bất tịnh.  Ðại thừa cũng vậy, chẳng thường chẳng vô thường, chẳng vui chẳng khổ, chẳng ngã chẳng vô ngã, chẳng tịnh chẳng bất tịnh, nên nói Ðại thừa cùng hư không ngang đồng.

Thiện Hiện!  Lại như hư không chẳng không chẳng bất không, chẳng hữu tướng chẳng vô tướng, chẳng hữu nguyện chẳng vô nguyện.  Ðại thừa cũng vậy, chẳng không chẳng bất không, chẳng hữu tướng chẳng vô tướng, chẳng hữu nguyện chẳng vô nguyện, nên nói Ðại thừa cùng hư không ngang đồng.

Thiện Hiện!  Lại như hư không chẳng vắng lặng chẳng phải chẳng vắng lặng, chẳng xa lìa chẳng phải chẳng xa lìa.  Ðại thừa cũng vậy, chẳng vắng lặng chẳng phải chẳng vắng lặng, chẳng xa lìa chẳng phải chẳng xa lìa, nên nói Ðại thừa cùng hư không ngang đồng.

Thiện Hiện! Lại như hư không chẳng sáng chẳng tối.  Ðại thừa cũng vậy, chẳng sáng chẳng tối, nên nói Ðại thừa cùng hư không ngang đồng.

Thiện Hiện!  Lại như hư không chẳng phải uẩn xứ giới, chẳng phải lìa uẩn xứ giới.  Ðại thừa cũng vậy, chẳng phải uẩn xứ giới, chẳng phải lìa uẩn  xứ giới, nên nói Ðại thừa cùng hư không ngang đồng.

Thiện Hiện!  Lại như hư không chẳng phải khả đắc chẳng phải bất khả đắc.  Ðại thừa cũng vậy, chẳng phải khả đắc chẳng phải bất khả đắc, nên nói Ðại thừa cùng hư không ngang đồng.  Thiện Hiện!  Lại như hư không chẳng phải khả thuyết chẳng phải bất khả thuyết.  Ðại thừa cũng vậy, chẳng phải khả thuyết chẳng phải bất khả thuyết, nên nói Ðại thừa cùng hư không ngang đồng.

Thiện Hiện!  Do vì vô lượng nhân duyên như vậy thảy, cho nên mới nói Ðại thừa cùng hư không ngang đồng.

Lại nữa, Thiện Hiện!  Ngươi nói ví như hư không năng khắp trùm chứa vô số vô lượng vô biên hữu tình.  Ðại thừa cũng vậy, năng khắp trùm chứa vô số vô lượng vô biên hữu tình ấy.  Như vậy, như lời Ngươi vừa nói.  Sở vì sao?  Thiện Hiện!  Vì hữu tình vô sở hữu, nên phải biết hư không cũng vô sở hữu.  Vì hư không vô sở hữu, nên phải biết Ðại thừa cũng vô sở hữu.  Do nghĩa như thế, nên nói Ðại thừa năng khắp trùm chứa vô số vô lượng vô biên hữu tình.  Vì cớ sao?  Thiện Hiện!  Hoặc hữu tình, hoặc hư không, hoặc Ðại thừa.  Tất cả như vậy đều vô sở hữu, bất khả đắc vậy.

Lại nữa, Thiện Hiện!  Vì hữu tình vô số vô lượng vô biên, nên phải biết hư không cũng vô số vô lượng vô biên.  Vì hư không vô số vô lượng vô biên, nên phải biết Ðại thừa cũng vô số vô lượng vô biên.  Do nghĩa như thế, nên nói Ðại thừa năng khắp trùm chứa vô số vô lượng vô biên hữu tình.  Vì cớ sao?  Thiện Hiện!  Hoặc hữu tình vô số vô lượng vô biên, hoặc hư không vô số vô lượng vô biên, hoặc Ðại thừa vô số vô lượng vô biên.  Tất cả như vậy đều vô sở hữu, bất khả đắc vậy.

Lại nữa, Thiện Hiện!  Vì hữu tình vô sở hữu, nên phải biết hư không cũng vô sở hữu.  Vì hư không vô sở hữu, nên phải biết Ðại thừa cũng vô sở hữu.  Vì Ðại thừa vô sở hữu, nên phải biết vô số cũng vô sở hữu.  Vì vô số vô sở hữu, nên phải biết vô lượng cũng vô sở hữu.  Vì vô lượng vô sở hữu, nên phải biết vô biên cũng vô sở hữu.  Vì vô biên vô sở hữu, nên phải biết tất cả pháp cũng vô sở hữu.  Do nghĩa như thế, nên nói Ðại thừa năng khắp trùm chứa vô số vô lượng vô biên hữu tình.  Vì cớ sao?  Thiện Hiện!  Hoặc hữu tình, hoặc hư không, hoặc Ðại thừa, hoặc vô số, hoặc vô lượng, hoặc vô biên, hoặc tất cả pháp.  Tất cả như vậy đều vô sở hữu, bất khả đắc vậy.

Lại nữa, Thiện Hiện!  Vì ngã vô sở hữu, nên phải biết hữu tình cũng vô sở hữu.  Vì hữu tình vô sở hữu, nên phải biết mạng giả cũng vô sở hữu.  Vì mạng giả vô sở hữu, nên phải biết sanh giả cũng vô sở hữu.  Vì sanh giả vô sở hữu, nên phải biết dưỡng giả cũng vô sở hữu.  Vì dưỡng giả vô sở hữu, nên phải biết sĩ phu cũng vô sở hữu.  Vì sĩ phu vô sở hữu, nên phải biết bổ đặc già la cũng vô sở hữu.  Vì bổ đặc già la vô sở hữu, nên phải biết ý sanh cũng vô sở hữu.  Vì ý sanh vô sở hữu, nên phải biết nho đồng cũng vô sở hữu.  Vì nho đồng vô sở hữu, nên phải biết tác giả cũng vô sở hữu.  Vì tác giả vô sở hữu, nên phải biết khiến tác giả cũng vô sở hữu.  Vì khiến tác giả vô sở hữu, nên phải biết khởi giả cũng vô sở hữu.  Vì khởi giả vô sở hữu, nên phải biết khiến khởi giả cũng vô sở hữu.  Vì khiến khởi giả vô sở hữu nên phải biết thọ giả cũng vô sở hữu.  Vì thọ giả vô sở hữu, nên phải biết khiến thọ giả cũng vô sở hữu.  Vì khiến thọ giả vô sở hữu, nên phải biết tri giả cũng vô sở hữu.  Vì tri giả vô sở hữu, nên phải biết kiến giả cũng vô sở hữu.  Vì kiến giả vô sở hữu, nên phải biết hư không cũng vô sở hữu.  Vì hư không vô sở hữu, nên phải biết Ðại thừa cũng vô sở hữu.  Vì Ðại thừa vô sở hữu, nên phải biết vô số cũng vô sở hữu.  Vì vô số vô sở hữu, nên phải biết vô lượng cũng vô sở hữu.  Vì vô lượng vô sở hữu, nên phải biết vô biên cũng vô sở hữu.  Vì vô biên vô sở hữu, nên phải biết tất cả pháp cũng vô sở hữu.  Do nghĩa như thế, nên nói Ðại thừa năng khắp trùm chứa vô số vô lượng vô biên hữu tình.  Vì cớ sao?  Thiện Hiện!  Hoặc ngã cho đến kiến giả, hoặc hư không, hoặc Ðại thừa, hoặc vô số, hoặc vô lượng, hoặc vô biên, hoặc tất cả pháp.  Tất cả như vậy đều vô sở hữu, bất khả đắc vậy.

Lại nữa, Thiện Hiện!  Vì ngã cho đến kiến giả vô sở hữu, nên phải biết chơn như cũng vô sở hữu.  Vì chơn như vô sở hữu, nên phải biết pháp giới cũng vô sở hữu.  Vì pháp giới vô sở hữu, nên phải biết pháp tánh cũng vô sở hữu.  Vì pháp tánh vô sở hữu, nên phải biết bất hư vọng tánh cũng vô sở hữu.  Vì bất hư vọng tánh vô sở hữu, nên phải biết bất biến dị tánh cũng vô sở hữu.  Vì bất biến dị tánh vô sở hữu, nên phải biết bình đẳng tánh cũng vô sở hữu.  Vì bình đẳng tánh vô sở hữu, nên phải biết ly sanh tánh cũng vô sở hữu.  Vì ly sanh tánh vô sở hữu, nên phải biết bất tư nghì giới cũng vô sở hữu.  Vì bất tư nghì giới vô sở hữu, nên phải biết hư không giới cũng vô sở hữu.  Vì hư không giới vô sở hữu, nên phải biết đoạn giới cũng vô sở hữu.  Vì đoạn giới vô sở hữu, nên phải biết ly giới cũng vô sở hữu.  Vì ly giới vô sở hữu, nên phải biết diệt giới cũng vô sở hữu.  Vì diệt giới vô sở hữu, nên phải biết vô tánh giới cũng vô sở hữu.  Vì vô tánh giới vô sở hữu, nên phải biết vô tướng giới cũng vô sở hữu.  Vì vô tướng giới vô sở hữu, nên phải biết vô tác giới cũng vô sở hữu.  Vì vô tác giới vô sở hữu, nên phải biết vô vi giới cũng vô sở hữu.  Vì vô vi giới vô sở hữu, nên phải biết an ẩn giới cũng vô sở hữu.  Vì an ẩn giới vô sở hữu, nên phải biết tịch tĩnh giới cũng vô sở hữu.  Vì tịch tĩnh giới vô sở hữu, nên phải biết pháp định cũng vô sở hữu.  Vì pháp định vô sở hữu, nên phải biết pháp trụ cũng vô sở hữu.  Vì pháp trụ vô sở hữu, nên phải biết bổn vô cũng vô sở hữu.  Vì bổn vô vô sở hữu, nên phải biết thật tế cũng vô sở hữu.  Vì thật tế vô sở hữu, nên phải biết hư không cũng vô sở hữu.  Vì hư không vô sở hữu, nên phải biết Ðại thừa cũng vô sở hữu.  Vì Ðại thừa vô sở hữu, nên phải biết vô số cũng vô sở hữu.  Vì vô số vô sở hữu, nên phải biết vô lượng cũng vô sở hữu.  Vì vô lượng vô sở hữu, nên phải biết vô biên cũng vô sở hữu.  Vì vô biên vô sở hữu, nên phải biết tất cả pháp cũng vô sở hữu.  Do nghĩa như thế, nên nói Ðại thừa năng khắp trùm chứa vô số vô lượng vô biên hữu tình.  Vì cớ sao?  Thiện Hiện!  Hoặc ngã cho đến kiến giả, hoặc chơn như cho đến thật tế, hoặc hư không, hoặc Ðại thừa, hoặc vô số, hoặc vô lượng, hoặc vô biên, hoặc tất cả pháp.  Tất cả như vậy đều vô sở hữu, bất khả đắc vậy.

Lại nữa, Thiện Hiện!  Vì ngã cho đến kiến giả vô sở hữu, nên phải biết sắc cũng vô sở hữu.  Vì sắc vô sở hữu, nên phải biết thọ cũng vô sở hữu.  Vì thọ vô sở hữu, nên phải biết tưởng cũng vô sở hữu.  Vì tưởng vô sở hữu, nên phải biết hành cũng vô sở hữu.  Vì hành vô sở hữu, nên phải biết thức cũng vô sở hữu.  Vì thức vô sở hữu, nên phải biết hư không cũng vô sở hữu.  Vì hư không vô sở hữu, nên phải biết Ðại thừa cũng vô sở hữu.  Vì Ðại thừa vô sở hữu, nên phải biết vô số cũng vô sở hữu.  Vì vô số vô sở hữu, nên phải biết vô lượng cũng vô sở hữu.  Vì vô lượng vô sở hữu, nên phải biết vô biên cũng vô sở hữu.  Vì vô biên vô sở hữu, nên phải biết tất cả pháp cũng vô sở hữu.  Do nghĩa như thế, nên nói Ðại thừa năng khắp trùm chứa vô số vô lượng vô biên hữu tình.  Vì cớ sao?  Thiện Hiện!  Hoặc ngã cho đến kiến giả, hoặc sắc thọ tưởng hành thức, hoặc hư không, hoặc Ðại thừa, hoặc vô số, hoặc vô lượng, hoặc vô biên, hoặc tất cả pháp.  Tất cả như vậy đều vô sở hữu, bất khả đắc vậy.

Lại nữa, Thiện Hiện!  Vì ngã cho đến kiến giả vô sở hữu, nên phải biết nhãn xứ cũng vô sở hữu.  Vì nhãn xứ vô sở hữu, nên phải biết nhĩ xứ cũng vô sở hữu.  Vì nhĩ xứ vô sở hữu, nên phải biết tỷ xứ cũng vô sở hữu.  Vì tỷ xứ vô sở hữu, nên phải biết thiệt xứ cũng vô sở hữu.  Vì thiệt xứ vô sở hữu, nên phải biết thân xứ cũng vô sở hữu.  Vì thân xứ vô sở hữu, nên phải biết ý xứ cũng vô sở hữu.  Vì ý xứ vô sở hữu, nên phải biết hư không cũng vô sở hữu.  Vì hư không vô sở hữu, nên phải biết Ðại thừa cũng vô sở hữu.  Vì Ðại thừa vô sở hữu, nên phải biết vô số cũng vô sở hữu.  Vì vô số vô sở hữu, nên phải biết vô lượng cũng vô sở hữu.  Vì vô lượng vô sở hữu, nên phải biết vô biên cũng vô sở hữu.  Vì vô biên vô sở hữu, nên phải biết tất cả pháp cũng vô sở hữu.  Do nghĩa như thế, nên nói Ðại thừa năng khắp trùm chứa vô số vô lượng vô biên hữu tình.  Vì cớ sao?  Thiện Hiện!  Hoặc ngã cho đến kiến giả, hoặc nhãn nhĩ tỷ thiệt thân ý xứ, hoặc hư không, hoặc Ðại thừa, hoặc vô số, hoặc vô lượng, hoặc vô biên, hoặc tất cả pháp.  Tất cả như vậy đều vô sở hữu, bất khả đắc vậy.

Lại nữa, Thiện Hiện!  Vì ngã cho đến kiến giả vô sở hữu, nên phải biết sắc xứ cũng vô sở hữu.  Vì sắc xứ vô sở hữu, nên phải biết thanh xứ cũng vô sở hữu.  Vì thanh xứ vô sở hữu, nên phải biết hương xứ cũng vô sở hữu.  Vì hương xứ vô sở hữu, nên phải biết vị xứ cũng vô sở hữu.  Vì vị xứ vô sở hữu, nên phải biết xúc xứ cũng vô sở hữu.  Vì xúc xứ vô sở hữu, nên phải biết pháp xứ cũng vô sở hữu.  Vì pháp xứ vô sở hữu, nên phải biết hư không cũng vô sở hữu.  Vì hư không vô sở hữu, nên phải biết Ðại thừa cũng vô sở hữu.  Vì Ðại thừa vô sở hữu, nên phải biết vô số cũng vô sở hữu.  Vì vô số vô sở hữu, nên phải biết vô lượng cũng vô sở hữu.  Vì vô lượng vô sở hữu, nên phải biết vô biên cũng vô sở hữu.  Vì vô biên vô sở hữu, nên phải biết tất cả pháp cũng vô sở hữu.  Do nghĩa như thế, nên nói Ðại thừa năng khắp trùm chứa vô số vô lượng vô biên hữu tình.  Vì cớ sao?  Thiện Hiện!  Hoặc ngã cho đến kiến giả, hoặc sắc thanh hương vị xúc pháp xứ, hoặc hư không, hoặc Ðại thừa, hoặc vô số, hoặc vô lượng, hoặc vô biên, hoặc tất cả pháp.  Tất cả như vậy đều vô sở hữu, bất khả đắc vậy.

Lại nữa, Thiện Hiện!  Vì ngã cho đến kiến giả vô sở hữu, nên phải biết nhãn giới cũng vô sở hữu.  Vì nhãn giới vô sở hữu, nên phải biết sắc giới cũng vô sở hữu.  Vì sắc giới vô sở hữu, nên phải biết nhãn thức giới cũng vô sở hữu.  Vì nhãn thức giới vô sở hữu, nên phải biết nhãn xúc cũng vô sở hữu.  Vì nhãn xúc vô sở hữu, nên phải biết nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ cũng vô sở hữu.  Vì nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ vô sở hữu, nên phải biết hư không cũng vô sở hữu.  Vì hư không vô sở hữu, nên phải biết Ðại thừa cũng vô sở hữu.  Vì Ðại thừa vô sở hữu, nên phải biết vô số cũng vô sở hữu.  Vì vô số vô sở hữu, nên phải biết vô lượng cũng vô sở hữu.  Vì vô lượng vô sở hữu, nên phải biết vô biên cũng vô sở hữu.  Vì vô biên vô sở hữu, nên phải biết tất cả pháp cũng vô sở hữu.  Do nghĩa như thế, nên nói Ðại thừa năng khắp trùm chứa vô số vô lượng vô biên hữu tình.  Vì cớ sao?  Thiện Hiện!  Hoặc ngã cho đến kiến giả, hoặc nhãn giới cho đến nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ, hoặc hư không, hoặc Ðại thừa, hoặc vô số, hoặc vô lượng, hoặc vô biên, hoặc tất cả pháp.  Tất cả như vậy đều vô sở hữu, bất khả đắc vậy.

Lại nữa, Thiện Hiện!  Vì ngã cho đến kiến giả vô sở hữu, nên phải biết nhĩ giới cũng vô sở hữu.  Vì nhĩ giới vô sở hữu, nên phải biết thanh giới cũng vô sở hữu.  Vì thanh giới vô sở hữu, nên phải biết nhĩ thức giới cũng vô sở hữu.  Vì nhĩ thức giới vô sở hữu, nên phải biết nhĩ xúc cũng vô sở hữu.  Vì nhĩ xúc vô sở hữu, nên phải biết nhĩ xúc làm duyên sanh ra các thọ cũng vô sở hữu.  Vì nhĩ xúc làm duyên sanh ra các thọ vô sở hữu, nên phải biết hư không cũng vô sở hữu.  Vì hư không vô sở hữu, nên phải biết Ðại thừa cũng vô sở hữu.  Vì Ðại thừa vô sở hữu, nên phải biết vô số cũng vô sở hữu.  Vì vô số vô sở hữu, nên phải biết vô lượng cũng vô sở hữu.  Vì vô lượng vô sở hữu, nên phải biết vô biên cũng vô sở hữu.  Vì vô biên vô sở hữu, nên phải biết tất cả pháp cũng vô sở hữu.  Do nghĩa như thế, nên nói Ðại thừa năng khắp trùm chứa vô số vô lượng vô biên hữu tình.  Vì cớ sao?  Thiện Hiện!  Hoặc ngã cho đến kiến giả, hoặc nhĩ giới cho đến nhĩ xúc làm duyên sanh ra các thọ, hoặc hư không, hoặc Ðại thừa, hoặc vô số, hoặc vô lượng, hoặc vô biên, hoặc tất cả pháp.  Tất cả như vậy đều vô sở hữu, bất khả đắc vậy.

Lại nữa, Thiện Hiện!  Vì ngã cho đến kiến giả vô sở hữu, nên phải biết tỷ giới cũng vô sở hữu.  Vì tỷ giới vô sở hữu, nên phải biết hương giới cũng vô sở hữu.  Vì hương giới vô sở hữu, nên phải biết tỷ thức giới cũng vô sở hữu.  Vì tỷ thức giới vô sở hữu, nên phải biết tỷ xúc cũng vô sở hữu.  Vì tỷ xúc vô sở hữu, nên phải biết tỷ xúc làm duyên sanh ra các thọ cũng vô sở hữu.  Vì tỷ xúc làm duyên sanh ra các thọ vô sở hữu, nên phải biết hư không cũng vô sở hữu.  Vì hư không vô sở hữu, nên phải biết Ðại thừa cũng vô sở hữu.  Vì Ðại thừa vô sở hữu, nên phải biết vô số cũng vô sở hữu.  Vì vô số vô sở hữu, nên phải biết vô lượng cũng vô sở hữu.  Vì vô lượng vô sở hữu, nên phải biết vô biên cũng vô sở hữu.  Vì vô biên vô sở hữu, nên phải biết tất cả pháp cũng vô sở hữu.  Do nghĩa như thế, nên nói Ðại thừa năng khắp trùm chứa vô số vô lượng vô biên hữu tình.  Vì cớ sao?  Thiện Hiện!  Hoặc ngã cho đến kiến giả, hoặc tỷ giới cho đến tỷ xúc làm duyên sanh ra các thọ, hoặc hư không, hoặc Ðại thừa, hoặc vô số, hoặc vô lượng, hoặc vô biên, hoặc tất cả pháp.  Tất cả như vậy đều vô sở hữu, bất khả đắc vậy.

Lại nữa, Thiện Hiện!  Vì ngã cho đến kiến giả vô sở hữu, nên phải biết thiệt giới cũng vô sở hữu.  Vì thiệt giới vô sở hữu, nên phải biết vị giới cũng vô sở hữu.  Vì vị giới vô sở hữu, nên phải biết thiệt thức giới cũng vô sở hữu.  Vì thiệt thức giới vô sở hữu, nên phải biết thiệt xúc cũng vô sở hữu.  Vì thiệt xúc vô sở hữu, nên phải biết thiệt xúc làm duyên sanh ra các thọ cũng vô sở hữu.  Vì thiệt xúc làm duyên sanh ra các thọ vô sở hữu, nên phải biết hư không cũng vô sở hữu.  Vì hư không vô sở hữu, nên phải biết Ðại thừa cũng vô sở hữu.  Vì Ðại thừa vô sở hữu, nên phải biết vô số cũng vô sở hữu.  Vì vô số vô sở hữu, nên phải biết vô lượng cũng vô sở hữu.  Vì vô lượng vô sở hữu, nên phải biết vô biên cũng vô sở hữu.  Vì vô biên vô sở hữu, nên phải biết tất cả pháp cũng vô sở hữu.  Do nghĩa như thế, nên nói Ðại thừa năng khắp trùm chứa vô số vô lượng vô biên hữu tình.  Vì cớ sao?  Thiện Hiện!  Hoặc ngã cho đến kiến giả, hoặc thiệt giới cho đến thiệt xúc làm duyên sanh ra các thọ, hoặc hư không, hoặc Ðại thừa, hoặc vô số, hoặc vô lượng, hoặc vô biên, hoặc tất cả pháp.  Tất cả như vậy đều vô sở hữu, bất khả đắc vậy.

Lại nữa, Thiện Hiện!  Vì ngã cho đến kiến giả vô sở hữu, nên phải biết thân giới cũng vô sở hữu.  Vì thân giới vô sở hữu, nên phải biết xúc giới cũng vô sở hữu.  Vì xúc giới vô sở hữu, nên phải biết thân thức giới cũng vô sở hữu.  Vì thân thức giới vô sở hữu, nên phải biết thân xúc cũng vô sở hữu.  Vì thân xúc vô sở hữu, nên phải biết thân xúc làm duyên sanh ra các thọ cũng vô sở hữu.  Vì thân xúc làm duyên sanh các thọ vô sở hữu, nên phải biết hư không vô sở hữu.  Vì hư không vô sở hữu, nên phải biết Ðại thừa cũng vô sở hữu.  Vì Ðại thừa vô sở hữu, nên phải biết vô số cũng vô sở hữu.  Vì vô số vô sở hữu, nên phải biết vô lượng cũng vô sở hữu.  Vì vô lượng vô sở hữu, nên phải biết vô biên cũng vô sở hữu.  Vì vô biên vô sở hữu, nên phải biết tất cả pháp cũng vô sở hữu.  Do nghĩa như thế, nên nói Ðại thừa năng khắp trùm chứa vô số vô lượng vô biên hữu tình.  Vì cớ sao?  Thiện Hiện!  Hoặc ngã cho đến kiến giả, hoặc thân giới cho đến thân xúc làm duyên sanh ra các thọ, hoặc hư không, hoặc Ðại thừa, hoặc vô số, hoặc vô lượng, hoặc vô biên, hoặc tất cả pháp.  Tất cả như vậy đều vô sở hữu, bất khả đắc vậy.

Lại nữa, Thiện Hiện!  Vì ngã cho đến kiến giả vô sở hữu, nên phải biết ý giới cũng vô sở hữu.  Vì ý giới vô sở hữu, nên phải biết pháp giới cũng vô sở hữu.  Vì pháp giới vô sở hữu, nên phải biết ý thức giới cũng vô sở hữu.  Vì ý thức giới vô sở hữu, nên phải biết ý xúc cũng vô sở hữu.  Vì ý xúc vô sở hữu, nên phải biết ý xúc làm duyên sanh ra các thọ cũng vô sở hữu.  Vì ý xúc làm duyên sanh ra các thọ vô sở hữu, nên phải biết hư không cũng vô sở hữu.  Vì hư không vô sở hữu, nên phải biết Ðại thừa cũng vô sở hữu.  Vì Ðại thừa vô sở hữu, nên phải biết vô số cũng vô sở hữu.  Vì vô số vô sở hữu, nên phải biết vô lượng cũng vô sở hữu.  Vì vô lượng vô sở hữu, nên phải biết vô biên cũng vô sở hữu.  Vì vô biên vô sở hữu, nên phải biết tất cả pháp cũng vô sở hữu.  Do nghĩa như thế, nên nói Ðại thừa năng khắp trùm chứa vô số vô lượng vô biên hữu tình.  Vì cớ sao?  Thiện Hiện!  Hoặc ngã cho đến kiến giả, hoặc ý giới cho đến ý xúc làm duyên sanh ra các thọ, hoặc hư không, hoặc Ðại thừa, hoặc vô số, hoặc vô lượng, hoặc vô biên, hoặc tất cả pháp.  Tất cả như vậy đều vô sở hữu, bất khả đắc vậy.

Lại nữa, Thiện Hiện!  Vì ngã cho đến kiến giả vô sở hữu, nên phải biết địa giới cũng vô sở hữu.  Vì địa giới vô sở hữu, nên phải biết thủy giới cũng vô sở hữu.  Vì thủy giới vô sở hữu, nên phải biết hỏa giới cũng vô sở hữu.  Vì hỏa giới vô sở hữu, nên phải biết phong giới cũng vô sở hữu.  Vì phong giới vô sở hữu, nên phải biết không giới cũng vô sở hữu.  Vì không giới vô sở hữu, nên phải biết thức giới cũng vô sở hữu.  Vì thức giới vô sở hữu, nên phải biết hư không cũng vô sở hữu.  Vì hư không vô sở hữu, nên phải biết Ðại thừa cũng vô sở hữu.  Vì Ðại thừa vô sở hữu, nên phải biết vô số cũng vô sở hữu.  Vì vô số vô sở hữu, nên phải biết vô lượng cũng vô sở hữu.  Vì vô lượng vô sở hữu, nên phải biết vô biên cũng vô sở hữu.  Vì vô biên vô sở hữu, nên phải biết tất cả pháp cũng vô sở hữu.  Do nghĩa như thế, nên nói Ðại thừa năng khắp trùm chứa vô số vô lượng vô biên hữu tình.  Vì cớ sao?  Thiện Hiện!  Hoặc ngã cho đến kiến giả, hoặc địa thủy hỏa phong không thức giới, hoặc hư không, hoặc Ðại thừa, hoặc vô số, hoặc vô lượng, hoặc vô biên, hoặc tất cả pháp.  Tất cả như vậy đều vô sở hữu, bất khả đắc vậy.

Lại nữa, Thiện Hiện!  Vì ngã cho đến kiến giả vô sở hữu, nên phải biết khổ thánh đế cũng vô sở hữu.  Vì khổ thánh đế vô sở hữu, nên phải biết tập thánh đế cũng vô sở hữu.  Vì tập thánh đế vô sở hữu, nên phải biết diệt thánh đế cũng vô sở hữu.  Vì diệt thánh đế vô sở hữu, nên phải biết đạo thánh đế cũng vô sở hữu.  Vì đạo thánh đế vô sở hữu, nên phải biết hư không cũng vô sở hữu.  Vì hư không vô sở hữu, nên phải biết Ðại thừa cũng vô sở hữu.  Vì Ðại thừa vô sở hữu, nên phải biết vô số cũng vô sở hữu.  Vì vô số vô sở hữu, nên phải biết vô lượng cũng vô sở hữu.  Vì vô lượng vô sở hữu, nên phải biết vô biên cũng vô sở hữu.  Vì vô biên vô sở hữu, nên phải biết tất cả pháp cũng vô sở hữu.  Do nghĩa như thế, nên nói Ðại thừa năng khắp trùm chứa vô số vô lượng vô biên hữu tình.  Vì cớ sao?  Thiện Hiện!  Hoặc ngã cho đến kiến giả, hoặc khổ tập diệt đạo thánh đế, hoặc hư không, hoặc Ðại thừa, hoặc vô số, hoặc vô lượng, hoặc vô biên, hoặc tất cả pháp.  Tất cả như vậy đều vô sở hữu, bất khả đắc vậy.

Lại nữa, Thiện Hiện!  Vì ngã cho đến kiến giả vô sở hữu, nên phải biết vô minh cũng vô sở hữu.  Vì vô minh vô sở hữu, nên phải biết hành cũng vô sở hữu.  Vì hành vô sở hữu, nên phải biết thức cũng vô sở hữu.  Vì thức vô sở hữu, nên phải biết danh sắc cũng vô sở hữu.  Vì danh sắc vô sở hữu, nên phải biết lục xứ cũng vô sở hữu.  Vì lục xứ vô sở hữu, nên phải biết xúc cũng vô sở hữu.  Vì xúc vô sở hữu, nên phải biết thọ cũng vô sở hữu.  Vì thọ vô sở hữu, nên phải biết ái cũng vô sở hữu.  Vì ái vô sở hữu, nên phải biết thủ cũng vô sở hữu.  Vì thủ vô sở hữu, nên phải biết hữu cũng vô sở hữu.  Vì hữu vô sở hữu, nên phải biết sanh cũng vô sở hữu.  Vì sanh vô sở hữu, nên phải biết lão tử sầu thán khổ ưu não cũng vô sở hữu.  Vì lão tử sầu thán khổ ưu não vô sở hữu, nên phải biết hư không cũng vô sở hữu.

Vì hư không vô sở hữu, nên phải biết Ðại thừa cũng vô sở hữu.  Vì Ðại thừa vô sở hữu, nên phải biết vô số cũng vô sở hữu.  Vì vô số vô sở hữu, nên phải biết vô lượng cũng vô sở hữu.  Vì vô lượng vô sở hữu, nên phải biết vô biên cũng vô sở hữu.  Vì vô biên vô sở hữu, nên phải biết tất cả pháp cũng vô sở hữu.  Do nghĩa như thế, nên nói Ðại thừa năng khắp trùm chứa vô số vô lượng vô biên hữu tình.  Vì cớ sao?  Thiện Hiện!  Hoặc ngã cho đến kiến giả, hoặc vô minh cho đến lão tử sầu thán khổ ưu não, hoặc hư không, hoặc Ðại thừa, hoặc vô số, hoặc vô lượng, hoặc vô biên, hoặc tất cả pháp.  Tất cả như vậy đều vô sở hữu, bất khả đắc vậy.

--- o0o ---

Mục Lục Tập 3

Quyển thứ  51 | 52 | 53 | 54 | 55

56 | 57 | 58 | 59 | 60 | 61 | 62 | 63 | 64 | 65

66 | 67 | 68 | 69 | 70 | 71 | 72 | 73 | 74 | 75

--- o0o ---

Mục Lục Tổng Quát Kinh Bát Nhã

Tập:  1 | 2 | 3 | 4 | 5 | 6 | 78 | 9 | 10 | 11 | 12

13 | 14 | 15 | 16 | 17 | 18 | 19 | 20 | 21 | 22 | 23 | 24  

--- o0o ---

Vi tính: Hồng Liên

Cập nhật: 01-01-2003

Nguồn: www.quangduc.com

Về danh mục

visakha anh huong cua duc dalai lama doi voi nhung nhan Ý nghĩa phước và chuyển phước thanh thu tien mot nguoi di tuổi trẻ và lý tưởng phụng sự xã Không Hoa bằng lăng tháng Năm song luân gặp được 5 người này bạn đã vô phat giao bản chất của mộng và thực tu Dễ dàng làm món khổ qua trộn vinh nghiem học m០Nắng Nhiều đoàn viếng tang Trưởng lão Tạp hấp món LÃ sen テ sát ngon ngu cua thien va thi ca phan 2 thien tìm đại luận sư vô trước Thư việt 6 loại thực phẩm có thể gây quả chua chuong pho hien giao ç Lễ ta đang làm gì đời ta Bệnh cảm càng nghiêm trọng hơn khi トO khong giå cho đi và nhận lại lịch Chùa Nguyên Thiều Pháp thân tặng tuổi trẻ đừng đem bản ngã của mình để dạy