Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa
(Trọn bộ 24 tập)

Hán dịch: Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang
Việt dịch: Hòa Thượng Thích Trí Nghiêm
Khảo dịch: Hòa Thượng Thích Thiện Siêu
Sàigòn - 1998

--- o0o ---

Tập 16

Quyển Thứ 377

Hội Thứ Nhất

Phẩm Vô Tướng Vô Đắc
Thứ 66-5
 

Lại nữa, Thiện Hiện! Sao là khi Bồ tát Ma ha tát hành Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu, năng đối trong tất cả pháp không tướng, không giác, không đắc, không bóng, không tác, viên mãn tinh tiến Ba la mật đa?

Thiện Hiện! Khi Bồ tát Ma ha tát hành Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu, năng đem tâm ly tướng vô lậu mà tu tinh tiến. Bồ tát Ma ha tát này trọn nên dũng mãnh thân tâm tinh tiến. Do đây năng vào trụ đầy đủ sơ tĩnh lự; năng vào trụ đầy đủ đệ nhị, đệ tam, đệ tứ tĩnh lự. Nương đệ tứ tịnh lự khơỉ vô lượng các thứ thần thông biến hiện, cho đến đưa tay nắm bắt nhật nguyệt, lộn quanh tự tại chẳng lấy làm khó. Trọn nên dũng mãnh thân tinh tiến, nên đem sức thần thông trải chừng giây lát năng đến thế giới của các Đức Phật ở những phương khác vô lượng trăm ngàn. Lại đem các thứ thượng diệu ăn uống, kỹ nhạc, cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen chư Phật Thế Tôn, như: áo mặc, đồ nằm, thuốc thang, hương hoa, phan long, đèn sáng, ngọc báu. Do căn lành đây, quả báo vô tận cho đến lần nữachứng được Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề. Do căn lành đây được Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề. Do căn lành đây được Bồ đề rồi, lại đem vô lượng thế gian, trời người, a tố lạc thảy, đem vô lượng thứ thượng diệu ăn uống, áo mặc, đồ nằm, thuốc thang, hương hoa, phan lọng, đèn sáng, ngọc báu, kỹ nhạc, cung kính cúng dường, tôn trọng ngợi khen. Bồ tát Ma ha tát này lại dùng thần lực năng đến thế giới của các Đức Phật ở những phương khác vô lượng trăm ngàn. Ở chỗ các Đức Phật kia lắng nghe chánh pháp, nghe rồi thọ trì đầy đủ chẳng cho quên mất, cho đến Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề. Bồ tát Ma ha tát này lại dùng thần lực thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật, tinh siêng tu học Nhất thiết tướng trí. Nhất thiết tướng trí đã được viên mãn, chứng được Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề, quay xe diệu pháp, độ vô lượng chúng sanh. Như vậy, Thiện Hiện! Bồ tát Ma ha tát này tu hành Bát nhã Ba la mật đa trọn nên dũng mãnh thân tinh tiến, nên năng khiến tinh tiến Ba la mật đa mau được viên mãn.

Thiện Hiện! Sao là Bồ tát Ma ha tát hành Bát nhã Ba la mật đa trọn nên dũng mãnh tâm tinh tiến, nên năng khiến tinh tiến Bát nhã Ba la mật đa mau được viên mãn?

Thiện Hiện! Bồ tát Ma ha tát này tu hành Bát nhã Ba la mật đa trọn nên dũng mãnh tâm tinh tiến, nên năng viên mãn các Thánh vô lậu đạo và nhánh đạo, sở nhiếp tinh tiến Ba la mật đa. Do đây năng khiến tất cả nghiệp bất thiện thân ngữ ý làm cho không khởi lên. Bồ tát Ma ha tát này quyết chẳng lấy đắm sắc hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc vắng lặng hoặc chẳng vắng lặng, hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa. Cũng chẳng lấy đắm thọ tưởng hành thức hoặc thường hoặc vô thường, hoặc vui hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc vắng lặng hoặc chẳng vắng lặng, hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa.

Quyết chẳng lấy đắm nhãn xúc hoặc thường hoặc vô thường, hoặc vui hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc vắng lặng hoặc chẳng vắng lặng, hoặc xa lìa hoẳc chẳng xa lìa. Cũng chẳng lấy đắm nhĩ tỷ thiệt thân ý thức giới hoặc thường hoặc vô thường, hoặc vui hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc vắng lặng hoặc chẳng vắng lặng, hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa.

Quyết chẳng lấy đắm địa giới hoặc thường hoặc vô thường, hoặc vui hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc vắng lặng hoặc chẳng vắng lặng, hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa. Cũng chẳng lấy đắm nhĩ tỷ thiệt thân ý xúc hoặc thường hoặc vô thường, hoặc vui hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc vắng lặng hoặc chẳng vắng lặng, hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa.

Quyết chẳng lấy đắm sắc xứ hoặc thường hoặc vô thường, hoặc vui hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc vắng lặng hoặc chẳng vắng lặng, hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa. Cũng chẳng lấy đắm thanh hương vị xúc pháp xứ hoặc thường hoặc vô thường, hoặc vui hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc vắng lặng hoặc chẳng vắng lặng, hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa

Quyết chẳng lấy đắm nhãn giới hoặc thường hoặc vô thường, hoặc vui hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc vắng lặng hoặc chẳng vắng lặng, hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa. Cũng chẳng lấy đắm nhĩ tỷ thiệt thân ý giới hoặc thường hoặc vô thường, hoặc vui hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc vắng lặng hoặc chẳng vắng lặng, hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa.

Quyết chẳng lấy đắm sắc giới hoặc thường hoặc vô thường, hoặc vui hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc vắng lặng hoặc chẳng vắng lặng, hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa. Cũng chẳng lấy đắm thanh hương vị xúc pháp giới hoặc thường hoặc vô thường, hoặc vui hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc vắng lặng hoặc chẳng vắng lặng, hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa.

Quyết chẳng lấy đắm nhãn thức giới hoặc thường hoặc vô thường, hoặc vui hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc vắng lặng hoặc chẳng vắng lặng, hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa. Cũng chẳng lấy đắm nhĩ tỷ thiệt thân ý thức giới hoặc thường hoặc vô thường, hoặc vui hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc vắng lặng hoặc chẳng vắng lặng, hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa.

Quyết chẳng lấy đắm nhãn xúc hoặc thường hoặc vô thường, hoặc vui hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc vắng lặng hoặc chẳng vắng lặng, hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa. Cũng chẳng lấy đắm nhĩ tỷ thiệt thân ý xúc hoặc thường hoặc vô thường, hoặc vui hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc vắng lặng hoặc chẳng vắng lặng, hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa.

Quyết chẳng lấy đắm nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ hoặc thường hoặc vô thường, hoặc vô thường, hoặc vui hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc vắng lặng hoặc chẳng vắng lặng, hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa. Cũng chẳng lấy đắm nhĩ tỷ thiệt thân ý xúc làm duyên sanh ra các thọ hoặc thường hoặc vô thường, hoặc vui hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc vắng lặng hoặc chẳng vắng lặng, hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa.

Quyết chẳng lấy đắm địa giới hoặc thường hoặc vô thường, hoặc vô thường, hoặc vui hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc vắng lặng hoặc chẳng vắng lặng, hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa. Cũng chẳng lấy đắm thủy hỏa phong không thức giới 隷ặc thường hoặc vô thường, hoặc vui hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc vắng lặng hoặc chẳng vắng lặng, hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa.

Quyết chẳng lấy đắm nhân duyên hoặc thường hoặc vô thường, hoặc vui hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc vắng lặng hoặc chẳng vắng lặng, hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa. Cũng chẳng lấy đắm đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên hoặc thường hoặc vô thường, hoặc vui hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc vắng lặng hoặc chẳng vắng lặng, hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa.

Quyết chẳng lấy đắm vô minh hoặc thường hoặc vô thường, hoặc vui hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc vắng lặng hoặc chẳng vắng lặng, hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa. Cũng chẳng lấy đắm hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh, lão tử sầu thán khổ ưu não hoặc thường hoặc vô thường, hoặc vui hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc vắng lặng hoặc chẳng vắng lặng, hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa.

Quyết chẳng lấy đắm hữu vi giới hoặc thường hoặc vô thường, hoặc vui hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc vắng lặng hoặc chẳng vắng lặng, hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa. Cũng chẳng lấy đắm vô vi giới hoặc thường hoặc vô thường, hoặc vui hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc vắng lặng hoặc chẳng vắng lặng, hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa.

Quyết chẳng lấy đắm cõi Dục hoặc thường hoặc vô thường, hoặc vui hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc vắng lặng hoặc chẳng vắng lặng, hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa. Cũng chẳng lấy đắm cõi Sắc, cõi Vô sắc hoặc thường hoặc vô thường, hoặc vui hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc vắng lặng hoặc chẳng vắng lặng, hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa.

Quyết chẳng lấy đắm hữu lậu giới hoặc thường hoặc vô thường, hoặc vui hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc vắng lặng hoặc chẳng vắng lặng, hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa. Cũng chẳng lấy đắm vô lậu giới hoặc thường hoặc vô thường, hoặc vui hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc vắng lặng hoặc chẳng vắng lặng, hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa.

Quyết chẳng lấy đắm sơ tĩnh lự hoặc thường hoặc vô thường, hoặc vui hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc vắng lặng hoặc chẳng vắng lặng, hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa. Cũng chẳng lấy đắm đệ nhị, đệ tam, đệ tứ tĩnh lự hoặc thường hoặc vô thường, hoặc vui hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc vắng lặng hoặc chẳng vắng lặng, hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa.

Quyết chẳng lấy đắm từ vô lượng hoặc thường hoặc vô thường, hoặc vui hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc vắng lặng hoặc chẳng vắng lặng, hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa. Cũng chẳng lấy đắm bi hỷ xả vô lượng hoặc thường hoặc vô thường, hoặc vui hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc vắng lặng hoặc chẳng vắng lặng, hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa.

Quyết chẳng lấy đắm định không vô biên xứ hoặc thường hoặc vô thường, hoặc vui hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc vắng lặng hoặc chẳng vắng lặng, hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa. Cũng chẳng lấy đắm định thức vô biên xứ hoặc thường hoặc vô thường, hoặc vui hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc vắng lặng hoặc chẳng vắng lặng, hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa.

Quyết chẳng lấy đắm bốn niệm trụ hoặc thường hoặc vô thường, hoặc vui hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc vắng lặng hoặc chẳng vắng lặng, hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa. Cũng chẳng lấy đắm bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy đẳng giác chi, tám thánh đạo chi hoặc thường hoặc vô thường, hoặc vui hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc vắng lặng hoặc chẳng vắng lặng, hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa.

Quyết chẳng lấy đắm không giải thoát môn hoặc thường hoặc vô thường, hoặc vui hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc vắng lặng hoặc chẳng vắng lặng, hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa. Cũng chẳng lấy đắm vô tướng vô nguyện giải thoát môn hoặc thường hoặc vô thường, hoặc vui hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc vắng lặng hoặc chẳng vắng lặng, hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa.

Quyết chẳng lấy đắm bố thí Ba la mật đa hoặc thường hoặc vô thường, hoặc vui hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc vắng lặng hoặc chẳng vắng lặng, hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa. Cũng chẳng lấy đắm tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, bát nhã Ba la mật đa hoặc thường hoặc vô thường, hoặc vui hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc vắng lặng hoặc chẳng vắng lặng, hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa.

Quyết chẳng lấy đắm nội không hoặc thường hoặc vô thường, hoặc vui hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc vắng lặng hoặc chẳng vắng lặng, hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa. Cũng chẳng lấy đắm ngoại không, nội ngoại không, không không, đại không, thắng nghĩa không, hữu vi không, vô vi không, tất cánh không, vô tế không, tán không, vô biến dị không, bổn tánh không, tự tướng không, cộng tướng không, nhất thiết pháp không, bất khả đác không, vô tánh không, tự tánh không, vô tánh tự tánh không hoặc thường hoặc vô thường, hoặc vui hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc vắng lặng hoặc chẳng vắng lặng, hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa.

Quyết chẳng lấy đắm chơn như hoặc thường hoặc vô thường, hoặc vui hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc vắng lặng hoặc chẳng vắng lặng, hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa. Cũng chẳng lấy đắmpháp giới, pháp tánh, bất hư vọng tánh, bất biến dị tánh, bình đẳng tánh, ly sanh tánh, pháp định, pháp trụ, thật tế, hư không giới, bất tư nghì giới, hoặc thường hoặc vô thường, hoặc vui hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc vắng lặng hoặc chẳng vắng lặng, hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa.

Quyết chẳng lấy đắm khổ thánh đế hoặc thường hoặc vô thường, hoặc vui hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc vắng lặng hoặc chẳng vắng lặng, hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa. Cũng chẳng lấy đắm tập diệt đạo thánh đế hoặc thường hoặc vô thường, hoặc vui hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc vắng lặng hoặc chẳng vắng lặng, hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa.

Quyết chẳng lấy đắm tám giải thoát hoặc thường hoặc vô thường, hoặc vui hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc vắng lặng hoặc chẳng vắng lặng, hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa. Cũng chẳng lấy đắm tám thắng xứ chín thứ đệ định, mười biến xứ hoặc thường hoặc vô thường, hoặc vui hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc vắng lặng hoặc chẳng vắng lặng, hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa.

Quyết chẳng lấy đắm tất cả tam ma địa môn hoặc thường hoặc vô thường, hoặc vui hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc vắng lặng hoặc chẳng vắng lặng, hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa. Cũng chẳng lấy đắm tất cả đà la ni môn hoặc thường hoặc vô thường, hoặc vui hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc vắng lặng hoặc chẳng vắng lặng, hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa.

Quyết chẳng lấy đắm năm nhãn hoặc thường hoặc vô thường, hoặc vui hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc vắng lặng hoặc chẳng vắng lặng, hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa. Cũng chẳng lấy đắm sáu thần thông hoặc thường hoặc vô thường, hoặc vui hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc vắng lặng hoặc chẳng vắng lặng, hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa.

Quyết chẳng lấy đắm Phật mười lực hoặc thường hoặc vô thường, hoặc vui hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc vắng lặng hoặc chẳng vắng lặng, hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa. Cũng chẳng lấy đắm bốn vô sở úy, bốn vô ngại giải, mười tám pháp Phật bất cộng hoặc thường hoặc vô thường, hoặc vui hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc vắng lặng hoặc chẳng vắng lặng, hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa.

Quyết chẳng lấy đắm đại từ hoặc thường hoặc vô thường, hoặc vui hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc vắng lặng hoặc chẳng vắng lặng, hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa. Cũng chẳng lấy đắm đại bi, đại hỷ, đại xả hoặc thường hoặc vô thường, hoặc vui hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc vắng lặng hoặc chẳng vắng lặng, hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa.

Quyết chẳng lấy đắm pháp vô vong thất hoặc thường hoặc vô thường, hoặc vui hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc vắng lặng hoặc chẳng vắng lặng, hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa. Cũng chẳng lấy đắm tánh hằng trụ xả hoặc thường hoặc vô thường, hoặc vui hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc vắng lặng hoặc chẳng vắng lặng, hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa.

Quyết chẳng lấy đắm nhất thiết trí hoặc thường hoặc vô thường, hoặc vui hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc vắng lặng hoặc chẳng vắng lặng, hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa. Cũng chẳng lấy đắm đạo tướng trí, nhất thiết tướng trí hoặc thường hoặc vô thường, hoặc vui hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc vắng lặng hoặc chẳng vắng lặng, hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa.

Quyết chẳng lấy đắm quả Dự lưu hoặc thường hoặc vô thường, hoặc vui hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc vắng lặng hoặc chẳng vắng lặng, hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa. Cũng chẳng lấy đắm quả Nhất lai, Bất hoàn, A la hán, Độc giác Bồ đề hoặc thường hoặc vô thường, hoặc vui hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc vắng lặng hoặc chẳng vắng lặng, hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa.

Quyết chẳng lấy đắm tất cả hạnh Bồ tát Ma ha tát hoặc thường hoặc vô thường, hoặc vui hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc vắng lặng hoặc chẳng vắng lặng, hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa. Cũng chẳng lấy đắm chư Phật Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề hoặc thường hoặc vô thường, hoặc vui hoặc khổ, hoặc ngã hoặc vô ngã, hoặc tịnh hoặc bất tịnh, hoặc vắng lặng hoặc chẳng vắng lặng, hoặc xa lìa hoặc chẳng xa lìa.

Bồ tát Ma ha tát này quyết chẳng lấy đắm đây kẻ Dự lưu, đây kẻ Nhất lai, đây kẻ Bất hoàn, đây kẻ A la hán, đây Độc giác, đây Bồ tát, đây Như Lai. Cũng chẳng lấy đắm hữu tình như thế mỏng hạ kiết nên gọi kẻ Nhất lai, hữu tình như thế được đạo Độc giác nên gọi là Độc giác, hữu tình như thế được đạo tướng trí nên gọi là Bồ tát, hữu tình như thế được Nhất thiết tướng trí nên gọi là Như Lai. Vì cớ sao? Vì pháp lấy đắm và các hữu tình đây đều không có tự tánh khá lấy đắm vậy.

Bồ tát Ma ha tát này trọn nên dũng mãnh tâm tinh tiến, nên tuy làm việc nhiêu ích các hữu tình chẳng đoái thân mạng mà đối hữu tình đều vô sở đắc. Tuy năng viên mãn tất cả Phật pháp, mà đối tất cả Phật pháp đều vô sở đắc. Tuy năng nghiêm tịnh tất cả cõi Phật, mà đối cõi Phật đều vô sở đắc.

Bồ tát Ma ha tát này trọn nên thân tâm tinh tiến như thế, tuy năng lìa tất cả ác pháp, cũng năng nhiếp thọ tất cả thiện pháp mà không lấy đắm. Vì không lấy đắm nên từ một cõi Phật đến một cõi Phật , từ một thế giới đến một thế giới. Vì muốn nhiêu ích các loài hữu tình, nên sở dục thị hiện các việc thần thông đều năng tự tại thị hiện không ngại. Nghĩa là hoặc thị hiện rưới nhiều diệu hoa, hoặc lại thị hiện rải nhiều danh hương, hoặc lại thị hiện trỗi các kỹ nhạc, hoặc lại thị hiện chấn động đại địa, hoặc lại thị hiện nhiều diệu thất bảo trang nghiêm thế giới; hoặc lại thị hiện thân phóng ánh sáng, chúng sanh đui mờ đều nhồ đó mà được sáng, hoặc lại thị hiện thân xuất diệu hương, các kẻ hôi thúi đều khiến trong sạch; hoặc lại thị hiện thiết lập từ miếu lớn, trong ấy chẳng não hại các loại hữu tình, nhờ đây hóa đạo vô biên hữu tình khiến vào chánh đạo: lìa giết sanh mạng, lìa lấy của cải, lìa dục tà hạnh, lìa lời dối gạt, lìa lời chia rẽ, lìa lời thô ác, lìa lời tạp uế, lìa tham dục, lìa giận dữ, lìa tà kiến. Hoặc dùng bố thí nhiếp các hữu tình, hoặc dùng tịnh giới nhiếp các hữu tình, hoặc dùng an nhẫn nhiếp các hữu tình, hoặc dùng tĩnh lự nhiếp các hữu tình, hoặc dùng bát nhã nhiếp các hữu tình. Vì muốn nhiều ích các loài hữu tình, hoặc xả của báu, hoặc xả vợ con, hoặc xả ngôi vua, hoặc xả thân mạng, hoặc xả lóng đốt. Tùy các hữu tình nên dùng phương tiện như vậy mà được nhiêu ích, tức dùng phương tiện như vậy mà nhiêu ích cho. Như vậy, Thiện Hiện! Khi Bồ tát Ma ha tát hành Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu, do tâm lực vô lậu lìa các tướng năng đối trong tất cả pháp không tướng, không giác, không đắc, không bóng, không tác, viên mãn tinh tiến Ba la mật đa, cũng năng viên mãn các công đức khác.

Lại nữa, Thiện Hiện! Sao khi Bồ tát Ma ha tát hành Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu, năng đối trong tất cả pháp không tướng không giác, không đắc, không bóng, không tác, viên mãn tinh tiến Ba la mật đa?

Thiện Hiện! Khi Bồ tát Ma ha tát hành Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu năng đem tâm ly tướng vô lậu mà tu tĩnh lự. Bồ tát Ma ha tát này trừ định Như Lai, còn các định khác thì đều viên mãn. Bồ tát Ma ha tát này năng lìa pháp dục ác bất thiện, có tầm có tứ, lìa sanh vui mừng vào sơ tĩnh lự đầy đủ mà trụ. Tầm tứ vắng lặng, tánh nội đẳng tịnh tâm nhất thú, không tầm không tứ định sang vui mừng, vào đệ nhị tĩnh lự đầy đủ mà trụ. Lìa mừng trụ xả, chánh nhớ chánh biết, thân thọ vui thánh thuyết nên xả, vào đệ tam tĩnh lự đầy đủ mà trụ. Dứt vui dứt khổ mất mừng lo trước kia, chẳng khổ chẳng vui, xả niệm thanh tịnh, vào đệ tứ tĩnh lự đầy đủ mà trụ.

Bồ tát Ma ha tát cùng tâm duyên khắp một phương cho đến mười phương tất cả thế gian đầy đủ mà trụ. Đem bi cùng tâm duyên khắp một phương cho đến mười phương tất cả thế gian đầy đủ mà trụ. Đem hỷ cùng tâm duyên khắp một phương cho đến mười phương tất cả thế gian đầy đủ mà trụ.

Bồ tát Ma ha tát này an trụ tĩnh lự Ba la mật đa, ba mươi bảy bồ đề phần pháp và đạo tướng trí đều được viên mãn. Dùng đạo tướng trí nhiếp thọ tất cả tam ma địa rồi, lần lữa tu khởi Tịnh quán địa, Chủng tánh địa, Dĩ biện địa, Độc giác địa, chứng vào Bồ tát Chánh tánh ly sanh. Đã vào ngôi Bồ tát Chánh tánh ly sanh rồi mới tu hạnh các địa, viên mãn Phật địa. Bồ tát Ma ha tát này tuy đối các địa lần lữa tu khởi, mà ở thời gian giữa chẳng lấy quả chứng cho đến chưa được Nhất thiết tướng trí.

Bồ tát Ma ha tát này an trụ tĩnh lự Ba la mật đa, từ một cõi Phật đến một cõi Phật cúng dường cung kính, tôn trọng ngợi khen chư Phật Thế Tôn. Ở chỗ các Đức Phật trồng nhiều căn lành, thành thục hữu tình, nghiêm tịnh cõi Phật. Từ một thế giới đến một thế giới nhiêu ích hữu tình thân tâm không mỏi, hoặc dùng bố thí nhiếp các hữ tình, hoặc dùng tịnh giới nhiếp các hữu tình, hoặc dùng an nhẫn nhiếp các hữu tình, hoặc dùng tinh tiến nhiếp các hữu tình, hoặc dùng tĩnh lự nhiếp các hữu tình, hoặc dùng bát nhã nhiếp các hữu tình; hoặc dùng giải thoát nhiếp các hữu tình, hoặc dùng giải thoát tri kiến nhiếp các hữu tình; hoặc dạy hữu tình trụ quả Dự lưu, hoặc dạy hữu tình trụ quả Nhất lai, hoặc dạy hữu tình trụ quả Bất Hoàn, hoac덊 dạy hữu tình trụ Độc giác Bồ đề; hoặc dạy hữu tình trụ ngôi Bồ tát Ma ha tát , hoặc dạy hữu tình an trụ Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề. Tùy các hữu tình thế lực căn lành, pháp lành thêm lớn, các thứ phương tiện khiến kia an trụ.

Bồ tát Ma ha tát này an trụ tĩnh Ba la mật đa năng dẫn tất cả tam ma điạ môn, năng dẫn tất cả đà la ni môn. Năng được bốn vô ngại giải thù thắng, năng được dị thục thần thông thù thắng. Bồ tát Ma ha tát này do được dị thục thần thông thù thắng. Bồ tát Ma ha tát do được dị thục thần thông thù thắng, quyết định chẳng vào lại nơi mẫu thai, quyết định chẳng còn thọ vui dâm dục, quyết định chẳng bị sanh quả làm nhiễm. Vì cớ sao? Vì Bồ tát Ma ha tát này khéo thấy khéo đạt tất cả pháp tánh đều như huyễn hóa mà thừa bi nguyện nhiêu ích hữu tình. Tuy nương nơi bi nguyện nhiêu ích hữu tình mà đạt hữu tình và thi khiết kia đều bất khả đắc, mà năng an lập tất cả hữu tình khiến kia an trụ pháp bất khả đắc. Nương lý thế tục chẳng nương thắng nghĩa.

Bồ tát Ma ha tát này an trụ tĩnh lự Ba la mật đa, tu hành tất cả tĩnh lự, giải thoát, đẳng trì, đẳng chí, cho đến viên mãn sở cầu Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề, thường chẳng bỏ rời sở tu tĩnh lự Ba la mật đa.

Bồ tát Ma ha tát này hành đạo tướng trí, phương tiện phát dẫn Nhất thiết tướng trí, an trụ trong ấy dứt hẳn tất cả tập khí nối nhau. Bồ tát Ma ha tát này vì năng trụ dứt hẳn tất cả tập khí nối nhau, nên chánh tự lợi cũng chánh lợi tha. Bồ tát Ma ha tát này năng chánh tự lợi lợi tha, nên bèn cùng tất cả thế gian trời, người, a tố lạc thảy.

Như vậy, Thiện Hiện! Khi Bồ tát Ma ha tát hành Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu, do tâm lực vô lậu lìa các tướng, không giác, không đắc, không bóng, không tác, viên mãn tĩnh lự Ba la mật đa, cũng năng viên mãn các công đức khác.

Lại nữa, Thiện Hiện! Sao là khi Bồ tát Ma ha tát hành Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu năng đối trong các pháp không tướng, không giác, không đắc, không bóng, không tác, viên mãn Bát nhã Ba la mật đa?

Thiện Hiện! Khi Bồ tát Ma ha tát hành Bát nhã Ba la mật đa thẳm sâu, năng đem tâm ly tướng vô lậu mà tu Bát nhã Ba la mật đa , Bồ tát Ma ha tát này chẳng thấy chút pháp thật có trọn nên. Nghĩa là chẳng thấy thọ tưởng hành thức thật có trọn nên. Chẳng thấy sắc sanh, chẳng thấy thọ tưởng hành thức sanh. Chẳng thấy sắc diệt, chẳng thấy thọ tưởng hành thức diệt. Chẳng thấy sắc là môn tăng ích, chẳng thấy thọ tưởng hành thức là môn tăng ích. Chẳng thấy sắc là môn tổn giảm, chẳng thấy thọ tưởng hành thức là môn tổn giảm. Chẳng thấy sắc có chứa nhóm, chẳng thấy thọ tưởng hành thức có chứa nhóm. Chẳng thấy sắc có lìa tan, chẳng thấy thọ tưởng hành thức có lìa tan. Như thật quán sắc là hư dối chẳng bền, thật không tự tại; như thật quán thọ tưởng hành thức là hư dối chẳng bền, thật không tự tại.

Chẳng thấy nhãn xứ thật có trọn nên, chẳng thấy nhĩ tỷ thiệt thân ý xứ thật có trọn nên. Chẳng thấy nhãn xứ sanh, chẳng thấy nhĩ tỷ thiệt thân ý xứ sanh. Chẳng thấy nhãn xứ diệt, chẳng thấy nhĩ tỷ thiệt thân xứ diệt. Chẳng thấy nhãn xứ là môn tăng ích, chẳng thấy nhĩ tỷ thiệt thân ý xứ là môn tăng ích. Chẳng thấy nhãn xứ là môn tổn giảm, chẳng thấy nhĩ tỷ thiệt thân ý xứ là môn tổn giảm. Chẳng thấy nhãn xứ có chứa nhóm, chẳng thấy nhĩ tỷ thiệt thân ý xứ có chứa nhóm. Chẳng thấy nhãn xứ có lìa tan, chẳng thấy nhĩ tỷ thiệt thân ý xứ có lìa tan. Như thật quán nhãn xứ là hư dối chẳng bền, thật không tự tại; như thật quán nhĩ tỷ thiệt thân ý xứ là hư dối chẳng bền, thật không tự tại.

Chẳng thấy sắc xứ thật có trọn nên, chẳng thấy thanh hương vị xúc pháp xứ thật có trọn nên. Chẳng thấy sắc xứ sanh, chẳng thấy thanh hương vị xúc pháp xứ sanh. Chẳng thấy sắc xứ diệt, chẳng thấy thanh hương vị xúc pháp xứ diệt. Chẳng thấy sắc xứ là môn tăng ích, chẳng thấy thanh hương vị xúc pháp xứ là môn tăng ích. Chẳng thấy sắc xứ là môn tôn giảm, chẳng thấy thanh hương vị xúc pháp xứ là môn tôn giảm. Chẳng thấy sắc xứ có chứa nhóm, chẳng thấy thanh hương vị xúc pháp có chứa nhóm. Chẳng thấy sắc xứ có lìa tan, chẳng thấy thanh hương vị xúc pháp xứ có lìa tan. Như thật quán sắc xứ là hư dối chẳng bền, thật không tự tại; như thật quán thanh hương vị xúc pháp xứ là hư dối chẳng bền, thật không tự tại.

Chẳng thấy nhãn giới thật có trọn nên, chẳng thấy nhĩ tỷ thiệt thân ý giới thật có trọn nên. Chẳng thấy nhãn giới sanh, chẳng thấy nhĩ tỷ thiệt thân ý giới sanh. Chẳng thấy nhãn giới diệt, chẳng thấy nhĩ tỷ thiệt thân ý giới diệt. Chẳng thấy nhãn giới là môn tăng ích, chẳng thấy nhĩ tỷ thiệt thân ý giới la môn tăng ích. Chẳng thấy nhãn giới là môn tôn giảm, chẳng thấy nhĩ tỷ thiệt thân ý giới là môn tôn giảm. Chẳng thấy nhãn giới có chứa nhóm, chẳng thấy nhĩ tỷ thiệt thân ý giới có chứa nhóm. Chẳng thấy nhãn giới có lìa tan, chẳng thấy nhĩ tỷ thiệt thân ý giới có lìa tan. Như thật quán nhãn giới là hư dối chẳng bền, thật không tự tại; như thật quán nhĩ tỷ thiệt thân ý giới là hư dối chẳng bền, thật không tự tại.

Chẳng thấy sắc giới thật có trọn nên, chẳng thấy thanh hương vị xúc pháp giới thật có trọn nên. Chẳng thấy sắc giới sanh, chẳng thấy thanh hương vị xúc pháp giới sanh. Chẳng thấy sắc giới diệt, chẳng thấy thanh hương vị xúc pháp giới diệt. Chẳng thấy sắc giới là môn tăng ích, chẳng thấy thanh hương vị xúc pháp giới diệt giới la môn tăng ích. Chẳng thấy sắc giới là môn tôn giảm, chẳng thấy thanh hương vị xúc pháp giới là môn tôn giảm. Chẳng thấy sắc giới có chứa nhóm, chẳng thấy thanh hương vị xúc pháp giới chứa nhóm. Chẳng thấy sắc giới có lìa tan, chẳng thấy thanh hương vị xúc pháp giới có lìa tan. Như thật quán sắc giới là hư dối chẳng bền, thật không tự tại; như thật quán thanh hương vị xúc pháp giới là hư dối chẳng bền, thật không tự tại.

Chẳng thấy nhãn thức giới có trọn nên, chẳng thấy nhị tỷ thiệt thân ý thức giới có trọn nên. Chẳng thấy nhãn thức giới sanh, chẳng thấy nhĩ tỷ thiệt thân ý thức giới sanh. Chẳng thấy nhãn thức giới sanh. Chẳng thấy nhãn thức giới diệt, chẳng thấy nhĩ tỷ thiệt thân ý thức giới diệt. Chẳng thấy nhãn thức giới là môn tăng ích, chẳng thấy nhĩ tỷ thiệt thân ý thức giới là môn tăng ích. Chẳng thấy nhãn thức giới là môn tổn giảm, chẳng thấy nhĩ tỷ thiệt thân ý thức giới là môn tổn giảm. Chẳng thấy nhãn thức giới có chứa nhóm, chẳng thấy nhĩ tỷ thiệt thân ý có chứa nhóm. Chẳng thấy nhãn thức giới có lìa tan, chẳng thấy nhĩ tỷ thiệt thân ý thức giới có lìa tan. Như thật quán thức giới là hư dối chẳng bền, thật không tự tại; như thật quán nhĩ tỷ thiệt thân ý thức giới là hư dối chẳng bền, thật không tự tại.

Chẳng thấy nhãn xúc thật có trọn nên, chẳng thấy nhĩ tỷ thiệt thân ý xúc thật có trọn nên. Chẳng thấy nhãn xúc sanh, chẳng thấy nhĩ tỷ thiệt thân ý xúc sanh. Chẳng thấy nhãn xúc diệt, chẳng thấy nhĩ tỷ thiệt thân ý xúc diệt. Chẳng thấy nhãn xúc là môn tăng ích, chẳng thấy nhĩ tỷ thiệt thân ý xúc là môn tăng ích. Chẳng thấy nhãn xúc là môn t6n giảm, chẳng thấy nhĩ tỷ thiệt thân ý xúc là môn tôn giảm. Chẳng thấy nhãn xúc có chứa nhóm, chẳng thấy nhĩ tỷ thiệt thân ý xúc có chứa nhóm. Chẳng thấy nhãn xúc có lìa tan, chẳng thấy nhĩ tỷ thiệt ý xúc có lìa tan. Như thật quán nhãn xúc là hư dối chẳng bền, thật không tự tại; như thật quán nhĩ tỷ thiệt thân ý xúc là hư dối chẳng bền, thật không tự tại.

Chẳng thấy nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ thật có trọn nên, chẳng thấy nhĩ tỷ thiệt thân ý xúc làm duyên sanh ra các thọ thật có trọn nên. Chẳng thấy nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ sanh, chẳng thấy nhĩ tỷ thiệt thân ý xúc làm duyên sanh ra các thọ sanh. Chẳng thấy nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ diệt, chẳng thấy nhĩ tỷ thiệt thân ý xúc làm duyên sanh ra các thọ diệt. Chẳng thấy nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ là môn tăng ích ,chẳng thấy nhĩ tỷ thiệt thân ý xúc làm duyên sanh ra các thọ là môn tăng ích. Chẳng thấy nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ là môn tôn giảm, chẳng thấy nhĩ tỷ thiệt thân ý xúc làm duyên sanh ra các thọ là môn tôn giảm. Chẳng thấy nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ có chứa nhóm, ,chẳng thấy nhĩ tỷ thiệt thân ý xúc làm duyên sanh ra các thọ có chứa nhóm. Chẳng thấy nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ có lìa tan, chẳng thấy nhĩ tỷ thiệt thân ý xúc làm duyên sanh ra các thọ có lìa tan. Như thật quán nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ là hư dối chẳng bền, thật không tự tại. Như thật quán nhĩ tỷ thiệt thân ý xúc là hư dối chẳng bền, thật không tự tại.

Chẳng thấy tất cả các pháp hữu lậu thật có trọn nên, chẳng thấy tất cả pháp vô lậu thật có trọn nên. Chẳng thấy tất cả các pháp hữu lậu sanh, chẳng thấy tất cả pháp vô lậu sanh. . Chẳng thấy tất cả các pháp hữu lậu diệt, chẳng thấy tất cả pháp vô lậu diệt. Chẳng thấy tất cả các pháp hữu lậu là môn tăng ích, chẳng thấy tất cả pháp vô lậu là môn tăng ích. Chẳng thấy tất cả các pháp hữu lậu là môn tổn giảm, chẳng thấy tất cả pháp vô lậu là môn tôn giảm. Chẳng thấy tất cả các pháp hữu lậu có chứa nhóm, chẳng thấy tất cả pháp vô lậu có chứa nhóm. Chẳng thấy tất cả các pháp hữu lậu có lìa tan, chẳng thấy tất cả pháp vô lậu có lìa tan. Như thật quán nhãn tất cả pháp hữu lậu là hư dối chẳng bền, thật không tự tại; như thật quán tất cả pháp vô lậu là hư dối chẳng bền, thật không tự tại.

Bồ tát Ma ha tát này khi quán như thế, bất đắc tự tánh sanh, bất đắc tự tánh thọ tưởng hành thức. Bất đắc tự tánh nhãn xứ, bất đắc tữ tánh nhĩ tỷ thiệt thân ý xứ. Bất đắc tự tánh sắc xứ, bất đắc tữ tánh thanh hương vị xúc pháp xứ. Bất đắc tự tánh nhãn giới, bất đắc tữ tánh nhĩ tỷ thiệt thân ý giới. Bất đắc tự tánh sắc giới, bất đắc tữ tánh thanh hương vị xúc pháp giới. Bất đắc tự tánh nhãn thức giới, bất đắc tữ tánh nhĩ tỷ thiệt thân ý thức giới. Bất đắc tự tánh nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ, bất đắc tữ tánh nhĩ tỷ thiệt thân ý xúc làm duyên sanh ra các thọ.Bất đắc tự tánh tất cả pháp hữu lậu, bất đắc tữ tánh tất cả pháp vô lậu.

Bồ tát Ma ha tát này tu hành Bát nhã Ba la mật đa, đối tất cả pháp đều đem vô tánh mà làm tự tánh, rất sanh tin hiểu. Bồ tát Ma ha tát này đối việc như thế sanh tin hiểu rồi, năng hành nội không, ngoại không, nội ngoại không, không không, đại không, thắng nghĩa không, hữu vi không, vô vi không, tất cánh không, vô tế không, tán không, vô biến dị không, bổn tánh không, tự tướng không, cộng tướng không, nhất thiết pháp không, bất khả đắc không, vô tánh không, tự tánh không, vô tánh tự tánh không.

Bồ tát Ma ha tát này khi hành như thế, đối tất cả pháp đều chẳng chấp trước, nghiã là chẳng chấp trước sắc, chẳng chấp trước thọ tưởng hành thức. Chẳng chấp trước nhãn xứ, chẳng chấp trước nhĩ tỷ thiệt thân ý xứ. Chẳng chấp trước sắc xứ, chẳng chấp trước thanh hương vị xúc pháp xứ. Chẳng chấp trước nhãn giới, chẳng chấp trước nhĩ tỷ thiệt thân ý giới. Chẳng chấp trước sắc giới, chẳng chấp trước thanh hương vị xúc pháp giới. Chẳng chấp trước nhãn thức giới, chẳng chấp trước nhĩ tỷ thiệt thân ý thức giới. Chẳng chấp trước nhãn xúc, chẳng chấp trước nhĩ tỷ thiệt thân ý xúc. Chẳng chấp trước nhãn xúc làm duyên sanh ra các thọ, chẳng chấp trước nhĩ tỷ thiệt thân ý xúc làm duyên sanh ra các thọ.

Chẳng chấp trước địa giới, chẳng chấp trước thủy hỏa phong không thức giới. Chẳng chấp trước nhân duyên; chẳng chấp trước đẳng vô gián duyên, sở duyên duyên, tăng thượng duyên. Chẳng chấp trước vô minh; chẳng chấp trước hành, thức, danh sắc, lục xứ, xúc, thọ, ái, hữu, sanh, lão tử sầu thán khổ ưu não. Chẳng chấp trước bố thí Ba la mật đa; chẳng chấp trước tịnh giới, an nhẫn, tinh tiến, tĩnh lự, bát nhã Ba la mật đa. Chẳng chấp trước nội không; chẳng chấp trước ngoại không, nội ngoại không, không không, đại không, thắng nghĩa không, hữu vi không, vô vi không, tất cánh không, vô tế không, tán không, vô biến dị không, bổn tánh không, tự tướng không, cộng tướng không, nhất thiết pháp không, bất khả đắc không, vô tánh không, tự tánh không, vô tánh không, tự tánh không, vô tánh tự tánh không.

Chẳng chấp trước chơn như; chẳng chấp trước pháp giới, pháp tánh, bất hư vọng tánh, bất biến dị tánh, bình đẳng tánh, ly sanh tánh, pháp định, pháp trụ, thật tế, hư không giới, bất tư nghì giới. Chẳng chấp trước bốn niệm trụ; chẳng chấp trước bốn chánh đoạn, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy đẳng giác chi, tám thánh đạo chi. Chẳng chấp trước khổ thánh đế; chẳng chấp trước tập diệt đạo thánh đế.

Chẳng chấp trước bốn tĩnh lự; chẳng chấp trước bốn vô lượng, bốn vô sắc định. Chẳng chấp trước tám giải thoát; chẳng chấp trước tám thắng xứ, chín thứ đệ định, mười biến xứ. Chẳng chấp trước tất cả tam ma địa môn, chẳng chấp trước tất cả đà la ni môn. . Chẳng chấp trước không giải thoát môn; chẳng chấp trước vô tướng, vô nguyện giải thoát môn. Chẳng chấp trước năm nhãn, chẳng chấp trước sáu thần thông.

Chẳng chấp trước Phật mười lực; chẳng chấp trước bốn vô sở úy, bốn vô ngại giải, mười tám pháp Phật bất cộng. Chẳng chấp trước đại từ; chẳng chấp trước đại bi, đại hỷ, đại xả. Chẳng chấp trước pháp vô vong thất; chẳng chấp trước tánh hằng trụ xả. Chẳng chấp trước nhất thiết trí; chẳng chấp trước đạo tướng trí, nhất thiết tướng trí.

Chẳng chấp trước quả Dự lưu; chẳng chấp trước quả Nhất lai, Bất hoàn, A la hán, Độc giác Bồ đề. Chẳng chấp trước tất cả hạnh Bồ tát Ma ha tát. Chẳng chấp trước chư Phật Vô thượng Chánh đẳng Bồ đề.

 

--- o0o ---

Mục Lục Tập 16

Quyển thứ:  |  376| 377| 378| 379| 380

 381| 382 | 383| 384| 385|  386| 387| 388| 389| 390  

391|  392| 393| 394| 395| 396| 397|  398| 399| 400

--- o0o ---

Mục Lục Tổng Quát Kinh Bát Nhã

Tập:  1 | 2 | 3 | 4 | 5 | 6 | 78 | 9 | 10 | 11 | 12

13 | 14 | 15 | 16 | 17 | 18 | 19 | 20 | 21 | 22 | 23 | 24  

--- o0o ---

Vi tính: Bích Ty - Phi Uyên
Cập nhật: 01-01-2003

Nguồn: www.quangduc.com

Về danh mục

doc cça nh Ä phat giao nhà mat ngu từ bên ma Mẹ tôi duyen thu cho ban quán Di tích lịch sử văn hóa Tam cư sĩ nguyễn văn hiếu 1896 ruc ro co hoa pg tai le hoi vesak nguoi viet o san Lại nói với con Phật giáo lê sua chữ B cau chuyen ve chu cho cuu nguoi duoc ve voi coi phat phap sanh tâm vô trú 1992 họa Thất mat Bệnh nấc cụt Hiccup giÃƒÆ トo Giấc bước chung 12 vấn đề xã hộidưới cái nhìn phật đò Bớt hoa hoc phat Vitamin B6 B12 làm tăng nguy cơ ung Tập thể dục khi còn trẻ có lợi cho não nữ diễn viên trẻ xuất gia gieo duyên vao 永平寺 hoà tức du con co la ai chương 4 Nhớ lu ç