.
Kinh Trung bộ
HT. Thích Minh Châu dịch
- KINH
THÁNH CẦU
- (Ariyapariyesanasuttam)
Tôi nghe như vầy:
Một thời Thế Tôn ở Savatthi, tại
Jetavana, vườn ông Anathapindika, (Cấp Cô Độc). Rồi Thế Tôn vào buổi
sáng đắp y, cầm y bát Savatthi để khất thực. Có một số đông Tỷ-kheo
đến chỗ Tôn giả Ananda ở, sau khi đến, nói với Tôn giả Ananda:
– Hiền giả, đã lâu chúng tôi chưa
được tận mặt nghe Thế Tôn thuyết pháp. Lành thay, Hiền giả Ananda, nếu
chúng tôi được tận mặt nghe Thế Tôn thuyết pháp!
– Các Tôn giả hãy đến chỗ Bà-la-môn
Rammaka ở, và các Tôn giả sẽ được tận mặt nghe Thế Tôn thuyết pháp.
– Thưa vâng, Hiền giả.
Các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Tôn giả
Ananda . Rồi Thế Tôn, khất thực ở Savatthi xong, sau buổi ăn trên con đường
đi khất thực trở về, cho gọi Tôn giả Ananda:
– Này Ananda, chúng ta hãy đi đến
Pubbarama (Đông viên), ngôi lầu của Migaramatu (Lộc Mẫu Giảng Đường) để
nghỉ trưa!
– Thưa vâng, bạch Thế Tôn.
Tôn giả Ananda vâng đáp Thế Tôn.
Rồi Thế Tôn cùng với Tôn giả Ananda đi đến vườn Pubbarama, ngôi lầu của
Migaramatu để nghỉ trưa. Thế Tôn vào buổi chiều từ Thiền tịnh đứng
dậy, gọi Tôn giả Ananda:
– Này Ananda, chúng ta hãy đi đến
Pubbakotthaka để rửa tay, rử hân.
– Thưa vâng, bạch Thế Tôn.
Tôn giả Ananda vâng đáp Thế Tôn.
Rồi Thế Tôn cùng với Tôn giả Ananda đi đến Pubbakotthaka để rửa tay, rử
hân. Sau khi rửa tay, rử hân ở Pubbalotthaka xong, Thế Tôn leo đứng trên bờ,
đắp một tấm y, phơi tay chân cho khô. Rồi Tôn giả Ananda bạch Thế Tôn:
– Bạch Thế Tôn, tinh thất của
Bà-la-môn Rammaka không xa; bạch Thế Tôn, tịnh thất của Bà-la-môn Rammaka
là khả ái; bạch Thế Tôn, tịnh thất của Bà-la-môn Rammaka là khả lạc;
bạch Thế Tôn, lành thay, nếu Thế Tôn vì lòng từ bi đi đến tịnh thất
của Bà-la-môn Rammaka!
Thế Tôn im lặng nhận lời. Rồi
Thế Tôn đi đến tịnh thất của Bà-la-môn Rammaka. Lúc bấy giờ, một số
đông Tỷ-kheo đang hội họp tại tịnh thất của Bà-la-môn Rammaka để
thuyết pháp. Thế Tôn đứng chờ ngoài cử ho đến khi thuyết pháp xong. Thế
Tôn biết cuộc thuyết pháp đã xong, liền đằng hắng và gõ vào thanh cửa.
Các Tỷ-kheo ấy mở cử ho Thế Tôn. Rồi Thế Tôn bước vào tịnh thất của
Bà-la-môn Rammaka và ngồi lên chỗ đã soạn sẵn. Sau khi ngồi, Thế Tôn gọi
các Tỷ-kheo:
– Này các Tỷ-kheo, các Người nay
hội họp bàn vấn đề gì? Và câu chuyện gì giữ ác Người bị gián đoạn?
– Bạch Thế Tôn, câu chuyện giữ
húng con thuộc về Thế Tôn và câu chuyện ấy bị gián đoạn khi Thế Tôn
đến.
– Này các Tỷ-kheo, lành thay khi
Thiện nam tử các Người, vì lòng tin xuất gia, từ bỏ gia đình, sống
không gia đình, cùng nhau hội họp để luận bàn đạo pháp. Này các Tỷ-kheo,
khi các Người hội họp với nhau, có hai việc cần phải làm: luận bàn đạo
pháp hay giữ sự im lặng của bậc Thánh.
Này các Tỷ-kheo, có hai sự tầm cầu
này: Thánh cầu và phi Thánh cầu. Chư Tỷ-kheo, và thế nào là phi Thánh cầu?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, có người tự mình bị sanh lại tìm cầu cái bị
sanh, tự mình bị già lại tìm cầu cái bị già, tự mình bị bệnh... tự
mình bị chết... tự mình bị sầu... tự mình bị ô nhiễm lại tìm cầu
cái bị ô nhiễm. Này các Tỷ-kheo, cái gì theo các Người gọi là bị
sanh? Này các Tỷ-kheo, vợ con là bị sanh; đầy tớ nam, đầy tớ nữ là bị
sanh; dê và cừu là bị sanh; gà và heo là bị sanh; voi, bò, ngựa đực, ngự
ái là bị sanh; vàng và bạc là bị sanh. Này các Tỷ-kheo, những chấp thủ
ấy bị sanh, và người ấy lại nắm giữ, tham đắm, mê say chúng, tự
mình bị sanh lại tầm cầu cái bị sanh. Và này các Tỷ-kheo, cái gì theo
các Người gọi là bị già? Này các Tỷ-kheo, vợ con là bị già; đầy tớ
nam, đầy tớ nữ là bị già; dê và cừu là bị già; gà và heo là bị
già; voi, bò, ngựa đực, ngự ái là bị già; vàng và bạc là bị già.
Này các Tỷ-kheo, những chấp thủ ấy là bị già, và người ấy lại nắm
giữ, tham đắm, mê say chúng, tự mình bị già lại tìm cầu cái bị già.
Và này các Tỷ-kheo, cái gì theo các Người gọi là bị bệnh? Này các Tỷ-kheo,
vợ con là bị bệnh; đầy tớ nam, đầy tớ nữ là bi bệnh; dê và cừu
là bị bệnh; gà và heo là bị bệnh; voi, bò, ngựa đực, ngự ái là bị
bệnh. Này các Tỷ-kheo, những chấp thủ ấy là bị bệnh, và người ấy
lại nắm giữ tham đắm, mê say chúng, tự mình bị bệnh lại tìm cầu
cái bị bệnh. Và này các Tỷ-kheo, cái gì các Người nói là bị chết?
Này các Tỷ-kheo, vợ con là bi chết; đầy tớ nam, đầy tớ nữ là bị chết;
dê và cừu là bị chết; gà và heo là bị chết; voi, bò, ngựa đực, ngự
ái là bị chết. Này các Tỷ-kheo, những chấp thủ ấy là bị chết, và
người ấy lại nắm giữ, tham đắm, mê say chúng, tự mình bị chết lại
tìm cầu cái bị chết. Và này các Tỷ-kheo, cái gì theo các Người gọi là
bị sầu? Này các Tỷ-kheo, vợ con là bị sầu; đầy tớ nam, đầy tớ nữ
là bị sầu; dê và cừu là bị sầu, gà và heo là bị sầu; voi, bò, ngựa
đực, ngự ái là bị sầu. Này các Tỷ-kheo, những chấp thủ ấy là bị
sầu, và người ấy lại nắm giữ, tham đắm, mê say chúng, tự mình bị sầu
lại tìm cầu cái bị sầu. Và này các Tỷ-kheo, cái gì theo các Người gọi
là bị ô nhiễm? Này các Tỷ-kheo, vợ con là bị ô nhiễm; đầy tớ nam,
đầy tớ nữ là bị ô nhiễm; dê và cừu la bị ô nhiễm; gà và heo là bị
ô nhiễm; voi, bò, ngựa đực, ngự ái là bị ô nhiễm; vàng và bạc là bị
ô nhiễm. Và này các Tỷ-kheo, những chấp thủ ấy là bị ô nhiễm, và người
ấy lại nắm giữ, tham đắm, mê say chúng, tự mình bị ô nhiễm lại tìm
cầu cái bị ô nhiễm. Này các Tỷ-kheo, như vậy gọi là phi Thánh cầu.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là
Thánh cầu? Ở đây, này các Tỷ-kheo, có người tự mình bị sanh, sau khi
biết rõ sự nguy hại của bị sanh, tìm cầu cái vô sanh, vô thượng an ổn
khỏi các khổ ách, Niết-bàn; tự mình bị già, sau khi biết rõ sự nguy hại
của bị già, tìm cầu cái không già, vô thượng an ổn khỏi các khổ
ách, Niết-bàn; tự mình bị bệnh... cái không bệnh... tự mình bị chết...
cái bất tử... tự mình bị sầu... cái không sầu... tự mình bị ô nhiễm,
sau khi biết rõ sự nguy hại của ô nhiễm, tìm cầu cái không ô nhiễm,
vô thượng an ổn khỏi các khổ ách, Niết-bàn. Này các Tỷ-kheo, như vậy,
gọi là Thánh cầu.
Này các Tỷ-kheo, T ũng vậy, trước
khi Giác Ngộ, khi chư hứng Chánh Đẳng Giác, khi còn là Bồ-tát, tự mình
bị sanh lại tìm cầu cái bị sanh, tự mình bị già, lại tìm cầu cái bị
già, tự mình bị bệnh... tự mình bị chết... tự mình bị sầu"... tự
mình bị ô nhiễm lại tìm cầu cái bị ô nhiễm. Này các Tỷ-kheo, rồi Ta
suy nghĩ như sau: "Tại sao Ta, tự mình bị sanh lại tìm cầu cái bị
sanh, tự mình bị già... (như trên)... tự mình bi ô nhiễm lại tìm cầu
cái bị ô nhiễm? Vậy Ta, tự mình bị sanh, sau khi biết rõ sự nguy hại của
bị sanh, hãy tìm cầu cái không sanh vô thượng an ổn khỏi các khổ ách,
Niết-bàn; tự mình bị già... cái không già... tự mình bị bệnh... cái
không bệnh... tự mình bị chết... cái bất tử... tự mình bị sầu...
cái không sầu... tự mình bi ô nhiễm, sau khi biết rõ sự nguy hại củ ái
bị nhiễm, hãy tìm cầu cái không ô nhiễm, vô thượng an ổn khỏi các khổ
ách, Niết-bàn.
Rồi này các Tỷ-kheo, sau một thời
gian, khi T òn trẻ, niên thiếu, tóc đen nhánh, đầy đủ huyết khí của tuổi
thanh xuân, trong thời vàng son cuộc đời, mặc dầu cha mẹ không bằng
lòng, nước mắt đầy mặt, than khóc, T ạo bỏ râu tóc, đắp áo cà-sa,
xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình. Ta xuất gia như vậy, một
người đi tìm cái gì chí thiện, tìm cầu vô thượng tối thắng an tịnh
đạo lộ. Ta đến chỗ Alara Kalama ở, khi đến xong liền thưa với Alara
Kalama: "Hiền giả Kalama, tôi muốn sống phạm hạnh trong pháp luật
này". Này các Tỷ-kheo, được nghe nói vậy, Alara Kalama nói với Ta:
"Này Tôn giả, hãy sống (và an trú). Pháp này là như vậy, khiến kẻ
có trí, không bao lâu như vị Bổn sư của mình (chỉ dạy), tự tri, tự chứng,
tự đạt và an trú". Này các Tỷ-kheo, và không bao lâu Ta đã thông suốt
pháp ấy một cách mau chóng. Và này các Tỷ-kheo, cho đến vấn đề khua môi
và vấn đề phát ngôn mà nói, thời Ta nói giáo lý của kẻ trí và giáo
lý của bậc Trưởng lão (Thượng tọa), và Ta tự cho rằng Ta như kẻ khác
cũng vậy, Ta biết và Ta thấy. Này các Tỷ-kheo, Ta suy nghĩ như sau:
"Alara Kalama tuyên bố pháp này không phải chỉ vì lòng tin: "Sau khi
tự tri, tự chứng, tự đạt, Ta mới an trú". Chắc chắn Alara Kalama biết
pháp này, thấy pháp này rồi mới an trú". Này các Tỷ-kheo, rồi Ta đi
đến chỗ Alara Kalama ở, sau khi đến Ta nói với Alara Kalama: "Hiền giả
Kalama, cho đến mức độ nào, Ngài tự tri, tự chứng, tự đạt, và tuyên
bố pháp này?" Này các Tỷ-kheo, được nói vậy, Alara Kalama tuyên bố
về Vô sở hữu xứ. Rồi này các Tỷ-kheo, Ta suy nghĩ: "Không phải chỉ
có Alara Kalam ó lòng tin, T ũng có lòng tin. Không phải chỉ có Alara Kalama mới
có tinh tấn, T ũng có tinh tấn. Không phải chỉ có Alara Kalama mới có niệm,
T ũng có niệm. Không phải chỉ có Alara Kalama mới có định, T ũng có định.
Không phải chỉ có Alara Kalama mới có tuệ, T ũng có tuệ. Vậy Ta hãy cố
gắng chứng cho được pháp mà Alara Kalama tuyên bố: "Sau khi tự tri, tự
chứng, tự đạt, ta an trú". Rồi này các Tỷ-kheo, không bao lâu sau khi
tự tri, tự chứng, tự đạt pháp ấy một cách mau chóng, Ta an trú. Rồi
này các Tỷ-kheo, Ta đi đến chỗ Alara Kalama ở, sau khi đến, Ta nói với
Alara Kalama: "Này Hiền giả Kalama, có phải Hiền giả đã tự tri, tự
chứng, tự đạt và tuyên bố pháp này đến mức độ như vậy?"-
"Vâng, Hiền giả, tôi đã tự tri, tự chứng, tự đạt và tuyên bố
pháp này đến mức độ như vậy". - "Này Hiền giả, tôi cũng tự
tri, tự chứng, tự đạt và tuyên bố pháp này đến mức độ như vậy".
- "Thật lợi ích thay cho chúng tôi, Thật khéo lợi ích thay cho chúng
tôi, khi chúng tôi được thấy một đồng phạm hạnh như Tôn giả! Pháp
mà tôi tự tri, tự chứng, tự đạt, và tuyên bố, chính pháp ấy Hiền giả
tự tri, tự chứng, tự đạt và an trú; pháp mà Hiền giả tự tri, tự chứng,
tự đạt và an trú, chính pháp ấy tôi tự tri, tự chứng tự đạt và
tuyên bố; pháp mà tôi biết, chính pháp ấy Hiền giả biết; pháp mà Hiền
giả biết, chính pháp ấy tôi biết. Tôi như thế nào, Hiền giả là như vậy;
Hiền giả như thế nào, tôi là như vậy. Nay hãy đến đây, Hiền giả,
hai chúng ta hãy chăm sóc hội chúng này!" Như vậy này các Tỷ-kheo,
Alara Kalama là Đạo Sư của Ta, lại đặt Ta, đệ tử của vị ấy ngang hàng
với mình, và tôn sùng Ta với sự tôn sùng tối thượng. Này các Tỷ-kheo,
rồi Ta tự suy nghĩ: "Pháp này không hướng đến yểm ly, không hướng
đến ly tham, không hướng đến đoạn diệt, không hướng đến an tịnh,
không hướng đến thượng trí, không hướng đến giác ngộ, không hướng
đến Niết-bàn, mà chỉ đưa đến sự chứng đạt Vô sở hữu xứ".
Như vậy này các Tỷ-kheo, Ta không tôn kính pháp này, và từ bỏ pháp ấy,
Ta bỏ đi.
Rồi này các Tỷ-kheo, Ta, kẻ đi tìm
cái gì chí thiện, tìm cầu vô thượng tối thắng an tịnh đạo lộ. Ta
đi đến chỗ Uddaka Ramaputta, khi đến xong Ta nói với Uddaka Ramaputta:
"Hiền giả, tôi muốn sống phạm hạnh trong pháp luật này. Được nói
vậy, này các Tỷ-kheo, Uddaka Ramaputta nói với Ta: "Này Tôn giả, hãy sống
(và an trú), pháp này là như vậy, khiến người có trí không bao lâu như vị
Bổn sư của mình (chỉ dạy) tự tri, tự chứng, tự đạt và an trú".
Này các Tỷ-kheo, Ta đã thông suốt pháp ấy một cách mau chóng. Và này
các Tỷ-kheo, cho đến vấn đề khua môi và vấn đề phát ngôn mà nói, thời
Ta nói giáo lý của kẻ trí, và giáo lý của bậc Trưởng lão (Thượng Tọa),
và Ta tự cho rằng Ta như người khác cũng vậy, Ta biết và Ta thấy. Này
các Tỷ-kheo, Ta suy nghĩ như sau: "Rama tuyên bố pháp này không phải vì
lòng tin: "Sau khi tự tri, tự chứng, tự đạt, ta mới an trú". Chắc
chắn Rama thấy pháp này, biết pháp này, rồi mới an trú". Này các Tỷ-kheo,
rồi Ta đi đến chỗ Uddaka Ramaputta ở, sau khi đến Ta nói với Uddaka
Ramaputta: "Hiền giả Rama, cho đến mức độ nào, Ngài tự tri, tự chứng,
tự đạt và tuyên bố pháp này?" Này các Tỷ-kheo được nghe nói vậy,
Uddaka Ramaputta tuyên bố về Phi tưởng phi phi tưởng xứ. Rồi này các Tỷ-kheo,
Ta suy nghĩ: "Không phải chỉ có Rama mới có lòng tin. T ũng có lòng
tin. Không phải chỉ có Rama mới có tinh tấn, T ũng có tinh tấn. Không phải
chỉ có Rama mới có niệm, T ũng có niệm. Không phải chỉ có Rama mới có
định, T ũng có định. Không phải chỉ có Rama mới có tuệ, T ũng có tuệ.
Vậy ta hãy cố gắng chứng cho được pháp mà Rama tuyên bố: "Sau khi tự
tri, tự chứng, tự đạt, tự an trú". Rồi này các Tỷ-kheo, không bao
lâu sau khi tự tri, tự chứng, tự đạt pháp ấy một cách mau chóng, Ta an
trú. Rồi này các Tỷ-kheo, Ta đi đến chỗ Uddaka Ramaputta ở, sau khi đến,
Ta nói với Uddaka Ramaputta: "Này Hiền giả Rama, có phải Hiền giả đã
tự tri, tự chứng, tự đạt và tuyên bố pháp này đến mức độ như vậy?"
- "Vâng Hiền giả, tôi đã tự tri, tự chứng, tự đạt và tuyên bố
pháp này đến mức độ như vậy". - "Này Hiền giả, tôi cũng đã
tự tri, tự chứng, tự đạt và tuyên bố pháp này đến mức độ như vậy."
Thật lợi ích thay cho chúng tôi! Thật khéo lợi ích thay cho chúng tôi, khi
chúng tôi được thấy một đồng phạm hạnh như Tôn giả! Pháp mà tôi, tự
tri tự chứng, tự đạt và tuyên bố, chính pháp ấy Hiền giả tự tri, tự
chứng, tự đạt và an trú; pháp mà Hiền giả tự tri, tự chứng, tự đạt
và an trú, chính pháp ấy tôi tự tri, tự chứng, tự đạt và tuyên bố;
pháp mà tôi biết, chính pháp ấy Hiền giả biết; pháp mà Hiền giả biết,
chính pháp ấy tôi biết. Tôi như thế nào, Hiền giả là như vậy; Hiền
giả như thế nào, Tôi là như vậy. Nay hãy đến đây, Hiền giả, hai
chúng ta hãy chăm sóc hội chúng này!" Như vậy, này các Tỷ-kheo, Uddaka
Ramaputta-là Đạo Sư của Ta, lại đặt Ta, đệ tử của vị ấy ngang hàng
với mình, và tôn sùng Ta với sự tôn sùng tối thượng. Này các Tỷ-kheo,
rồi Ta suy nghĩ: "Pháp này không hướng đến yểm ly, không hướng đến
ly tham, không hướng đến đoạn diệt, không hướng đến an tịnh, không hướng
đến thượng trí, không hướng đến giác ngộ, không hướng đến Niết-bàn,
mà chỉ đưa đến sự chứng đạt Phi tưởng phi phi tưởng xứ". Như
vậy, này các Tỷ-kheo, Ta không tôn kính pháp ấy và từ bỏ pháp ấy, Ta bỏ
đi.
Này các Tỷ-kheo, Ta, kẻ đi tìm
cái gì chí thiện, tìm cầu vô thượng tối thắng an tịnh đạo lộ, tuần
tự du hành tại nước Magadha (Ma kiệt đà) và đến tại tụ lạc Uruvela
(Ưu lâu tần loa). Tại đây, Ta thấy một địa điểm khả ái, một khóm rừng
thoải mái, có con sông trong sáng chảy gần, với một chỗ lội qua dễ
dàng khả ái, và xung quanh có làng mạc bao bọc dễ dàng đi khất thực. Này
các Tỷ-kheo, rồi Ta tự nghĩ: "Thật là một địa điểm khả ái, một
khóm rừng thoải mái, có con sông trong sáng chảy gần, với một chỗ lội
qua dễ dàng khả ái, và xung quanh có làng mạc bao bọc dễ dàng đi khất
thực. Thật là một chỗ vừa đủ cho một Thiện nam tử tha thiết tinh cần
có thể tinh tấn". Và này các Tỷ-kheo, Ta ngồi xuống tại chỗ ấy
và nghĩ: "Thật là vừa đủ để tinh tấn".
Rồi này các Tỷ-kheo, Ta tự mình bị
sanh, sau khi biết rõ sự nguy hại củ ái bị sanh, tìm cầu cái không sanh,
vô thượng an ổn khỏi các khổ ách, Niết-bàn và đã chứng được cái
không sanh, vô thượng an ổn khỏi các khổ ách, Niết-bàn; tự mình bị
già, sau khi biết rõ sự nguy hại củ ái bị già, tìm cầu cái không già,
vô thượng an ổn khỏi các khổ ách, Niết-bàn; và đã chứng được cái
không già, vô thượng an ổn khỏi các khổ ách, Niết-bàn; tự mình bị bệnh,
sau khi biết rõ sự nguy hại củ ái bị bệnh, tìm cầu cái không bệnh,
vô thượng an ổn khỏi các khổ ách, Niết-bàn và đã chứng được cái
không bệnh, vô thượng an ổn khỏi các khổ ách, Niết-bàn; tự mình bị
chết, sau khi biết rõ sự nguy hại củ ái bị chết, tìm cầu cái không chết,
vô thượng an ổn khỏi các khổ ách, Niết-bàn và đã chứng được cái
không chết, vô thượng an ổn khỏi các khổ ách, Niết-bàn; tự mình bị
sầu, sau khi biết rõ sự nguy hại củ ái bị sầu, tìm cầu cái không sầu,
vô thượng an ổn khỏi các khổ ách, Niết-bàn và đã chứng được cái
vô sầu, vô thượng an ổn khỏi các khổ ách, Niết-bàn; tự mình bị ô
nhiễm, sau khi biết rõ sự nguy hại củ ái bị ô nhiễm, tìm cầu cái
không bị ô nhiễm, vô thượng an ổn khỏi các khổ ách, Niết-bàn và đã
chứng được cái không ô nhiễm, vô thượng an ổn, khỏi các khổ ách, Niết-bàn.
Và trí và kiến khơi lên nơi Ta. Sự giải thoát của Ta không bị dao động.
Nay là đời sống cuối cùng của Ta, không còn sự tái sanh nữa.
Này các Tỷ-kheo, rồi Ta suy nghĩ
như sau: "Pháp này do T hứng được, thật là sâu kín, khó thấy, khó
chứng, tịch tịnh, cao thượng, siêu lý luận, vi diệu, chỉ người trí mới
hiểu thấu. Còn quần chúng này thì ưa ái dục, khoái ái dục, ham thích
ái dục. Đối với quần chúng ưa ái dục, khoái ái dục, ham thích ái dục,
thật khó mà thấy được định lý Idapaccàyata Paticcasamuppada (Y Tánh Duyên
Khởi Pháp); sự kiện này thật khó thấy; tức là sự tịnh chỉ tất cả
hành, sự trừ bỏ tất cả sanh y, ái diệt, ly tham, đoạn diệt, Niết-bàn.
Nếu nay Ta thuyết pháp mà các người khác không hiểu Ta, thời như vậy thật
khổ não cho Ta, như vậy thật bực mình cho Ta!" Này các Tỷ-kheo, rồi
những kệ bất khả tư nghì, từ trước chưa từng được nghe, được khởi
lên nơi Ta:
- Sao Ta nói Chánh pháp,
- Được chứng ngộ khó khăn?
- Những ai còn tham sân,
- Khó chứng ngộ pháp này.
- Đi ngược dòng, thâm diệu,
- Khó thấy, thật tế nhị,
- Kẻ ái nhiễm vô minh,
- Không thấy được pháp này.
Rồi này các Tỷ-kheo, với những
suy tư như vậy, tâm của Ta hướng về vô vi thụ động, không muốn thuyết
pháp. Này các Tỷ-kheo, lúc bấy giờ Phạm thiên Sahampati khi biết được tâm
tư của Ta; với tâm tư của mình, liền suy nghĩ: "Than ôi, thế giới sẽ
tiêu diệt, thế giới sẽ bi hoại vong, nếu tâm của Như Lai, bậc A-la-hán,
Chánh Đẳng Giác hướng về vô vi thụ động, không muốn thuyết
pháp". Rồi này các Tỷ-kheo, Phạm thiên Sahampati, như một nhà lực sĩ
duỗi cánh tay đang co, hay co cánh tay đang duỗi; cũng vậy, vị ấy biến mất
từ thế giới Phạm thiên, và hiện ra trước mặt Ta. Này các Tỷ-kheo, rồi
Phạm thiên Sahampati đắp thượng y một bên vai chắp tay hướng vái Ta và
bạch với Ta: "Bạch Thế Tôn, hãy thuyết pháp! Bạch Thiện Thệ, hãy
thuyết pháp! Có những chúng sanh ít nhiễm bụi trần sẽ bi nguy hại nếu
không được nghe Chánh pháp. (Nếu được nghe), những vị này có thể
thâm hiểu Chánh pháp". Này các Tỷ-kheo, Phạm thiện Sahampati nói như vậy.
Sau khi nói vậy, lại nói thêm như sau:
- Xưa tại Magadha,
- Hiện ra pháp bất tịnh,
- Pháp do tâm cấu uế,
- Do suy tư tác thành.
- Hãy mỡ tung mở rộng,
- Cánh cửa bất tử này.
- Hãy để họ nghe Pháp,
- Bậc Thanh tịnh Chứng Ngộ.
- Như đứng trên tảng đá,
- Trên đỉnh núi (tột cao)
- Có người đứng nhìn xuống,
- Đám chúng sanh quây quần.
- Cũng vậy, ôi Thiện Tuệ,
- Bậc Biến Nhãn cùng khắp,
- Leo lên ngôi lâu đài,
- Xây dựng bằng Chánh pháp
- Bậc Thoát Ly sầu muộn,
- Nhìn xuống đám quần sanh,
- Bị sầu khổ áp bức,
- Bị sanh già chi phối,
- Đứng lên vị Anh Hùng,
- Bậc Chiến Thắng chiến trường.
- Vị trưởng đoàn lữ khách,
- Bậc Thoát Ly nợ nần.
- Hãy đi khắp thế giới,
- Bậc Thế Tôn Chánh Giác!
- Hãy thuyết vi diệu pháp,
- Người nghe sẽ thâm hiểu!
Này các Tỷ-kheo, sau khi biết
được lời Phạm thiên yêu cầu, vì lòng từ bi đối với chúng sanh, với
Phật nhãn, Ta nhìn quanh thế giới. Này các Tỷ-kheo, với Phật nhãn, Ta thấy
có hạng chúng sanh ít nhiễm bụi đời, nhiều nhiễm bụi đời, có hạng
lợi căn, độn căn, có hạng thiện tánh, ác tánh, có hạng dễ dạy, khó
dạy, và một số ít thấy sự nguy hiểm phải tái sanh thế giới khác và
sự nguy hiểm làm những hành động lỗi lầm. Như trong hồ sen xanh, hồ
sen hồng hay hồ sen trắng có một số hoa sen xanh, sen hồng, hay sen trắng
sanh ra dưới nước, lớn lên dưới nước, không vượt lên khỏi mặt nước,
được nuôi dưỡng dưới nước. Có một hoa sen xanh, sen hồng hay sen trắng
sanh ra dưới nước, lớn lên dưới nước, sống vươn lên tới mặt nước.
Có một số hoa sen xanh, sen hồng hay sen trắng sanh ra dưới nước, lớn lên
dưới nước, vươn lên khỏi mặt nước, không bị nước đẫm ướt.
Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, với Phật nhãn, Ta thấy có hạng chúng sanh ít
nhiễm bụi đời, nhiều nhiễm bụi đời, có hạng lợi căn, độn căn, có
hạng thiện tánh, ác tánh, có hạng dễ dạy khó dạy, và một số ít thấy
sự nguy hiểm phải tái sanh thế giới khác và sự nguy hiểm làm những
hành động lỗi lầm. Và này các Tỷ-kheo, Ta nói lên bài kệ sau đây với
Phạm thiên Sahampati:
- Cửa bất tử rộng mở,
- Cho những ai chịu nghe.
- Hãy từ bỏ tín tâm,
- Không chính xác của mình.
- Tự nghĩ đến phiền toái,
- Ta đã không muốn giảng,
- Tối thượng vi diệu pháp,
- Giữ húng sanh loài Người.
- (Ôi Phạm thiên)
Này các Tỷ-kheo, rồi Phạm
thiên Sahampati tự nghĩ: "Ta đã tạo cơ hội cho Thế Tôn thuyết
pháp", đảnh lễ Ta, thân phía hữu hướng (về Ta) rồi biến mất tại
chỗ.
Này các Tỷ-kheo, rồi Ta tự suy nghĩ:
"Ta sẽ thuyết pháp cho ai đầu tiên, ai sẽ mau hiểu Chánh pháp này?
Này các Tỷ-kheo, rồi Ta tự nghĩ: "Nay có Alara Kalama là bậc trí thức,
đa văn, sáng suốt, đã từ lâu sống ít nhiễm bụi đời. Ta hãy thuyết
pháp đầu tiên cho Alara Kalama, vị này sẽ mau hiểu Chánh pháp này".
Này các Tỷ-kheo, rồi chư Thiên đến Ta và nói như sau: "Bạch Thế Tôn,
Alara Kalama đã mệnh chung bảy ngày rồi". Rồi tri kiến khởi lên nơi
Ta: "Alara Kalama đã mệnh chung bảy ngày rồi". Này các Tỷ-kheo, Ta
nghĩ: "Thật là một thiệt hại lớn cho Alara Kalama: Nếu nghe pháp này,
Alara Kalama sẽ mau thâm hiểu". Rồi này các Tỷ-kheo, Ta lại nghĩ:
"Ta sẽ thuyết pháp cho ai đầu tiên? Ai sẽ mau hiểu Chánh pháp này? Rồi
này các Tỷ-kheo, Ta lại nghĩ: "Nay có Uddaka Ramaputta-là bậc tri thức,
đa văn, sáng suốt, đã từ lâu sống ít nhiễm bụi đời. Ta hãy thuyết
pháp đầu tiên cho Uddaka Ramaputta. Vị này sẽ mau hiểu Chánh pháp
này." Rồi chư Thiên đến Ta và nói như sau: "Bạch Thế Tôn Uddaka
Ramaputta đã mệnh chung ngày hôm qua". Rồi tri kiến khởi lên nơi Ta:
"Uddaka Ramaputta đã mệnh chung hôm qua". Này các Tỷ-kheo, Ta nghĩ:
"Thật là một thiệt hại lớn cho Uddaka Ramaputta. Nếu nghe pháp này,
Uddaka Ramaputta sẽ mau thâm hiểu". Này các Tỷ-kheo, rồi Ta suy nghĩ:
"Ta sẽ thuyết pháp cho ai đầu tiên? Ai sẽ mau hiểu Chánh pháp
này?" Rồi này các Tỷ-kheo, Ta lại nghĩ: "Nhóm năm Tỷ-kheo này đã
hầu hạ Ta khi T òn nỗ lực tinh cần, nhóm ấy thật giúp ích nhiều. Vậy
ta hãy thuyết pháp đầu tiên cho nhóm năm Tỷ-kheo!" Rồi này các Tỷ-kheo,
Ta lại nghĩ: "Nay nhóm năm Tỷ-kheo ở tại đâu?" Này các Tỷ-kheo,
với thiên nhãn thanh tịnh siêu nhân, Ta thấy nhóm năm Tỷ-kheo hiện ở
Baranasi (Ba la nại), tại Isipatana, vườn Lộc Uyển. Rồi này các Tỷ-kheo,
sau khi ở tại Uruvela lâu cho đến khi mãn ý, Ta lên đường đi đến
Baranasi.
Này các Tỷ-kheo, một tà mạng ngoại
đạo tên là Upaka, đã thấy Ta khi T òn đi trên con đường giữa Gaya và
cây Bồ-đề.
Sau khi thấy, vị ấy nói với Ta:
"– Các căn của Hiền giả thật
sáng suốt. Da sắc của Hiền giả thật thanh tịnh, thật thanh khiết. Này
Hiền giả, vì mục đích gì, Hiền giả xuất gia? Ai là bậc Đạo Sư của
Hiền giả? Hiền giả hoan hỷ thọ trì pháp của ai?"
Này các Tỷ-kheo, khi nghe nói vậy,
Ta nói với tà mạng đạo Upaka bài kệ như sau:
- "– Ta, bậc Thắng tất cả,
- Ta, bậc Nhất thiết Trí.
- Hết thảy pháp, không nhiễm,
- Hết thảy pháp, xả ly.
- Ta sống chân giải thoát,
- Đoạn tận mọi khát ái.
- Như vậy Ta tự giác,
- Còn phải y chỉ ai?
- Ta không có Đạo Sư,
- Bậc như Ta không có.
- Giữa thế giới Nhơn, Thiên,
- Không có ai bằng Ta.
- Bậc Ứng Cúng trên đời,
- Bậc Đạo Sư vô thượng.
- Tự mình Chánh Đẳng Giác,
- Ta an tịnh, thanh thoát.
- Để chuyển bánh xe Pháp.
- Ta đến thành Kàsi.
- Gióng lên trống bất tử,
- Trong thế giới mù lòa.
"– Như Hiền giả đã tự
xưng, Hiền giả xứng đáng là bậc Chiến thắng Vô tận.
- "– Như Ta, bậc Thắng giả,
- Những ai chứng lậu tận,
- Ác pháp, Ta nhiếp phục,
- Do vậy, Ta vô địch".
- (Này Upaka)
Này các Tỷ-kheo, sau khi được
nói vậy, tà mạng ngoại đạo Upaka nói với Ta:
"– Này Hiền giả, mong rằng sự
việc là vậy".
Nói xong, Upaka lắc đầu rồi đi
theo một ngã khác.
– Này các Tỷ-kheo, rồi Ta tuần tự
đi đến Baranasi, Isipatana, vườn Lộc Uyển, đi đến chỗ nhóm năm Tỷ-kheo
ở. Này các Tỷ-kheo, nhóm năm Tỷ-kheo khi thấy Ta từ xa đi đến, đã
cùng nhau thỏa thuận như sau: "Này các Hiền giả, nay Sa-môn Gotama đang
đi đến; vị này sống trong sự sung túc, đã từ bỏ tinh cần, đã trở
lui đời sống đầy đủ vật chất. Chúng t hớ có đảnh lễ, chớ có đứng
dậy, chớ có lấy y bát. Hãy đặt một chỗ ngồi, và nếu vị ấy muốn,
vị ấy sẽ ngồi". Này các Tỷ-kheo, nhưng khi Ta đi đến gần, năm Tỷ-kheo
ấy không thể giữ đúng điều đã thỏa thuận với nhau. Có người đến
đón Ta và cầm lấy y bát, có người sắp đặt chỗ ngồi, có người đem
nước rử hân đến. Nhưng các vị ấy gọi Ta bằng tên với danh từ Hiền
giả (Avuso). này các Tỷ-kheo khi ta nghe nói vậy, Ta nói với nhóm năm Tỷ-kheo:
– "– Này các Tỷ-kheo, chớ
có gọi Ta bằng tên và dùng danh từ Hiền giả. Này các Tỷ-kheo, Như Lai là
bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác. Hãy lóng tai, Pháp bất tử đã chứng được,
Ta giảng dạy, Ta thuyết pháp. Sống đúng theo lời khuyến giáo, các Ông
không bao lâu, sau khi tự tri, tự chứng, tự đạt ngay trong hiện tại, mục
đích vô thượng của phạm hạnh mà các Thiện nam tử, xuất gia từ bỏ
gia đình, sống không gia đình, các Ông sẽ an trú.
Này các Tỷ-kheo, khi nghe nói vậy,
nhóm năm Tỷ-kheo nói Ta:
"– Hiền giả Gotama, với nếp
sống này, với đạo tu này, với khổ hạnh này, Hiền giả đã không chứng
được Pháp siêu nhân, tri kiến, thù thắng xứng đáng bậc Thánh, thì này
làm sao Hiền giả, với nếp sống sung túc, với sự từ bỏ tinh cần, với
sự trở lui đời sống vật chất đầy đủ, lại có thể chứng được
Pháp siêu nhân, tri kiến thù thắng xứng đáng bậc Thánh?
Này các Tỷ-kheo, khi nghe nói vậy,
Ta nói với nhóm năm Tỷ-kheo:
"– Này các Tỷ-kheo, Như Lai không
sống sung túc, không từ bỏ tinh cần, không trở lui đời sống vật chất
đầy đủ. Này các Tỷ-kheo, Như Lai là bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác.
Này các Tỷ-kheo, hãy lóng tai, Pháp bất tử đã chứng được, Ta giảng dạy,
Ta thuyết pháp. Sống đúng theo lời khuyến giáo, các Ông không bao lâu, sau
khi tự tri, tự chứng, tự đạt ngay trong hiện tại mục đích vô thượng
của Phạm hạnh mà các Thiện nam tử xuất gia, từ bỏ gia đình, sống
không gia đình, các Ông sẽ an trú.
Này các Tỷ-kheo, lại lần thứ
hai, nhóm năm Tỷ-kheo nói với Ta:
"– Hiền giả Gotama, với nếp
sống này... (như trên)... tri kiến thù thắng xứng đáng bậc Thánh?
Này các Tỷ-kheo, lại lần thứ hai
Ta nói với nhóm năm Tỷ-kheo:
"– Này các Tỷ-kheo, Như Lai không
sống sung túc... (như trên)... các Ông sẽ an trú.
Này các Tỷ-kheo, lại lần thứ ba,
nhóm năm Tỷ-kheo nói với Ta:
"– Hiền giả Gotama, với nếp
sống này... (như trên)... tri kiến thù thắng xứng đáng bậc Thánh?
Này các Tỷ-kheo, khi nghe nói vậy,
Ta nói với nhóm năm Tỷ-kheo:
"– Này các Tỷ-kheo, từ trước
đến nay, các Ông có chấp nhận là T hưa bao giờ nói như vậy chăng?
"– Bạch Thế Tôn chưa bao giờ
như vậy.
"– Này các Tỷ-kheo, Như Lai là
bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác. Hãy lóng tai, Pháp bất tử đã chứng được,
Ta giảng dạy, Ta thuyết pháp. Sống đúng theo lời khuyến giáo, các Ông
không bao lâu, sau khi tự tri, tư chứng, tự đạt được ngay trong hiện tại
mục đích vô thượng của phạm hạnh mà các Thiện nam tử xuất gia, từ
bỏ gia đình, sống không gia đình, các Ông sẽ an trú".
Này các Tỷ-kheo, Ta đã làm cho
nhóm năm Tỷ-kheo chấp nhận. Này các Tỷ-kheo, Ta thuyết giảng cho hai Tỷ-kheo.
Ba Tỷ-kheo kia đi khất thực. Đồ ăn mà ba Tỷ-kheo này khất thực mang về,
đủ nuôi sống cho nhóm sáu người. Này các Tỷ-kheo, Ta thuyết giảng cho
ba Tỷ-kheo. Hai Tỷ-kheo kia đi khất thực.. Đồ ăn mà hai Tỷ-kheo này khất
thực mang về, đủ nuôi sống cho nhóm sáu người. Này các Tỷ-kheo, chúng
năm Tỷ-kheo, sau khi được Ta thuyết giảng, sau khi được Ta khuyến giáo,
tự mình bi sanh, sau khi biết được sự nguy hại củ ái bị sanh, tìm cầu
cái không sanh, vô thượng an ổn, thoát khỏi các (khổ) ách, chứng Niết-bàn
và đã chứng được cái không sanh, vô thượng an ổn, thoát khỏi các (khổ)
ách, chứng Niết-bàn, tự mình bị già... cái không già... tự mình bị bệnh...
cái không bệnh... tự mình bị chết... cái không chết... tự mình bi sầu...
cái không sầu... tự mình bị ô nhiễm, sau khi biết được sự nguy hại củ
ái bị ô nhiễm, tìm cầu cái không ô nhiễm, vô thượng an ổn, thoát khỏi
các (khổ) ách, chứng Niết-bàn, và đã chứng được cái không ô nhiễm,
vô thượng an ổn, thoát khỏi các (khổ) ách, chứng Niết-bàn. Tri và kiến
khởi lên nơi họ: "Sự giải thoát củ húng ta không bị dao động, đây
thức gì được hiện khởi như vậy đều quy là đời sống cuối cùng.
Nay không còn tái sanh nữa".
Này các Tỷ-kheo, có năm dục trưởng
dưỡng. Thế nào là năm? Các sắc do mắt nhận thức, sắc này khả ái, khả
hỷ, khả lạc, khả ý, kích thích lòng dục, hấp dẫn. Các tiếng do tai nhận
thức... (như trên)... các hương do mũi nhận thức... các vị do lưỡi nhận
thức... các xúc do thân cảm xúc là khả ái, khả hỷ, khả lạc, khả ý,
kích thích lòng dục, hấp dẫn. Này các Tỷ-kheo, như vậy, là năm dục
trưởng dưỡng. Này các Tỷ-kheo, những Sa-môn hay Bà-la-môn nào bị trói
buộc, bị tham đắm, bị mê say bởi năm dục trưởng dưỡng này, không thấy
sự nguy hại củ húng, không biết rõ sự xuất ly khỏi chúng, mà thọ dụng
chúng, những vị ấy cần phải được hiểu là: "Các Người đã rơi
vào bất hạnh, đã rơi vào tai họa, đã bị Ác ma sử dụng như ý muốn".
Này các Tỷ-kheo, như một con nai sống trong rừng bị sập bẫy nằm xuống,
con nai ấy cần phải được hiểu là: "Nó đã rơi vào bất hạnh, đã
rơi vào tai họa, đã bị thợ săn sử dụng như ý muốn. Khi người thợ
săn đến, con nai không thể bỏ đi như ý muốn. Này các Tỷ-kheo, cũng vậy,
những vị Sa-môn hay Bà-la-môn nào bị trói buộc... (như trên)... đã bị
Ác ma sử dụng như ý muốn. Này các Tỷ-kheo, những Sa-môn hay Bà-la-môn
nào không bị trói buộc, không bị tham đắm, không bị mê say bởi năm dục
trưởng dưỡng này, thấy sự nguy hại củ húng, biết rõ sự xuất ly khỏi
chúng, và thọ dụng chúng, những vị ấy cần phải được hiểu là:
"Các Người không rơi vào bất hạnh, không rơi vào tai họa, không bi
Ác ma sử dụng như ý muốn". Này các Tỷ-kheo, như một con nai sống
trong rừng, không bị sập bẫy phải nằm xuống, con nai ấy cần phải được
hiểu là: "Nó không rơi vào bất hạnh, nó không rơi vào tai họa, nó
không bị người thợ săn sử dụng như ý muốn". Khi người thợ săn
đến, con nai có thể bỏ đi như ý muốn. Này các Tỷ-kheo, cũng vậy, những
Sa-môn hay Bà-la-môn nào không bị trói buộc... không bị Ác ma sử dụng như
ý muốn.
Chư Tỷ-kheo, ví như con nai sống
trong rừng, đi qua đi lại trong rừng, an tâm nó đi, an tâm nó đứng, an tâm
nó ngồi, an tâm nó nằm. Tại sao vậy? Này các Tỷ-kheo, vì nó vượt khỏi
tầm tay của người thợ săn. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, một Tỷ-kheo ly
dục, ly ác bất thiện pháp chứng và trú Thiền thứ nhất, một trạng
thái hỷ lạc, do ly dục sanh, có tầm có tứ. Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ấy
được gọi là: một vị đã làm Ác Ma mù mắt, đã diệt trừ mọi vết
tích, đã vượt khỏi tầm mắt Ác ma. Này các Tỷ-kheo, lại nữa Tỷ-kheo
diệt tầm và tứ, chứng và trú Thiền thứ hai, một trạng thái hỷ lạc
do định sanh, không tầm không tứ, nội tĩnh nhất tâm. Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
ấy được gọi là... đã vượt khỏi tầm mắt của Ác ma. Này các Tỷ-kheo,
lại nữa Tỷ-kheo ly hỷ trú xả, chánh niệm tỉnh giác, thân cảm sự lạc
thọ mà các vị Thánh gọi là xả niệm lạc trú, chứng và trú Thiền thứ
ba. Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ấy được gọi là... đã vượt khỏi tầm mắt
của Ác ma. Này các Tỷ-kheo, lại nữa Tỷ-kheo xả lạc, xả khổ, diệt hỷ
ưu đã cảm thọ trước, chứng và trú Thiền thứ tư, không khổ, không lạc,
xả niệm thanh tịnh. Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ấy được gọi là... vượt
khỏi tầm mắt của Ác ma.
Này các Tỷ-kheo, lại nữa Tỷ-kheo
vượt lên mọi sắc tướng, diệt trừ mọi chướng ngại tưởng, không
tác ý đối với dị tưởng, Tỷ-kheo nghĩ rằng: "Hư không là vô
biên", chứng và trú Không vô biên xứ. Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ấy
được gọi là... đã vượt khỏi tầm mắt của Ác ma. Này các Tỷ-kheo, lại
nữa Tỷ-kheo vượt lên mọi Không vô biên xứ, nghĩ rằng: "Thức là
vô biên", chứng và trú Thức Vô biên xứ. Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
ấy được gọi là... đã vượt khỏi tầm mắt của Ác ma. Này các Tỷ-kheo,
lại nữa Tỷ-kheo vượt lên mọi Thức vô biên xứ, nghĩ rằng: "Không
có vật gì", chứng và trú Vô sở hữu xứ. Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
ấy được gọi là... đã vượt khỏi tầm mắt của Ác ma. Này các Tỷ-kheo,
lại nữa Tỷ-kheo vượt lên mọi Vô sở hữu xứ, chứng và trú Phi tưởng
phi phi tưởng xứ. Này các Tỷ-kheo, Tỷ- kheo ấy được gọi là...đã vượt
khỏi tầm mắt của Ác ma. Này các Tỷ-kheo, lại nữa Tỷ-kheo vượt lên mọi
Phi tưởng phi phi tưởng xứ, chứng và trú Diệt thọ tưởng (định). Sau
khi thấy bằng trí tuệ, các lậu hoặc được đoạn trừ. Này các Tỷ-kheo,
Tỷ-kheo ấy được gọi là một vị đã làm Ác ma mù mắt, đã diệt trừ
mọi vết tích, đã vượt khỏi tầm mắt Ác ma. Vị ấy đã vượt khỏi mọi
triền phược ở đời. An tâm vị ấy đi, an tâm vị ấy đứng, an tâm vị
ấy ngồi, an tâm vị ấy nằm. Vì sao vậy? Này các Tỷ-kheo, vì vị ấy vượt
khỏi tầm tay của Ác ma.
Thế Tôn thuyết giảng như vậy. Các
Tỷ-kheo hoan hỷ, tín thọ lời Thế Tôn dạy.
|
Mục
Lục
||Chương
kế
|
--- o0o ---
| Thư
Mục Tác Giả |
Tổ
chức đánh máy: Hứa Dân Cường
Chân thành cảm ơn Cư sĩ Bình Anson đã gởi tặng phiên bản điện
tử bộ Kinh này.
Nguồn: www.quangduc.com
Về danh mục