.
Kinh Trường Bộ
HT. Thích Minh Châu dịch
Sài gòn 1991
---o0o---
16.
KINH ĐẠI BÁT NIẾT BÀN
I
1. Như vầy tôi nghe.
Một thời Thế Tôn ở tại Ràjagaha (Vương Xá), trên núi
Gijjhakùta (Linh Thứu). Lúc bấy giờ, Ajàtasattu Vedehiputta (A-xà-thế,
con bà Vi-đề-hi, vua nước Magadha, muốn chinh phục dân Vajjì
(Bạc-kỳ). Vua tự nói: "Ta quyết chinh phạt dân Vajjì này,
dầu chúng có uy quyền, có hùng mạnh; ta quyết làm cỏ dân
Vajjì; ta sẽ tiêu diệt dân Vajjì; ta sẽ làm cho dân Vajjì
bị hoại vong".
2. Rồi Ajàtasattu
Vedehiputta, vua nước Magadha nói với Bà-la-môn Vassakara (Vũ Xá),
đại thần nước Magadha:
- Này Bà-la-môn, hãy
đi đến Thế Tôn, và nhân danh ta, cúi đầu đảnh lễ chân
Ngài, vấn an. Ngài có thiểu bệnh, thiểu não, khinh an, khỏe
mạnh, lạc trú: "Bạch Thế Tôn, Ajàtasattu Vedehiputta, vua
nước Magadha cúi đầu đảnh lễ chân Thế Tôn, vấn an Ngài
có thiểu bệnh, thiểu não, khinh an, lạc trú". Và khanh
bạch tiếp: "Bạch Thế Tôn, Ajàtasattu Vedehiputta, vua nước
Magadha muốn chinh phục dân Vajjì, vua tự nói: "Ta quyết
chinh phạt dân Vajjì này, dầu chúng có uy quyền, có hùng
mạnh; ta quyết làm cỏ dân Vajjì; ta sẽ tiêu diệt dân Vajjì;
ta sẽ làm cho dân Vajjì bị hoại vong". Thế Tôn trả
lời khanh thế nào, hãy ghi nhớ kỹ và nói lại ta biết. Các
bậc Thế Tôn không bao giờ nói lời hư vọng.
- Đại vương, xin vâng
!
3. Bà-la-môn Vassakara,
đại thần nước Magadha vâng theo lời dạy của Ajàtasattu
Vedehiputta, vua nước Magadha cho thắng những cỗ xe thù thắng,
tự mình cỡi lên một chiếc, cùng với các cỗ xe ấy đi ra
khỏi Ràjagaha (Vương Xá), đến tại núi Linh Thứu, đi xe đến
chỗ còn dùng xe được, rồi xuống xe đi bộ đến chỗ Thế
Tôn, khi đến liền nói những lời chào đón hỏi thăm xã
giao với Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Sau khi ngồi
xuống một bên, Bà-la-môn Vassakara, đại thần nước Magadha,
bạch Thế Tôn:
-- Tôn giả Gotama, Ajàtasattu
Vedehiputta, vua nước Magadha cúi đầu đảnh lễ chân Tôn giả
Gotama, vấn an ngài có thiểu bệnh, thiểu não, khinh an, khỏe
mạnh, lạc trú. Tôn giả Gotama, Ajàtasattu Vedehiputta, vua nước
Magadha muốn chinh phục dân xứ Vajjì. Vua tự nói: "Ta
quyết chinh phạt dân Vajjì này, dầu chúng có uy quyền, có hùng
mạnh, ta quyết làm cỏ dân Vajjì, ta sẽ tiêu diệt dân Vajjì,
ta sẽ làm cho dân Vajjì bị hoại vọng".
4. Lúc bấy giờ, Tôn
giả Ananda đứng quạt sau lưng Thế Tôn. Thế Tôn nói với Tôn
giả Ananda:
-- Này Ananda, Ngươi có
nghe dân Vajjì thường hay tụ họp và tụ họp đông đảo
với nhau không?
-- Bạch Thế Tôn, con
có nghe dân Vajjì thường hay tụ họp và tụ họp đông đảo
với nhau không ?
-- Này Ananda, khi nào dân
Vajjì thường hay tụ họp và tụ họp đông đảo với nhau,
thời này Ananda, dân Vajjì sẽ được cường thịnh, không
bị suy giảm. Này Ananda, Ngươi có nghe dân Vajjì tụ họp
trong niệm đoàn kết giải tán trong niệm đoàn kết, và làm
việc trong niệm đoàn kết không ?
-- Bạch Thế Tôn, con
có nghe dân Vajjì tụ họp trong niệm đoàn kết, giải tán
trong niệm đoàn kết, và làm việc trong niệm đoàn kết.
-- Này Ananda, khi nào
nghe dân Vajjì tụ họp trong niệm đoàn kết, giải tán trong
niệm đoàn kết, và làm việc trong niệm đoàn kết, này
Ananda dân Vajjì sẽ được cường thịnh, không bị suy giảm.
Này Ananda, Ngươi có nghe dân Vajjì không ban hành những luật
lệ không được ban hành, không hủy bỏ những luật lệ đã
được ban hành, sống đúng với truyền thống của dân Vajjì
như đã ban hành thời xưa không ?
-- Bạch Thế Tôn, con
nghe dân Vajjì không ban hành những luật lệ không được ban
hành, không hủy bỏ những luật lệ đã được ban hành,
sống đúng với truyền thống của dân Vajjì như đã ban hành
thuở xưa.
-- Này Ananda khi nào dân
Vajjì, không ban hành những luật lệ không được ban hành, không
hủy bỏ những luật lệ đã được ban hành, sống đúng
với truyền thống của dân Vajjì như đã ban hành thuở xưa
thời, này Ananda, dân Vajjì sẽ được cường thịnh, không
bị suy giảm. Này Ananda, Ngươi có nghe dân Vajjì tôn sùng, kính
trọng, đảnh lễ, cúng dường các bậc trưởng lão Vajjì và
nghe theo lời dạy của những vị này không ?
-- Bạch Thế Tôn, con
có nghe dân Vajjì tôn sùng, kính trọng, đảnh lễ, cúng dường
các bậc trưởng lão Vajjì và nghe theo lời dạy của những
vị này.
-- Này Ananda, khi nào dân
Vajjì tôn sùng, kính trọng, đảnh lễ, cúng dường các bậc
trưởng lão Vajjì và nghe theo lời dạy của những vị này,
thời dân Vajjì sẽ được cường thịnh, không bị suy giảm.
Này Ananda, Ngươi có nghe dân Vajjì không có bắt cóc và cưỡng
ép những phụ nữ và thiếu nữ Vajjì phải sống với mình
không ?
-- Bạch Thế Tôn, con
có nghe dân Vajjì không có bắt khóc và cưỡng ép những phụ
nữ và thiếu nữ Vajjì phải sống với mình.
-- Này Ananda, khi nào
Vajjì không có bắt cóc và cưỡng ép những phụ nữ và
thiếu nữ Vajjì phải sống với mình thời, này Ananda, dân
Vajjì sẽ được cường thịnh, không bị suy giảm. Này Ananda,
Ngươi có nghe dân Vajjì tôn sùng, kính trọng, đảnh lễ, cúng
dường các tự miếu của Vajjì ở tỉnh thành và ngoài tỉnh
thành, không bỏ phế các cúng lễ đã cúng từ trước, đã làm
từ trước đúng với quy pháp không ?
- Bạch Thế Tôn, con có
nghe dân Vajjì tôn sùng, kính trọng, đảnh lễ, cúng dường các
tự miếu của Vajjì ở tỉnh thành và ngoài tỉnh thành, không
bỏ phế các cúng lễ đã cúng từ trước, đã làm từ trước
đúng với quy pháp.
- Này Ananda, khi nào dân
Vajjì tôn sùng, kính trọng, đảnh lễ, cúng dường các tự
miếu của Vajjì ở tỉnh thành và ngoài tỉnh thành, không
bỏ phế các cúng lễ đã cúng từ trước, đã làm từ trước
đúng với quy pháp, thời này Ananda, dân Vajjì sẽ được cường
thịnh, không bị suy giảm. Này Ananda, Ngươi có nghe dân Vajjì
bảo hộ, che chở, ủng hộ đúng pháp các vị A-la-hán ở
tại Vajjì khiến các vị A-la-hán chưa đến sẽ đến trong
xứ, và những vị A-la-hán đã đến được sống an lạc không?
- Bạch Thế Tôn, con
nghe dân Vajjì bảo hộ, che chở, ủng hộ đúng pháp các vị
A-la-hán ở tại Vajjì khiến các vị A-la-hán chưa đến sẽ
đến trong xứ, và những vị A-la-hán đã đến được sống
an lạc.
- Này Ananda, khi nào dân
Vajjì bảo hộ, che chở, ủng hộ đúng pháp các vị A-la-hán
ở tại Vajjì khiến các vị A-la-hán chưa đến sẽ đến
trong xứ, và những vị A-la-hán chưa đến sẽ đến trong xứ
và những vị A-la-hán đã đến được sống an lạc, thời này
Ananda, dân Vajjì sẽ được cường thịnh, không bị suy giảm.
5. Rồi Thế Tôn nói
với Bà-la-môn Vassakara, đại thần nước Magadha:
- Này Bà-la-môn, một
thời Ta sống ở Vesàli tại tự miếu Sàrandada, Ta dạy cho dân
Vajjì bảy pháp bất thối này. Này Bà-la-môn, khi nào bảy pháp
bất thối được duy trì giữa dân Vajjì, khi nào dân Vajjì
được giảng dạy bảy pháp bất thối này, thời Bà-la-môn,
dân Vajjì sẽ được cường thịnh, không bị suy giảm.
Khi được nói vậy, Bà-la-môn
Vassakara, đại thần nước Magadha bạch Thế Tôn:
- Tôn giả Gotama, nếu
dân Vajjì chỉ hội đủ một pháp bất thối này, thời dân
Vajjì nhất định được cường thịnh, không bị suy giảm,
huống nữa là đủ cả bảy pháp bất thối. Tôn giả Gotama,
Ajàtasattu Vedehiputta, vua nước Magadha không thể đánh bại dân
Vajjì ở chiến trận trừ phi dùng ngoại giao hay kế ly gián.
Tôn giả Gotama, nay chúng con phải đi, chúng con có nhiều
việc và có nhiều bổn phận.
- Này Bà-la-môn, Người
hãy làm những gì Người nghĩ là hợp thời.
Bà-la-môn Vassakara,
vị đại thần nước Magadha hoan hỷ, tán thán lời dạy của
Thế Tôn, từ chỗ ngồi đứng dậy và từ biệt
6. Khi Bà-la-môn
Vassakara đi chưa bao lâu, Thế Tôn nói với Tôn giả Ananda:
- Này Ananda, hãy đi và
tập họp tại giảng đường tất cả những vị Tỷ-kheo
sống gần Ràjagaha (Vương Xá).
- Xin vâng, bạch Thế
Tôn !
Tôn giả Ananda vâng
theo lời dạy Thế Tôn, đi tập họp tất cả những vị
Tỷ-kheo sống gần Vương Xá rồi đi đến Thế Tôn, đảnh
lễ Ngài, đứng một bên và bạch Thế Tôn:
- Bạch Thế Tôn,
Tỷ-kheo Tăng đã tu họp. Bạch Thế Tôn, Ngài hãy làm những
gì Ngài nghĩ là hợp thời.
Rồi Thế Tôn, từ
chỗ ngồi đứng dậy, đi đến giảng đường, ngồi trên
chỗ ngồi đã soạn sẵn và nói với các vị Tỷ-kheo:
- Này các Tỷ-kheo, Ta
sẽ giảng bảy pháp bất thối. Hãy nghe và suy nghiệm kỹ. Ta
sẽ giảng.
- Xin vâng, bạch Thế
Tôn !
Những vị Tỷ-kheo
ấy trả lời Thế Tôn. Thế Tôn giảng như sau:
- Này các Tỷ-kheo, khi
nào chúng Tỷ-kheo thường hay tụ họp và tụ họp đông đảo
với nhau, thời này các Tỷ-kheo, chúng Tỷ-kheo sẽ được cường
thịnh, không bị suy giảm.
Này các Tỷ-kheo, khi nào
chúng Tỷ-kheo tụ họp trong niệm đoàn kết, giải tán trong
niệm đoàn kết, và làm việc Tăng sự trong niệm đoàn kết,
thời này các Tỷ-kheo, chúng Tỷ-kheo sẽ được cường
thịnh, không bị suy giảm.
Này các Tỷ-kheo, khi nào
chúng Tỷ-kheo không ban hành những luật lệ không được ban
hành, không hủy bỏ những luật lệ đã được ban hành,
sống đúng với những học giới được ban hành, thời này các
Tỷ-kheo, chúng Tỷ-kheo sẽ được cường thịnh, không bị
suy giảm.
Này các Tỷ-kheo, khi nào
chúng Tỷ-kheo tôn sùng, kính trọng, đảnh lễ, cúng dường các
bậc Tỷ-kheo thượng tọa những vị này là những vị giàu
kinh nghiệm, niên cao lạp trưởng, bậc cha của chúng Tăng,
bậc thầy của chúng Tăng và nghe theo lời dạy của những
vị này, thời này các Tỷ-kheo, chúng Tỷ-kheo sẽ được cường
thịnh, không bị suy giảm.
Này các Tỷ-kheo, khi nào
chúng Tỷ-kheo không bị chi phối bởi tham ái, tham ái này tác
thành một đời sống khác, thời này các Tỷ-kheo, chúng
Tỷ-kheo sẽ được cường thịnh, không bị suy giảm.
Này các Tỷ-kheo, khi nào
chúng Tỷ-kheo thích sống những chỗ nhàn tịnh, thời này các
Tỷ-kheo, chúng Tỷ-kheo sẽ được cường thịnh, không bị
suy giảm.
Này các Tỷ-kheo, khi nào
chúng Tỷ-kheo tự thân an trú chánh niệm, khiến các bạn đồng
tu thiện chí chưa đến muốn đến ở, và các bạn đồng tu
thiện chí đã đến ở, được sống an lạc, thời này các
Tỷ-kheo, chúng Tỷ-kheo sẽ được cường thịnh, không bị
suy giảm.
Này các Tỷ-kheo, khi nào
bảy pháp bất thối này được duy trì giữa các vị Tỷ-kheo,
khi nào các vị Tỷ-kheo được dạy bảy pháp bất thối này,
thời này các Tỷ-kheo, chúng Tỷ-kheo sẽ được cường
thịnh, không bị suy giảm.
7. Này các Tỷ-kheo, Ta
sẽ giảng bày pháp bất thối khác, hãy nghe và suy nghiệm
kỹ. Ta sẽ nói.
- Xin vâng, bạch Thế
Tôn!
Những vị Tỷ-kheo đáp
ứng Thế Tôn. Thế Tôn nói:
Này các Tỷ-kheo, khi nào
chúng Tỷ-kheo không ưa thích làm thế sự, không hoan hỷ làm
thế sự, không đam mê làm thế sự, thời này các Tỷ-kheo,
chúng Tỷ-kheo sẽ được cường thịnh, không bị suy giảm.
Này các Tỷ-kheo, khi nào
chúng Tỷ-kheo không ưa thích phiếm luận, không hoan hỷ
phiếm luận, không đam mê phiếm luận, thời này các Tỷ-kheo,
chúng Tỷ-kheo sẽ được cường thịnh, không bị suy giảm.
Này các Tỷ-kheo, khi nào
chúng Tỷ-kheo không ưa thích ngủ nghỉ, thời này các
Tỷ-kheo, chúng Tỷ-kheo sẽ được cường thịnh, không bị
suy giảm.
Này các Tỷ-kheo, khi nào
chúng Tỷ-kheo không ưa thích quần tụ, không hoan hỷ quần
tụ, không đam mê quần tụ, thời này các Tỷ-kheo, chúng
Tỷ-kheo sẽ được cường thịnh, không bị suy giảm.
Này các Tỷ-kheo, khi nào
chúng Tỷ-kheo không có ác dục vọng, không bị chi phối bởi
ác dục vọng, thời này các Tỷ-kheo, chúng Tỷ-kheo sẽ được
cường thịnh, không bị suy giảm.
Này các Tỷ-kheo, khi nào
chúng Tỷ-kheo không bạn bè ác dục vọng, không thân tín ác
dục vọng, không cộng hành với ác dục vọng, thời này các
Tỷ-kheo, chúng Tỷ-kheo sẽ được cường thịnh, không bị
suy giảm.
Này các Tỷ-kheo, khi nào
chúng Tỷ-kheo không dừng ở nửa chừng, giữa sự đạt đáo
những quả vị thấp kém và những quả vị thù thắng, thời
này các Tỷ-kheo, chúng Tỷ-kheo sẽ được cường thịnh, không
bị suy giảm.
Này các Tỷ-kheo, khi nào
bảy pháp bất thối này được duy trì giữa các vị Tỷ-kheo,
khi nào các vị Tỷ-kheo được dạy bảy pháp bất thối này,
thời này các Tỷ-kheo, chúng Tỷ-kheo sẽ được cường
thịnh, không bị suy giảm.
8. Này các Tỷ-kheo, Ta
sẽ giảng bảy pháp bất thối khác, hãy nghe và suy nghiệm
kỹ. Ta sẽ nói.
- Xin vâng, bạch Thế
Tôn !
Những vị Tỷ-kheo
ấy đáp ứng Thế Tôn. Thế Tôn nói:
- Này các Tỷ-kheo, khi
nào chúng Tỷ-kheo có tín tâm, có tàm, có quý, có nghe nhiều,
có tinh tấn, có chánh niệm, có trí tuệ, thời này các
Tỷ-kheo, chúng Tỷ-kheo sẽ được cường thịnh, không bị
suy giảm.
Này các Tỷ-kheo, khi nào
bảy pháp bất thối này được duy trì giữa các vị Tỷ-kheo,
khi nào các vị Tỷ-kheo được dạy bảy pháp bất thối này,
thời này các Tỷ-kheo, chúng Tỷ-kheo sẽ được cường
thịnh, không bị suy giảm.
9. Này các Tỷ-kheo, Ta
sẽ giảng bảy pháp bất thối khác, hãy nghe và suy nghiệm
kỹ. Ta sẽ nói.
- Xin vâng, bạch Thế
Tôn !
Chư Tỷ-kheo đáp ứng.
Thế Tôn nói:
- Này các Tỷ-kheo, khi
nào chúng Tỷ-kheo tụ tập niệm giác chi, tụ tập trạch pháp
giác chi, tu tập tinh tấn giác chi, tu tập khinh an giác chi, tu
tập định giác chi, tu tập giả giác chi, thời này các
Tỷ-kheo, chúng Tỷ-kheo sẽ được cường thịnh, không bị
suy giảm.
Này các Tỷ-kheo, khi nào
bảy pháp bất thối này được duy trì giữa các vị Tỷ-kheo,
khi nào các vị Tỷ-kheo được dạy bảy pháp bất thối này,
thời này các Tỷ-kheo, chúng Tỷ-kheo sẽ được cường
thịnh, không bị suy giảm.
10. Này các Tỷ-kheo,
Ta sẽ giảng bảy pháp bất thối khác, hãy nghe và suy nghiệm
kỹ. Ta sẽ nói.
- Xin vâng bạch Thế Tôn
!
Những vị Tỷ-kheo
ấy đáp ứng Thế Tôn. Thế Tôn nói:
- Này các Tỷ-kheo, khi
nào chúng Tỷ-kheo tụ tập vô thường tưởng, tu tập vô ngã
tưởng, tu tập bất tịnh tưởng, tu tập nguy hiểm tưởng,
tu tập xả ly tưởng, tu tập vô tham tưởng, tu tập diệt tưởng,
thời này các Tỷ-kheo, chúng Tỷ-kheo sẽ được cường
thịnh, không bị suy giảm.
Này các Tỷ-kheo, khi nào
bảy pháp bất thối này được duy trì giữa các vị Tỷ-kheo,
khi nào các vị Tỷ-kheo được dạy bảy pháp bất thối này,
thời này các Tỷ-kheo, chúng Tỷ-kheo sẽ được cường
thịnh, không bị suy giảm.
11. Này các Tỷ-kheo,
Ta sẽ giảng sáu pháp bất thối, hãy nghe và suy nghiệm kỹ.
Ta sẽ giảng.
- Xin vâng, bạch Thế
Tôn !
Những vị Tỷ-kheo
ấy đáp ứng Thế Tôn. Thế Tôn nói:
- Này các, Tỷ-kheo khi
nào các vị Tỷ-kheo đối với các vị đồng tu phạm hạnh,
tại chỗ đông người và vắng người, gìn giữ thân nghiệp
từ hòa, thời này các Tỷ-kheo, chúng Tỷ-kheo sẽ được cường
thịnh, không bị suy giảm.
Này các Tỷ-kheo, khi nào
các vị Tỷ-kheo đối với các vị đồng tu phạm hạnh, tại
chỗ đông người và vắng người, gìn giữ khẩu nghiệp từ
hòa, gìn giữ ý nghiệp từ hòa tại chỗ đông người và
vắng người, thời này các Tỷ-kheo, chúng Tỷ-kheo sẽ được
cường thịnh, không bị suy giảm.
Này các Tỷ-kheo, khi nào
các vị Tỷ-kheo phân phối không thiên vị, chung thọ hưởng
với các bạn giới đức đồng tu, mọi lợi dưỡng chơn chánh,
hợp pháp, cho đến những vật thọ lãnh trong bát khất thực,
thời này các Tỷ-kheo, chúng Tỷ-kheo sẽ được cường
thịnh, không bị suy giảm.
Này các Tỷ-kheo, khi nào
các vị Tỷ-kheo sống với các bạn đồng tu, tại chỗ đông
người, và vắng người, trong sự thọ trì những giới luật,
đúng với Sa-môn hạnh, những giới luật không bị gẫy vụn,
không bị sứt mẻ, không bị tỳ vết, không bị uế trược,
những giới luật đưa đến giải thoát, được người có trí
tán thán, không bị ô nhiễm bởi mục đích sai lạc, những
giới luật hướng đến định tâm, thời này các Tỷ-kheo, chúng
Tỷ-kheo sẽ được cường thịnh, không bị suy giảm.
Này các Tỷ-kheo, khi nào
các vị Tỷ-kheo sống với các bạn đồng tu, tại chỗ đông
người và vắng người, trong sự thọ trì những tri kiến đúng
với Sa-môn hạnh, những thánh tri kiến đưa đến giải thoát,
hướng đến sự diệt tận khổ đau cho những ai thiệt hành
theo, thời này các Tỷ-kheo, chúng Tỷ-kheo sẽ được cường
thịnh, không bị suy giảm.
Này các Tỷ-kheo, khi nào
sáu pháp bất thối này được duy trì giữa các vị Tỷ-kheo,
khi nào các vị Tỷ-kheo được dạy sáu pháp bất thối này,
thời này các Tỷ-kheo, chúng Tỷ-kheo sẽ được cường
thịnh, không bị suy giảm.
12. Trong thời gian
Thế Tôn ở Vương Xá tại núi Linh Thứu, pháp thoại này được
giảng cho chúng Tỷ-kheo: "Đây là Giới, đây là Định,
đây là Tuệ. Định cùng tu với Giới sẽ đưa đến quả
vị lớn, lợi ích lớn. Tuệ cùng tu với Định sẽ đưa đến
quả vị lớn, lợi ích lớn. Tâm cùng tu với Tuệ sẽ đưa
đến giải thoát hoàn toàn các món lậu hoặc tức là dục
lậu, hữu lậu (tri kiến lậu), vô minh lậu".
13. Thế Tôn ở Vương
Xá cho đến khi Ngài xem là vừa đủ, rồi Ngài gọi tôn giả
Ananda:
- Này Ananda, chúng ta hãy
đi đến Ambalatthikà.
- Xin vâng, bạch Thế
Tôn!
Tôn giả Ananda đáp
ứng Thế Tôn. Rồi Thế Tôn cùng với đại chúng Tỷ-kheo đi
đến Ambalatthikà.
14. Tại Ambalatthikà,
Thế Tôn thân trú tại nhà nghỉ mát của vua. Trong thời gian
Thế Tôn ở Ambalatthikà, tại nhà nghỉ mát của vua, pháp
thoại này được giảng cho chúng Tỷ-kheo.
- Đây là Giới, đây
là Định, đây là Tuệ, Định cùng tu với Giới sẽ đưa đến
quả vị lớn, lợi ích lớn. Tuệ cùng tu với Định sẽ đưa
đến quả vị lớn, lợi ích lớn. Tâm cùng tu với Tuệ sẽ
đưa đến giải thoát hoàn toàn các món lậu hoặc, tức là
dục lậu, hữu lậu (tri kiến lậu), vô minh lậu.
15. Thế Tôn ở
Ambalatthikà cho đến khi Ngài xem là vừa đủ, rồi Ngài bảo
tôn giả Ananda:
- Này Ananda, chúng ta hãy
đi đến Nalandà.
- Xin vâng, bạch Thế
Tôn!
Tôn giả Ananda vâng
lời Thế Tôn. Rồi Thế Tôn cùng với đại chúng Tỷ-kheo đi
đến Nalandà. Tại đây, Thế Tôn ở Pavarikambavana (Ba Ba Lợi
Âm Bà Lâm).
16. Tôn giả Sàriputta
(Xá Lợi Phất) đến tại chỗ Thế Tôn, đảnh lễ Ngài và
xuống một bên. Tôn giả Sàriputta bạch Thế Tôn:
- Bạch Thế Tôn, con
tin tưởng Thế Tôn đến nỗi con nghĩ rằng, ở quá khứ, ở
tương lai cũng như ở hiện tại không thể có một Sa-môn,
một Bà-la-môn nào có thể vĩ đại hơn, sáng suốt hơn Thế
Tôn về phương diện chánh giác.
- Này Sàriputta, lời nói
của Ngươi thật là đại ngôn, thật là gan dạ. Ngươi thật
đã rống tiếng rống con sư tử: "Con tin tưởng Thế Tôn
đến nỗi con nghĩ rằng, ở quá khứ, ở tương lai cũng như
ở hiện tại không thể có một Sa-môn, một Bà-la-môn nào có
thể vĩ đại hơn, sáng suốt hơn Thế Tôn về phương diện
chánh giác". Này Sàriputta, có phải Ngươi đã biết tất
cả những Thế Tôn, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri ở quá khứ, Ngươi
đã biết tâm những Vị này nói với tâm của Ngươi: "Những
Thế Tôn này ở quá khứ có giới đức như vậy, có thiền
định như vậy, có trí tuệ như vậy, có hạnh trú như vậy,
có giải thoát như vậy"?
- Bạch Thế Tôn, không
!
- Này Sàriputta, có
phải Ngươi đã biết tất cả những Thế Tôn, Ứng Cúng, Chánh
Biến Tri ở tương lai, Ngươi đã biết tâm những vị này
với tâm của Ngươi: "Những Thế Tôn này ở tương lai có
giới đức như vậy, có thiền định như vậy, có trí tuệ
như vậy, có hạnh trú như vậy, có giải thoát như vậy"?
- Bạch Thế Tôn, không!
- Này Sàriputta, có
phải Ngươi biết Ta là bậc Ứng Cúng, Chánh Biến Tri ở
hiện tại, Ngươi đã biết tâm Ta với tâm của Ngươi. "Thế
Tôn có giới đức như vậy, có thiền định như vậy, có trí
tuệ như vậy, có hạnh trú như vậy, có giải thoát như vậy"?
- Bạch Thế Tôn, không
!
- Này Sàriputta, như
vậy Ngươi không có tha tâm thông đối với các vị Ứng Cúng,
Chánh Biến Tri ở quá khứ, tương lai và hiện tại. Như vậy,
này Sàriputta, vì sao Ngươi lại thốt ra những lời đại ngôn,
lời nói gan dạ, rống lên tiếng rống con sư tử: "Bạch
Thế Tôn, con tin tưởng Thế Tôn đến nỗi con nghĩ rằng, ở
quá khứ, ở tương lai cũng như ở hiện tại không thể có
một Sa-môn, một Bà-la-môn nào có thể vĩ đại hơn, sáng
suốt hơn Thế Tôn về phương diện chánh giác"?
17. Bạch Thế Tôn, con
không có tha tâm thông đối với các vị Ứng Cúng, Chánh
Biến Tri ở quá khứ, tương lai và hiện tại. Nhưng con biết
truyền thống về chánh pháp. Bạch Thế Tôn, như vị vua có
một thành trì tại Biên cảnh, thành này có hào lũy kiên cố,
có thành quách tháp canh kiên cố và chỉ có một cửa ra vào.
Tại đây có một người gác cửa thông minh, biệt tài và
nhiều kinh nghiệm, không cho vào các người lạ mặt, chỉ cho
vào những người quen mặt. Người này trong khi đi tuần trên
con đường chạy vòng quanh thành trì ấy có thể không thấy
các chỗ nối hay khe hở của tường, cho đến chỗ một con mèo
có thể lọt ra được, nhưng người ấy chỉ cần biết
rằng các sinh vật to lớn vào hay ra thành trì này tất cả đều
đi vào hay đi ra bởi cửa này. Bạch Thế Tôn, cũng vậy con
biết truyền thống về chánh pháp. Bạch Thế Tôn, tất cả các
vị A-la-hán, Chánh Đẳng Giác trong quá khứ, tất cả vị
Thế Tôn này đã diệt trừ Năm Triền cái, những nhiễm tâm
khiến cho trí tuệ yếu ớt, đã an trú tâm vào Bốn Niệm
xứ, đã chân chánh tu tập Bảy Giác chi, đã chứng được Vô
thượng Chánh Đẳng Giác. Bạch Thế Tôn, tất cả các vị
A-la-hán, Chánh ửĐẳng Giác trong tương lai, tất cả Thế Tôn
này đã diệt trừ Năm Triền cái, những nhiễm tâm khiến cho
trí tuệ yếu ớt, đã an trú tâm vào Bốn Niệm xứ, đã chân
chánh tu tập Bảy Giác chi, đã chứng được Vô thượng Chánh
Đẳng Giác. Bạch Thế Tôn, Thế Tôn hiện tại đã diệt
trừ Năm Triền Cái, những nhiễm tâm khiến cho trí tuệ yết
ớt, đã an trú tâm vào Bốn Niệm xứ, đã chân chánh tu tập
Bảy Giác chi, đã chứng được Vô thượng Chánh Đẳng Giác.
18. Trong thời gian
Thế Tôn ở tại Nalandà, rừng Pavarikamba, pháp thoại này được
giảng cho chúng Tỷ-kheo.
- Đây là Giới, đây
là Định, đây là Tuệ. Định cùng tu với Giới sẽ đưa đến
quả vị lớn, lợi ích lớn. Tuệ cùng tu với Định sẽ đưa
đến quả vị lớn, lợi ích lớn. Tâm cùng tu với Tuệ sẽ
đưa đến giải thoát hoàn toàn các món lậu hoặc, tức là
dục lậu, hữu lậu (tri kiến lậu), vô minh lậu.
19. Thế Tôn ở Nalandà
cho đến khi Ngài xem là vừa đủ, rồi gọi tôn giả Ananda:
- Này Ananda, chúng ta hãy
đi đến Pàtaligàma.
- Xin vâng, bạch Thế
Tôn !
Tôn giả Ananda vâng
lời Thế Tôn. Rồi Thế Tôn cùng với đại chúng Tỷ-kheo đi
đến Pàtaligàma.
20. Lúc bấy giờ, các
cư sĩ ở Pàtaligàma được nghe Thế Tôn đã đến làng Pàtaligàma.
Các cư sĩ ở Pàtaligàma đi đến Thế Tôn, đảnh lễ Ngài và
ngồi xuống một bên. Sau khi ngồi xuống một bên, các cư sĩ
ở Pàtaligàma bạch Thế Tôn: "Bạch Thế Tôn, mong Thế Tôn
hãy đến ở tại nhà nghỉ mát của chúng con". Thế Tôn
im lặng nhận lời.
21. Các cư sĩ ở Pàtaligàma
được biết Thế Tôn đã nhận lời, từ chỗ ngồi đứng
dậy, đảnh lễ Ngài, thân phía hữu hướng về Ngài và từ
biệt. Các cư sĩ này đi đến nghỉ mát, rải cát khắp tất
cả sàn nhà, sắp đặt chỗ ngồi, đặt ghè nước, chuẩn
bị dầu đèn rồi đi đến Thế Tôn, đảnh lễ Ngài và đứng
một bên, các cư sĩ ở Pàtaligàma bạch Thế Tôn:
- Bạch Thế Tôn, tất
cả nhà nghỉ mát đã được rãi cát, các chỗ ngồi đã được
sắp đặt, ghè nước đã đặt sẵn, dầu đèn đã được
chuẩn bị. Bạch Thế Tôn, Ngài hãy làm những gì Ngài nghĩ là
phải thời.
22. Rồi Thế Tôn đắp
y, cầm y bát, cùng với đại chúng Tỷ-kheo đi đến nhà
nghỉ mát, sau khi đến liền rửa chân bước vào nhà, ngồi
xuống, lưng dựa và bức tường ở giữa, mặt hướng về phía
Đông. Chúng Tỷ-kheo sau khi rửa chân, bước vào nhà ngồi
xuống, lưng dựa vào bức tường phía Đông, hướng mặt phía
Tây, đối diện Thế Tôn.
23. Thế Tôn nói với
các cư sĩ ở Pataligama:
- Này các Gia chủ, có
năm sự nguy hiểm cho những ai phạm giới, sống trái giới
luật. Thế nào là năm?
Ở đây, này các Gia
chủ, người phạm giới, sống trái giới luật sẽ bị tiêu
hao tiền của rất nhiều vì sống phóng dật. Đó là điều
nguy hiểm thứ nhất cho những ai phạm giới, sống trái giới
luật.
Lại nữa, này các Gia
chủ, người phạm giới, sống trái giới luật bị tiếng
dữ đồn xa. Đó là điều nguy hiểm thứ hai cho những ai
phạm giới, sống trái giới luật.
Lại nữa, này các Gia
chủ, người phạm giới, sống trái giới luật khi vào hội
chúng nào, hoặc Sát Đế Lỵ, hoặc Bà-la-môn, hoặc gia chủ,
hoặc Sa-môn, người ấy đi vào với tâm thần sợ hãi, bối
rối. Đó là điều nguy hiểm thứ ba cho những ai phạm giới,
sống trái giới luật.
Lại nữa, này các Gia
chủ, người phạm giới, sống trái giới luật sẽ chết
với tâm hồn rối loạn. Đó là điều nguy hiểm thứ tư cho
những ai phạm giới, sống trái giới luật.
Lại nữa, này các Gia
chủ, người phạm giới, sống trái giới luật sau khi thân
hoại mạng chung, sẽ bị sanh vào khổ cảnh, ác thú, đọa
xứ, địa ngục. Đó là điều nguy hiểm thứ năm cho những
ai phạm giới, sống trái giới luật.
Này các gia chủ, đó
là năm điều nguy hiểm cho những ai phạm giới, sống trái
giới luật.
24. Này các Gia chủ có
năm sự lợi ích cho những ai giữ giới, sống theo giới
luật. Thế nào là năm ?
Ở đây, này các Gia
chủ, người giữ giới, sống theo giới luật sẽ có tiền
của dồi dào rất nhiều vì sống không phóng dật. Đó là
sự lợi ích thứ nhất cho những ai giữ giới, sống theo
giới luật.
Lại nữa, này các Gia
chủ, người giữ giới, sống theo giới luật được tiếng
tốt đồn xa. Đó là sự lợi ích thứ hai cho những ai giữ
giới, sống theo giới luật.
Lại nữa, này các Gia
chủ, người giữ giới, sống theo giới luật khi đi vào hội
chúng nào, hoặc Sát Đế Lỵ, hoặc Bà-la-môn, hoặc gia chủ,
hoặc Sa-môn, người ấy đi vào với tâm thần không sợ hãi,
không bối rối. Đó là sự lợi ích thứ ba cho những ai giữ
giới, sống theo giới luật.
Lại nữa, này các Gia
chủ, người giữ giới, sống theo giới luật sẽ chết với
tâm hồn không rối loạn. Đó là sự lợi ích thứ tư cho
những ai giữ giới, sống theo giới luật.
Lại nữa, này các Gia
chủ, người giữ giới, sống theo giới luật sau khi thân
hoại mạng chung, sẽ được sanh vào thiện thú, thiên giới.
Đó là sự lợi ích thứ năm cho những ai giữ giới, sống
theo giới luật.
25. Thế Tôn giảng pháp
cho những cư sĩ ở Pàtaligàma cho đến khuya, khích lệ, làm
cho phấn khởi, khiến tâm hoan hỷ rồi bảo các cư sĩ ấy:
- Này các Gia chủ, đêm
đã khuya, nay các Ngươi hãy làm những gì các Ngươi nghĩ là
phải thời.
- Xin vâng, bạch Thế
Tôn!
Các người cư sĩ
của Pàtaligàma vâng lời Thế Tôn, từ chỗ ngồi đứng dậy,
đảnh lễ Thế Tôn, thân phía hữu hướng về Ngài từ tạ
ra về. Thế Tôn, sau khi các cư sĩ ở Pàtaligàma đi không bao
lâu, liền trở vào phòng riêng.
26. Lúc bấy giờ
Sunidha và Vassakara, hai vị đại thần xứ Magadha đang dựng thành
trì để ngăn chặn dân Vajjì. Một số rất lớn các thiên
thần tụ họp hàng ngàn tại các trú địa ở Pàtaligàma.
Chỗ nào có thiên thần có đại oai lực tụ họp, các vị này
khiến tâm các vua chúa, các đại thần có đại oai lực, hướng
đến sự xây dựng các trú xá. Tại chỗ nào các thiên thần
bậc trung tụ họp, các vị này khiến tâm các vua chúa, các
đại thần bậc trung hướng đến sự xây dựng các trú xá.
Tại chỗ nào các thiên thần bậc hạ đẳng tụ họp, các
vị này khiến tâm các vua chúa, các đại thần bậc hạ đẳng
hướng đến sự xây dựng các trú xá.
27. Thế Tôn với thiên
nhãn, thanh tịnh, siêu nhân thấy hàng ngàn các thiên thần
tụ họp tại các trú địa ở Pàtaligàma, Thế Tôn thức
dậy khi đêm chưa tàn và nói với tôn giả Ananda:
- Này Ananda, ai đang xây
dựng thành trì ở Pataligama?
- Sunidha và Vassakara,
bạch Thế Tôn, hai vị đại thần xứ Magadha, đang xây dựng
thành trì ở Pataligama để ngăn chận dân Vajjì.
28. Này Ananda, thật
giống như đã hỏi ý kiến các vị thiên thần ở cõi trời
Ba mươi ba, các đại thần ở Magadha, Sunidha và Vassakara đang
xây thành trì ở Pataligama để ngăn chận dân Vajjì. Này
Ananda ở đây với thiên nhãn, thạnh tịnh, siêu nhân Ta thấy
hàng ngàn thiên thần tụ họp tại các trú địa ở Pataligama.
Chỗ nào có thiên thần có đại oai lực tụ họp, các vị
ấy khiến tâm các vua chúa, các đại thần có đại oai lực,
hướng đến sự xây dựng các trú xá. Chỗ nào các thiên
thần bậc trung tụ họp, các vị ấy khiến tâm các vua chúa,
các đại thần bậc trung hướng đến sự xây dựng các trú
xá. Chỗ nào các thiên thần bậc hạ đẳng tụ họp, các
vị này khiến tâm các vua chúa, các đại thần bậc hạ đẳng
hướng đến sự xây dựng các trú xá. Này Ananda, chỗ nào các
vị Ariyans an trú, chỗ nào các nhà thương mãi qua lại, chỗ
ấy sẽ thiết lập một thành thị bậc nhất tên gọi là Pàtaliputta,
một trung tâm thương mãi. Nhưng này Ananda, Pàtaliputta sẽ bị
ba hiểm nạn về lửa, về nước hay chia rẽ bất hòa.
29. Sunidha và Vassakara,
hai vị đại thần nước Magadha, đến tại chỗ Thế Tôn ở,
khi đến xong liền nói những lời chào đón hỏi thăm xã giao
rồi đứng một bên. Sau khi đứng một bên, vị đại thần
xứ Magadha, Sunidha và Vassakara bạch Thế Tôn: "Mong Thế Tôn
nhận lời mời dùng cơm tại nhà chúng con hôm nay cùng với
đại chúng Tỷ-kheo". Thế Tôn im lặng nhận lời.
30. Hai vị đại thần
xứ Magadha, Sunidha và Vassakara sau khi biết Thế Tôn đã nhận
lời liền đi về nhà ở, cho soạn tại nhà của mình các món
ăn thượng vị, loại cứng và loại mềm, rồi cử người đến
tin Thế Tôn: "Tôn giả Gotama, giờ đã đến, cơm đã
sẵn sàng".
Rồi Thế Tôn buổi sáng
đắp y, mang theo y bát cùng với đại chúng Tỷ-kheo đi đến
trú sở của hai vị đại thần xứ Magadha, Sunidha và Vassakara,
sau khi đi đến liền ngồi trên chỗ đã soạn sẵn. Rồi hai
vị thần xứ Magadha, Sunidha và Vassakara tự tay mời chúng
Tỷ-kheo với Thế Tôn là thượng thủ, các món ăn thượng
vị, loại cứng và loại mềm. Sau khi Thế Tôn dùng cơm xong và
cất tay khỏi bình bát, Sunidha và Vassakara, hai vị đại thần
xứ Magadha liền lấy chiếc ghế thấp khác và ngồi xuống
một bên.
31. Sau khi Sunidha và
Vassakara, hai vị đại thần thứ Magadha đã ngồi xuống một
bên, Thế Tôn đọc bài kệ cảm tạ:
Tại chỗ nào người
sáng suốt lấy làm chỗ trú xứ.
Hãy nuôi dưỡng người
giữ giới và người phạm hạnh.
Và san sẽ công đức
với Chư Thiên trú tại chỗ ấy.
Được tôn kính, chúng
sẽ tôn kính lại.
Được trọng vọng,
chúng sẽ trọng vọng lại.
Chúng sẽ mến thương
người ấy như người mẹ thương mến con. Và những ai được
thiên thần thân mến luôn luôn được thấy may mắn.
Sau khi Thế Tôn tán thán
Sunidha và Vassakara, hai vị đại thần xứ Magadha với bài kệ
này, Ngài từ chỗ ngồi đứng dậy và ra về.
32. Sunidha và Vassakara,
hai vị đại thần xứ Magadha đi sau lưng Thế Tôn và nói:
- "Hôm nay Sa-môn
Gotama đi ra cửa nào cửa ấy sẽ được đặt tên là Gotama;
Sa-môn Gotama lội qua sông từ bến nào, bến ấy sẽ được
đặt tên là Gotama. Và cửa Sa-môn Gotama đi ra được đặt tên
là cửa Gotama".
33. Rồi Thế Tôn đi
đến sông Ganga (sông Hằng). Lúc bây giờ, sông Gangà tràn
ngập nước đến bờ đến nỗi con quạ có thể uống được.
Có người đang đi tìm thuyền, có người đang đi tìm phao, có
người cột bè để qua bờ bên kia. Thế Tôn mau lẹ như người
lực sĩ duỗi cánh tay được co lại hay co cánh tay đã duỗi
ra, biến mất từ bờ bên này và hiện ra trên bờ bên kia
với chúng Tỷ-kheo.
34. Thế Tôn thấy
những người kia, người đang đi tìm thuyền, người đang đi
tìm phao, người đang đi cột bè để qua bờ bên kia. Thế Tôn
hiểu được ý nghĩa của cảnh này, lúc ấy bèn ứng khẩu
lời cảm khái:
"Những ai làm
cầu vượt biển trùng dương, bỏ lại đất sũng đầm ao,
trong khi người phàm phu đang cột bè.
Những người ấy
thật là những vị trí tuệ được giải thoát"
II
1. Rồi Thế Tôn gọi
tôn giả Ananda: "Này Ananda, chúng ta hãy đi đến Kotigàma"
- "Xin vâng, bạch
Thế Tôn". Tôn giả Ananda đáp ứng Thế Tôn. Rồi Thế Tôn
cùng với đại chúng Tỷ-kheo đi đến Kotigàma. Tại đây,
Thế Tôn ở tại Kotigàma.
2. Thế Tôn nói với các
vị Tỷ-kheo:
- Này các Tỷ-kheo, chính
vì không giác ngộ, không thông hiểu Bốn Thánh đế mà chúng
ta phải lưu chuyển luân hồi lâu năm, Ta và các Ngươi. Bốn
Thánh đế ấy là gì ? Này các Tỷ-kheo, chính vì không giác
ngộ, không thông hiểu Khổ Thánh đế mà chúng ta phải lưu
chuyển luân hồi lâu năm, Ta và các Ngươi.
Này các Tỷ-kheo, chính
vì không giác ngộ, không thông hiểu Khổ Tập Thánh đế mà
chúng ta phải lưu chuyển luân hồi lâu năm, Ta và các Ngươi.
Này các Tỷ-kheo, chính vì không giác ngộ, không thông hiểu
Khổ Diệt Thánh đế... Khổ Diệt Đạo Thánh đế mà chúng
ta phải lưu chuyển luân hồi lâu năm, Ta và các Ngươi. Này các
Tỷ-kheo khi Khổ Thánh đế này được giác ngộ, được thông
hiểu, khi Khổ Tập Thánh đế này được giác ngộ, được
thông hiểu, khi Khổ Diệt Đạo Thánh đế này được giác
ngộ, được thông hiểu, thời hữu ái được diệt trừ,
sự dắt dẫn đến một đời sống được đoạn tuyệt, nay
không còn hậu hữu nữa.
3. Thế Tôn thuyết như
vậy. Thiện Thệ lại nói thêm:
- Chính vì không thấy
như thật Bốn Thánh đế nên có sự luân chuyển lâu ngày
trong nhiều đời. Khi những sự thực này được nhận thức,
nguyên nhân của một đời sống khác được trừ diệt, khi
khổ căn được đoạn trừ, sẽ không còn một đời sống khác
nữa.
4. Trong thời gian Thế
Tôn ở Kotigama, pháp thoại này được giảng cho chúng
Tỷ-kheo:
- Đây là Giới, đây
là Định, đây là Tuệ. Định cùng tu với Giới sẽ đưa đến
quả vị lớn, lợi ích lớn. Tuệ cùng tu với Định sẽ đưa
đến quả vị lớn, lợi ích lớn. Tâm cùng tu với Tuệ sẽ
đưa đến giải thoát hoàn toàn các món lậu hoặc, tức là
dục lậu, hữu lậu (tri kiến lậu), vô minh lậu.
5. Thế Tôn, sau khi ở
Kotigama cho đến khi Ngài xem là vừa đủ, liền bảo tôn giả
Ananda:
- Này Ananda, chúng ta hãy
đi đến Nadika.
- Xin vâng, bạch Thế
Tôn!
Tôn giả Ananda vâng
lời Thế Tôn. Rồi Thế Tôn cùng với đại chúng Tỷ-kheo đi
đến. Nadika, tại ngôi nhà gạch (Ginjakàvasatha).
6. Rồi Tôn giả Ananda
đến chỗ Thế Tôn, đảnh lễ Ngài và ngồi xuống một bên.
Tôn giả Ananda bạch Thế Tôn:
- Bạch Thế Tôn,
Tỷ-kheo Salada mệnh chung tại Nadika đã được sanh ở cõi nào,
hậu thế trạng thái như thế nào ? Tỷ-kheo ni Nandà mệnh
chung tại Nadika đã được sanh ở cõi nào, hậu thế trạng
thái như thế nào? Bạch Thế Tôn, cư sĩ Sudatta mệnh chung
tại Nàdika đã được sanh cõi nào, hậu thế trạng thái như
thế nào? Bạch Thế Tôn, nữ cư sĩ Sujàtà mệnh chung tại Nàdika
đã được sanh ở cõi nào, hậu thế trạng thái như thế nào?
Bạch Thế Tôn, cư sĩ Kakudha mệnh chung tại Nàdika đã được
sanh cõi nào, hậu thế trạng thái như thế nào? Bạch Thế Tôn,
cư sĩ Kàlinga... Bạch Thế Tôn, cư sĩ Nikata... Bạch Thế Tôn,
cư sĩ Katissabha... Bạch Thế Tôn, cư sĩ Tuttha... Bạch Thế Tôn,
cư sĩ Santuttha..., Bạch Thế Tôn cư sĩ Bhadda... Bạch Thế Tôn,
cư sĩ Subhadda đã mệnh chung tại Nadika đã được sanh ở cõi
nào, hậu thế trạng thái như thế nào?
7. Này Ananda, Tỷ-kheo
Sàtha diệt tận các lậu hoặc, tự mình với thắng trí
chứng ngộ, chứng đạt và an trú ngay hiện tại vô lậu tâm
giải thoát, tuệ giải thoát. Này Ananda, Tỷ-kheo ni Nandà đoạn
trừ năm hạ phần kiết sử, hóa sanh (thiên giới) và từ đó
nhập Niết Bàn không còn trở lại đời này nữa. Này Ananda,
cư sĩ Sudatta, diệt trừ ba kiết sử làm giảm thiểu tham, sân,
si, chứng quả Nhứt lai sau khi trở lại đời này một lần
nữa sẽ diệt tận khổ đau. Này Ananda nữ cư sĩ Sujata diệt
trừ ba kiết sử, chứng quả Dự lưu, nhứt định không còn
đọa vào ác đạo, đạt đến Chánh giác. Này Ananda cư sĩ
Kakudha đoạn trừ năm hạ phần kiết sử, hóa sanh (thiên
giới), và từ đó nhập Niết Bàn không còn trở lại đời này
nữa. Này Ananda, cư sĩ Kalinga... Này Ananda cư sĩ Nikata... Này
Ananda, cư sĩ Katissabha... Này Ananda, cư sĩ Tuttha... Này Ananda,
cư sĩ Santuttha... Này Ananda, cư sĩ Bhadada... Này Ananda, cư sĩ
Subhadda đoạn trừ năm hạ phần kiết sử, được hóa sanh (thiên
giới), và từ đó nhập Niết Bàn không còn trở lại đời này
nữa. Này Ananda, hơn năm mươi cư sĩ mệnh chung tại Nàdita,
đoạn trừ năm hạ phần kiết sử, hóa sanh (thiên giới) và
từ đó nhập Niết Bàn không còn trở lại đời này nữa. Này
Ananda, hơn chín mươi chín nam nữ cư sĩ mệnh chung tại Nàdika,
diệt trừ ba kiết sử, làm giảm thiểu tham, sân si, chứng
quả Nhứt lai, sau khi trở lại đời này một lần nữa sẽ
diệt tận khổ đau. Này Ananda, hơn năm trăm cư sĩ, mệnh
chung tại Nadika, diệt trừ ba kiết sử, chứng quả Dự lưu,
nhứt định không còn đọa vào ác đạo, đạt đến Chánh giác.
8. Này Ananda, thật không
có gì lạ, vấn đề con người phải mệnh chung. Nhưng mỗi
lần có người mệnh chung lại đến hỏi Như Lai về vấn đề
này thời Ananda, như vậy làm phiền nhiễu Như Lai. Này Ananda,
vì vậy ta sẽ giảng Pháp kính (Gương chánh pháp) để Thánh
đệ tử, sau khi chứng đạt pháp nghĩa này, nếu muốn, sẽ
tự tuyên bố về mình như sau: "Đối với ta, sẽ không còn
địa ngục, sẽ không còn tái sanh cõi bàng sanh, ngạ quỷ, đọa
xứ, ác thú. Ta đã chứng quả Dự lưu, nhứt định không đọa
ác đạo, sẽ đạt Chánh giác".
9. Này Ananda, Pháp kính
ấy là gì mà Thánh đệ tử, sau khi chứng đạt pháp nghĩa này,
nếu muốn, sẽ tự tuyên bố về mình như sau: "Đối
với ta, sẽ không còn địa ngục, sẽ không còn tái sanh cõi
bàng sanh, ngạ quỷ, đọa xứ, ác thú. Ta đã chứng quả Dự
lưu, nhứt định không đọa ác đạo, sẽ đạt Chánh giác".
Này Ananda, vị Thánh đệ tử có chánh tín đối với đức
Phật: "Thế Tôn là bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác, Minh
hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều
Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn". Vị ấy
có chánh tín đối với chánh pháp: "Chánh pháp được
Thế Tôn khéo giảng dạy, thiết thực, vượt ngoài thời gian
chi phối, đến để mà thấy, có khả năng giải thoát, được
kẻ trí tự mình thâm hiểu". Vị ấy có chánh tín đối
với chúng Tăng: "Chúng Tăng đệ tử Thế Tôn chân chánh
tu hành, chúng Tăng đệ tử Thế Tôn chân trực tu hành, chúng
Tăng đệ tử Thế Tôn chân trí tu hành, chúng Tăng đệ tử
Thế Tôn chân tịnh tu hành, tức là bốn đôi tám vị. Chúng
Tăng đệ tử Thế Tôn đáng được nghênh đón, đáng được
cúng dường, đáng được chiêm ngưỡng, đáng được chấp
tay, là phước điền vô thượng ở trên đời, cụ túc giới
hạnh, được bậc Thánh mến chuộng, được viên mãn không
mảy mún, được vẹn toàn không sứt mẻ, không tỳ vết, không
ô nhiễm, những giới hạnh đưa đến giải thoát, được người
trí tán thán, không bị ảnh hưởng bởi đời sau. Hướng
dẫn đến thiền định".
Này Ananda, chính Pháp
kính này mà Thánh đệ tử sau khi chứng đạt pháp nghĩa này,
nếu muốn sẽ tự tuyên bố về mình như sau: "Đối với
ta, sẽ không còn địa ngục, sẽ không còn tái sanh cõi bàng
sanh, ngạ quỷ, đọa xứ, ác thú. Ta đã chứng quả Dự lưu,
nhứt định không đọa ác đạo, sẽ đạt chánh giác".
10. Khi Thế Tôn ở Nàdika,
pháp thoại này được giảng cho chúng Tỷ-kheo:
- Đây là Giới, đây
là Định, đây là Tuệ... Tức là dục lậu, hữu lậu (tri
kiến lậu), vô minh lâu.
11. Rồi Thế Tôn, sau
khi ở Nàdika cho đến khi Ngài xem là vừa đủ, liền bảo tôn
giả Ananda:
- Này Ananda, chúng ta hãy
đi đến Vesàli.
- Xin vâng, bạch Thế
Tôn !
Tôn giả Ananda vâng
lời Thế Tôn. Rồi Thế Tôn cùng với đại chúng Tỷ-kheo đi
đến Vasali. Ở đây, Thế Tôn trú tại vườn Ambapàli.
12. Thế Tôn bảo các
vị Tỷ-kheo:
- Này các Tỷ-kheo, các
Ngươi phải sống an trú chánh niệm, tỉnh giác. Đó là lời
dạy của Ta cho các Ngươi.
Này các Tỷ-kheo, thế
nào là Tỷ-kheo an trú chánh niệm? Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo
đối với thân, quán thân, tinh tấn, tỉnh giác, chánh niệm
nhiếp phục mọi tham ái, ưu bi ở trên đời, đối với các
cảm thọ... đối với tâm... đối với các pháp, quán pháp,
tinh tấn, tỉnh giác, chánh niệm, nhiếp phục mọi tham ái, ưu
bi ở trên đời. Này các Tỷ-kheo, như vậy gọi là chánh
niệm.
13. Này các Tỷ-kheo
thế nào là Tỷ-kheo tỉnh giác? Này các Tỷ-kheo, ở đây Tỷ
Kheo tỉnh giác khi đi tới, đi lui, tỉnh giác khi ngó tới, ngó
lui; tỉnh giác khi co tay, duỗi tay, tỉnh giác khi mang áo
sanghati (tăng già lê) mang bát, mang y, tỉnh giác khi ăn, khi
uống, khi nhai, khi nếm, tỉnh giác khi đại tiện, tiểu tiện;
tỉnh giác khi đi; khi đứng, khi ngồi, khi nằm, khi thức, khi
nói, khi im lặng. Này các Tỷ-kheo, như vậy Tỷ-kheo sống
tỉnh giác. Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo phải sống an trú chánh
niệm tỉnh giác. Đó là lời dạy của Ta cho các Ngươi.
14. Lúc bấy giờ dâm
nữ Ambapàli được nghe: "Thế Tôn đã đến Vesàli và ở
tại vườn xoài của ta". Dâm nữ Ambapàli liền cho thắng
các cỗ xe thù thắng, tự leo lên một chiếc, cùng với các
cổ xe thù thắng xuất phát ra khỏi Vesàli và đi đến vườn
xoài. Nàng cỡi xe cho đến chỗ còn có thể cỡi xe được,
rồi xuống xe đi bộ đến tại chỗ Thế Tôn, khi đến liền
đảnh lễ Ngài và ngồi xuống một bên, Thế Tôn thuyết pháp
cho dâm nữ Ambapàli đang ngồi một bên, giảng dạy, khích
lệ, làm cho phấn khởi, khiến tâm hoan hỷ.
Dâm nữ Ambapàli sau
khi được Thế Tôn giảng dạy, khích lệ, làm cho phấn khởi,
khiến tâm hoan hỷ, liền bạch Thế Tôn:
- Bạch Thế Tôn, mong
Thế Tôn ngày mai nhận lời mời dùng cơm của chúng con với
chúng Tỷ-kheo.
Thế Tôn im lặng
nhận lời. Dâm nữ Ambapali được biết Thế Tôn đã nhận
lời, từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ Ngài, thân bên
phải hướng về đức Phật và từ biệt.
15. Các người Licchavi
ở Vesàli được nghe: "Thế Tôn đến Vesàli hiện ở vườn
Ambapàli", liền cho thắng các cỗ xe thù thắng leo lên xe
rồi xuất phát ra khỏi Vesàli với những cỗ xe ấy. Có
những vị Licchavi toàn xanh, màu sắc xanh, mặc vải màu xanh,
mang đồ trang sức màu xanh. Có những vị Licchavi toàn vàng, màu
sắc vàng, mặc vải màu vàng, mang đồ trang sức màu vàng. Có
những vị Licchavi toàn đỏ, màu sắc đỏ, mặc vải màu đỏ,
mang đồ trang sức màu đỏ. Có những vị Licchavi toàn trắng,
màu sắc trắng, mặc vải màu trắng, mang đồ trang sức màu
trắng.
16. Lúc bấy giờ dâm
nữ Ambapàli đánh xe va chạm với các thanh niên Licchavi, trục
xe chạm với trục xe, bánh xe chạm với bánh xe, gọng xe
chạm với gọng xe. Các Licchavi nói với dâm nữ Ambapàli:
- Này Ambapàli, tại
sao nàng lại đánh xe va chạm với các thanh niên Licchavi,
trục xe chạm với trục xe, bánh xe chạm với bánh xe, gọng
xe chạm với gọng xe?
- Này quý Công tử
của tôi, tôi vừa mới mời Thế Tôn cùng chúng Tỷ-kheo ngày
mai đến dùng cơm.
- Này Ambapàli, hãy nhường
cho chúng ta bữa cơm ấy đổi lấy một trăm ngàn.
- Dầu quý Công tử có
cho tôi cả thành Vesàli cùng với các đất phụ thuộc, tôi cũng
không nhường bữa cơm quan trọng này.
Các vị Licchavi này
tức tối búng ngón tay và nói:
- Chúng ta bị cô
thiếu nữ xoài này đả thắng ! Chúng ta bị cô thiếu nữ xoài
này phổng tay trên. Và các vị Licchavi này cùng đi đến vườn
Ambapàli.
17. Thế Tôn xa thấy các
vị Licchavi liền nói với các Tỷ-kheo: "Này các Tỷ-kheo
nếu có vị Tỷ-kheo nào chưa thấy các chư Thiên ở cõi Tam
thập tam thiên, hãy ngó chúng Licchavi, hãy nhìn chúng Licchavi.
Này các Tỷ-kheo chúng Licchavi cũng giống như chúng Tam thập
tam thiên".
18. Các vị Licchavi
ấy cỡi xe cho đến chỗ còn có thể cỡi xe được, rồi
xuống xe đi bộ đến tại chỗ Thế Tôn, khi đến, liền đảnh
lễ Ngài và ngồi xuống một bên. Thế Tôn thuyết pháp cho
những vị Licchavi đang ngồi một bên, giảng dạy, khích lệ,
làm cho phấn khởi, khiến tâm hoan hỷ.
Các vị Licchavi sau khi
được Thế Tôn giảng dạy, khích lệ, làm cho phấn khởi,
khiến tâm hoan hỷ liền bạch Thế Tôn:
- Bạch Thế Tôn, mong
Thế Tôn ngày mai nhận lời mời dùng cơm của chúng con với
chúng Tỷ-kheo.
- Này các Licchavi, ngày
mai Ta đã nhận lời mời dùng cơm của dâm nữ Ambapàli rồi.
Các vị Licchavi này
tức tối búng ngón tay và nói: "Chúng ta bị cô thiếu
nữ xoài này đả thắng ! Chúng ta bị cô thiếu nữ xoài này
phổng tay trên... "
Rồi những vị
Licchavi này, hoan hỷ tán thán lời dạy Thế Tôn, từ chỗ
ngồi đứng dậy, đảnh lễ Ngài, thân bên hữu hướng về
đức Phật và từ biệt.
19. Lúc bấy giờ dâm
nữ Ambapali, đêm vừa tàn canh, liền cho sửa soạn tại vườn
của mình các món ăn thượng vị loại cứng và loại mềm và
cho báo tin Thế Tôn: "Bạch Thế Tôn, giờ đã đến, cơm
đã sẵn sàng". Thế Tôn buổi sáng đắp y, đem theo y bát,
cùng với chúng Tỷ-kheo đến tại túc xá của dâm nữ Ambapàli,
sau khi đến liền ngồi xuống chỗ đã soạn sẵn. Rồi dâm
nữ Ambapàli tự tay thân hành mời chúng Tỷ-kheo với đức
Phật là vi thượng thủ, dùng các món ăn thượng vị loại
cứng và loại mềm.
Khi Thế Tôn dùng xong,
tay đã rời bát, dâm nữ Ambapàli lấy một ghế thấp khác và
ngồi xuống một bên. Sau khi ngồi xuống một bên, dâm nữ
Ambapàli bạch Thế Tôn: "Bạch Thế Tôn, con xin cúng dường
ngôi vườn này cho chúng Tỷ-kheo với đức Phật là vị thượng
thủ".
Thế Tôn nhận lãnh
khu vườn. Thế Tôn thuyết pháp cho dâm nữ Ambapàli, khích
lệ, làm cho phấn khởi, khiến tâm hoan hỷ, rồi đứng dậy
ra về.
20. Trong thời gian
Thế Tôn ở Vesàli, pháp thoại này được giảng cho chúng
Tỷ-kheo:
- Đây là Giới, đây
là Định, đây là Tuệ. Định cùng tu với Giới sẽ đưa đến
quả vị lớn, lợi ích lớn. Tuệ cùng tu với Định sẽ đưa
đến quả vị lớn, lợi ích lớn. Tâm cùng tu với Tuệ sẽ
đưa đến giải thoát hoàn toàn các món lậu hoặc, tức là
dục lậu, hữu lậu (tri kiến lậu), vô minh lậu.
21. Rồi Thế Tôn, sau
khi ở Vesàli cho đến khi Ngài xem là vừa đủ, liền bảo tôn
giả Ananda:
- Này Ananda, chúng ta hãy
đi đến làng Baluvà.
- Xin vâng, bạch Thế
Tôn!
Tôn giả Ananda vâng
lời Thế Tôn. Rồi Thế Tôn cùng với đại chúng Tỷ-kheo đi
đến làng Baluvà. Và Thế Tôn trú tại làng này.
22. Thế Tôn nói với
các Tỷ-kheo:
- Này các Tỷ Kheo hãy
an cư trong mùa mưa xung quanh Vesàli tại chỗ có bạn bè quen
thuộc và thân tín. Còn Ta sẽ an cư ở đây, tại làng Baluvà.
- Xin vâng, bạch Thế
Tôn !
Những Tỷ Kheo này vâng
đáp Thế Tôn và tìm chỗ an cư mùa mưa xung quanh Vesàli tại
chỗ có bạn bè quyến thuộc và thân tín. Còn Thế Tôn an cư
tại làng Baluvà.
23. Trong khi Thế Tôn
an cư trong mùa mưa, một cơn bệnh trầm trọng khởi lên,
rất đau đớn, gần như muốn chết. Nhưng Thế Tôn giữ tâm
chánh niệm, tỉnh giác, chịu đựng cơn đau ấy, không một
chút ta thán. Thế Tôn tự nghĩ: "Thật không hợp lẽ
nếu Ta diệt độ mà không có một lời với các đệ tử
hầu cận Ta, không từ biệt chúng Tỷ-kheo. Vậy Ta hãy lấy
sức tinh tấn, nhiếp phục cơn bệnh này, duy trì mạng căn và
tiếp tục sống". Và Thế Tôn với sức tinh tấn, nhiếp
phục bệnh ấy duy trì mạng căn.
24. Rồi Thế Tôn lành
bệnh. Sau khi lành bệnh không bao lâu, đức Phật rời khỏi
tịnh xá và ngồi trên ghế đã soạn sẵn, trong bóng mát
của ngôi tịnh xá. Lúc bấy giờ tôn giả Ananda đến tại
chỗ Thế Tôn, đảnh lễ Ngài và ngồi xuống một bên. Sau
khi ngồi xuống một bên, tôn giả Ananda bạch Thế Tôn:
- Bạch Thế Tôn, con
được thấy Thế Tôn khỏe mạnh. Bạch Thế Tôn, con được
thấy Thế Tôn kham nhẫn, bạch Thế Tôn, thấy Thế Tôn bệnh
hoạn, thân con cảm thấy yếu ớt như lau sậy, mắt con mờ
mịt không thấy rõ phương hướng, dầu cho, bạch Thế Tôn,
con được một chút an ủi rằng, Thế Tôn sẽ không diệt độ,
nếu Ngài chưa có lời di giáo lại cho chúng Tỷ-kheo.
25. Này Ananda, chúng
Tỷ-kheo còn mong mỏi gì nữa ở Ta! Này Ananda, Ta đã giảng
Chánh pháp, không có phân biệt trong ngoài (mật giáo và không
phải mật giáo), vì này Ananda, đối với các Pháp, Như Lai không
bao giờ là vị Đạo sư còn nắm tay (còn giữ lại một ít
mật giáo chưa giảng dạy). Này Ananda, những ai nghĩ rằng:
"Như Lai là vị cầm đầu chúng Tỷ-kheo"; hay "chúng
Tỷ-kheo chịu sự giáo huấn của Như Lai" thời này Ananda,
người ấy sẽ có lời di giáo cho chúng Tỷ-kheo. Này Ananda,
Như Lai không nghĩ rằng: "Ta là vị cầm đầu chúng
Tỷ-kheo; hay "chúng Tỷ-kheo chịu sự giáo huấn của
Ta" thời nay Ananda, làm sao Như Lai lại có lời di giáo cho
chúng Tỷ-kheo? Này Ananda, Ta nay đã già, đã thành bậc trưởng
thượng, đã đến tuổi lâm chung, đã đến tám mươi tuổi.
Này Ananda, như cỗ xe đã già mòn, sở dĩ còn chạy được là
nhờ dây thắng chằng chịt, cũng vậy thân Như Lai được duy
trì sự sống giống như chính nhờ chống đỡ dây chằng. Này
Ananda, chỉ trong khi Như Lai không tác ý đến tất cả tướng,
với sự diệt trừ một số cảm thọ, chứng và an trú vô tướng
tâm định, chính khi ấy thân Như Lai được thoải mái.
26. Vậy nên, này
Ananda, hãy tự mình là ngọn đèn cho chính mình, hãy tự mình
nương tựa chính mình, chớ nương tựa một gì khác. Dùng Chánh
pháp làm ngọn đèn, dùng Chánh pháp làm chỗ nương tựa,
chớ nương tựa một gì khác. Này Ananda, thế nào là vị
Tỷ-kheo hãy tự mình là ngọn đèn cho chính mình, tự mình nương
tựa chính mình, không nương tựa một gì khác, dùng Chánh pháp
làm ngọn đèn, dùng Chánh pháp làm chỗ nương tựa, không nương
tựa một gì khác.
Này Ananda, ở đời,
vị Tỷ-kheo, đối với thân quán thân, tinh tấn, tỉnh giác,
chánh niệm, nhiếp phục mọi tham ái, ưu bi trên đời; đối
với các cảm thọ... đối với tâm... đối với các pháp, quán
pháp, tinh tấn, tỉnh giác, chánh niệm, nhiếp phục mọi tham
ái, ưu bi trên đời. Này Ananda, như vậy vị Tỷ-kheo tự mình
là ngọn đèn cho chính mình, tự mình nương tựa chính mình,
không nương tựa một gì khác, dùng Chánh pháp làm ngọn đèn,
dùng Chánh pháp làm chỗ nương tựa, không nương tựa một gì
khác.
Này Ananda, những ai
sau khi Ta diệt độ, tự mình là ngọn đèn cho chính mình,
tự mình nương tựa chính mình, không nương tựa một gì khác,
dùng Chánh pháp làm ngọn đèn, dùng Chánh pháp làm chỗ nương
tựa, không nương tựa vào một pháp gì khác, những vị ấy,
Này Ananda là những vị tối thượng trong hàng Tỷ-kheo của
Ta, nếu những vị ấy tha thiết học hỏi.
III
1. Rồi Thế Tôn vào
buổi sáng đắp y, đem theo y bát, vào Vesàli để khất thực.
Sau khi khất thực ở Vesàli, ăn xong và trên đường khất
thực trở về Ngài nói với tôn giả Ananda:
- Này Ananda, hãy lấy
tọa cụ. Ta muốn đi đến điện thờ Càpàla, để nghỉ trưa.
- Xin vâng, bạch Thế
Tôn!
Tôn giả Ananda vâng đáp
Thế Tôn, lấy tọa cụ và đi theo sau lưng Thế Tôn.
2. Thế Tôn đi đến
điện thờ Càpàla, khi đến Ngài ngồi trên chỗ đã soạn
sẵn. Tôn giả Ananda đảnh lễ Thế Tôn và ngồi xuống một
bên. Thế Tôn nói với Tôn giả Ananda đang ngồi một bên:
- Này Ananda, khả ái
thay Vesàli, khả ái thay điện thờ Udena, khả ái thay điện
thờ Gotamaka, khả ái thay điện thờ Sàttambaka, khả ái thay
điện thờ Bahuputta, khả ái thay điện thờ Sàrandada, khả ái
thay điện thờ Càpàla.
3. Này Ananda, những ai
đã tu bốn thần túc, tu tập nhiều lần, thật lão luyện,
thật chắc chắn, thật bền vững, điêu luyện, thiện xảo,
thời nếu muốn người ấy có thể sống đến một kiếp hay
phần kiếp còn lại. Này Ananda, nay Như Lai đã tu bốn thần túc,
tu tập nhiều lần, thật lão luyện, thật chắc chắn, thật
bền vững, điêu luyện, thiện xảo. Này Ananda, nếu muốn Như
Lai có thể sống đến một kiếp hay phần kiếp còn lại.
4. Nhưng Tôn giả
Ananda không thể nhận hiểu sự gợi ý quá rõ ràng, sự
hiện tướng quá rõ ràng của Thế Tôn; tôn giả không thỉnh
cầu Thế Tôn: "Bạch Thế Tôn, Thế Tôn hãy ở lại cho
đến trọn kiếp. Thiện Thệ hãy ở lại cho đến trọn
kiếp vì lợi ích cho chúng sanh, vì hạnh phúc cho chúng sanh, vì
lòng thương tưởng cho đời, vì lợi ích, vì hạnh phúc, vì
an lạc cho loài Trời và loài Người". Vì tâm tôn giả
bị Ma vương ám ảnh.
5. Lần thứ hai Thế Tôn...
lần thứ ba Thế Tôn nói với tôn giả Ananda:
- Này Ananda, khả ái
thay Vesàli, khả ái thay điện thờ Udena, khả ái thay điện
thờ Gotamaka, khả ái thay điện thờ Sattambaka, khả ái thay điện
thờ Bahuputta, khả ái thay điện thờ Sàrandada, khả ái thay
điện thờ Capala !" Này Ananda, những ai đã tu bốn thần
túc, tu tập nhiều lần, thật lão luyện, thật chắc chắn,
thật bền vững, điêu luyện, thiện xảo thời, nếu người
ấy muốn, có thể sống đến một kiếp hay phần kiếp còn
lại. Này Ananda, nay Như Lai đã tu bốn thần túc, tu tập
nhiều lần, thật lão luyện, thật chắc chắn, thật bền
vững, điêu luyện, thiện xảo. Này Ananda, nếu muốn, Như Lai
có thể sống đến một kiếp hay phần kiếp còn lại.
Nhưng tôn giả Ananda
không thể nhận hiểu sự gợi ý quá rõ ràng, sự hiện tướng
quá rõ ràng của Thế Tôn, Tôn giả không thỉnh cầu Thế Tôn:
"Bạch Thế Tôn, Thế Tôn hãy ở lại cho đến trọn
kiếp, Thiện Thệ hãy ở lại cho đến trọn kiếp, vì lợi
ích cho chúng sanh, vì hạnh phúc cho chúng sanh, vì lòng thương
tưởng cho đời, vì lợi ích, vì hạnh phúc, vì an lạc cho loài
Trời và loài Người". Vì tâm của tôn giả bị Ác ma ám
ảnh.
6. Rồi Thế Tôn nói
với tôn giả Ananda:
- Này Ananda hãy đi và
làm những gì Ngươi nghĩ là phải thời.
- Xin vâng, bạch Thế
Tôn!
Tôn giả Ananda vâng
lời Thế Tôn, từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ Ngài, thân
bên hữu hướng về Thế Tôn và đi ra.
7. Tôn giả Ananda đi
ra chưa bao lâu, Ác ma liền đến chỗ Thế Tôn, khi đến xong
liền đứng một bên. Sau khi đứng một bên, Ác ma nói với
Thế Tôn.
- Bạch Thế Tôn, nay
Thế Tôn hãy diệt độ, Thiện Thệ hãy diệt độ. Bạch
Thế Tôn, nay đã đến thời Thế Tôn diệt độ. Bạch Thế Tôn,
đây là lời Thế Tôn đã nói: "Này Ác ma, Ta sẽ không
diệt độ khi nào những Tỷ-kheo của Ta chưa trở thành
những vị đệ tử chân chánh, sáng suốt, có kỷ luật, sẵn
sàng, đa văn, duy trì Chánh pháp, thành tựu Chánh pháp và tùy
pháp, sống chân chánh, sống theo Chánh pháp, sau khi học hỏi
giáo lý, chưa có thể tuyên bố, diễn giảng, trình bày, xác
định, khai minh, phân tích, và giải thích rõ ràng Chánh pháp,
khi có tà đạo khởi lên chưa có thể chất vấn và hàng
phục một cách khéo léo, chưa có thể truyền bá Chánh pháp
thần diệu".
8. Bạch Thế Tôn, nay
những Tỷ-kheo của Thế Tôn, đã trở thành những vị đệ
tử chân chánh, sáng suốt, có kỷ luật, sẵn sàng, đa văn,
duy trì Chánh pháp và tùy pháp, sống chân chánh, sống theo Chánh
pháp, sau khi học hỏi giáo lý, đã có thể tuyên bố, diễn
giảng, trình bày, xác định, khai minh, phân tách và giải thích
rõ ràng Chánh pháp, khi có tà đạo khởi lên đã có thể
chất vấn và hàng phục một cách khéo léo, đã có thể
truyền bá Chánh pháp thần diệu. Như vậy, nay Thế Tôn, hãy
diệt độ, Thiện Thệ hãy diệt độ. Bạch Thế Tôn, nay đã
đến thời Thế Tôn diệt độ !
Bạch Thế Tôn, đây là
lời Thế Tôn đã nói: "Này Ác ma, Ta sẽ không diệt độ
khi nào những Tỷ-kheo ni của Ta chưa trở thành những vị đệ
tử chơn chánh, sáng suốt, có kỷ luật... khi nào những nam cư
sĩ của Ta chưa trở thành những vị đệ tử chơn chánh, sáng
suốt, có kỷ luật, sẵn sàng, đa văn duy trì Chánh pháp, thành
tựu Chánh pháp và tùy pháp, sống chơn chánh, sống theo Chánh
pháp, sau khi học hỏi giáo lý, chưa có thể tuyên bố, diễn
giảng, trình bày, xác định, khai minh, phân tách, và giải thích
rõ ràng Chánh pháp; khi nào có tà đạo khởi lên, chưa có
thể chất vấn và hàng phục một cách khéo léo, chưa có
thể truyền bá Chánh pháp thần diệu". Bạch Thế Tôn,
nay những nam cư sĩ của Thế Tôn đã trở thành những đệ
tử chơn chánh, sáng suốt, có kỷ luật, sẵn sàng, đa văn,
duy trì Chánh pháp, đầy đủ Chánh pháp và tùy pháp, sống chơn
chánh, sống theo Chánh pháp, sau khi học hỏi giáo lý đã có
thể tuyên bố, diễn giảng, trình bày, xác định, khai minh,
phân tích và giải thích rõ ràng Chánh pháp; khi có tà đạo
khởi lên, đã có thể chất vấn và hàng phục một cách khéo
léo, và có thể truyền bá Chánh pháp thần diệu. Như vậy,
nay Thế Tôn hãy diệt độ, Thiện Thệ hãy diệt độ. Bạch
Thế Tôn nay đã đến thời Thế Tôn diệt độ.
Bạch Thế Tôn, đây là
lời Thế Tôn đã nói: "Này Ác ma, Ta sẽ không diệt độ
khi nào những nữ cư sĩ của Ta chưa trở thành những vị đệ
tử chơn chánh, sáng suốt, có kỷ luật, sẵn sàng, đa văn,
duy trì, Chánh pháp, thành tựu Chánh pháp và tùy pháp, sống
chơn chánh, sống theo Chánh pháp, sau khi học hỏi giáo lý, chưa
có thể tuyên bố, diễn giảng, trình bày, xác định, khai
minh, phân tách, và giải thích rõ ràng Chánh pháp; khi nào có
tà đạo khởi lên, chưa có thể chất vấn và hàng phục
một cách khéo léo, chưa có thể truyền bá chánh pháp một cách
thần diệu". Bạch Thế Tôn, nay những nữ cư sĩ của
Thế Tôn đã trở thành những đệ tử chơn chánh, sáng suốt,
có kỷ luật, sẵn sàng, đa văn, duy trì Chánh pháp, thành
tựu Chánh pháp và tùy pháp, sống chơn chánh, sống theo Chánh
pháp, sau khi học hỏi giáo lý đã có thể tuyên bố, diễn
giảng, trình bày, xác định, khai minh, phân tách, và giải thích
rõ ràng Chánh pháp; khi nào có tà đạo khởi lên, đã có
thể chất vấn và hàng phục một cách khéo léo, có thể
truyền bá Chánh pháp một cách thần diệu. Như vậy, nay Thế
Tôn hãy diệt độ, Thiện Thệ hãy diệt độ. Bạch Thế Tôn,
nay đã đến thời Thế Tôn diệt độ.
Bạch Thế Tôn, đây là
lời Thế Tôn đã nói: "Này Ác ma, Ta sẽ không diệt độ
khi nào phạm hạnh Ta giảng dạy chưa thành tựu, thịnh đạt,
phổ biến, quảng bá, biến mãn, nghĩa là được khéo giảng
dạy cho loài người". Bạch Thế Tôn, nay phạm hạnh Thế
Tôn giảng dạy đã được thành tựu, thịnh đạt, phổ
biến, quảng bá, biến mãn, nghĩa là được khéo giảng dạy
cho loài người. Như vậy, nay Thế Tôn hãy diệt độ, Thiện
Thệ hãy diệt độ. Bạch Thế Tôn nay đã đến thời Thế Tôn
diệt độ.
9. Khi được nói vậy
Thế Tôn nói với Ác ma: "Này Ác ma hãy yên tâm, không bao
lâu Như Lai sẽ diệt độ. Sau ba tháng bắt đầu từ hôm nay,
Như Lai sẽ diệt độ".
10. Và tại điện
thờ Capala, Thế Tôn chánh niệm, tỉnh giác, từ bỏ thọ, hành
(không duy trì mạng sống lâu hơn nữa). Khi Thế Tôn từ bỏ,
không duy trì mạng sống thêm nữa, thời đại địa chấn động,
ghê rợn, tóc lông dựng ngược, sấm trời vang dậy. Thế Tôn
nhận hiểu ý nghĩa của sự kiện ấy, liền thốt câu kệ
cảm khái như sau:
- Mạng sống có hạn hay vô hạn,
- Tu sĩ từ bỏ, không kéo dài.
- Nội tâm chuyên nhất trú
thiền định.
- Như tháo áo giáp đang mang mặc.
11. Lúc bấy giờ, tôn
giả Ananda suy nghĩ: "Thật là kỳ diệu ! Thật là hy hữu
! Đại địa chấn động, đại địa rung động như vậy, ghê
rợn, tóc lông dựng ngược và sấm trời vang dậy. Do nhân gì,
do duyên gì, đại địa chấn động như vậy?".
12. Rồi tôn giả
Ananda đến tại chỗ Thế Tôn, đảnh lễ Ngài và ngồi
xuống một bên. Khi ngồi xuống một bên, tôn giả Ananda
bạch Thế Tôn:
Bạch Thế Tôn, thật
là kỳ diệu ! Bạch Thế Tôn thật là hy hữu ! Đại địa
chấn động, đại địa rung động như vậy, ghê rợn, tóc lông
dựng ngược và sấm trời vang dậy. Bạch Thế Tôn, do nhân gì,
do duyên gì, đại địa chấn động như vậy ?
13. - Này Ananda, có tám
nhân, có tám duyên khiến đại địa chấn động. Thế nào là
tám? Này Ananda, đại địa này thiết lập trên nước, nước
ở trên gió và gió ở tại hư không. Này Ananda, đến thời
đại phong khởi lên, gió lớn khi thổi làm nổi sóng nước,
và khi nước nổi sóng thì quả đất rung động. Đó là nhân
thứ nhất, duyên thứ nhất, đại địa chấn động.
14. Lại nữa này
Ananda, có vị Sa-môn hay Bà-la-môn có thần thông, tâm được
chế ngự, hay hàng chư Thiên có đại thần thông, có đại uy
lực; những vị này quán địa tánh có hạn, quán thủy tánh
vô lượng, vị ấy có thể khiến quả đất này rung động,
chuyển động mạnh. Đó là nhân thứ hai, duyên thứ hai
khiến đại địa chấn động.
15. Lại nữa, này
Ananda, khi vị Bồ-tát ở cõi Tusita (Đâu suất) từ bỏ thân,
chánh niệm, tỉnh giác, nhập vào mẫu thai, khi ấy quả đất
này rung động, chuyển động, chấn động mạnh. Đó là nhân
thứ ba, duyên thứ ba khiến đại địa chấn động.
16. Lại nữa, này
Ananda, khi vị Bồ-tát, chánh niệm, tỉnh giác, ra khỏi mẫu
thai, khi ấy quả đất này rung động, chuyển động, chấn động
mạnh. Đó là nhân thứ tư, duyên thứ tư khiến đại địa
chấn động.
17. Lại nữa, này
Ananda, khi Như Lai chứng ngộ vô thượng Chánh Đẳng Chánh Giác,
khi ấy quả đất rung động, chuyển động, chấn động
mạnh. Đó là nhân thứ năm, duyên thứ năm khiến đại địa
chấn động.
18. Lại nữa, này
Ananda, khi Như Lai chuyển bánh xe Pháp, khi ấy quả đất này
rung động, chuyển động, chấn động mạnh. Đó là nhân
thứ sau, duyên thứ sau, khiến đại địa chấn động.
19. Lại nữa, này
Ananda, khi Như Lai, chánh niệm, tỉnh giác, từ bỏ, không duy
trì mạng sống, khi ấy quả đất này rung động, chuyển động,
chấn động mạnh. Đó là nhân thứ bảy, duyên thứ bảy,
khiến đại địa chấn động.
20. Lại nữa, này
Ananda, khi Như Lai nhập vô dư y Niết Bàn, khi ấy quả đất này
rung động, chuyển động, chấn động mạnh. Đó là nhân
thứ tám duyên thứ tám, khiến đại địa chấn động. Này
Ananda, do tám nhân này, tám duyên này, khiến đại địa chấn
động.
21. Này Ananda, có tám
chúng. Thế nào là tám. Chúng Sát-đế-Lỵ, chúng Bà-la-môn,
chúng Cư sĩ, chúng Sa-môn, chúng Bốn Thiên vương, chúng Tam
thập tam thiên, chúng Ma, chúng Phạm thiên.
22. Này Ananda, Ta nhớ
lại Ta đã đến chúng Sát -đế-lỵ hơn một trăm lần. Tại
đây trước khi Ta ngồi, trước khi Ta nói chuyện, và trước
khi cuộc đối thoại bắt đầu, dung sắc của chúng Sát-đế-lỵ
như thế nào, dung sắc của Ta cũng như vậy; giọng nói chúng
như thế nào, giọng nói của Ta cũng như vậy. Và với bài pháp
thoại, Ta giảng dạy, khích lệ, làm cho phấn khởi, khiến tâm
hoan hỷ. Khi Ta đang nói, chúng không biết: "Kẻ nói ấy là
ai, là chư Thiên chăng, là Người chăng?" sau khi Ta giảng
dạy, khích lệ, làm cho phấn khởi, khiến tâm hoan hỷ với bài
pháp thoại, Ta biến mất. Khi Ta biến mất, chúng không biết:
"Kẻ biến mất ấy là ai, là chư Thiên chăng, là Ngươi
chăng?".
23. Này Ananda. Ta nhớ
lại Ta đã đến chúng Bà-la-môn hơn một trăm lần... chúng Cư
sĩ... chúng Sa-môn... chúng Bốn Thiên vương... chúng Tam thập
tam thiên... chúng Ma... chúng Phạm thiên hơn trăm lần, tại đây
trước khi Ta ngồi, trước khi Ta nói chuyện và trước khi
cuộc đối thoại bắt đầu dung sắc của chúng Phạm thiên
như thế nào, dung sắc của Ta cũng vậy; giọng nói của chúng
như thế nào, giọng nói của Ta cũng vậy. Và với bài pháp
thoại, Ta giảng dạy, khích lệ, làm cho phấn khởi, khiến tâm
hoan hỷ. Khi Ta đang nói, chúng không biết: "Kẻ nói ấy là
ai, là chư Thiên chăng, là Người chăng?" Sau khi Ta giảng
dạy, khích lệ, làm cho phấn khởi, khiến tâm hoan hỷ, Ta
biến mất. Khi Ta biến mất, chúng không biết: "Kẻ biến
mất đó là ai, là chư Thiên chăng, là Người chăng?" Này
Ananda, như vậy là tám chúng.
24. Này Ananda, có tám
thắng xứ. Thế nào là tám?
25. Một vị quán tưởng
nội sắc, thấy các loại ngoại sắc, có hạn lượng, đẹp,
xấu. Vị ấy nhận thức rằng: "Sau khi nhiếp thắng chúng,
ta biết, ta thấy", đó là thắng xứ thứ nhất.
26. Một vị quán tưởng
nội sắc, thấy các loại ngoại sắc vô lượng, đẹp, xấu.
Vị ấy nhận thức rằng: "Sau khi nhiếp thắng chúng, ta
biết, ta thấy", đó là thắng xứ thứ hai.
27. Một vị quán tưởng
vô sắc ở nội tâm, thấy các loại ngoại sắc có hạn lượng
đẹp, xấu. Vị ấy nhận thức rằng: "Sau khi nhiếp
thắng chúng, ta biết, ta thấy", đó là thắng xứ thứ ba.
28. Một vị quán tưởng
vô sắc ở nội tâm, thấy các loại ngoại sắc vô lượng,
đẹp, xấu. Vị ấy nhận thức rằng: "Sau khi nhiếp
thắng chúng, ta biết, ta thấy", đó là thắng xứ thứ tư.
29. Một vị quán tưởng
vô sắc ở nội tâm, thấy các loại ngoại sắc màu xanh, tướng
sắc xanh, hình sắc xanh, ánh sáng xanh - như bông gai màu xanh,
tướng sắc xanh, hình sắc xanh, ánh sáng xanh - như lụa
Ba-la-nại, cả hai mặt láng trơn, màu xanh, tướng sắc xanh, hình
sắc xanh, ánh sáng xanh. Như vậy vị này quán tưởng vô sắc
ở nội tâm, thấy các loại ngoại sắc màu xanh, tướng sắc
xanh, hình sắc xanh ánh sáng xanh. Vị ấy nhận thức rằng:
"Sau khi nhiếp thắng chúng, ta biết, ta thấy", đó là
thắng xứ thứ năm.
30. Một vị quán tưởng
vô sắc ở nội tâm, thấy các loại ngoại sắc màu vàng,
sắc màu vàng, tướng màu vàng, hình sắc vàng, ánh sáng vàng
- như bông Kanikàra màu vàng, tướng sắc vàng, hình sắc vàng,
ánh sáng vàng - như lụa sa Balanại, cả hai mặt láng trơn màu
vàng, tướng sắc vàng hình sắc vàng - như vậy vị này quán
tưởng vô sắc ở nội tâm, thấy các loại ngoại sắc màu vàng,
tướng sắc vàng, hình sắc vàng, ánh sáng vàng, vị ấy
nhận thức rằng: "Sau khi nhiếp thắng chúng, ta biết, ta
thấy", đó là thắng xứ thứ sáu.
31. Một vị quán tưởng
vô sắc ở nội tâm, thấy các loại ngoại sắc màu đỏ,
sắc màu đỏ, tướng sắc đỏ, hình sắc đỏ, ánh sáng đỏ
- như bông bandhujìvaka màu đỏ, sắc màu đỏ, tướng màu đỏ,
hình sắc đỏ, ánh sáng đỏ - như lụa sa Balanại, cả hai
mặt láng trơn màu đỏ, sắc màu đỏ, tướng màu đỏ, hình
sắc đỏ, ánh sáng đỏ. Như vậy vị này quán tưởng vô
sắc ở nội tâm, thấy các loại ngoại sắc màu đỏ tướng
sắc đỏ, hình sắc đỏ, ánh sáng đỏ, vị ấy nhận thức
rằng: "Sau khi nhiếp thắng chúng, ta biết, ta thấy",
đó là thắng xứ thứ bảy.
32. Một vị quán tưởng
vô sắc ở nội tâm, thấy các loại ngoại sắc màu trắng, tướng
sắc trắng, hình sắc trắng, ánh sáng trắng - như sao mai
Osadhi màu trắng, tướng sắc trắng, hình sắc trắng, ánh sáng
trắng - như lụa sa Balanại, cả hai mặt láng trơn màu trắng,
tướng sắc trắng, hình sắc trắng, ánh sáng trắng. Như
vậy vị này quán tưởng vô sắc ở nội tâm, thấy các
loại ngoại sắc màu trắng, tướng sắc trắng, hình sắc
trắng, ánh sáng trắng, vị ấy nhận thức rằng: "Sau khi
nhiếp thắng chúng, ta biết, ta thấy", đó là thắng xứ
thứ tám. Này Ananda như vậy là tám thắng xứ.
33. Này Ananda, tám
giải thoát. Thế nào là tám?
Tự mình có sắc,
thấy các sắc; đó là sự giải thoát thứ nhất.
Quán tưởng nội sắc
là vô sắc, thấy các ngoại sắc; đó là sự giải thoát
thứ hai.
Quán tưởng (sắc là)
tịnh, chú tâm trên suy tưởng ấy; đó là sự giải thoát
thứ ba.
Vượt khỏi hoàn toàn
sắc tưởng, diệt trừ các tưởng hữu đối, không tác ý đến
những tưởng khác biệt, với suy tư "hư không là vô biên",
chứng và trú Không vô biên xứ; đó là sự giải thoát thứ
tư.
Vượt khỏi hoàn toàn
Không vô biên xứ, với suy tư "thức là vô biên",
chứng và trú Thức vô biên xứ; đó là giải thoát thứ năm.
Vượt khỏi hoàn toàn
Thức vô biên xứ, với suy tư "không có vật gì",
chứng và trú Vô sở hữu xứ; đó là sự giải thoát thứ sáu.
Vượt khỏi hoàn toàn
Vô sở hữu xứ, chứng và trú Phi tưởng phi phi tưởng xứ;
đó là sự giải thoát thứ bảy.
Vượt khỏi hoàn toàn
Phi tưởng phi phi tưởng xứ, chứng và trú Diệt thọ tưởng;
đó là sự giải thoát thứ tám.
Này Ananda, như vậy là
tám giải thoát.
34. Này Ananda, một
thời Ta ở tại Uruvelà, trên bờ sông Neranjara, dưới gốc cây
Ajapàlanigrodha khi Ta mới thành đạo. Này Ananda, lúc bấy giờ
Ác ma đến tại chỗ Ta ở, khi đến xong liền đứng một bên.
Này Ananda, sau khi đứng một bên, Ác ma nói với Ta: "Bạch
Thế Tôn, nay Thế Tôn hãy diệt độ, Thiện Thệ hãy diệt độ.
Bạch Thế Tôn nay đã đến thời Thế Tôn diệt độ".
35. Này Ananda, khi được
nói vậy, Ta nói với Ác ma:
- "Này Ác ma, Ta
sẽ không diệt độ khi nào những Tỷ-kheo của ta chưa thành
những đệ tử chơn chánh, sáng suốt, có kỷ luật, sẵn sàng,
đa văn, duy trì Chánh pháp, thành tựu Chánh pháp và Tùy pháp,
sống chơn chánh, sống theo Chánh pháp, sau khi học hỏi giáo lý
chưa có thể tuyên bố, diễn giảng, trình bày, xác định,
khai minh, phân tách và giải thích rõ ràng Chánh pháp; khi có tà
đạo khởi lên, chưa có thể chất vấn và hàng phục một cách
khéo léo, chưa có truyền bá Chánh pháp thần diệu.
Này Ác ma, Ta sẽ không
diệt độ khi nào những Tỷ-kheo ni của Ta chưa trở thành
những đệ tử chơn chánh, sáng suốt, có kỷ luật, sẵn sàng,
đa văn, duy trì Chánh pháp, thành tựu Chánh pháp và tùy pháp,
sống chơn chánh, sống theo Chánh pháp, sau khi học hỏi giáo lý
chưa có thể tuyên bố, diễn giảng, trình bày, xác định,
khai minh, phân tách và giải thích rõ ràng Chánh pháp; khi có tà
đạo khởi lên, chưa có thể chất vấn và hàng phục một cách
khéo léo, chưa có thể truyền bá Chánh pháp thần diệu.
Này Ác ma, Ta sẽ không
diệt độ khi nào những nam cư sĩ của Ta chưa trở thành
những đệ tử chơn chánh, sáng suốt, có kỷ luật, sẵn sàng,
đa văn, duy trì Chánh pháp, thành tựu chánh pháp và tùy pháp,
sống chơn chánh, sống theo chánh pháp, sau khi học hỏi giáo lý
chưa có thể tuyên bố diễn giảng trình bày, xác định, khai
minh, phân tách và giải thích rõ ràng Chánh pháp; khi có tà đạo
khởi lên, chưa có thể chất vấn và hàng phục một cách khéo
léo, chưa có thể truyền bá chánh pháp thần diệu.
Này Ác ma, Ta sẽ không
diệt độ khi nào những nữ cư sĩ của Ta chưa trở thành
những đệ tử chơn chánh, sáng suốt, có kỷ luật, sẵn sàng,
đa văn, duy trì Chánh pháp, thành tựu chánh pháp và tùy pháp,
sống chơn chánh, sống theo chánh pháp, sau khi học hỏi giáo lý
chưa có thể tuyên bố diễn giảng trình bày, xác định, khai
minh, phân tách và giải thích rõ ràng Chánh pháp; khi có tà đạo
khởi lên, chưa có thể chất vấn và hàng phục một cách khéo
léo, chưa có thể truyền bá chánh pháp thần diệu.
Này Ác ma, Ta không
diệt độ khi nào phạm hạnh mà Ta giảng dạy chưa được thành
tựu, thịnh đạt, phổ biến, quảng bá, biến mãn, nghĩa là
được khéo giảng dạy cho loài Người.
36. Này Ananda, hôm nay
tại điện thờ Càpàla, Ác ma đến Ta, sau khi đến liền đứng
một bên. Này Ananda, Ác ma đứng một bên nói với Ta như sau:
"Bạch Thế Tôn,
nay Thế Tôn hãy diệt độ, Thiện Thệ hãy diệt độ. Bạch
Thế Tôn, nay đã đến thời Thế Tôn diệt độ. Bạch Thế Tôn,
đây là lời Thế Tôn đã nói: "Này Ác ma, Ta sẽ không
diệt độ khi nào những Tỷ-kheo của Ta chưa trở thành
những đệ tử chơn chánh, sáng suốt, có kỷ luật, sẵn sàng,
đa văn, duy trì Chánh pháp, thành tựu Chánh pháp và tùy pháp,
sống chân chánh, sống theo Chánh pháp, sau khi học hỏi giáo lý,
chưa có thể tuyên bố, diễn giảng, trình bày, xác định,
khai minh, phân tách và giải thích rõ ràng Chánh pháp; khi có tà
đạo khởi lên, chưa có thể chất vấn và hàng phục một cách
khéo léo, chưa có thể truyền bá Chánh pháp thần diệu".
Bạch Thế Tôn, nay những Tỷ-kheo của Thế Tôn đã trở thành
những đệ tử chơn chánh, sáng suốt, có kỷ luật, sẵn sàng,
đa văn, duy trì Chánh pháp, thành tựu Chánh pháp và tùy pháp,
sống chân chánh, sống theo Chánh pháp, sau khi học hỏi giáo lý
đã có thể tuyên bố, diễn giảng, trình bày, xác định,
khai minh, phân tách và giải thích rõ ràng Chánh pháp, khi có tà
đạo khởi lên, đã có thể chất vấn và hành phục một cách
khéo léo, đã có thể truyền bá Chánh pháp một cách thần
diệu. Như vậy, nay Thế Tôn hãy diệt độ, Thiện Thệ hãy
diệt độ. Bạch Thế Tôn, nay đã đến thời Thế Tôn diệt
độ.
Bạch Thế Tôn đây là
lời Thế Thôn đã nói: "Này Ác ma, ta sẽ không diệt độ
khi nào những Tỷ-kheo ni của Ta... ; khi nào những cư sĩ của
Ta... ; khi nào phạm hạnh Ta giảng dạy chưa được thành
tựu, thịnh đạt, phổ biến, quảng bá, biến mãn nghĩa là
được khéo giảng dạy cho loài Người". Bạch Thế Tôn,
nay phạm hạnh Thế Tôn giảng dạy đã được thành tựu,
thịnh đạt, phổ biến, quảng bá, biến mãn nghĩa là được
khéo giảng dạy cho loài Người. Như vậy, nay Thế Tôn hãy
diệt độ, Thiện Thệ hãy diệt độ. Bạch Thế Tôn nay đã
đến thời Thế Tôn diệt độ".
37. Khi được nói
vậy, Ta nói với Ác ma:
"Này Ác ma, hãy an
tâm, không bao lâu Như Lai sẽ diệt độ. Sau ba tháng bắt đầu
từ hôm nay Như Lai sẽ diệt độ".
Này Ananda, hôm nay
tại điện thờ Càpàla, Như Lai chánh niệm, tỉnh giác, từ
bỏ thọ, hành (không duy trì mạng sống lâu hơn nữa).
38. Khi được nói
vậy, tôn giả Ananda bạch Thế Tôn:
- Bạch Thế Tôn, Thế
Tôn hãy ở lại cho đến trọn kiếp, Thiện Thệ hãy ở lại
cho đến trọn kiếp, vì lợi ích cho chúng sanh, viứ hạnh phúc
cho chúng sanh, vì lòng thương tưởng cho đời, vì lợi ích, vì
hạnh phúc cho loài Trời và loài Người.
- Thôi đi, này Ananda,
đừng có thỉnh cầu Như Lai nữa. Này Ananda, nay thỉnh cầu
Như Lai không còn kịp thời.
39. Lần thứ hai, tôn
giả Ananda... Lần thứ ba, tôn giả Ananda bạch Thế Tôn:
- Bạch Thế Tôn, Thế
Tôn hãy ở lại cho đến trọn kiếp, Thiện Thệ hãy ở lại
cho đến trọn kiếp, vì lợi ích cho chúng sanh, vì hạnh phúc
cho chúng sanh, vì lòng thương tưởng cho đời, vì lợi ích, vì
hạnh phúc, vì an lạc cho loài Trời và loài Người.
- Này Ananda, Ngươi có
tin sự giác ngộ Thế Tôn không?
- Bạch Thế Tôn, con có
tin!
- Vậy, này Ananda, sao
Ngươi lại làm phiền Như Lai đến ba lần.
40. - Bạch Thế Tôn,
chính con được tận mặt, đích thân nghe Thế Tôn dạy như
sau: "Này Ananda, những ai đã tu bốn thần túc, tu tập
nhiều lần, thật lão luyện, thật chắc chắn, thật bền
vững, điêu luyện, thiện xảo thời, nếu muốn, người ấy
có thể sống đến một kiếp, hay phần kiếp còn lại. Này
Ananda, nay Như Lai đã tu bốn thần túc... Như Lai có thể
sống đến một kiếp hay phần kiếp còn lại".
- Này Ananda, Ngươi có
tin tưởng không?
- Bạch Thế Tôn, con có
tin tưởng!
- Này Ananda, như vậy
là lỗi của Ngươi, như vậy là khuyết điểm của Ngươi, đã
không nhận hiểu sự gợi ý quá rõ ràng, sự hiện tướng quá
rõ ràng của Như Lai, Ngươi không thỉnh cầu Thế Tôn: "Bạch
Thế Tôn, Thế Tôn hãy ở lại cho đến trọn kiếp, Thiện
Thệ hãy ở lại cho đến trọn kiếp, vì lợi ích cho chúng
sanh, vì hạnh phúc cho chúng sanh, vì lòng thương tưởng cho đời,
vì lợi ích, vì hạnh phúc, vì an lạc cho loài Trời và loài
Người". Này Ananda, nếu Ngươi thỉnh Như Lai, Như Lai có
thể bác bỏ hai lần cầu thỉnh, nhưng đến lần thứ ba, Như
Lai có thể nhận lời. Này Ananda như vậy là lỗi của Ngươi,
như vậy là khuyết điểm của Ngươi.
41. Này Ananda, một
thời Ta ở tại Vương Xá, núi Linh Thứu (Gijjha Kuta). Tại đấy
Ta nói với Ananda: "Này Ananda, khả ái thay thành Vương Xá
! Khả ái thay núi Linh Thứu ! Này Ananda, những ai đã tu bốn
thần túc, tu tập nhiều lần, thật lão luyện, thật chắc
chắn, thật bền vững, điêu luyện, thiện xảo thời, nếu
người ấy muốn, có thể sống đến một kiếp, hay phần
kiếp còn lại. Này Ananda, nay Như Lai đã tu bốn thần túc, tu
tập nhiều lần, thật lão luyện, thật chắc chắn, thật
bền vững, điêu luyện, thiện xảo. Này Ananda, nếu muốn, Như
Lai có thể sống đến một kiếp hay phần kiếp còn lại".
Dầu vậy, này Ananda, Ngươi không thể nhận hiểu sự gợi ý
quá rõ ràng, sự hiện tướng quá rõ ràng của Thế Tôn. Ngươi
không thỉnh cầu Thế Tôn: "Bạch Thế Tôn, Thế Tôn hãy
ở lại cho đến trọn kiếp, Thiện Thệ hãy ở lại cho đến
trọn kiếp, vì lợi ích cho chúng sanh, vì hạnh phúc cho chúng
sanh, vì lòng thương tưởng cho đời, vì lợi ích, vì hạnh
phúc, vì an lạc cho loài Trời và loài Người". Này Ananda,
nếu Ngươi cầu thỉnh Như Lai, Như Lai có thể bác bỏ hai
lần cầu thỉnh, nhưng đến lần thứ ba, Như Lai có thể
nhận lời. Này Ananda, như vậy là lỗi của Ngươi, như vậy
là khuyết điểm của Ngươi".
42. Này Ananda, một
thời Ta ở thành Vương Xá, tại Nigrodhàràma... Ta cũng ở thành
Vương Xá tại Corapapàta... Ta cũng ở thành Vương Xá, hang
Sattapanni trên núi Vebhàra... Ta cũng ở thành Vương Xá, tại
hang đá Kàla, trên núi Isigili... Ta cũng ở thành Vương Xá,
tại khu rừng Sita trong hang đá Sappasondika... Ta cũng ở thành
Vương Xá, tại Tapodàràma... Ta cũng ở thành Vương Xá, Trúc
Lâm, hồ Kalandaka... Ta cũng ở thành Vương Xá, tại rừng Jìvakambavana...
Ta cũng ở thành Vương Xá tại Maddakucchi ở Lộc Uyển.
43. Này Ananda, tại đấy
Ta nói: "Này Ananda, khả ái thay thành Vương Xá, khả ái
thay núi Linh Thứu, khả ái thay Nigrodhàràma, khả ái thay
Corapapàta, khả ái thay hang Sattapanni trên núi Vebhara, khả ái
thay hang đá Kàla trên núi Isigili, khả ái thay hang đá
Sappasondika trong rừng Sìta, khả ái thay suối nước nóng Tapodàràma,
khả ái thay hồ con sóc ở tại Trúc Lâm, khả ái thay rừng Jìvakambavana,
khả ái thay vườn Nai ở tại Maddakucchi"!
44. "Này Ananda,
những ai đã tu bốn thần túc, tu tập nhiều lần, thật lão
luyện, thật chắc chắn, thật bền vững, điêu luyện,
thiện xảo thời, nếu người ấy muốn, có thể sống đến
một kiếp, hay phần kiếp còn lại. Này Ananda, nay Như Lai đã
tu bốn thần túc, tu tập nhiều lần, thật lão luyện, thật
chắc chắn, thật bền vững, điêu luyện, thiện xảo. Này
Ananda, nếu muốn, Như Lai có thể sống đến một kiếp hay
phần kiếp còn lại". Dầu vậy, này Ananda, Ngươi không
thể nhận hiểu sự gợi ý quá rõ ràng, sự hiện tướng quá
rõ ràng của Thế Tôn. Ngươi không thỉnh cầu Thế Tôn:
"Bạch Thế Tôn, Thế Tôn hãy ở lại cho đến trọn
kiếp, Thiện Thệ hãy ở lại cho đến trọn kiếp, vì lợi
ích cho chúng sanh, vì hạnh phúc cho chúng sanh, vì lòng thương
tưởng cho đời, vì lợi ích, vì hạnh phúc, vì an lạc cho loài
Trời và loài Người". Này Ananda, nếu Ngươi cầu thỉnh
Như Lai, Như Lai có thể bác bỏ hai lần cầu thỉnh, nhưng đến
lần thứ ba, Như Lai có thể nhận lời. Này Ananda, như vậy là
lỗi của Ngươi, như vậy là khuyết điểm của Ngươi".
45. Này Ananda, một
thời Ta ở Vesàli tại điện thờ Udena.
Tại đấy, này Ananda,
Ta cũng nói. "Này Ananda, khả ái thay Vesàli, khả ái thay
điện thờ Udena. Này Ananda, những ai đã tu bốn thần túc, tu
tập nhiều lần, thật lão luyện, thật chắc chắn, thật
bền vững, điêu luyện, thiện xảo thời, nếu người ấy
muốn, có thể sống đến một kiếp hay phần kiếp còn lại.
Này Ananda, nay Như Lai đã tu bốn thần túc, tu tập nhiều
lần, thật lão luyện, thật chắc chắn, thật bền vững, điêu
luyện, thiện xảo thời, nếu muốn, Như Lai có thể sống đến
một kiếp hay phần kiếp còn lại". Dầu vậy, này Ananda,
Ngươi không thể nhận hiểu sự gợi ý quá rõ ràng, sự
hiện tướng quá rõ ràng của Như Lai, Ngươi không thỉnh
cầu Như Lai: "Bạch Thế Tôn, Thế Tôn hãy ở lại cho đến
trọn kiếp, Thiện Thệ hãy ở lại cho đến trọn kiếp, vì
lợi ích cho chúng sanh, vì hạnh phúc cho chúng sanh, vì lòng thương
tưởng cho đời, vì lợi ích, vì hạnh phúc, vì an lạc cho
lời Trời và loài Người". Này Ananda, nếu Ngươi cầu
thỉnh Như Lai, Như Lai có thể bác bỏ hai lần cầu thỉnh, nhưng
đến lần thứ ba, Như Lai có thể nhận lời. Này Ananda, như
vậy là lỗi của Ngươi, như vậy là khuyết điểm của Ngươi.
46. Này Ananda, một
thời Ta ở thành Vesàli tại điện thờ Gotamaka... ta cũng ở
thành Vesàli tại điện thờ Sattambaka... Ta cũng ở thành Vesàli
tại điện thờ Bahuputta... Ta cũng ở thành Vesàli tại điện
thờ Sàrandada...
47. Này Ananda, hôm nay
tại điện thờ Càpàla, Ta nói với ngươi: "Này Ananda,
khả ái thay Vesàli, khả ái thay điện thờ Udena, khả ái thay
điện thờ Gotamaka, khả ái thay điện thờ Sattamba, khả ái
thay điện thờ Buhuputta, khả ái thay điện thờ Sàrandada,
khả ái thay đền Càpàla. Này Ananda, những ai đã tu bốn
thần túc, tu tập nhiều lần, thật lão luyện, thật chắc
chắn, thật bền vững, điêu luyện, thiện xảo thời, nếu
muốn, người ấy có thể sống đến một kiếp hay phần
kiếp còn lại. Này Ananda, Như Lai đã tu bốn thần túc, tu
tập nhiều lần, thật lão luyện, thật chắc chắn, thật
bền vững, điêu luyện, thiện xảo. Này Ananda, nếu muốn, Như
Lai có thể sống đến một kiếp hay phần kiếp còn lại".
Dầu vậy, này Ananda, Ngươi không thể nhận hiểu sự gợi ý
quá rõ ràng, sự hiện tướng quá rõ ràng của Như Lai, Ngươi
không thỉnh cầu Thế Tôn: "Bạch Thế Tôn, Thế Tôn hãy
ở lại cho đến trọn kiếp, Thiện Thệ hãy ở lại cho đến
trọn kiếp, vì lợi ích cho chúng sanh, vì hạnh phúc cho chúng
sanh, vì lòng thương tưởng cho đời, vì lợi ích, vì hạnh
phúc, vì an lạc cho loài Trời và loài Người". Này Ananda,
nếu Ngươi cầu thỉnh Như Lai; Như Lai có thể bác bỏ hai
lần cầu thỉnh, nhưng đến lần thứ ba, Như Lai có thể
nhận lời. Này Ananda, như vậy là lỗi của Ngươi, như vậy
là khuyết điểm của Ngươi.
48. Này Ananda, phải chăng
ngay từ ban đầu Ta đã từng tuyên bố rằng mọi vật ưu ái,
thân hình đều phải bị thay đổi, trở về hư không, biến
dịch ? Này Ananda, làm sao có thể được như vầy: Những gì
sanh khởi, tồn tại, hữu vi, chịu sự biến hoại mà lại
mong khỏi có sự biến diệt ? Thật không có sự trạng ấy.
Này Ananda, những gì Như Lai đã từ bỏ, dứt khoát, xả ly,
phóng xả, khước từ, chính là thọ, hành. Như Lai đã nói và
nói một cách dứt khoát: "Không lâu, Như Lai sẽ diệt độ.
Sau ba tháng bắt đầu hôm nay, Như Lai sẽ diệt độ". Nói
rằng Như Lai vì muốn sống mà phản lại lời tuyên bố trên
thời thật không có sự trạng ấy.
Này Ananda, chúng ta hãy
đi đến giảng đường Kùtagàra tại rừng Đại Lâm.
- Xin vâng, bạch Thế
Tôn !
Tôn giả Ananda vâng
lời Thế Tôn.
49. Rồi Thế Tôn cùng
tôn giả Ananda đi đến giảng đường Kùtagàra vườn Đại Lâm,
khi đi đến, Thế Tôn nói với tôn giả Ananda:
- Này Ananda, hãy đi
mời tất cả Tỷ-kheo sống ở gần Vesàli tụ họp tại
giảng đường này.
- Xin vâng, bạch Thế
Tôn !
Tôn giả Ananda vâng
lời Thế Tôn, đi mời tất cả vị Tỷ-kheo sống ở gần Vesàli
tụ họp tại giảng đường, rồi đi đến chỗ Thế Tôn, đảnh
lễ Ngài và đứng một bên. Sau khi đứng một bên, tôn giả
Ananda bạch Thế Tôn :
- Bạch Thế Tôn, chúng
Tỷ-kheo đã tụ họp. Bạch Thế Tôn, Ngài hãy làm những gì
Ngài nghĩ là hợp thời.
50. Thế Tôn liền đi
đến giảng đường và ngồi trên chỗ đã soạn sẵn. Sau khi
ngồi, Thế Tôn nói với các vị Tỷ-kheo:
- Này các Tỷ-kheo, nay
những pháp do Ta chứng ngộ và giảng dạy cho các Ngươi, các
Ngươi phải khéo học hỏi, thực chứng tu tập và truyền
rộng để phạm hạnh được trường tồn, vĩnh cửu, vì
hạnh phúc cho chúng sanh, vì an lạc cho chúng sanh, vì lòng thương
tưởng cho đời, vì lợi ích, vì hạnh phúc, vì an lạc cho loài
Trời và loài Người. Này các Tỷ-kheo, thế nào là các pháp
do Ta chứng ngộ và giảng dạy, các Ngươi phải khéo học
hỏi, thực chứng, tu tập và truyền rộng để cho phạm
hạnh được trường tồn, vĩnh cửu, vì hạnh phúc cho chúng
sanh, vì an lạc cho chúng sanh, vì lòng thương tưởng cho đời,
vì lợi ích, vì hạnh phúc, vì an lạc cho loài Trời và loài
Người? Chính là Bốn Niệm xứ, Bốn Chánh cần, Bốn Thần túc,
Năm Căn, Năm Lực, Bảy Bồ-đề phần, Tám Thánh đạo phần.
Này các Tỷ-kheo, chính những pháp này do Ta chứng ngộ và
giảng dạy, mà các Ngươi phải khéo học hỏi, thực chứng,
tu tập và truyền rộng để phạm hạnh được trường tồn,
vĩnh cửu, vì hạnh phúc cho chúng sanh, vì lòng thương tưởng
của đời, vì lợi ích, vì hạnh phúc, vì an lạc cho loài
Trời và loài Người.
51. Rồi Thế Tôn nói
với các Tỷ-kheo:
- Này các Tỷ-kheo, đây
là lời Ta nhắn nhủ các Ngươi. Các hành là vô thường. Hãy
tinh tấn lên để tự giải thoát, không lâu Như Lai sẽ diệt
độ. Sau ba tháng bắt đầu từ hôm nay, Như Lai sẽ diệt độ.
Đó là lời Thế Tôn
dạy. Sau khi nói vậy, Thiện Thệ lại nói thêm:
- Ta đã già, dư mạng chẳng còn
bao,
- Từ biệt các Ngươi, Ta đi
một mình.
- Tự mình làm sở y cho chính mình,
- Hãy tinh tấn, chánh niệm, giữ
giới luật,
- Nhiếp thúc ý chí, bảo hộ
tự tâm.
- Ai tinh tấn trong pháp và luật
này
- Sẽ diệt sanh tử, chấm dứt
khổ đau.
IV
1. Rồi Thế Tôn, vào
buổi sáng đắp y, đem theo y bát, vào Vesàli để khất thực.
Sau khi khất thực ở Vesàli, ăn xong và trên đường khất
thực trở về, Thế Tôn nhìn Vesàli với cái nhìn của con voi
chúa rồi nói với tôn giả Ananda:
- Này Ananda, lần này
là lần cuối cùng, Như Lai nhìn Vesàli. Này Ananda, chúng ta hãy
đi đến làng Bhandagàma.
- Xin vâng, bạch Thế
Tôn !
Tôn giả Ananda vâng
lời Thế Tôn . Rồi Thế Tôn cùng với đại chúng Tỷ-kheo đi
đến Bhandagàma. Tại đây, Thế Tôn ở tại Bhandagàma.
2. Rồi Thế Tôn nói
với Tỷ-kheo:
- Này các Tỷ-kheo, chính
vì không giác ngộ, không chứng đạt bốn Pháp mà Ta và các
Ngươi lâu đời phải trôi lăn trong biển sanh tử. Thế nào là
bốn? Này các Tỷ-kheo, chính vì không giác ngộ không chứng
đạt Thánh Giới mà Ta và các Ngươi lâu đời phải trôi lăn
trong biển sanh tử. Này các Tỷ-kheo, chính vì không giác ngộ,
không chứng đạt Thánh Định mà Ta và các Ngươi lâu đời
phải trôi lăn trong biển sanh tử. Này các Tỷ-kheo, chính vì
không giác ngộ, không chứng đạt Thánh Tuệ mà Ta và các Ngươi
lâu đời phải trôi lăn trong biển sanh tử. Này các Tỷ-kheo,
chính vì không giác ngộ, không chứng đạt Thánh giải thoát
mà Ta và các Ngươi lâu đời phải trôi lăn trong biển sanh
tử. Này các Tỷ-kheo, khi Thánh Giới được giác ngộ, được
chứng đạt; khi Thánh Định được giác ngộ, được chứng
đạt; khi Thánh Tuệ được giác ngộ, được chứng đạt;
khi Thánh giải thoát được giác ngộ, được chứng đạt,
thời tham ái một đời sống tương lai được trừ diệt,
những gì đưa đến một đời sống mới được dứt sạch,
nay không còn một đời sống nào nữa.
3. Đó là lời Thế Tôn
dạy. Sau khi nói vậy, Thiện Thệ lại nói thêm:
- Giới, Định, Tuệ và Giải thoát
vô thượng
- Gotama danh xưng đã chứng ngộ.
- Đấng Giác Ngộ giảng pháp chúng
Tỷ-kheo.
- Đạo Sư diệt khổ, pháp nhãn,
tịnh lạc.
4. Trong thời gian Thế
Tôn ở tại Bhandagàma, pháp thoại này được giảng cho chúng
Tỷ-kheo:
- Đây là Giới, đây
là Định, đây là Tuệ, Định cùng tu với Giới sẽ đưa đến
quả vị lớn, lợi ích lớn. Tuệ cùng tu với Định sẽ đưa
đến quả vị lớn, lợi ích lớn. Tâm cùng tu với Tuệ sẽ
đưa đến giải thoát hoàn toàn các món lậu hoặc, tức là
dục lậu, hữu lậu (tri kiến lậu), vô minh lậu.
5. Rồi Thế Tôn, sau
khi ở Bhandagàma cho đến khi Ngài xem là vừa đủ, liền nói
với tôn giả Ananda:
- Này Ananda, chúng ta hãy
đi đến Hatthigam... Ambagama... Jambugama..., hãy đi đến
Bhoganagara.
6. - Xin vâng, bạch
Thế Tôn!
Tôn giả Ananda vâng đáp
Thế Tôn. Rồi Thế Tôn cùng với đại chúng Tỷ-kheo đi đến
Bhoganagara.
7. Tại đây, Thế Tôn
ở Bhoganagara tại đền Ananda, Ngài nói với các Tỷ-kheo:
- Này các Tỷ-kheo, Ta
sẽ giảng bốn Đại giáo pháp, hãy nghe và suy nghiệm kỹ, Ta
sẽ giảng.
- Xin vâng, bạch Thế
Tôn!
Các Tỷ-kheo ấy vâng
lời Thế Tôn, Thế Tôn giảng như sau:
8. - Này các Tỷ-kheo,
có thể có Tỷ-kheo nói: "Này Hiển giả, tôi tự thân
nghe từ miệng Thế Tôn, tự thân lãnh thọ, như vậy là Pháp,
như vậy là Luật, như vậy là lời dạy của vị Đạo Sư".
Này các Tỷ-kheo, các Ngươi không nên tán thán, không nên
hủy báng lời nói của Tỷ-kheo ấy. Không tán thán, không
hủy báng, mỗi mỗi chữ, mỗi mỗi câu, cần phải được
học hỏi kỹ lưỡng và đem so sánh với Kinh, đem đối
chiếu với Luật. Khi đem so sanh với Kinh, đối chiếu với
Luật, nếu chúng không phù hợp với Kinh, không tương ứng
với Luật thời các Ngươi có thể kết luận: "Chắc
chắn những lời này không phải là lời Thế Tôn, và
Tỷ-kheo ấy đã thọ giáo sai lầm. Và này các Tỷ kheo, các
Ngươi hãy từ bỏ chúng. Khi đem so sánh với Kinh, đem đối
chiếu với Luật và nếu chúng phù hợp với Kinh, tương ứng
với Luật, thời các Ngươi có thể kết luận: "Chắc
chắn những lời này phải là lời dạy của Thế Tôn và
Tỷ-kheo ấy đã thọ giáo chơn chánh". Này các Tỷ-kheo,
như vậy là Đại giáo pháp thứ nhất, các Ngươi hãy thọ trì.
9. Này các Tỷ-kheo,
nếu có Tỷ-kheo nói: "Tại trú xứ kia, có Tăng chúng ở
với các vị Thượng tọa, với các Thủ chúng. Tôi tự thân
nghe từ miệng Tăng chúng, tự thân lãnh thọ, như vậy là Pháp,
như vậy là Luật, như vậy là lời dạy của vị Đạo Sư".
Này các Tỷ-kheo, các Ngươi không nên tán thán, không nên
hủy báng lời nói của Tỷ-kheo ấy. Không tán thán, không
hủy báng, mỗi mỗi chữ, mỗi mỗi câu, phải được học
hỏi kỹ lưỡng và đem so sánh với Kinh, đem đối chiếu
với Luật, nếu chúng không phù hợp với Kinh, không tương
ứng với Luật thời các Ngươi có thể kết luận: "Chắc
chắn những lời này không phải là lời Thế Tôn, và
Tỷ-kheo ấy đã thọ giáo sai lầm". Và này các Tỷ-kheo,
các Ngươi hãy từ bỏ chúng. Khi đem so sánh với Kinh, đem đối
chiếu với Luật và nếu chúng phù hợp với Kinh, tương ứng
với luật, thời các ngươi có thể kết luận: "Chắc
chắn những lời này phải là lời dạy của Thế Tôn, và
Tỷ-kheo ấy đã thọ giáo chơn chánh". Này các Tỷ-kheo,
như vậy là Đại giáo pháp thứ hai, các Ngươi hãy thọ trì.
10. Này các Tỷ-kheo, có
thể có vị Tỷ-kheo nói: "Tại trú xứ kia có nhiều
Tỷ-kheo Thượng tọa ở, những vị này là bậc đa văn, gìn
giữ truyền thống, trì pháp, trì luật, trì pháp yếu. Tôi
tự thân nghe từ miệng những vị Thượng tọa ấy, tự thân
lãnh thọ, như vậy là Pháp, như vậy là Luật, như vậy là
lời dạy của vị Đạo Sư". Này các Tỷ-kheo, các Ngươi
không nên tán thán, không nên hủy báng lời nói của Tỷ-kheo
ấy. Không tán thán, không hủy báng, mỗi mỗi chữ, mỗi
mỗi câu, phải được học hỏi kỹ lưỡng và đem so sánh
với Kinh, đem đối chiếu với Luật. Khi đem so sánh với Kinh,
đối chiếu với Luật, và nếu không phù hợp với Kinh, không
tương ứng với Luật, và nếu chúng phù hợp với Kinh, tương
ứng với Luật, thời các Ngươi có thể kết luận: "Chắc
chắn những lời này không phải là lời Thế Tôn và Tỷ-kheo
ấy đã thọ giáo sai lầm". Và, này các Tỷ-kheo, các Ngươi
hãy từ bỏ chúng. Khi đem so sánh với Kinh, đem đối chiếu
với Luật, thời các Ngươi có thể kết luận: "Chắc
chắn những lời ấy phải là lời dạy của Thế Tôn và
Tỷ-kheo ấy đã thọ giáo chơn chánh". Này các Tỷ-kheo,
như vậy là Đại giáo pháp thứ ba, các Ngươi hãy thọ trì.
11. Này các Tỷ-kheo, có
thể có Tỷ-kheo nói: "Tại trú xứ kia, có một vị Thượng
tọa, vị này là bậc đa văn, gìn giữ truyền thống, trì pháp,
trì luật, trì pháp yếu. Tôi tự thân nghe từ Thượng tọa,
tự thân lãnh thọ; như vậy là Pháp, như vậy là Luật, như
vậy là lời dạy của vị Đạo Sư". Này các Tỷ-kheo, các
Ngươi không nên tán thán, không nên hủy báng lời nói của
Tỷ-kheo ấy. Không tán thán, không hủy báng, mỗi mỗi chữ,
mỗi mỗi câu, cần phải được học hỏi kỹ lưỡng và đem
so sánh với Kinh, đối chiếu với Luật. Khi đem so sánh với
Kinh, đối chiếu với Luật, và nếu chúng không phù hợp
với Kinh, không tương ứng với Luật, thời các ngươi có
thể kết luận: "Chắc chắn những lời này không phải là
lời của Thế Tôn, và Tỷ-kheo ấy đã thọ giáo sai lầm".
Và này các Tỷ-kheo, các Ngươi hãy từ bỏ chúng. Khi đem so sánh
với Kinh, đem đối chiếu với Luật, và nếu chúng phù hợp
với Kinh, tương ứng với Luật, thời các ngươi có thể
kết luận: "Chắc chắn những lời ấy phải là lời
dạy của Thế Tôn và Tỷ-kheo ấy đã thọ giáo chơn chánh".
Này các Tỷ-kheo, như vậy là Đại giáo pháp thứ tư, các Ngươi
hãy thọ trì.
Này các Tỷ-kheo, bốn
đại giáo pháp này, các Ngươi hãy thọ trì.
12. Trong khi Thế Tôn
ở tại Bhoganagara, pháp thoại này được giảng cho chúng
Tỷ-kheo:
- Đây là Giới, đây
là Định, đây là Tuệ, Định cùng tu với Giới sẽ đưa đến
quả vị lớn, lợi ích lớn.
Tuệ cùng tu với Định
sẽ đưa đến quả vị lớn, lợi ích lớn. Tâm cùng tu với
Tuệ sẽ đưa đến giải thoát hoàn toàn các món lậu hoặc,
tức là dục lậu, hữu lậu (tri kiến lậu), vô minh lậu.
13. Rồi Thế Tôn, sau
khi ở tại Bhoganagara cho đến khi Ngài xem là vừa đủ, liền
bảo tôn giả Ananda:
- Này Ananda, chúng ta
sẽ đi đến Pàvà.
- Xin vâng, bạch Thế
Tôn!
Tôn giả Ananda vâng
lời Thế Tôn. Và Thế Tôn cùng với đại chúng Tỷ-kheo đi
đến Pàvà, tại vườn xoài của Cunda, một người thợ sắt.
14. Thợ sắt Cunda nghe:
"Nay Thế Tôn đã đến Pàvà và hiện đang ở trong vườn
xoài của ta". Rồi thợ sắt Cunda đến tại chỗ Thế Tôn,
khi đến xong liền đảnh lễ Ngài và ngồi xuống một bên. Và
Thế Tôn thuyết pháp cho thợ sắt Cunda đang ngồi một bên,
khích lệ, làm cho phấn khởi, khiến tâm hoan hỷ.
15. Và thợ sắt Cunda,
sau khi được Thế Tôn thuyết pháp, khích lệ, làm cho phấn
khởi, khiến tâm hoa hỷ, liền bạch Thế Tôn: "Bạch
Thế Tôn, mong Thế Tôn nhận lời mời của con ngày mai đến
dùng cơm với chúng Tỷ-kheo". Thế Tôn im lặng nhận lời.
16. Thợ sắt Cunda, sau
khi biết Thế Tôn đã nhận lời, liền từ chỗ ngồi đứng
dậy, đảnh lễ Ngài, thân phía hữu hướng về Ngài và từ
biệt.
17. Và thợ sắt Cunda,
sau khi đêm đã mãn, liền cho sửa soạn tại nhà các món ăn
thượng thị, loại cứng và loại mềm và nhiều thứ Sùkara-maddave
(một loại mộc nhĩ), và báo tin cho Thế Tôn: "Bạch Thế
Tôn, giờ đã đến, cơm đã sẵn sàng".
18. Và Thế Tôn buổi
sáng đắp y, mang theo y bát, cùng với chúng Tỷ-kheo đến nhà
thợ sắt Cunda, khi đến xong liền ngồi trên chỗ đã soạn
sẵn. Sau khi ngồi. Thế Tôn nói với thợ sắt Cunda:
- Này Cunda, loại mộc
nhĩ đã soạn sẵn, hãy dọn cho ta. Còn các món ăn khác đã
soạn sẵn, loại cứng và loại mềm, hãy dọn cho chúng
Tỷ-kheo.
- Xin vâng, bạch Thế
Tôn!
Thợ sắt Cunda vâng
lời Thế Tôn, dọn cho Thế Tôn các món mộc nhĩ đã soạn
sẵn, và dọn cho chúng Tỷ-kheo các món ăn khác, loại cứng và
loại mềm.
19. Rồi Thế Tôn nói
với thợ sắt Cunda:
- Này Cunda, món ăn
mộc nhĩ còn lại. Ngươi hãy đem chôn vào một lỗ. Này Cunda,
Ta không thấy một ai ở cõi Trời, cõi Người, ở Ma giới,
ở Phạm thiên giới, không một người nào trong chúng Sa-môn
và chúng Bà-la-môn, giữa những Thiên, Nhân, ăn món mộc nhĩ
này mà có thể tiêu hóa được, trừ Như Lai.
- Xin vâng, bạch Thế
Tôn!
Thợ sắt Cunda vâng
theo Thế Tôn, đem chôn món ăn mộc nhĩ còn lại vào một lỗ,
đi đến chỗ Thế Tôn, đảnh lễ Ngài và ngồi xuống một bên.
Rồi Thế Tôn thuyết pháp cho thợ sắt Cunda đang ngồi xuống
một bên, khích lệ, làm cho phấn khởi, khiến tâm hoan hỷ
rồi từ chỗ ngồi đứng dậy và ra đi.
20. Sau khi dùng cơm
của thợ sắt Cunda, Thế Tôn bị nhiễm bệnh nặng, bệnh
lỵ huyết, đau đớn gần như đến chết, và Thế Tôn chánh
niệm tĩnh giác, nhẫn nại, chịu đựng cơn bệnh.
Rồi Thế Tôn nói
với tôn giả Ananda:
- Này Ananda, chúng ta hãy
đi đến Kusinàra.
- Xin vâng, bạch Thế
Tôn!
Tôn giả Ananda vâng
lời Thế Tôn.
Tôi nghe: Sau khi dùng cơm
tại nhà thợ sắt Cunda.
Cơn bệnh khốc liệt
bỗng khởi lên, gần như chết đến nơi.
Sau khi cùng món ăn
loại mộc nhĩ.
Kịch bệnh khởi lên
nơi bậc Đạo Sư.
Điều phục bệnh
hoạn, Thế Tôn dạy rằng:
"Ta đi đến thành
Kusinàra".
21. Rồi Thế Tôn bước
xuống đường, đến một gốc cây và nói với Tôn giả
Ananda:
- Này Ananda, hãy xếp
tư áo Sanghàti. Ta cảm thấy mệt mỏi và muốn ngồi nghỉ, này
Ananda.
- Xin vâng, bạch Thế
Tôn!
Tôn giả Ananda vâng
lời Thế Tôn và xếp tư áo Sanghàti lại.
22. Thế Tôn ngồi trên
chỗ đã soạn sẵn, và nói với Tôn giả Ananda:
- Này Ananda, hãy đem nước
cho Ta. Này Ananda, Ta nay đang khát và muốn uống nước.
Khi được nói vậy, tôn
giả Ananda bạch Thế Tôn:
- Bạch Thế Tôn, vừa
mới có khoảng năm trăm cỗ xe chạy qua. Do bánh xe khuấy lên,
nước trở thành nông cạn, khuấy động và vẩn đục. Bạch
Thế Tôn, sông Kakutthà không xa ở đây, nước thuần tịnh,
dễ chịu, mát mẻ, trong sáng, dễ đến và khả ái. Tại đó,
Thế Tôn có thể uống nước và làm dịu mát chân tay.
23. Lần thứ hai, Thế
Tôn nói với tôn giả Ananda:
- Này Ananda, hãy đem nước
uống cho Ta. Này Ananda, Ta nay đang khát và muốn uống nước.
Lần thứ hai tôn giả
Ananda bạch Thế Tôn:
- Bạch Thế Tôn, vừa
mới có khoảng năm trăm cỗ xe chạy qua. Do bánh xe khuấy lên,
nước trở thành nông cạn, khuấy động và vẩn đục. Bạch
Thế Tôn, sông Kakutthà không xa ở đây, nước thuần tịnh,
dễ chịu, mát mẻ, trong sáng, dễ đến và khả ái. Tại đó,
Thế Tôn có thể uống nước và làm dịu mát chân tay.
24. Lần thứ ba, Thế
Tôn nói với tôn giả Ananda:
- Này Ananda, hãy đem nước
uống cho Ta. Này Ananda, Ta nay đang khát và muốn uống nước.
- Xin vâng, bạch Thế
Tôn!
Tôn giả Ananda vâng
lời Thế Tôn, lấy bát và đi đến con sông nhỏ. Con sông đang
chảy nông cạn, khuấy động và vẩn đục, khi tôn giả
Ananda đến, liền trở thành trong trẻo, sáng lặng, không
vẩn đục.
25. Tôn giả Ananda tự
nghĩ: "Thật kỳ diệu thay, thật hy hữu thay thần túc và
uy lực của Như Lai. Con sông nhỏ đang chảy nông cạn, khuấy
động và vẩn đục này, khi ta đến, liền trở thành trong
trẻo, sáng lặng và không vẩn đục". Sau khi dùng bát
lấy nước, tôn giả Ananda đến chỗ Thế Tôn và bạch với
Ngài:
- Bạch Thế Tôn,
thật là kỳ diệu! Bạch Thế Tôn thật là hy hữu. Bạch
Thế Tôn, con sông nhỏ đang chảy nông cạn, khuấy động và
vẩn đục này, khi con đến, liền trở thành trong trẻo, sáng
lặng và không vẩn đục. Xin thỉnh Thế Tôn dùng nước. Xin
thỉnh Thiện Thệ dùng nước!
Và Thế Tôn uống nước.
26. Lúc bấy giờ,
Pukkusa, dòng họ Mallà, đệ tử của ngài Alàra Kàlàma đang
đi trên con đường từ Kusinàra đến Pàvà.
Pukkusa, dòng họ Mallà
thấy Thế Tôn ngồi dưới gốc cây, liền đến chỗ Thế Tôn,
đảnh lễ Ngài và ngồi xuống một bên. Sau khi ngồi xuống
một bên, Pukkusa, dòng họ Mallà, bạch Thế Tôn:
- Bạch Thế Tôn,
thật là kỳ diệu, bạch Thế Tôn thật là hy hữu, trạng thái
trầm tĩnh của một vị xuất gia!
27. Bạch Thế Tôn,
thuở xưa, ngài Alàra Kàlàma đang đi trên đường. Rồi ngài
bước xuống đường và ngồi xuống một gốc cây, không xa
con đường để nghỉ trưa. Bạch Thế Tôn, lúc ấy có
khoảng năm trăm cỗ xe đi ngang qua gần ngài Alàra Kàlàma.
Bạch Thế Tôn, có một người đi theo sau lưng đoàn xe ấy,
đễn chỗ ngài Alàra Kàlàma và nói với ngài: "Tôn giả
có thấy khoảng năm trăm cỗ xe vừa đi qua không?" -
"Này Hiền giả, ta không thấy". - "Tôn giả có
nghe tiếng không?" - "Này Hiền giả, ta không nghe
tiếng". - "Có phải Tôn giả đang ngủ không?" -
"Này Hiền giả, không phải ta đang ngủ". - "Vậy
có phải Tôn giả đang thức tỉnh?" - "Này Hiển giả,
ta đang thức tỉnh". - "Tôn giả đang thức tỉnh nhưng
không thấy khoảng năm trăm cỗ xe vừa đi ngang qua gần một
bên, cũng không nghe thấy tiếng. Bạch Tôn giả, cái áo của
Tôn giả cũng bị lấm bụi". - "Này Hiền giả, phải,
áo ta bị lấm bụi".
Bạch Thế Tôn, người
ấy liền tự nghĩ: "Thật là kỳ diệu, thật là hy hữu
sự trầm tĩnh của vị xuất gia. Trong khi giác tỉnh, còn
thức nhưng không thấy năm trăm cỗ xe vừa đi ngang qua gần
một bên, cũng không nghe tiếng". Sau khi tỏ sự thâm tín
đối với ngài Alàra Kàlàma, vị ấy từ biệt.
28. - Này Pukkusa, nhà
ngươi nghĩ thế nào? Cái gì khó làm hơn, cái gì khó thực
hiện hơn? Một người trong khi giác tỉnh, còn thức mà không
thấy năm trăm cỗ xe vừa đi ngang qua gần một bên, cũng không
nghe tiếng. Hay một người đang giác tỉnh, còn thức, trong
khi trời đang mưa, mưa tầm tả ào ào, trong khi điện quang
chớp lòa, sấm sét vang động, mà không thấy, cũng không nghe
tiếng?
29. - Bạch Thế Tôn, nói
gì đến năm trăm cỗ xe này, cho đến hoặc sáu trăm, hoặc
bảy trăm, hoặc tám trăm, hoặc chín trăm, hoặc một ngàn,
cho đến trăm ngàn cỗ xe, cũng không thể so sánh được.
Thật khó làm hơn, khó thực hiện hơn, một người đang giác
tỉnh, còn thức, trong khi trời đang mưa, mưa tầm tả ào ào,
trong khi điện quang chớp lòa, sấm sét vang động, mà không
thấy cũng không nghe tiếng.
30. - Này Pukkusa, một
thời, Ta ở Atumà, tại nhà đập lúa. Lúc bấy giờ trời mưa,
mưa tầm tả ào ào, điện quang chớp lòa, sấm sét vang động,
có hai anh em nông phu, và bốn con bò đực bị sét đánh chết.
Này Pukkusa, một số đông người từ Atumà đi ra đến tại
chỗ hai anh em nông phu và bốn con bò đực bị sét đánh
chết...
31. Này Pukkusa, lúc
bấy giờ Ta từ nhà đập lúa đi ra và đi qua đi lại ngoài
trời, trước cửa nhà đập lúa, Này Pukkusa, có một người
từ nơi đám đông ấy đi ra, đến chờ Ta, đảnh lễ và đứng
một bên. Và Ta nói với người ấy đang đứng một bên:
32: - "Này Hiền
giả, vì sao có số đông người tụ họp như vậy?" -
Bạch Thế Tôn vừa rồi trời đang mưa, mưa tầm tả ào ào,
điện quang chớp lòa, sấm sét vang động, có hai anh em nông
phu, và bốn con bò đực bị sét đánh chết. Do vậy mà có
số đông người ấy tụ họp tại đây. Bạch Thế Tôn, lúc
ấy Ngài ở tại chỗ nào?" - "Này Hiền giả, lúc
ấy Ta ở tại đây". "Bạch Thế Tôn, Ngài không
thấy gì cả sao?" - "Này Hiền giả, Ta không thấy gì".
- "Bạch Thế Tôn, Ngài không nghe tiếng gì cả sao?" -
"Này Hiền giả, Ta không nghe tiếng gì?" - "Bạch
Thế Tôn, có phải Ngài đang ngủ, phải không?" - "Này
Hiền giả, không phải ta đang ngủ". - "Bạch Thế Tôn,
có phải Ngài đang tỉnh thức phải không?" - "Này
Hiền giả, phải". - "Bạch Thế Tôn, Ngài đang tỉnh
thức, nhưng trong khi trời mưa, mưa tầm tả ào ào, điện
quang chớp lòa, sấm sét vang động, có hai anh em nông phu và
bốn con bò đực bị sét đánh chết, nhưng Ngài không thấy,
cũng không nghe gì". - Này Hiền giả, phải như vậy".
33. Này Pukkusa, người
ấy liền tự nghĩ: "Thật là kỳ diệu, thật là hy hữu
sự trầm lặng của vị xuất gia, khi thức tỉnh, dầu có mưa
tầm tả ào ào, điện quang chói lòa, sấm sét vang động, có
hai anh em nông phu và bốn con bò đực bị sét đánh chết mà
không thấy gì, không nghe gì hết". Sau khi nói lên lòng
tin tưởng ở nơi Ta, người ấy đảnh lễ Ta, thân phía hữu
hướng về phía Ta và từ biệt.
34. Khi được nói
vậy, Pukkusa, dòng họ Mallà bạch Thế Tôn:
- Bạch Thế Tôn, sự
tin tưởng của con đối với ngài Alàra, Kàlàma, nay con đem
rải rắc trước luồng gió lớn, nay con đem thả trôi vào dòng
nước cuốn. Kỳ diệu thay, bạch Thế Tôn! Hy hữu thay bạch
Thế Tôn! Bạch Thế Tôn, như người dựng đứng lại những
gì bị quăng xuống, phơi bày ra những gì bị che kín, chỉ
đường cho người bị lạc hướng, đem đèn sáng vào trong bóng
tối để những ai có mắt có thể thấy sắc. Cũng vậy, Chánh
pháp đã được Thế Tôn dùng nhiều phương tiện trình bày.
Bạch Thế Tôn, con xin quy y Thế Tôn, quy y Pháp và Tỷ-kheo Tăng.
Mong Thế Tôn nhận con làm đệ tử, từ nay trở đi cho đến
mạng chung, con trọn đời quy ngưỡng.
35. Rồi Pukkusa, dòng
họ Mallà nói với một người khác: "Này bạn, hãy đem
đến một cặp áo màu kim sắc, vàng chói và sẵn sàng để
mặc". - "Tôn giả, xin vâng". Người ấy vâng
lời Pukkusa, dòng họ Mallà và đem đến một cặp áo màu kim
sắc, vàng chói và sẵn sàng để mặc.
Rồi Pukkusa, dòng họ
Mallà đem dâng một cặp áo màu kim sắc, vàng chói và sẵn sàng
để mặc ấy cho Thế Tôn và nói:
- Bạch Thế Tôn, cặp
áo màu kim sắc, vàng chói và sẵn sàng để mặc. Mong Thế Tôn
vì thương xót con mà thâu nhận cho.
- Này Pukkusa, hãy đắp
cho Ta một áo và đắp cho Ananda một áo.
- Xin vâng, bạch Thế
Tôn!
Pukkusa, dòng họ Mallà
vân lời Thế Tôn, đắp một áo cho Ngài và đắp một áo cho
tôn giả Ananda.
36. Rồi Thế Tôn
thuyết pháp cho Pukkusa, người dòng họ Mallà, khích lệ, làm
cho phấn khởi, khiến tâm hoan hỷ. Và Pukkusa, người dòng
họ Mallà, sau khi được Thế Tôn thuyết pháp, khích lệ, làm
cho phấn khởi, khiến tâm hoan hỷ, liền từ chỗ ngồi đứng
dậy, đảnh lễ Thế Tôn, thân phía hữu hướng về Thế Tôn
và từ biệt.
37. Khi Pukkusa, dòng
họ Mallà đi chưa được bao lâu, tôn giả Ananda đem cặp áo
màu kim sắc, vàng chói và sẵn sàng để mặc này đặt trên
thân Thế Tôn, và khi cặp áo này được đặt trên thân Thế
Tôn, màu sắc sáng chói của áo như bị lu mờ đi. Và Tôn
giả Ananda bạch Thế Tôn:
- Bạch Thế Tôn,
thật là kỳ diệu, bạch Thế Tôn thật là hy hữu, sự thanh
tịnh và sáng chói màu da của Như Lai! Bạch Thế Tôn, khi con
đặt trên thân Thế Tôn, cặp áo màu kim sắc vàng chói và
sẵn sàng để mặc này, màu sắc sáng chói của áo như bị
lu mờ đi.
- Thật vậy, này
Ananda. Này Ananda, có hai trường hợp, màu da của Như Lai hết
sức thanh tịnh và sáng chói. Thế nào là hai? Này Ananda, trong
đêm Như Lai chứng vô thượng Chánh Đẳng Giác và trong đêm
Như Lai sắp diệt độ, nhập Niết-bàn giới, không còn dư y
sanh tử nữa. Này Ananda, đó là hai trường hợp, màu da của
Như Lai hết sức thanh tịnh và sáng chói.
38. Này Ananda, hôm nay
khi canh cuối cùng đã mãn, tại Upavattana ở Kusinàrà, trong
rừng Sàla của dòng họ Mallà, giữa hai cây sàla song thọ, Như
Lai sẽ diệt độ. Này Ananda, chúng ta hãy đi đến sông
Kakutthà.
- Xin vâng, bạch Thế
Tôn!
Tôn giả Ananda vâng
lời Thế Tôn:
Cặp áo kim sắc này.
Pukkusa mang đến.
Đắp áo kim sắc này,
Da Đạo Sư sáng chói.
39. Rồi Thế Tôn cùng
với đại chúng Tỷ-kheo đi đến con sông Kakutthà, xuống sông
tắm và uống nước rồi lội qua bờ bên kia, đi đến rừng
xoài và tại đây, nói với đại đức Cundaka:
- Này Cundaka, hãy xếp
áo Sanghàti làm bốn cho Ta. Này Cundaka, Ta nay mệt mỏi, muốn
nằm nghỉ.
- Xin vâng, bạch Thế
Tôn!
Đại đức Cundaka vâng
lời Thế Tôn và xếp áo Sanghàti làm bốn.
40. Rồi Thế Tôn nằm
xuống phía hông bên mặt như dáng điệu con sư tử, hai chân
để trên nhau, chánh niệm, tỉnh giác, suy tư, với ý niệm
ngồi dậy lại khi phải thời. Và đại đức Cundaka ngồi phía
trước Thế Tôn.
- 41. Đức Phật tự đi đến
- Con sông Kakutthà.
- Con sông chảy trong sáng.
- Mát lạnh và thanh tịnh.
- Vị Đạo Sư mỏi mệt
- Đi dần xuống mé sông.
- Như Lai đấng Vô Thương
- Ngự trị ở trên đời
- Tắm xong, uống nước xong,
- Lội qua bên kia sông.
- Bậc Đạo Sư đi trước,
- Giữa Tăng chúng Tỷ-kheo,
- Vừa đi vừa diễn giảng.
- Chánh pháp thật vi diệu.
- Rồi bậc Đại Sĩ đến,
- Tại khu vực rừng xoài.
- Cho gọi vị Tỷ-kheo,
- Tên họ Cundaka:
- "Hãy gấp tư áo lại,
- Trải áo cho ta nằm.
- Nghe dạy, Cundaka
- Lập tức vâng lời dạy,
- Gấp tư và trải áo,
- Một cách thật mau lẹ.
- Bậc Đạo Sư nằm xuống
- Thân mình thật mệt mỏi.
- Tại đây Cundaka,
- Ngồi ngay phía trước mặt.
- 42. Rồi Thế Tôn nói với Tôn
giả Ananda:
- - Này Ananda, rất có thể có người
làm cho thợ sắt Cunda hối hận: "Này Hiền giả
Cunda, thật không lợi ích gì cho Ngươi, thật là tai
hại cho Ngươi, vì Như Lai dùng bữa ăn cuối cùng từ Ngươi
cúng dường, và nhập diệt". Này Ananda, cần phải làm
tiêu tan sự hối hận ấy của thợ sắt Cunda: "Này
Hiền giả, thật là công đức cho bạn, vì được Như
Lai dùng bữa ăn cuối cùng từ bạn cúng dường, và
nhập diệt. Này Hiền giả Cunda, tôi tự thân nghe, tự
thân lãnh thọ lời nói này của Thế Tôn: "Có hai
sự cúng dường ăn uống đồng một quả báo, đồng
một dị thục quả, quả báo lớn hơn, lợi ích hơn các
sự cúng dường ăn uống khác? Thế nào là hai? Một là
bữa ăn trước khi Như Lai chứng vô thượng Chánh Đẳng
Chánh Giác, hai là bữa ăn trước khi Như Lai diệt độ
Niết-bàn giới, không còn di hưởng sanh tử. Hai bữa ăn
này đồng một quả báo, đồng một dị thực quả,
quả báo lớn hơn, lợi ích hơn các sự cúng dường ăn
uống khác. Nhờ hành động này, đại đức Cunda sẽ
được hưởng tuổi thọ; nhờ hành động này, đại đức
Cunda sẽ được hưởng sắc đẹp; nhờ hành động này,
đại đức Cunda sẽ được hưởng an lạc; nhờ hành động
này, đại đức Cunda sẽ được hưởng danh tiếng; nhờ
hành động này, đại đức Cunda sẽ đợưc hưởng cõi
trời, nhờ hành động này, đại đức Cunda sẽ được
hưởng uy quyền".
- Này Ananda, cần phải làm cho
thợ sắt Cunda tiêu tan hối hận.
- 43. Rồi Thế Tôn, sau khi hiểu
ý nghĩa này, liền thốt lời cảm khái như sau:
- Công đức người bố thí,
- Luôn luôn được tăng trưởng,
- Trừ được tâm hận thù.
- Không chất chứa, chế ngựa,
- Kẻ chí thiện từ bỏ.
- Mọi ác hạnh bất thiện,
- Diệt trừ tham, sân, si.
- Tâm giải thoát thanh tịnh.
V
1. Rồi Thế Tôn nói
với Tôn giả Ananda:
- Này Ananda, chúng ta hãy
đi qua bờ bên kia sông Hirannavati, đến ở Kusinàrà - Upavatama
- rừng Sàlà của dòng họ Màllà.
- Xin vâng, bạch Thế
Tôn!
Tôn giả Ananda vâng
lời Thế Tôn.
Rồi Thế Tôn, cùng
với đại chúng Tỷ-kheo đi đến bên kia sông Hirannavati, tại
Kusinàrà Upavattana, rừng Sàlà của dòng họ Mallà, khi đi đến
nơi liền nói với Tôn giả Ananda:
- Này Ananda, hãy trải
chỗ nằm, đầu hướng về phía Bắc giữa hai cây sàlà song
thọ: này Ananda, Ta nay mệt mỏi, muốn nằm nghỉ.
- Xin vâng, bạch Thế
Tôn!
Tôn giả Ananda vâng
lời Thế Tôn, trải chỗ nằm, đầu hướng về phía Bắc
giữa hai cây sàlà song thọ. Và Thế Tôn nằm xuống, về phía
hông bên phải, như dáng nằm con sư tử, hai chân để lên
nhau chánh niệm và giác tỉnh.
2. Lúc bấy giờ, cây
sàlà song thọ trổ hoa trái nmùa, tràn đầy cành lá. Những
đóa hoa này rơi lên, gieo khắp và tung vãi trên thân Như Lai
để cúng dường Ngài. Những thiên hoa Mandàrava từ trên hư
không rơi xuống, rơi lên, gieo khắp và tung vãi trên thân Như
Lai để cúng dường Ngài. Bột trời chiên đàn từ trên hư
không rơi xuống, rơi lên, gieo khắp và tung vãi trên thân Như
Lai để cúng dường Ngài, nhạc trời trên hư không trổi
dậy để cúng dường Như Lai. Thiên ca trên hư không vang lên
để cúng dường Như Lai.
3. Rồi Như Lai nói
với tôn giả Ananda:
-- Này Ananada, các cây
sàlà song thọ tự nhiên trổ hoa trái mùa tràn đầy cành lá,
những đóa hoa này rơi lên, gieo khắp và tung vãi trên thân Như
Lai để cúng dường. Những thiên hoa Mandàrava từ trên hư không
rơi xuống, rơi lên, gieo khắp và tung vãi trên thân Như Lai để
cúng dường. Bột trời chiên đàn từ trên hư không rơi
xuống, rơi lên, gieo khắp và tung vãi trên thân Như Lai để cúng
dường. Nhạc trời trên hư không trổi dậy để cúng dường
Như Lai. Thiên ca trên hư không vang lên để cúng dường Như
Lai.
Nhưng, này Ananda, như
vậy không phải kính trọng, tôn sùng, đảnh lễ, cúng dường
hay lễ kính Như Lai. Này Ananda, nếu có Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ni, cư
sĩ nam hay cư sĩ nữ nào thành tựu Chánh pháp và Tùy pháp,
sống chơn chánh trong Chánh pháp, hành trì đúng Chánh pháp,
thời người ấy kính trọng, tôn sùng, đảnh lễ, cúng dường
Như Lai với sự cúng dường tối thượng. Do vậy, này Ananda,
hãy thành tựu Chánh pháp và Tùy pháp, sống chơn chánh trong
Chánh pháp và hành trì đúng Chánh pháp. Này Ananda, các Người
phải học tập như vậy.
4. Lúc bấy giờ, tôn
giả Upavàna đứng trước mặt Thế Tôn và quạt Ngài. Thế Tôn
liền quở trách tôn giả Upavàna: "Này Tỷ-kheo, hãy đứng
một bên, chớ có đứng trước mặt Ta."
Tôn giả Ananda, liền
tự suy nghĩ: "Đại đức Upavàna này là thị giả sống
gần và hầu cận Thế Tônd dã lâu ngày. Nay Thế Tôn trong
giờ phút cuối cùng lại quở trách đại đức Upavàna: "Này
Tỷ-kheo, hãy đứng một bên, chớ có đứng trước mặt
Ta". Do nhơn gì, do duyên gì, Thế Tôn quở trách đại đức
Upavàna: "Này Tỷ-kheo, hãy đứng một bên, chớ có đứng
trước mặt ta"?.
5. Rồi tôn giả Ananda
bạch Thế Tôn:
-- Đại đức Upavàna
này là thị giả, sống gần và hầu cận Thế Tôn đã lâu ngày.
Nay Thế Tôn trong giờ phút cuối cùng lại quở trách đại đức
Upavàna: "Này Tỷ-kheo, hãy đứng một bên, chớ có đứng
trước mạt Ta." Do nhơn gì, do duyên gì, Thế Tôn quở trách
đại đức Upavàna: "Này Tỷ-kheo hãy đứng một bên,
chớ có đứng trước mặt Ta"?
-- Này Ananda, rất đông
các vị Thiên thần ở mười phương thế giới tụ hội để
chiêm ngưỡng Như Lai. Này Ananda, cho đến mười hai do tuần
xung quanh Kusinàrà, Upavattana, rừng Sàlà thuộc dòng họ Mallà,
không có một chỗ nào, nhỏ cho đến đầu một sợi tóc có
thể chích được mà không đầy những Thiên thần có uy lực
tụ họp. Này Ananda, các vị Thiên Thần đang than phiền:
"Chúng ta từ rất xa đến chiêm ngưỡng Như Lai. Thật
rất là hy hữu, các Như Lai, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác
xuất hiện ở đời, và tối hôm nay, trong canh cuối cùng, Như
Lai sẽ nhập diệt. Và nay Tỷ-kheo có oai lực này lại đứng
ngang trước Thế Tôn, khiến chúng ta không thể chiêm ngưỡng
Như Lai trong giờ phút cuối cùng". Này Ananda, các chư Thiên
than phiền như vậy.
6. -- Bạch Thế Tôn,
Thế Tôn đang nghĩ đến hạng chư Thiên nào?
- Này Ananda, có hạng
chư Thiên ở trên hư không nhưng có tâm tư thế tục, những
vị này khóc than, ới đầu bù tóc rối, khóc than với cánh
tay duỗi cao, khóc than thân bổ nhoài dưới đất, lăn lộn
qua lại: "Thế Tôn nhập diệt quá sớm, Thiện Thệ nhập
diệt quá sớm, Pháp nhãn biến mất ở trên đời quá sớm".
Này Ananda, có hạng
Thiên thần ở trên đất với tâm tư thế tục những vị này
khóc than với đầu bù tóc rối, khóc than với cánh tay duỗi
cao, khóc than thân nằm nhoài dưới đất, lăn lộn qua lại:
"Thế Tôn nhập
diệt quá sớm, Thiện Thệ nhập diệt quá sớm, Pháp nhãn
biến mất ở trên đời quá sớm".
Có chư Thiên đã
diệt trừ ái dục, những vị này bình thản, tỉnh giác
chịu đựng, với tâm suy tư: "Các hành là vô thường, làm
sao sự kiện có thể khác được?"
7. -- Bạch Thế Tôn,
thuở trước các Tỷ-kheo sau khi thọ an cư, từ các địa phương
đến chiêm ngưỡng Như Lai, chúng con được sự lợi ích
tiếp kiến, hầu cận những Tỷ-kheo tu hành điêu luyện.
Bạch Thế Tôn, sau khi Thế Tôn nhập diệt, chúng con sẽ không
được sự lợi ích tiếp kiến, hầu cận những Tỷ-kheo tu hành
điêu luyện.
8. - Này Ananda, có
bốn Thánh tích kẻ thiện tín cần phải chiêm ngưỡng và tôn
kính. Thế nào là bốn?
"Đây là chỗ Như
Lai đản sanh" . Này Ananda, đó là thánh tích, kẻ thiện tín
cần phải chiêm ngưỡng và tôn kính.
"Đây là chỗ Như
Lai chứng ngộ vô thượng Chánh Đẳng Giác", này Ananda,
đó là Thánh tích, kẻ thiện tín cần phải chiêm ngưỡng và
tôn kính.
"Đây là chỗ Như
Lai chuyển Pháp luân vô thượng", này Ananda, đó là Thánh
tích, kẻ thiện tín cần phải chiêm ngưỡng và tôn kính.
"Đây là chỗ Như
Lai diệt độ, nhập Vô dư y Niết-bàn", này Ananda, đó là
Thánh tích, kẻ thiện tín cần phải chiêm ngưỡng và tôn kính.
Này Ananda, đó là
bốn Thánh tích, kẻ thiện tín cư sĩ cần phải chiêm ngưỡng
và tôn kính. Này Ananda, các thiện tín Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ni, cư
sĩ nam, cư si nữ sẽ đến với niềm suy tư: "Đây là
chỗ Như Lai đản sanh", "Đây là chỗ Như Lai chứng
ngộ vô thượng Chánh Đẳng Chánh Giác", "Đây là
chỗ Như Lai chuyển Pháp luân vô thượng", "Đây là
chỗ Như Lai diệt độ, Nhập Vô dư y Niết-bàn".
Này Ananda, và những
ai, trong khi chiêm bái những Thánh tích mà từ trần với tâm
thâm tín hoan hỷ, thời những vị ấy, sau khi thân hoại
mạng chung sẽ được sanh cõi thiện thú, cảnh giới chư Thiên.
9. -- Bạch Thế Tôn,
chúng con phải cư xử với phái nữ như thế nào?
-- Này Ananda, chớ có
thấy chúng.
-- Bạch Thế Tôn,
nếu phải thấy chúng, thời phải như thế nào?
-- Này Ananda, chớ có
nói chuyện với chúng.
-- Bạch Thế Tôn,
nếu phải nói chuyện với chúng, thời phải như thế nào?
-- Này Ananda, phải an
trú chánh niệm.
10. -- Bạch Thế Tôn,
chúng con phải xử sự thân xá-lợi Như Lai như thế nào?
-- Này Ananda, các Ngươi
đừng có lo lắng vấn đề cung kính thân xá-lợi của Như
Lai. Này Ananda, các Người hãy nỗ lực, hãy tinh tấn hướng
về tự độ, sống không phóng dật, cần mẫn, chuyên hướng
về tự độ. Này Ananda, có những học giả Sát-đế-lỵ,
những học giả Bà-la-môn , những học giả gia chủ thâm tín
Như Lai, những vị này sẽ lo cho sự cung kính cúng dường thân
xá-lợi của Như Lai.
11. -- Bạch Thế Tôn,
cần phải xử sự thân Như Lai như thế nào?
-- Này Ananda, xử sự
thân Chuyển luân Thánh Vương như thế nào, hãy xử sự thân
xá-lợi Như Lai như vậy.
-- Bạch Thế Tôn, người
ta xử sự thân chuyển luân Thánh vương như thế nào?
-- Này Ananda, thân
của Chuyển luân Thánh vương được vấn tròn với vải mới.
Sau khi vấn vải mới xong, lại được vấn thêm với vải gai
bện. Sau khi vấn vải gai bệnh, lại vấn thêm với vải mới,
và tiếp tục như vậy cho đến năm trăm lớp cả hai loại
vải. Rồi thân được đặt vào trong một hòm dầu bằng
sắt, hòm sắt này được một hòm sắt khác đậy kín. Xong
một giàn hỏa gồm mọi loại hương được xây dựng lên, thân
của vị Chuyển luân Thánh vương được đem thiêu trên giàn
hỏa này và tại ngã tư đường, tháp của vị Chuyển luân
Thánh vương được xây dựng lên. Này Ananda, đó là pháp táng
thân vị Chuyển luân Thánh vương.
Này Ananda, pháp táng
thân vị Chuyển luân Thánh vương như thế nào, pháp táng thân
Thế Tôn cũng như vậy. Tháp của Như Lai phải được dựng lên
tại ngã tư đường. Và những ai đem tại chỗ ấy vòng hoa,
hương, hay hương bột nhiều màu, đảnh lễ tháp, hay khởi tâm
hoan hỷ (khi đứng trước mặt tháp), thời những người ấy
sẽ được lợi ích, hạnh phúc lâu dài.
12. Này Ananda, bốn
hạng người sau này đáng được xây tháp. Thế nào là bốn?
Như Lai, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác xứng đáng xây tháp.
Độc Giác Phật xứng đáng xây tháp. Đệ tử Thanh Văn của
Như Lai xứng đáng xây tháp. Chuyển luân Thánh vương xứng đáng
xây tháp.
Này Ananda, vì lý do gì,
Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri xứng đáng xây tháp? Này
Ananda, tâm của dân chúng sẽ hoan hỷ khi nghĩ đến: "Đây
là tháp của Thế Tôn, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri. " Do tâm
hoan hỷ như vậy, khi thân hoại mạng chung, chúng sẽ sanh lên
thiện thú, cảnh giới chư Thiên. Này Ananda, vì lý do này, Như
Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri xứng đáng xây tháp.
Này Ananda, vì lý do gì,
bậc Độc Giác Phật xứng đáng xây tháp? Này Ananda, tâm
của dân chúng sẽ hoan hỷ khi nghĩ đến: "Đây là tháp
của Thế Tôn Độc Giác Phật". " Do tâm hoan hỷ như
vậy, khi thân hoại mạng chung, chúng sẽ được sanh thiện thú,
cảnh giới chư Thiên. Này Ananda, vì lý do này, bậc Độc Giác
Phật xứng đáng xây tháp.
Này Ananda, vì lý do gì,
đệ tử Thanh Văn của Như Lai xứng đáng xây tháp? Này Ananda,
tâm của dân chúng sẽ hoan hỷ khi nghĩ đến: "Đây là tháp
đệ tử Thanh Văn của Thế Tôn, Ứng Cúng, Chánh Biến
Tri." Do tâm hoan hỷ như vậy, khi thân hoại mạng chung, chúng
sẽ được sanh thiện thú, cảnh giới chư Thiên. Này Ananda, vì
lý do này, đệ tử Thanh Văn của Như Lai xứng đáng xây tháp
.
Này Ananda, vì lý do gì,
Chuyển luân Thánh vương xứng đáng xây tháp? Này Ananda, tâm
của dân chúng sẽ hoan hỷ khi nghĩ đến : "Đây là tháp
của vị Pháp vương trị vì đúng pháp." Do tâm hoan hỷ
như vậy, khi thân hoại mạng chung, chúng sẽ được sanh
thiện thú, cảnh giới chư Thiên. Này Ananda, vì lý do này,
Chuyển luân Thánh vương xứng đáng xây tháp.
Này Ananda, đó là
bốn hạng người xứng đáng xây tháp.
13. Rồi tôn giả
Ananda đi vào trong tịnh xá, dựa trên cột cửa và đứng khóc:
"Ta nay vẫn còn là kẻ hữu học, còn phải tự lo tu
tập. Nay bậc Đạo Sư của ta sắp diệt độ, còn ai thương
tưởng ta nữa!"
Thế Tôn nói với các
Tỷ-kheo:
-- Này các Tỷ-kheo,
Ananda ở tại đâu?
-- Bạch Thế Tôn, tôn
giả Ananda đi vào trong tịnh xá, dựa trên cột cửa và đứng
khóc: "Ta nay vẫn còn là kẻ hữu học, còn phải tự lo
tu tập. Nay bậc Đạo Sư của ta sắp diệt độ, còn ai thương
tưởng ta nữa!"
Thế Tôn liền nói
với một Tỷ-kheo:
-- Này Tỷ-kheo, hãy đi
và nhân danh Ta, nói với Ananda: "Này Hiền giả Ananda,
bậc Đạo Sư mọi Hiền giả."
-- Xin vâng, bạch Thế
Tôn!
Vị Tỷ-kheo ấy vâng
lời Thế Tôn, đi đến chỗ tôn giả Ananda, sau khi đến,
liền nói với tôn giả: "Này Hiền giả Ananda, bậc Đạo
Sư cho gọi Hiền giả." - "Thưa vâng, Hiền giả.
" Tôn giả Ananda vâng lời vị Tỷ-kheo ấy, đi đến Thế
Tôn, đảnh lễ Ngài và ngồi xuống một bên.
14. Thế Tôn nói với
tôn giả Ananda đang ngồi một bên:
-- Thôi vừa rồi,
Ananda, chớ có buồn rầu, chớ có khóc than. Này Ananda, Ta đã
tuyên bố trước với Người rằng mọi vật ái luyến, tốt
đẹp đều phải sanh biệt, tử biệt và dị biệt. Này Ananda
làm sao được có sự kiện này: "Các pháp sanh, trú, hữu
vi, biến hoại đừng có bị tiêu diệt?" Không thể có
sự kiện như vậy được. Này Ananda, đã lâu ngày, Người đối
với Như Lai, với thân nghiệp đầy lòng từ ái, lợi ích, an
lạc, có một không hai, vô lượng với khẩu nghiệp đầy lòng
từ ái, lợi ích, an lạc, có một không hai, vô lượng với
ý nghiệp đầy lòng từ ái, lợi ích, an lạc, có một không
hai, vô lượng. Này Ananda, Người là người tác thành công đức.
Hãy cố gắng tinh tấn lên, Người sẽ chứng bậc Vô lậu,
không bao lâu đâu.
15. Rồi Thế Tôn nói
với các Tỷ-kheo:
-- Này các Tỷ-kheo,
những vị A-la-hán, Chánh Đẳng Giác trong thời quá khứ,
những bậc Thế Tôn này đều có những thị giả tối thắng
như Ananda của Ta. Này Tỷ-kheo, những vị A-la-hán, Chánh Đẳng
Giác thời vị lai, những bậc Thế Tôn này cũng sẽ có
những vị thị giả tối thắng như Ananda của Ta vậy.
Này các Tỷ-kheo,
Ananda là người có trí và hiểu rõ: "Nay đúng thời để
các Tỷ-kheo yết kiến Thế Tôn, nay đúng thời để các
Tỷ-kheo ni, nay đúng thời để các nam cư sĩ, nay đúng thời
để các nữ cư sĩ, nay đúng thời để các vua chúa, để các
đại thần, để các ngoại đạo sư, để các đệ tử các
ngoại đạo sư yết kiến Thế Tôn!"
16. Này các Tỷ-kheo,
Ananda có bốn đức tánh kỳ cựu, hy hữu. Thế nào là bốn?
Này các Tỷ-kheo, nếu
có chúng Tỷ-kheo đến yết kiến Ananda, chúng ấy sẽ được
hoan hỷ vì được yết kiến Ananda, và nếu Ananda thuyết pháp
chúng ấy sẽ được hoan hỷ vì bài thuyết pháp, và nếu
Ananda làm thinh thời, này các Tỷ-kheo, chúng Tỷ-kheo ấy sẽ
thất vọng.
Này các Tỷ-kheo, nếu
có Tỷ-kheo ni..., chúng nam cư sĩ... chúng nữ cư sĩ đến
yết kiến Ananda, chúng ấy sẽ được hoan hỷ, vì được
yết kiến Ananda, và nếu Ananda thuyết pháp, chúng ấy sẽ
được hoan hỷ vì bài thuyết pháp và nếu Ananda làm thinh
thời này các Tỷ-kheo, chúng nữ cư sĩ ấy sẽ thất vọng.
Này các Tỷ-kheo, vị
Chuyển luân Thánh vương có bốn đức tánh kỳ diệu, hy
hữu.
Này các Tỷ-kheo, nếu
có chúng Sát-đế-lỵ... chúng Bà-la-môn... chúng gia chủ... chúng
Sa-môn đến yết kiến vị Chuyển luân Thánh vương, chúng
sẽ được hoan hỷ vì được yết kiến vị Chuyển luân Thánh
vương và nếu vị Chuyển luân Thánh vương nói chuyện, chúng
ấy sẽ được hoan hỷ vì bài nói chuyện, và nếu vị
Chuyển luân Thánh vương làm thinh thời chúng Sa-môn ấy sẽ
thất vọng.
Cũng vậy, này các
Tỷ-kheo, Ananda có bốn đức tánh kỳ diệu, hy hữu. Nếu có
chúng Tỷ-kheo... chúng Tỷ-kheo ni... chúng nam cư sĩ... chúng
nữ cư sĩ đến yết kiến Ananda, chúng ấy sẽ được hoan
hỷ vì được yết kiến Ananda. và nếu Ananda thuyết pháp chúng
ấy sẽ được hoan hỷ vì bài thuyết pháp, và nếu Ananda làm
thinh, thời này các Tỷ-kheo chúng nữ cư sĩ ấy sẽ thất
vọng.
Này các Tỷ-kheo,
Ananda có bốn đức tánh kỳ diệu, hy hữu như vậy.
17. Khi được nói
vậy, tôn giả Ananda bạch Thế Tôn:
-- Bạch Thế Tôn,
Thế Tôn chớ có diệt độ tại đo thị nhỏ bé này, tại đô
thị hoang vu này, tại đô thị phụ thuộc này. Bạch Thế Tôn,
có những đô thị khác to lớn hơn như Campà (Chiêm-bà), Ràjagaha
(Vương Xá), Sàvatthi (Xá-vệ), Sàketa (Sa-kỳ), Kosambi (Kiều-thương-di),
Bàrànasi (Ba-la-nại). Thế Tôn hãy diệt độ tại chỗ ấy.
Tại chỗ ấy, có đại chúng Sát-đế-lỵ, có đại chúng Bà-la-môn,
có đại chúng gia chủ rất tin tưởng Như Lai, các vị này
sẽ cúng dường thân xá-lợi Như Lai.
-- Này Ananda, chớ có
nói như vậy, này Ananda, chớ có nói đô thị này nhỏ bé, đô
thị này hoang vu, đô thị này phụ thuộc.
18. Này Ananda, thuở xưa
có vị vua tên là Mahasudassana (Đại Thiên Kiến). Vị này là
Chuyển luân vương, trị vì như pháp, là vị pháp vương,
thống lãnh bốn thiên hạ, chinh phục hộ trì quốc dân, đầy
đủ bảy báu. Này Ananda, đô thị Kusinàrà này là kinh đô
của vua Mahasudassana, tên là Kusàvatì (Câu-xá-bà-đề), phía
Đông và phía Tây rộng đến mười hai do tuần, phía Bắc và
phía Nam rộng đến bảy do tuần.
Này Ananda, kinh đô Kusàvatì
này rất phôịn thịnh, phú cường, dân cư đông đúc, dân chúng
sung mãn, thực phẩm phong phú. Này Ananda, cũng như kinh đô
Alakamanda của chư thiên rất phồn thịnh, phú cường dân cư
đông đúc, Thiên chúng sung mãn, thực phẩm phong phú, cũng
vậy này Ananda, kinh đô Kusàvatì này cũng rất phồn thịnh,
phú cường, dân cư đông đúc, nhân chúng sung mãn.
Này Ananda, kinh đô Kusàvatì
này, ngày đêm vang dậy chín loại tiếng, tức là tiếng voi,
tiếng ngựa, tiếng xe, tiếng trống lớn, tiếng trống nhỏ,
tiếng tỳ bà, tiếng hát, tiếng xập xỏa, tiếng chuông và
tiếng thứ mười là lời kêu gọi: "Hãy uống đi, hãy ăn
đi".
19. Này Ananda, hãy đi
vào Kusinàrà và nói với dân Mallà Kusinàrà: "Này các Vàsetthà,
đêm nay, vào canh cuối cùng, Như Lai sẽ diệt độ".
- Này Vàsetthà, các Ngươi
hãy đến. Này Vàsetthà, các Ngươi hãy đến. Về sau chớ có
hối hận: "Như Lai đã diệt độ tại làng vườn chúng
ta mà chúng ta không được chiêm ngưỡng Như Lai".
- Thưa vâng, bạch
Thế Tôn!
Tôn giả Ananda vâng
lời Thế Tôn, đắp y, đem theo y bát và cùng một vị khác làm
bạn đồng hành đi vào Kusinàrà.
20. Lúc bấy giờ, dân
Mallà ở Kusinàrà đang tụ họp tại giảng đường vì một vài
cộng sự. Tôn giả Ananda đến tại giảng đường của dân
Mallà ở Kusinàrà. Sau khi đến, tôn giả liền nói vói dân
Mallà ở Kusinàrà:
- Này Vàsetthà, đêm
nay, vào canh cuối cùng Như Lai sẽ diệt độ, Này Vàsetthà, các
Ngươi hãy đến. Này Vàsetthà, các Ngươi hãy đến. Về sau
chớ có hối hận: "Như Lai đã diệt độ tại làng vườn
chúng ta mà chúng ta không được chiêm ngưỡng Như Lai".
21. Dân Mallà cùng
với con trai, con gái và vợ, khi nghe tôn giả Ananda nói như
vậy, liền dau đớn, sầu muộn, tâm tư khổ não. Kẻ thì khóc
than với đầu bù tóc rối, kẻ thì khóc than với cánh tay
duỗi cao, kẻ thì khóc than thân bổ nhoài dưới đất, lăn
lộn qua lại: "Thế Tôn nhập diệt quá sớm, Thiện Thệ
nhập diệt quá sớm, Pháp nhãn biến mất ở trên đời quá
sớm".
Và dân Mallà cùng
với con trai, con gái và vợ đau đớn, sầu muộn, tâm tư
khổ não, đi đến Upavattana, khu rừng Sàlà của dòng họ Mallà
và đến chỗ tôn giả Ananda.
22. Tôn giả Ananda tự
nghĩ: "Nếu ta để dân Mallà ở Kusinàrà đảnh lễ Thế
Tôn từng người một, thời đêm sẽ tàn trước khi Thế Tôn
được tất cả dân Mallà đảnh lễ. Vậy ta hãy để dân
Mallà ở Kusinàrà đảnh lễ theo từng gia tộc".
- Bạch Thế Tôn, gia
tộc Mallà này với vợ con, đồ chúng, bạn bè đến cúi đầu
đảnh lễ chân Thế Tôn.
Và tôn giả Ananda,
theo phương tiện này trong canh một, khiến dân Mallà ở Kusinàrà
đảnh lễ Thế Tôn.
23. Lúc bấy giờ, du sĩ
ngoại đạo Subhadda ở tại Kusinàrà. Du sĩ ngoại đạo
Subhadda được nghe: "Tối nay canh cuối cùng, Sa-môn Gotama
sẽ diệt độ".
Và du sĩ ngoại đạo
Subhadda suy nghĩ: "Ta nghe các du sĩ ngoại đạo niên cao
lạp lớn, sư trưởng và đệ tử nói rằng: "Như Lai,
Ứng Cúng, Chánh Biến Tri xuất hiện ra đời thật là hy
hữu. Và đêm nay, vào canh cuối cùng Sa-môn Gotama sẽ diệt độ".
Nay có nghi vấn này khởi lên trong tâm ta. Ta tin Sa-môn Gotama có
thể thuyết pháp và giải được nghi vấn cho ta".
24. Rồi du sĩ ngoại
đạo Subhadda đi đến Upavattana, khu rừng Sàla của dân Mallà,
đến tại chỗ tôn giả Ananda và thưa với tôn giả:
- Hiền giả Ananda, tôi
nghe các du sĩ ngoại đạo, niên cạo lạp lớn, sư trưởng và
đệ tử nói rằng: "Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri
xuất hiện ra đời thật là hy hữu, và đêm nay, vào canh
cuối cùng, Sa-môn Gotama sẽ diệt độ". Nay có nghi vấn này
khởi lên trong tâm tôi. Tôi tin Sa-môn Gotama có thể thuyết pháp
giải được nghi vấn cho tôi. Hiền giả Ananda, hãy cho phép tôi
được yết kiến Sa-môn Gotama.
Khi được nói vậy, tôn
giả Ananda nói với du sĩ ngoại đạo Subhadda :
- Thôi đi Hiền giả
Subhadda, chớ có phiền nhiễu Như Lai. Thế Tôn đang mệt.
Lần thứ hai, du sĩ
ngoại đạo Subhadda ... Lần thứ ba, du sĩ ngoại đạo Subhadda
nói với tôn giả Ananda :
- Hiền giả Ananda, tôi
nghe các du sĩ ngoại đạo, niên cạo lạp lớn, sư trưởng và
đệ tử nói rằng: "Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri
xuất hiện ra đời thật là hy hữu, và đêm nay, vào canh
cuối cùng, Sa-môn Gotama sẽ diệt độ". Nay có nghi vấn này
khởi lên trong tâm tôi. Tôi tin Sa-môn Gotama có thể thuyết pháp
giải được nghi vấn cho tôi. Hiền giả Ananda, hãy cho phép tôi
được yết kiến Sa-môn Gotama.
Lần thứ ba, tôn giả
Ananda nói với du sĩ ngoại đạo Subhadda:
- Thôi đi Hiền giả
Subhadda, chớ có phiền nhiễu Như Lai. Thế Tôn đang mệt.
25. Thế Tôn nghe được
câu chuyện của tôn giả Ananda với du sĩ ngoại đạo
Subhadda, Ngài liền nói với tôn giả Ananda:
- Thôi Ananda, chớ có
ngăn trở Subhadda, Ananda, hãy để cho Subhadda được phép yết
kiến Như Lai. Những gì Subhadda hỏi Ta là hỏi để hiểu
biết chớ không phải để phiền nhiễu Ta. Và những gì ta
trả lời các câu hỏi, Subhadda sẽ hiểu ý nghĩa một cách
mau lẹ.
Tôn giả Ananda liền nói
với du sĩ ngoại đạo Subhadda:
- Này Hiền giả
Subhadda, hãy vào. Thế Tôn đã cho phép Hiền giả.
26. Rồi du sĩ ngoại
đạo Subhadda đến chỗ Thế Tôn, nói lên những lời chúc
tụng hỏi thăm xã giao, rồi ngồi xuống một bên. Sau khi
ngồi một bên, du sĩ ngoại đạo Subhadda bạch Thế Tôn:
- Tôn giả Gotama, có
những Sa-môn, Bà-la-môn là những vị hội chủ, vị giáo trưởng,
vị sư trưởng giáo hội, có tiếng tốt, có danh vọng, khai
tổ giáo phái, được quần chúng tôn sùng, như các ngài Pàrana
Kassapa, Makkhali Gosàla, Ajita Kesakambalì, Pakadha Kaccàyana, Sanjaya
Belatthiputta, Nigantha Nàthaputta, tất cả những vị này có
phải là giác ngộ như các vị đã tự cho như vậy, hay tất
cả chưa giác ngộ, hay một số đã giác ngộ và một số chưa
giác ngộ?
- Thôi Subhadda, hãy để
vấn đề này yên một bên: "Tất cả những vị này có
phải là đã giác ngộ như các vị đã tự cho như vậy, hay
tất cả chưa giác ngộ, hay một số đã giác ngộ và một
số chưa giác ngộ". Này Subhadda, Ta sẽ thuyết pháp cho Ngươi.
Hãy nghe và suy nghiệm kỹ, Ta sẽ giảng.
- Thưa vâng, bạch
Thế Tôn !
Du sĩ ngoại đạo
Subhadda vâng lời Thế Tôn. Thế Tôn nói như sau:
27. - Này Subhadda, trong
pháp luật nào không có Bát Thánh đạo, thời ở đây không có
(đệ nhất) Sa-môn, ở đây cũng không có đệ nhị Sa-môn, cũng
không có đệ tam Sa-môn, cũng không có đệ tứ Sa-môn. Này
Subhadda trong pháp luật nào có Bát Thánh đạo thời ở đây có
(đệ nhứt) Sa-môn, cũng có đệ nhị Sa-môn, cũng có đệ tam
Sa-môn, ở đấy cũng có đệ tứ Sa-môn. Này Subhadda, chính
trong pháp luật này có Bát Thánh Đạo, thời này Subhadda, ở
đây có đệ nhất Sa-môn, ở đây cũng có đệ nhị Sa-môn, cũng
có đệ tam Sa-môn, cũng có đệ tứ Sa-môn. Những hệ thống
ngoại đạo khác đều không có những Sa-môn. Này Subhadda,
nếu những vị Tỷ-kheo này sống chơn chánh, thời đời này
không vắng những vị A-la-hán.
- Này Subhadda, năm hai mươi chín,
- Ta xuất gia hướng tìm chân
thiện đạo.
- Trải năm mươi năm với thêm
một năm
- Từ khi xuất gia, này Subhadda,
- Ta là du sĩ tu Trí, tu Đức.
Ngoài lãnh vực này,
không có Sa-môn (đệ nhứt) cũng không có Sa-môn đệ nhị, cũng
không có Sa-môn đệ tam, cũng không có Sa-môn đệ tứ. Những
hệ thống ngoại đạo khác đều không có những Sa-môn. Này
Subhadda, nếu những Tỷ-kheo sống chơn chánh, thì đời này không
vắng những vị A-la-hán.
28. Khi được nói
vậy, du sĩ ngoại đạo Subhadda bạch Thế Tôn:
- Thật hy hữu thay,
bạch Thế Tôn! Thật vi diệu thay, bạch Thế Tôn! Như người
dựng đứng lại những gì bị quăng ngã xuống, phơi bày ra
những gì bị che kín, chỉ đường cho người bị lạc hướng,
đem đèn sáng vào trong bóng tối để những ai có mắt có
thể thấy sắc. Cũng vậy, chánh pháp đã được Thế Tôn dùng
nhiều phương tiện trình bày, giải thích. Bạch Thế Tôn, con
xin quy y Thế Tôn, quy y Pháp và quy y Tỷ-kheo Tăng. Mong con được
xuất gia với Thế Tôn. Con xin thọ đại giới.
- Này Subhadda, ai trước
kia là ngoại đạo, nay muốn xuất gia muốn thọ đại giới
trong Pháp, Luật này phải sống bốn tháng biệt trú. Sau khi
sống bốn tháng biệt trú, các vị Tỷ-kheo nếu đồng ý sẽ
cho xuất gia, cho thọ đại giới để thành vị Tỷ-kheo. Nhưng
Ta nhận thấy cá tánh con người sai biệt nhau.
29. - Bạch Thế Tôn,
nếu những người xưa kia là ngoại đạo nay muốn xuất gia,
muốn thọ đại giới trong Pháp và Luật này phải sống bốn
tháng biệt trú. Sau khi sống bốn tháng biệt thú, các vị
Tỷ-kheo nếu đồng ý sẽ cho xuất gia, cho thọ đại giới,
thời con sẽ xin sống biệt trú bốn năm, sau khi sống biệt
trú bốn năm, nếu các vị Tỷ-kheo đồng ý, hãy cho con xuất
gia, cho con thọ đại giới để thành vị Tỷ-kheo.
Và Thế Tôn nói với
tôn giả Ananda:
- Này Ananada, hãy
xuất gia cho Subhadda.
- Xin vâng, bạch Thế
Tôn !
Tôn giả Ananda vâng
lời Thế Tôn.
30. Du sĩ ngoại đạo
Subhadda nói với tôn giả Ananda:
- Thật là lợi ích,
thưa Tôn giả Ananda, thật là thiện lợi, thưa Tôn giả
Ananda, được thọ lễ quán đảnh làm đệ tử trước mặt
bậc Đạo Sư !
Và du sĩ ngoại đạo
Subhadda được xuất gia được thọ đại giới với Thế Tôn.
Thọ đại giới không bao lâu, đại đức Subhadda ở một mình,
an tịnh, không phóng dật, tinh tấn, sống nhiệt tâm, cần
mẫn. Và không bao lâu, vị này chứng được mục đích tối
cao mà con cháu các lương gia đã xuất gia, từ bỏ gia đình,
sống không gia đình hướng đến. Đó là vô thượng phạm
hạnh ngay trong hiện tại, tự giác chứng và an trú. Sanh đã
tận, phạm hạnh đã thành, những gì nên làm đã làm, sau đời
này sẽ không có đời sống khác nữa.
Và đại đức Subhadda
trở thành một A-la-hán nữa.
Đại đức là vị đệ
tử cuối cùng được Thế Tôn thế độ.
VI
1. Lúc bấy giờ, Thế
Tôn nói với Tôn giả Ananda:
- Này Ananda, nếu trong
các Ngươi có người nghĩ rằng: "Lời nói của bậc Đạo
sư không còn nữa. Chúng ta không có Đạo sư (giáo
chủ)". Này Ananda, chớ có những tư tưởng như vậy. Này
Ananda, Pháp và Luật, Ta đã giảng dạy và trình bày, sau khi
Ta diệt độ, chính Pháp và Luật ấy sẽ là Đạo Sư của các
Ngươi.
2. Này Ananda, nay các
vị Tỷ-kheo xưng hô với nhau là Hiền giả. Sau khi Ta diệt độ,
chớ có xưng hô như vậy. Này Ananda, vị Tỷ-kheo niên lão hãy
gọi vị Tỷ-kheo niên thiếu, hoặc bằng tên, hoặc bằng
họ, hoặc bằng tiếng Hiền giả. Vị Tỷ-kheo niên thiếu, hãy
gọi vị Tỷ-kheo niên lão là Thượng tọa (Bhante) hay Đại đức.
3. Này Ananda, nếu chúng
Tăng muốn, sau khi Ta diệt độ có thể hủy bỏ những học
giới nhỏ nhặt chi tiết.
4. Này Ananda, sau khi Ta
diệt độ, hãy hành tội Phạm đàn (Brahmadanda) đối với
Tỷ-kheo Channa.
- Bạch Thế Tôn, thế
nào là Phạm Đàn?
- Này Ananda, Tỷ-kheo
Channa muốn nói gì thì nói. Chúng Tỷ-kheo sẽ không nói, sẽ
không giảng dạy, sẽ không giáo giới Tỷ-kheo Channa.
5. Rồi Thế Tôn nói
với các Tỷ-kheo:
- Này các Tỷ-kheo,
nếu có Tỷ-kheo nào nghi ngờ hay phân vân gì về đức Phật,
Pháp, chúng Tăng, đạo hay phương pháp, thời này các Tỷ-kheo
các Người hãy hỏi đi. Sau chớ có hối tiếc: "Bậc Đạo
Sư có mặt trước chúng ta mà chúng ta không tận mặt hỏi
Thế Tôn".
Khi được nói vậy, các
Tỷ-kheo ấy im lặng. Một lần thứ hai, Thế Tôn... . Một
lần thứ ba, Thế Tôn nói với các Tỷ-kheo:
- Này các Tỷ-kheo,
nếu có một Tỷ-kheo có nghi ngờ hay phân vân gì về đức
Phật, Pháp, chúng Tăng, đạo hay phương pháp, thời này các
Tỷ-kheo, các Ngừơ hãy hỏi đi. Sau chớ có hối tiếc:
"Bậc Đạo Sư có mặt trước chúng ta mà chúng ta không
tận mặt hỏi Thế Tôn".
Lần thứ ba, các
Tỷ-kheo ấy giữ im lặng.
Rồi Thế Tôn nói
với các Tỷ-kheo:
- Này các Tỷ-kheo,
nếu có vị nào vì lòng kính trọng bậc Đạo Sư mà không
hỏi, thời này các Tỷ-kheo, giữa bạn đồng tu, hãy hỏi
nhau.
Khi được nói vậy,
những vị Tỷ-kheo ấy giữ im lặng.
6. Rồi tôn giả Ananda
bạch Thế Tôn:
- Bạch Thế Tôn,
thật kỳ diệu thay, bạch Thế Tôn, thật hy hữu thay! Bạch
Thế Tôn, con tin rằng trong chúng Tỷ-kheo này, không có một
Tỷ-kheo nào có nghi ngờ hay phân vân gì đối với Phật, Pháp,
chúng Tăng, đạo hay phương pháp.
- Này Ananda, Ngươi có
tín nhiệm nên nói vậy. Nhưng ở đây, này Ananda, Như Lai
biết rằng trong chúng Tỷ-kheo này, không có một Tỷ-kheo nào
có nghi ngờ hay phân vân gì đối với Phật, Pháp, chúng Tăng,
đạo hay phưưong pháp. Này Ananda, trong năm trăm Tỷ-kheo này,
Tỷ-kheo thấp nhất đã chứng được quả Dự lưu, không còn
đọa lạc, chắc chắn hướng đến Chánh giác.
7. Và Thế Tôn nói
với các Tỷ-kheo:
- Này các Tỷ-kheo, nay
Ta khuyê dạy các Ngươi: "Các pháp hữu vi là vô thường,
hãy tinh tấn, chớ có phóng dật".
Đó là lời cuối cùng
Như Lai.
8. Rồi Thế Tôn nhập
định Sơ thiền. Xuất Sơ thiền, Ngài nhập Nhị thiền.
Xuất Nhị thiền Ngài nhập Tam thiền. Xuất Tam thiền, Ngài
nhập Tứ thiền, Xuất Tứ thiền, Ngài nhập định Không vô
biên xứ. Xuất Không vô biên xứ, Ngài nhập định Thức vô
biên xứ. Xuất Thức vô biên xứ, Ngài nhập định Vô sở
hữu xứ. Xuất Vô Sở hữu xứ, Ngài nhập định Phi tưởng
phi phi tưởng xứ. Xuất Phi tưởng phi phi tưởng xứ, Ngài
nhập Diệt thọ tưởng định.
Khi ấy tôn giả Ananda
nói với tôn giả Anuruddha :
- Thưa Tôn giả, Thế
Tôn đã diệt độ.
- Này Hiền giả
Ananda, Thế Tôn chưa diệt độ. Ngài mới nhập Diệt thọ tưởng
định.
9. Rồi xuất Diệt
thọ tưởng định. Ngài nhập Phi tưởng phi phi tưởng xứ định.
Xuất Phi tưởng phi phi tưởng xứ, Ngài nhập Vô sở hữu
xứ định. Xuất Vô sở hữu xứ, Ngài nhập Thức vô biên
xứ định. Xuất thức Vô biên xứ, Ngài nhập Hư không vô biên
xứ định. Xuất Hư không vô biên xứ, Ngài nhập định Tứ
thiền. Xuất Tứ thiền, Ngài nhập định Tam thiền. Xuất Tam
thiền, Ngài nhập định Nhị thiền. Xuất Nhị thiền, Ngài
nhập định Sơ thiền. Xuất Sơ thiền, Ngài nhập định Nhị
thiền. Xuất Nhị thiền, Ngài nhập định Tam thiền. Xuất
Tam thiền, Ngài nhập định Tứ thiền. Xuất Tứ thiền, Ngài
lập tức diệt độ.
10. Khi Thế Tôn diệt
độ, cùng với sự diệt độ, đại địa chấn động khủng
khiếp, râu tóc dựng ngược, sấm trời vang động.
Khi Thế Tôn diệt độ,
Phạm thiên Sahampati, cùng lúc Ngài diệt độ, thốt lên bài
kệ này.
- Chúng sanh ở trên đời,
- Từ bỏ thân ngũ uẩn
- Bậc đạo sư cũng vậy,
- Đấng Tuyệt luân trên đời.
- Bậc Đại hùng Giác ngộ
- Như Lai đã diệt độ.
Khi Thế Tôn diệt độ,
Thiên chủ Sakka, cùng lúc Ngài diệt độ, thốt lên bài kệ này:
- Các hành là vô thường,
- Có sanh phải có diệt
- Đã sanh, chúng phải diệt,
- Nhiếp chúng là an lạc.
Khi Thế Tôn diệt độ,
tôn giả Anuruddha, cùng lúc Ngài diệt độ, thốt lên bài kệ
này:
- Không phải thở ra vào
- Chính tâm trú chánh định
- Không tham ái tịch tịnh
- Tu sĩ hướng diệt độ
- Chính tâm tịnh bất động
- Nhẫn chịu mọi cảm thọ
- Như đèn sáng bị tắt
- Tâm giải thoát hoàn toàn.
Khi Thế Tôn diệt độ,
tôn giả Ananda, cùng lúc Ngài diệt độ, thốt lên bài kệ này:
- Thật kinh khủng bàng hoàng,
- Thật râu tóc dựng ngược,
- Khi Bậc Toàn thiện năng,
- Bậc Giác ngộ nhập diệt.
Khi Thế Tôn diệt độ,
những Tỷ-kheo chưa giải thoát tham ái, có vị thì khóc than
với cánh tay duỗi cao, có vị thì khóc than, thân nằm nhoài dưới
đất, lăn lộn qua lại: "Thế Tôn nhập diệt quá sớm,
Thiện Thệt nhập diệt quá sớm, Pháp nhãn biến mất ở trên
đời quá sớm". Còn những Tỷ-kheo đã diệt trừ tham ái,
những vị này an trú chánh niệm tỉnh giác, nhẫn nại, suy tư:
"Các hành là vô thường, làm sao tránh khỏi sự kiện
ấy?"
- Bạch Tôn giả, ý định
của chư Thiên thế nào, ý định của chúng con cũng vậy.
16. Lúc ấy, khắp cả
Kusinàrà cho đến đống bụi, đống rác, được rải la
liệt lên đến đầu gối toàn hoa Mandaràva. Rồi chư Thiên và
các dân Mallà ở Kusinàrà, sau khi đã tôn trọng, cung kính, đảnh
lễ, cúng dường thân xá lợi Thế Tôn với các điệu múa, hát,
nhạc, tràng hoa, hương của chư Thiên và loài Người, liền
khiêng thân xá lợi Thế Tôn về phía Bắc của Thành. Sau khi
khiêng qua cửa phía Bắc, liền khiêng qua Trung tâm của thành,
rồi hướng về phía Đông, khiêng đến phía Đông của thành.
Sau khi khiêng qua cửa phía Đông, liền khiêng đến phía Đông
của thành, tại đền của dân Mallà tên là Makuta-bandhana và
đặt thân xá lợi của Thế Tôn tại chỗ ấy.
17. Rồi dân Mallà
bạch tôn giả Ananda:
- Bạch Tôn giả
Ananda, chúng con nay phải xử sự như thế nào đối với thân
xá lợi Như Lai?
- Này các Vàsetthà,
xử sự thân Chuyển luân Thánh vương như thế nào, hãy xử
sự thân xá lợi Như Lai như vậy.
- Bạch Tôn giả
Ananda, xử sự thân Chuyển luân Thánh vương phải như thế nào?
- Này cá Vàsetthà, thân
Chuyển luân Thánh vương được vấn tròn với vải mới. Sau
khi vấn vải mới, lại được vấn thêm với vải gai bện.
Sau khi vấn với vải gai bện, lại vấn thêm với vải mới và
tiếp tục như vậy cho đến năm trăm lớp cả hai loại vải.
Rồi thân được đặt trong một hòm dầu bằng sắt, hòm
sắt này được một hòm sắt khác đậy kín. Xong một giàn
hỏa gồm mọi loại hương được xây dựng lên, thân vị
Chuyển luân Thánh vương được đem thiêu trên giàn hỏa này,
và tại ng tư đường, tháp vị Chuyển luân Thánh vương này
được xây dựng lên. Này các Vàsetthà, đó là pháp táng thân
của vị Chuyển luân Thánh vương.
Này các Vàsetthà, pháp
táng thân của vị Chuyểb luân Thánh vương như thế nào, pháp
táng thân của Thế Tôn cũng như vậy. Tháp của Như Lai phải
được dựng lên tại ngã tư đường. Và những ai đem đến
tại chỗ ấy vòng hoa, hương, hay hương bột nhiềumàu, đảnh
lễ tháp hay khởi tâm hoan hỷ (khi đứng trước mặt tháp) ,
thời những người ấy sẽ được lợi ích, hạnh phúc lâu dài.
18. Và các người Mallà
ở Kusinàrà sai những người làm công:
- Hãy đem lại tất
cả vải gai bện của Mallà .
Rồi những người
Mallà ở Kusinàrà vấn tròn thân Thế Tôn với vải mới. Sau
khi vấn vải mới xong, lại vấn thêm với vải gai bện. Sau
khi vấn với vải gai bện lại vấn thêm với vải mới và
tiếp tục như vậy cho đến năm trăm lớp cả hai loại vải.
Rồi đặt thân Như Lai vào trong một hòm dầu bằng sắt, đậy
hòm sắt này vào một hòm sắt khác, dựng lên một giàn hỏa
gồm mọi loại hương và đặt thân Thế Tôn trên giàn hỏa.
19. Lúc bấy giờ, Tôn
giả Mallà Kassapa đang đi giữa đường từ Pàvà đến Kusinàrà
với đại chúng Tỷ-kheo khoảng năm trăm vị. Rồi Tôn giả
Mallà Kassapa bước xuống đường và đến ngồi tại một
gốc cây.
Lúc bấy giờ có một
tà mạng ngoại đạo lấy một hoa Mandàrava ở Kusinàrà và đang
đi trên một con đường đến Pàvà.
Tôn giả Mallà Kassapa
thấy tà mạng ngoại đạo đi từ đàng xa đến. Thấy vạya,
tôn giả liền hỏi tà mạng ngoại đạo ấy:
- Này Hiền giả,
Hiền giả có biết bậc Đạo sư chúng tôi không?
- Này Hiền giả, tôi
có biết. Sa-môn Gotama đã diệt độ cách hôm nay một tuần.
Từ chỗ ấy, tôi được hoa Mandàrava này.
Lúc ấy những
Tỷ-kheo chưa giải thoát tham ái, có vị thì khóc than với cánh
tay duỗi cao, có vị thì khóc than, thân nằm nhoài dưới đất,
lăn lộn qua lại: "Thế Tôn nhập diệt quá sớm, Thiện
Thệ nhập diệt quá sớm, Pháp nhãn biến mất ở trên đời
quá sớm". Còn những Tỷ-kheo đã diệt trừ tham ái,
những vị bnày an trú chánh niệm, tỉnh giác nhẫn nại suy tư:
"Các hành là vô thường, làm sao tránh khỏi sự kiện
ấy?"
20. Lúc bấy giờ,
Subhadda được xuất gia khi đã lớn tuổi đang ngồi trong
hội chúng này. Subhadda được xuất gia khi đã lớn tuổi nói
với những Tỷ-kheo ấy:
- Thôi các Hiền giả,
chớ có sầu não, chớ có khóc than. Chúng ta đã được thoát
khỏi hoàn toàn vị Đại Sa-môn ấy, chúng ta đã bị phiền
nhiễu quấy rầy với những lời: "Làm như thế này không
hợp với các Ngươi. Làm như thế này hợp với các Ngươi".
Nay những gì chúng ta muốn, chúng ta làm, những gì chúng ta không
muốn, chúng ta không làm.
Tôn giả Mahà Kassapa
mới nói với các vị Tỷ-kheo:
- Thôi các Hiền giả,
chớ có sầu não, chớ có khóc than. Này các Hiền giả, phải
chăng Thế Tôn đã tuyên bố ngay từ ban đầu rằng mọi vật
ưu ái thân tình đều phải bị sanh biệt, tử biệt và dị
biệt. Này các Hiền giả, làm sao có thể được như vầy:
Những gì sanh, tồn tại, hữu vi, chịu sự biến hoại mà
lại mong khỏi có sự biến dịch? Thật không có sự trạng
ấy.
21, Lúc bấy giờ bốn
vị tộc trưởng Mallà gội đầu, mặc áo mới với ý định
châm lửa thiêu giàn hỏa Thế Tôn nhưng châm lửa không cháy.
Các vị Mallà ở Kusinàrà
bạch tôn giả Anuruddha:
- Bạch Tôn giả, do nhân
gì, do duyên gì, bốn vị tộc trưởng Mallà này gội đầu,
mặc áo mới với ý định châm lửa thiêu giàn hỏa Thế Tôn,
nhưng châm lửa không cháy?
- Này các Vàsetthà, ý
định của chư Thiên khác.
- Bạch Tôn giả, ý định
của chư Thiên như thế nào?
- Này các vàsetthà, ý
định của chư Thiên như sau: "Tôn giả Mahà Kassapa nay đang
đi giữa đường giữa Pàvà và Kusinàrà cùng với đại chúng
Tỷ-kheo khoảng năm trăm vị. Giàn hỏa Thế Tôn chỉ được
đốt cháy khi tôn giả Mahà Kassapa cúi đầu đảnh lễ Thế Tôn".
- Bạch Tôn giả, ý định
chư Thiên như thế nào, hãy làm y như vậy.
22. Rồi Tôn giả Mahà
Kassapa đến tại đền Makuta Bandhana của những vị Mallà
tại giàn hỏa Thế Tôn, khi đến xong liền choàng áo phía
một bên vai, chấp tay, đi nhiễu phía tay phải xung quanh giàn
hỏa ba lần, cởi mở chân ra và cúi đầu đảnh lễ chân
Thế Tôn.
Năm trăm vị Tỷ-kheo
ấy choàng áo phía một bên vai, chấp tay, đi nhiễu qua phía
tay phải xung quanh giàn hỏa ba lần và cúi đầu đảnh lễ chân
Thế Tôn.
Và khi tôn giả Mahà
Kassapa và năm trăm vị Tỷ-kheo đảnh lễ xong, thời giàn
hỏa Thế Tôn tự bắt lửa cháy.
23. Khi thân Thế Tôn
đã cháy, từ da ngoài cho đến da mỏng, thịt, dây gân hay nước
giữa các khớp xương, thảy đều cháy sạch không có tro, không
có than, chỉ có xương xá lợi còn lại.
Như sanh tô hay dầu
bị cháy, tất cả đều cháy sạch không có tro, không có
than, cũng vậy khi thân Thế Tôn cháy, từ da ngoài cho đến da
mỏng, thịt, dây gân hay nước giữa khớp xương, tất cả đều
cháy sạch không có tro, không có than, chỉ có xương xá lợi
còn lại. Và năm trăm tầng lớp vải gai bện, cả hai lớp
trong nhất và lớp ngoài nhất đều bị cháy thiêu.
Khi thân Thế Tôn bị
thiêu cháy xong, một dòng nước từ hư không chảy xuống tưới
tắt giàn hỏa Thế Tôn, và một dòng nước từ kho nước
(hay từ cây sàlà) phun lên tưới tắt giàn hỏa Thế Tôn, và
các người Mallà ở Kusinàrà dùng nước với mọi loại hương
tưới tắt giàn hỏa Thế Tôn.
Rồi các người Mallà
xứ Kusinàrà đặt xá lợi Thế Tôn trong giảng đường, dùng
cây thương làm hàng rào, dùng cây cung làm bức thành xung
quanh và trong bảy ngày tôn trng, cung kính, đảnh lễ, cúng dường
với các điệu múa, hát, nhạc, vòng hoa, hương.
24. Vua nước Magadha tên
là Ajàtasattu Vedehiputta nghe tin Thế Tôn đã diệt độ ở
Kusinàrà. Vua liền gởi một sứ giả đến các người Mallà
ở Kusinàrà "Thế Tôn là người Sát-đế-lỵ, ta cũng là
người Sát-đế-lỵ. Ta cũng xứng đáng được một phần xá
lợi Thế Tôn, ta cũng dựng tháp và tổ chức nghi lễ đối
với xá lợi Thế Tôn".
Những người Licchavì
ở Vesàli nghe tin Thế Tôn đã diệt độ ở Kusinàrà liền
gởi một sứ giả đến các người Mallà ở Kusinàrà:
"Thế Tôn là người Sát-đế-lỵ, chúng tôi cũng là người
Sát-đế-lỵ. Chúng tôi cũng xứng đáng được phần xá lợi
Thế Tôn. Chúng tôi cũng dựng tháp và tổ chức nghi lễ đối
với xá-lợi Thế Tôn".
Các người Sakyà ở
Kapilavatthu nghe tin Thế Tôn đã diệt độ ở Kusinàrà, liền
gởi một sứ giả đến các người Mallà ở Kusinàrà:
"Thế Tôn là người Sát-đế-lỵ, chúng tôi cũng là người
Sát-đế-lỵ. Chúng tôi cũng xứng đáng được một phần xá
lợi Thế Tôn. Chúng tôi cũng sẽ dựng tháp và tổ chức các
nghi lễ với xá-lợi Thế Tôn".
Những người Buli ở
Allakappa nghe tin Thế Tôn đã diệt độ ở Kusinàrà, liền
gởi một sứ giả đến các người Mallà ở Kusinàrà:
"Thế Tôn là người Sát-đế-lỵ, chúng tôi cũng là người
Sát-đế-lỵ. Chúng tôi cũng xứng đáng được một phần xá-lợi
Thế Tôn. Chúng tôi cũng sẽ dựng tháp và tổ chức các nghi
lễ đốis với xá lợi Thế Tôn".
Những người Koli ở
Rãmagãma nghe tin Thế Tôn đã diệt độ ở Kusinàrà , liền
gởi một sứ giả đến các người Mallà ở Kusinàrà:
"Thế Tôn là người Sát-đế-lỵ, chúng tôi cũng là người
Sát-đế-lỵ. Chúng tôi cũng xứng đáng được một phần xá
lợi Thế Tôn. Chúng tôi cũng sẽ dựng tháp và tổ chức các
nghi lễ đối với xá lợi Thế Tôn."
Bà-la-môn Vethadìpaka
nghe tin Thế Tôn đã diệt độ ở Kusinàrà, liền gởi một
sứ giả đến các người Mallà ở Kusinàrà: "Thế Tôn là
người Sát-đế-lỵ, tôi là người Bà-la-môn. Tôi cũng xứng
đáng được một phần xá lợi Thế Tôn. Tôi cũng sẽ dựng
tháp và tổ chức các nghi lễ đối với xá-lợi Thế Tôn".
Các người Mallà ở Pàvà
nghe tin Thế Tôn đã diệt độ liền gửi một sứ giả đến
các người Mallà ở Kusinàrà: "Thế Tôn là người Sát-đế-lỵ,
chúng tôi cũng là người Sát-đế-lỵ. Chúng tôi cũng xứng
đáng được một phần xá-lợi Thế Tôn. Chúng tôi cũng sẽ
dựng tháp và tổ chức các nghi lễ đối với xá-lợi Thế Tôn".
25. Khi được nói vây
các người Mallà ở Kusinàrà liền tuyên bố giữa đại chúng:
- Thế Tôn đã diệt
độ tại làng vườn của chúng tôi, chúng tôi sẽ không cho
phần xá lợi nào của Thế Tôn.
Khi nghe vậy. Bà-la-môn
Dona nói với chúng:
- Tôn giả, hãy nghe lời tôi nói!
- Phật dạy chúng ta phải kham
nhẫn.
- Thật không tốt nếu có tranh
giành.
- Khi chia xá lợi bậc Thượng nhân.
- Chúng ta hãy đoàn kết nhất tâm,
- Hoan hỷ chia xá lợi tám phần.
- Chúng ta hãy dựng tháp mọi phương,
- Đại chúng mười phương tin Pháp
nhãn...
- Này Tôn giả Bà-la-môn,
Ngài hãy phân chia xá lợi ra tám phần đồng đều.
- Xin vâng, các Tôn
giả.
Bà-la-môn Dona vâng
lời hội chúng ấy, phân chia xá-lợi Thế Tôn thành tám
phần đồng đều rồi thưa hội chúng:
- Các Tôn giả, hãy
cho tôi cái bình dùng để đông chia xá-lợi này. Tôi sẽ
dựng tháp và tổ chức các nghi lễ cho cái bình.
Và hội chúng ấy
tặng Bà-la-môn Dona cái bình.
26. Và người Moriyà
ở Pipphalivana nghe tin Thế Tôn đã diệt độ liền gởi một
sứ giả đến các người Mallà ở Kusinàrà: "Thế Tôn là
người Sát-đế-lỵ, chúng tôi cũng là người Sát-đế-lỵ.
Chúng tôi cũng xứng đáng được hưởng một phần xá lợi
Thế Tôn. Chúng tôi cũng sẽ dựng tháp và tổ chức các nghi
lễ đối với xá-lợi Thế Tôn". - "Nay không còn
phần xá-lợi Thế Tôn nào. Xá-lợi Thế Tôn đã được phân
chia, hãy lấy tro còn lại". Rồi các vị nầy lấy than
tro còn lại.
27. Và vua nước
Magadha tên là Ajàtasattu, con bà Videhi xây dựng tháp trên xá-lợi
Thế Tôn tại Vương Xá và tổ chức lễ cúng dường.
Những người Licchavi
ở Vesàli cũng xây dựng tháp trên xá-lợi Thế Tôn tại Vesàli
và tổ chức lễ cúng dường.
Những người Sakya ở
Kapilavatthu cũng xây dựng trên xá-lợi Thế Tôn tại
Kapilavatthu và tổ chức lễ cúng dường.
Những người Buli ở
Allakappa cũng xây dựng tháp trên xá lợi Thế Tôn tại
Allakappa và tổ chức lễ cúng dường.
Những người Koli ở
Ràmagama cũng xây dựng tháp trên xá-lợi Thế Tôn tại Ràmagama
và tổ chức lễ cúng dường.
Bà-la-môn Vethadìpaka cũng
xây dựng tháp trên xá-lợi Thế Tôn tại Vethadìpa và tổ
chức lễ cúng dường.
Những người Mallà
ở Pàvà cũng xây dựng tháp trên xá-lợi Thế Tôn tại Pàvà
và tổ chức lễ cúng dường.
Những người Màllà
ở Kusinàrà cũng xây dựng tháp trên xá-lợi Thế Tôn tại
Kusinàrà và tổ chức lễ cúng dường.
Bà-la-môn Dona cũng xây
dựng tháp trên bình (dùng để đong chia xá-lợi) và tổ
chức lễ cúng dường.
Những người Moriyà
ở Pipphalivana cũng xây dựng tháp trên những than tro và tổ
chức lễ cúng dường.
Như vậy có tám tháp
xá-lợi, tháp thứ chín trên bình (dùng để đong chia xá-lợi)
và tháp thứ mười trên tro (xá-lợi).
Đó là truyền thống thời xưa
như vậy.
28. Đấng Pháp Nhãn Vô Thượng
Xá-lợi phân tám phần.
Bảy phần được cúng dường.
Tại Jambudìpa.
Một phần Long vương cúng.
Tại Ràmagàma.
Một răng Phật được cúng,
Tại cõi Tam Thiên giới,
Một tại Gandhàra,
Một tại Kalinga.
Một răng, vua Long vương.
Tự mình riêng cúng dường.
Quả đất được chói sáng,
Với hào quang xá-lợi,
Với lễ vật cúng dường.
Hạng thượng phẩm, thượng đẳng.
Xá-lợi đấng Pháp Nhãn.
Như vậy được cúng dường,
Bởi những bậc tôn trọng
Cúng kính lễ cúng dường,
Bởi những bậc tôn trọng
Cúng kính lễ cúng dường.
Bởi Thiên, Long, Nhơn chủ,
Bởi bậc Tối thượng nhơn.
Các người hãy chắp tay,
Cung kính lễ cúng dường.
Khó thay sự chiêm ngưỡng.
Tôn nhan bậc Như Lai.
Trải nhiều nhiều trăm kiếp,
May lắm được một phần.
--- o0o ---
| Mục lục - Kinh Trường Bộ |
|
1| 2 | 3 |
4 | 5 |
6 & 7 | 8 | 9
| 10 | 11 | 12
| 13 | 14
| 15
| 16 |
17 | 18 |
| 19 | 20 | 21
| 22 | 23 | 24
| 25 | 26 | 27
| 28 | 29
| 30 | 31 | 32
| 33 | 34 |
--- o0o ---
| Thư Mục Tác Giả |
Tổ chức đánh máy:
Hứa Dân Cường
Chân thành cảm ơn Cư sĩ Bình Anson đã gởi tặng phiên bản điện tử bộ
Kinh này.
Nguồn: www.quangduc.com
Về danh mục