Phần
21
Chương
X : Tương Ưng Tỷ Kheo
I.
Kolita (Tạp, Đại 2, 132a) (S.ii,273)
1) Như
vầy tôi nghe.
Một
thời Thế Tôn ở Sàvatthi, Jetavana, tại vườn ông Anàthapindika.
2) Tại
đấy, Tôn giả Mahà Moggallàna gọi các Tỷ-kheo:
- Này các
Hiền giả Tỷ-kheo.
- Thưa vâng,
Hiền giả.
Các
Tỷ-kheo ấy vâng đáp Tôn giả Mahà Moggallàna.
3) Tôn
giả Mahà Moggallàna nói:
- Ở đây,
này Hiền giả, trong khi tôi độc trú tĩnh cư, tâm tưởng tư
duy như sau được khởi lên: "Thánh im lặng được gọi là
Thánh im lặng. Thế nào là Thánh im lặng?"
4) Rồi
này các Hiền giả, tôi suy nghĩ như sau: "Ở đây,
Tỷ-kheo diệt tầm và tứ, chứng và trú Thiền thứ hai, một
trạng thái hỷ lạc do định sanh, không tầm, không tứ, nội
tĩnh nhất tâm". Như vậy gọi là Thánh im lặng.
5) Rồi
này các Hiền giả, tôi diệt tầm và tứ, chứng và trú
Thiền thứ hai, một trạng thái hỷ lạc do định sanh, không
tầm, không tứ, nội tĩnh nhất tâm. Này các Hiền giả, khi tôi
an trú với sự an trú như vậy, các tưởng câu hữu với
tầm, các tác ý hiện khởi và hiện hành.
6) Rồi
này các Hiền giả, Thế Tôn bằng thần thông đến với tôi
và nói: "Moggallàna, Moggallàna, chớ có phóng dật. Này Bà-la-môn,
đối với Thánh im lặng, hãy an trú tâm vào Thánh im lặng, hãy
chú nhất tâm vào Thánh im lặng, hãy chú định tâm vào Thánh
im lặng".
7) Rồi
này các Hiền giả, sau một thời gian, tôi diệt tầm và tứ,
chứng và trú vào Thiền thứ hai, một trạng thái hỷ lạc do
định sanh, không tầm không tứ, nội tĩnh nhứt tâm. Này các
Hiền giả, nếu ai nói một cách chơn chánh, sẽ nói như sau:
"Được bậc Đạo Sư hỗ trợ, vị đệ tử chứng đạt
đại thắng trí". Người ấy nói một cách chơn chánh,
sẽ nói về tôi: "Được bậc Đạo Sư hỗ trợ, vị đệ
tử chứng đạt đại thắng trí".
II.
Upatissa... (S.ii,274)
1) Nhơn
duyên ở Sàvatthi.
2) Tại
đấy, Tôn giả Sàriputta gọi các Tỷ-kheo:
- Này các
Hiền giả Tỷ-kheo.
- Thưa vâng,
Hiền giả.
Các vị
Tỷ-kheo ấy vâng đáp Tôn giả Sàriputta.
3) Tôn
giả Sàriputta nói:
- Ở đây,
này các Hiền giả, trong khi tôi độc trú tĩnh cư, tâm tưởng
tư duy như sau được khởi lên: "Có cái gì trong đời,
khi bị biến hoại, trạng huống đổi khác, có thể khởi lên
nơi ta sầu, bi, khổ, ưu, não?".
Rồi này
các Hiền giả, tôi suy nghĩ: "Không có cái gì trong đời,
khi bị biến hoại, trạng huống đổi khác, có thể khởi lên
nơi ta, sầu bi khổ ưu não".
4) Khi
được nói vậy, Tôn giả Ananda nói với Tôn giả Sàriputta:
- Bậc
Đạo Sư, này Hiền giả Sàriputta, khi bị biến hoại, trạng
huống đổi khác, có thể khởi lên nơi Hiền giả sầu, bi,
khổ, ưu, não.
5) Bậc
Đạo Sư, này Hiền giả Ananda, khi bị biến hoại, trạng thái
đổi khác, không có thể khởi lên nơi ta sầu bi khổ ưu não.
Nhưng ta có thể suy nghĩ: "Mong rằng bậc Đại Thế Lực,
bậc Đạo Sư có đại thần thông, có đại uy lực chớ có
biến diệt! Nếu bậc Thế Tôn ấy an trú lâu dài, thời như
vậy thật là hạnh phúc cho quần sanh, thật là an lạc cho
quần sanh, vì lòng từ mẫn cho đời, vì lợi ích, vì hạnh
phúc, vì an lạc cho chư Thiên và loài Người".
6) Như
vậy đối với Tôn giả Sàriputta, ngã kiến, ngã sở kiến,
ngã mạn, tùy miên được khéo đoạn trừ đã lâu ngày.
7) Do
vậy, đối với Tôn giả Sàriputta, dầu cho bậc Đạo Sư có
biến hoại, trạng huống có đổi khác, cũng không khởi lên
sầu, bi, khổ, ưu, não.
III. Cái
Ghè (Tạp 18-14 Tịch Diệt, Đại 2, 132c) (S.ii,275)
1) Như
vầy tôi nghe.
Một
thời Thế Tôn ở Sàvatthi (Xá-vệ), Jetavana (Kỳ-đà Lâm),
tại vườn ông Anàthapindika (Cấp Cô Độc).
2) Lúc
bấy giờ, Tôn giả Sariputta và Tôn giả Mahà Moggallàna cùng
ở Ràjagaha (Vương Xá), Veluvana (Trúc Lâm) tại chỗ nuôi dưỡng
các con sóc, chung một tịnh xá.
3) Rồi
Tôn giả Sàriputta, từ chỗ độc cư Thiền tịnh đứng dậy,
đi đến Tôn giả Mahà Moggallàna; sau khi đến, nói lên với Tôn
giả Mahà Moggallàna những lời chào đón hỏi thăm; sau khi nói
lên những lời chào đón hỏi thăm thân hữu bèn ngồi xuống
một bên.
4) Ngồi
xuống một bên, Tôn giả Sàriputta nói với Tôn giả Mahà
Moggallàna:
- Này
Hiền giả Moggallàna, các căn của Hiền giả thật là tịch
tịnh; sắc mặt thật là thanh tịnh, trong sáng. Có phải hôm
nay Tôn giả Mahà Moggallàna an trú với sự an trú tịnh lạc?
- Thưa
Hiền giả, hôm nay tôi an trú với sự an trú thô thiển. Tôi
có được một cuộc pháp thoại.
5) Với
ai, Tôn giả Mahà Moggallàna có được một cuộc đàm luận
về Chánh pháp?
- Thưa
Hiền giả, tôi có một cuộc pháp thoại với Thế Tôn.
6) Ở
xa, thưa Hiền giả, là Thế Tôn. Hiện nay Thế Tôn ở Sàvatthi,
Jetavana, tại vườn ông Anàthapindika. Có phải Tôn giả Mahà
Moggallàna đi đến Thế Tôn bằng thần thông hay Thế Tôn đi
đến Tôn giả Mahà Moggallàna bằng thần thông?
7) Thưa
Hiền giả, tôi không đi đến Thế Tôn bằng thần thông. Và
Thế Tôn cũng không đi đến tôi bằng thần thông. Tôi như
thế nào thời Thế Tôn được thiên nhãn thanh tịnh, cả thiên
nhĩ nữa như vậy! Thế Tôn như thế nào thời tôi được thiên
nhãn thanh tịnh, cả thiên nhĩ nữa như vậy.
8) Như
thế nào là cuộc pháp thoại giữa Tôn giả Mahà Moggallàna
với Thế Tôn?
9) Ở
đây, thưa Hiền giả, tôi bạch với Thế Tôn:
"-
Bạch Thế Tôn ở đây tinh cần, tinh tấn, được gọi là
tinh cần, tinh tấn. Như thế nào bạch Thế Tôn là tinh cần,
tinh tấn?".
10) Khi
được nói vậy, thưa Hiền giả, Thế Tôn nói với tôi:
"-
Ở đây, này Moggallàna, Tỷ-kheo sống tinh cần, tinh tấn:
‘Dầu cho da, dây gân và xương có khô héo, dầu thịt và máu
có héo tàn trên thân tôi, cái gì có thể lấy sức lực của
người, tinh tấn của người, nỗ lực của người có thể
đạt được; nếu chưa đạt được, thời tinh tấn sẽ không
bao giờ dừng nghỉ’. Như vậy, này Moggallàna, là sự tinh
cần, tinh tấn".
11) Như
vậy, này Hiền giả, là cuộc pháp thoại giữa Thế Tôn và tôi.
12) Ví
như, này Hiền giả, một đống hòn sạn nhỏ đem đặt dài
theo Hy-mã-lạp sơn, vua các loài núi. Cũng vậy, là chúng tôi
được đem đặt dài theo Tôn giả Mahà Moggallàna. Mong rằng Tôn
giả Mahà Moggallàna, bậc đại thần thông, đại uy lực,
nếu muốn hãy sống cho đến một kiếp.
13) Ví
như, này Hiền giả, một nắm muối nhỏ được đem đặt dài
theo một ghè muối lớn. Cũng vậy, là chúng tôi được đem
đặt dài theo Tôn giả Sàriputta.
14) Tôn
giả Sàriputta được Thế Tôn dùng nhiều phương tiện xưng tán,
tán thán, tán dương:
Như vị Xá-lợi-phất,
Về trí tuệ,
giới luật,
Và cả về
tịch tịnh,
Ông là bậc đệ
nhất.
Tỷ-kheo đạt
bỉ ngạn,
Cũng là bậc
tối thượng.
15) Như
vậy, hai bậc Long Tượng ấy (Nàgà) cùng nhau hoan hỷ, tán thán
trong câu chuyện khéo nói, khéo thuyết.
IV. Tân
Tỷ Kheo (Đại 2, 277c, 376a) (S.ii,277)
1) Trú
ở Sàvatthi.
2) Lúc
bấy giờ, một tân Tỷ-kheo sau buổi ăn, trên con đường
khất thực trở về, đi vào tịnh xá, rảnh rỗi, yên lặng,
phân vân (không biết làm gì), không phụ việc với các
Tỷ-kheo trong thời gian may y.
3) Rồi
nhiều Tỷ-kheo đi đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ
Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên.
4) Ngồi
xuống một bên, các Tỷ-kheo ấy bạch Thế Tôn:
- Ở đây,
bạch Thế Tôn, có một tân Tỷ-kheo sau buổi ăn, trên con đường
khất thực trở về, đi vào tịnh xá, rảnh rỗi, im lặng, phân
vân (không biết làm gì) không phụ việc với các Tỷ-kheo
trong thời gian may y.
5) Rồi
Thế Tôn gọi một Tỷ-kheo:
- Hãy đến,
này Tỷ-kheo, nhân danh Ta, hãy gọi Tỷ-kheo ấy và nói: "Này
Hiền giả, bậc Đạo Sư cho gọi Hiền giả".
6) Thưa
vâng, bạch Thế Tôn.
Tỷ-kheo
ấy vâng đáp Thế Tôn, đi đến Tỷ-kheo kia; sau khi đến nói
với Tỷ-kheo ấy:
- Thưa
Hiền giả, bậc Đạo Sư cho gọi Hiền giả.
7) Thưa
vâng, này Hiền giả.
Tỷ-kheo
ấy vâng đáp Tỷ-kheo kia, đi đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh
lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên.
8) Thế
Tôn nói với Tỷ-kheo đang ngồi xuống một bên:
- Có
thật chăng, này Tỷ-kheo, sau bữa ăn, trên con đường đi
khất thực trở về, sau khi vào tịnh xá, Ông rảnh rỗi, im
lặng, phân vân (không biết làm gì), không phụ việc với các
Tỷ-kheo trong thời gian may y?
- Bạch
Thế Tôn, con làm việc của con.
9) Rồi
Thế Tôn, với tâm của mình biết tâm Tỷ-kheo ấy, liền
gọi các Tỷ-kheo:
- Này các
Tỷ-kheo, các Ông chớ có bực phiền với Tỷ-kheo này. Này các
Tỷ-kheo, Tỷ-kheo này chứng được không có khó khăn, chứng
được không có mệt nhọc, chứng được không phiền phức
bốn Thiền thuộc tăng thượng tâm, hiện tại lạc trú. Vị
ấy còn tự mình ngay trong hiện tại, chứng tri, chứng ngộ,
chứng đạt và an trú vô thượng cứu cánh Phạm hạnh mà vì
mục đích này, con các lương gia chơn chánh xuất gia, từ bỏ
gia đình, sống không gia đình.
10) Thế
Tôn thuyết như vậy. Bậc Thiện Thệ sau khi nói xong, bậc Đạo
Sư lại nói thêm:
Kẻ sống buông
thả này,
Kẻ ít nghị
lực này,
Không thể đạt
Niết-bàn,
Giải thoát
mọi khổ đau.
Vị Tỷ-kheo
trẻ này,
Là một người
tối thượng,
Chiến thắng
ma quân xong,
Thọ trì thân
tối hậu.
V.
Thiện Sanh (Tạp, Đại 2, 276a, 374a) (S.ii,278)
1) Trú
ở Sàvatthi.
2) Rồi
Tôn giả Sujàta đi đến Thế Tôn.
3) Thế
Tôn thấy Tôn giả Sujàta từ đằng xa đi đến; thấy vậy,
liền gọi các Tỷ-kheo:
4) Cả
hai phương diện, này các Tỷ-kheo, thiện nam tử này thật
sự chói sáng. Vị ấy đẹp trai, ưa nhìn, khả ái, đầy đủ
với nhan sắc tối thượng. Vị ấy còn ngay trong hiện tại
tự mình chứng tri, chứng ngộ, chứng đạt và an trú vô thượng
cứu cánh Phạm hạnh, mà vì mục đích này, con các lương gia
chơn chánh xuất gia từ bỏ gia đình, sống không gia đình.
5) Thế
Tôn nói như vậy xong... Bậc Đạo Sư, lại nói thêm:
Tỷ-kheo này sáng
chói,
Với tâm tư chánh
trực,
Ly kiết sử,
ly ách,
Không chấp, không
sanh lại,
Chiến thắng
ma quân xong,
Thọ trì thân
tối hậu.
VI.
Bhaddi (Tạp 38.2, Ố Sắc, Đại 2, 276a, 374a) (S.ii,279)
1) Trú
ở Sàavatthi.
2) Rồi
Tôn giả Lakuntaka Bhaddiya đi đến Thế Tôn.
3) Thế
Tôn thấy Tôn giả Lakuntaka Bhaddiya từ xa đi đến; sau khi
thấy, liền gọi các Tỷ-kheo:
4) Các
Ông có thấy không, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo kia đang đi đến,
xấu xí, khó nhìn, còm lưng, bị các Tỷ-kheo khinh miệt?
- Thưa có,
bạch Thế Tôn.
5) Tỷ-kheo
ấy, này các Tỷ-kheo, có đại thần thông, có đại uy lực.
Thật không dễ gì đạt được chứng đắc mà trước kia
vị Tỷ-kheo ấy chưa đắc. Và cả đến mục đích mà con
một lương gia xuất gia, từ bỏ gia đình sống không gia đình.
Tức vị ấy còn tự mình, ngay trong hiện tại, chứng tri,
chứng ngộ, chứng đạt và an trú vô thượng cứu cánh Phạm
hạnh mà vì mục đích này, con các lương gia xuất gia, từ
bỏ gia đình, sống không gia đình.
6) Thế
Tôn thuyết như vậy, Bậc Thiện Thệ nói xong, bậc Đạo Sư
lại nói thêm:
Thiên nga, cò,
chim, công,
Voi và nai có
chấm,
Tất cả sợ sư
tử,
Dầu thân không
đồng đều.
Cũng vậy,
giữa loài Người,
Nếu kẻ có trí
tuệ,
Ở đấy vị
ấy lớn,
Không như thân
kẻ ngu.
VII.
Visàkha (Tạp, 38.8, Ban Xà Văn, Đại 2, 277b,377c) (S.ii,280)
1) Như
vầy tôi nghe.
Một
thời Thế Tôn ở Vesàli (Tỳ-xá-ly), tại Mahàvana (Đại Lâm)
chỗ Trùng Các giảng đường.
2) Lúc
bấy giờ Tôn giả Visàkha, thuộc dòng họ Pancàla, trong
giảng đường đang thuyết pháp thoại cho các Tỷ-kheo, khích
lệ làm cho phấn khởi, làm cho hoan hỷ, với những lời lễ
độ, thân hữu, không phun nước miếng, giải thích nghĩa lý,
thích hợp, không chấp trước.
3) Rồi
Thế Tôn vào buổi chiều, từ chỗ tịnh cư đứng dậy, đi
đến giảng đường; sau khi đến, ngồi trên chỗ đã soạn
sẵn.
4) Sau
khi ngồi, Thế Tôn bảo các Tỷ-kheo:
- Này các
Tỷ-kheo, trong hội trường, ai đã thuyết giảng pháp thoại
cho các Tỷ-kheo, khích lệ, làm cho phấn khởi, làm cho hoan
hỷ, với những lời lễ độ, thân hữu, không phun nước
miếng, giải thích nghĩa lý, thích hợp, không chấp trước?
5) Bạch
Thế Tôn, Tôn giả Visàkha thuộc dòng họ Pancàla, trong hội
trường thuyết giảng pháp thoại cho các Tỷ-kheo, khích lệ,
làm cho phấn khởi, làm cho hoan hỷ, với những lời lễ độ,
thân hữu, không phun nước miếng, giải thích nghĩa lý, thích
hợp, không chấp trước.
6) Rồi
Thế Tôn cho gọi Tôn giả Visàkha, thuộc dòng họ Pancàla và
nói:
- Lành
thay, lành thay, Visàkha! Lành thay, này Visàkha! Ông thuyết pháp
thoại cho các Tỷ-kheo, khích lệ làm cho phấn khởi, làm cho
hoan hỷ... không chấp trước.
7) Thế
Tôn thuyết như vậy, bậc Thiện Thệ thuyết như vậy, bậc
Đạo Sư lại nói thêm:
Họ biết bậc
Hiền triết,
Khi vị này
lẫn lộn,
Với các kẻ
ngu si,
Dầu vị này
không nói.
Và họ biết
vị ấy,
Khi vị này nói
lên,
Nói lên lời
thuyết giảng,
Liên hệ đến
bất tử;
Hãy để vị
ấy nói,
Làm sáng chói
Chánh pháp;
Hãy để vị nêu
cao
Lá cờ các
bậc Thánh.
Lá cờ bậc
Hiền Thánh,
Là những lời
khéo nói,
Lá cờ bậc
Hiền Thánh,
Chính là lời
Chánh pháp.
VIII.
Nanda (Đại, 2, 277a, 375a) (S.ii,281)
1) Trú
ở Sàvatthi.
2) Rồi
Tôn giả Nanda, con di mẫu của Phật, đắp những y khéo ủi,
khéo là, bôi vẽ mắt, cầm bát sáng chói, đi đến Thế Tôn;
sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên.
Thế Tôn
nói với Tôn giả Nanda đang ngồi xuống một bên:
3) Như
vậy không xứng đáng cho Ông, này Nanda, là con một lương gia,
vì lòng tin xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình,
lại mang những y khéo ủi, khéo là, bôi vẽ con mắt và mang bát
sáng chói. Như vậy là xứng đáng cho Ông, này Nanda, là con
một lương gia, vì lòng tin xuất gia, từ bỏ gia đình, sống
không gia đình, tức là sống trong rừng, sống đi khất thực,
sống mặc áo phấn tảo, và sống không mong đợi các dục
vọng.
4) Thế
Tôn thuyết giảng như vậy, Bậc Thiện Thệ nói như vậy xong,
bậc Đạo Sư lại nói thêm:
Ta mong được
nhìn thấy,
Nanda sống
trong rừng,
Mặc áo phấn
tảo y,
Sống với
những đồ ăn,
Biết là đã
vứt bỏ,
Không mong chờ
dục vọng.
5) Rồi
Tôn giả Nanda, sau một thời gian, trở thành một vị sống
trong rừng, ăn đồ ăn khất thực, mang y phấn tảo, không
mong đợi các dục vọng.
IX.
Tissa (Tạp 38.7, Oa? Sư, Đại 2,277b, 375b. (S.ii,281)
1) Trú
ở Sàvatthi.
2) Rồi
Tôn giả Tissa, cháu của phụ vương Thế Tôn đi đến Thế Tôn,
đảnh lễ Thế Tôn, rồi ngồi xuống một bên, khổ đau,
sầu muộn, nước mắt tuôn chảy.
3) Rồi
Thế Tôn nói với Tôn giả Tissa:
- Này
Tissa, vì sao Ông ngồi khổ đau, sầu muộn, nước mắt tuôn
chảy?
4) Vì
rằng, bạch Thế Tôn, các vị Tỷ-kheo nhất loạt mắng
nhiếc và nhạo báng con.
5) Vì
rằng, này Tissa, Ông nói tất cả và không kham nhẫn người
khác nói.
6) Như
vậy không xứng đáng cho Ông, này Tissa, là con một lương gia,
vì lòng tin xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình,
lại nói tất cả và không kham nhẫn người khác nói. Như
vậy là xứng đáng cho Ông, này Tissa, là con một lương gia, vì
lòng tin xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình,
tức là đã nói lời kham nhẫn người khác nói.
7) Thế
Tôn nói như vậy, Thiện Thệ nói như vậy xong, bậc Đạo Sư
lại nói thêm:
Sao Ông lại
phẫn nộ?
Chớ có nên
phẫn nộ,
Không phẫn
nộ, Tissa,
Thật tốt đẹp
cho Ông.
Hãy nhiếp
phục phẫn nộ,
Kiêu mạn và
xan tham,
Hỡi Tissa, hãy
sống,
Sống đời
sống Phạm hạnh.
X. Tên
Trưởng Lão (Tạp 38.19, Trưởng Lão, Đại 2, 278a, 376b)
(S.ii,282)
1) Một
thời, Thế Tôn trú ở Ràjagaha (Vương Xá), Veluvana (Trúc Lâm),
tại chỗ nuôi dưỡng các con sóc.
2) Lúc
bấy giờ một Tỷ-kheo tên là Theranàmaka sống độc trú và tán
thán hạnh sống độc trú. Vị ấy đi vào làng khất thực
một mình, đi về một mình, ngồi vắng lặng một mình, đi
kinh hành một mình.
3) Rồi
các Tỷ-kheo đi đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn
rồi ngồi xuống một bên.
4) Ngồi
xuống một bên, các Tỷ-kheo ấy bạch Thế Tôn:
- Ở đây,
bạch Thế Tôn, có Tỷ-kheo tên là Theranàmaka sống độc trú
và tán thán hạnh sống độc trú... đi kinh hành một mình.
5) Rồi
Thế Tôn bảo một Tỷ-kheo:
- Này
Tỷ-kheo, hãy đến, hãy nhân danh Ta gọi Tỷ-kheo Thera: "Này
Hiền giả Thera, bậc Đạo Sư gọi Hiền giả".
- Thưa vâng,
bạch Thế Tôn.
Tỷ-kheo
ấy vâng đáp Thế Tôn rồi đi đến Tỷ-kheo Thera.
6) Sau
khi đến, Tỷ-kheo ấy nói với Tỷ-kheo Thera:
- Này
Hiền giả Thera, bậc Đạo Sư gọi Hiền giả.
- Thưa vâng,
Hiền giả.
Tôn
giả Thera vâng đáp Tỷ-kheo ấy và đi đến Thế Tôn.
7) Sau
khi đến, vị ấy đảnh lễ Thế Tôn và ngồi xuống một bên.
8) Thế
Tôn nói với Tôn giả Thera đang ngồi một bên:
- Có
thật chăng, này Thera, Ông sống độc trú và tán thán hạnh
độc trú?
- Thưa có,
bạch Thế Tôn.
9) Như
thế nào, này Thera, Ông sống độc trú và tán thán hạnh
sống độc trú?
10) Ở
đây, bạch Thế Tôn, con đi vào làng khất thực một mình,
con đi về một mình, con ngồi vắng lặng một mình, con đi
kinh hành một mình. Như vậy, bạch Thế Tôn, con sống độc
trú và tán thán hạnh sống độc trú.
11) Đấy
là sống độc trú, này Thera, Ta không nói đấy không phải
vậy. Này Thera, có một cách làm viên mãn độc trú với các
chi tiết. Hãy nghe và suy nghiệm kỹ, Ta sẽ nói.
- Thưa vâng,
bạch Thế Tôn.
12) Này
Thera, thế nào là độc trú được làm viên mãn với các chi
tiết? Ở đây, này Thera, cái gì đã qua được đoạn tận; cái
gì sắp đến được từ bỏ; đối với những tự ngã, lợi
đắc hiện tại, dục tham được khéo nhiếp phục. Như vậy,
này Thera, là độc trú được làm viên mãn với các chi
tiết.
13) Thế
Tôn thuyết giảng như vậy, Thiện Thệ nói như vậy xong,
bậc Đạo Sư lại nói thêm:
Ai chiến
thắng tất cả,
Ai hiểu biết
tất cả,
Ai là bậc
Thiện trí,
Mọi pháp không
ô nhiễm.
Ai từ bỏ
tất cả,
Ái tận được
giải thoát,
Ta nói chính người
ấy,
Thật là vị
độc trú.
XI.
Kappina (S.ii,284)
1) Trú
ở Sàvatthi.
2) Rồi
Tôn giả Mahà Kappina đi đến Thế Tôn.
3) Thế
Tôn thấy Tôn giả Mahà Kappina từ đường xa đi đến.
4) Sau
khi thấy, Thế Tôn liền gọi các Tỷ-kheo:
- Các Ông
có thấy không, này các Tỷ-kheo, vị Tỷ-kheo kia đi đến, da
bạc trắng, ốm yếu, với cái mũi cao?
- Thưa có,
bạch Thế Tôn.
5) Tỷ-kheo
ấy, này các Tỷ-kheo, có đại thần thông, có đại uy lực.
Thật không dễ gì đạt được sự chứng đắc mà trước
kia vị Tỷ-kheo ấy chưa chứng đắc. Vị ấy còn ngay trong
hiện tại, tự mình với thắng trí, chứng ngộ, chứng đạt
và an trú vô thượng cứu cánh Phạm hạnh, mà vì mục đích
này, con các lương gia chơn chánh xuất gia, từ bỏ gia đình,
sống không gia đình.
6) Thế
Tôn thuyết như vậy, Thiện Thệ thuyết như vậy xong, bậc Đạo
Sư lại nói thêm:
Sát-lỵ là
tối thượng,
Giữa mọi loài
chúng sanh,
Với những ai
nương tựa,
Vào vấn đề
giai cấp.
Bậc Minh Hạnh
cụ túc,
Tối thượng
giữa Trời, Người,
Ngày, mặt
trời chói sáng,
Đêm, mặt trăng
chói sáng,
Trong tấm áo
chiến bào,
Sát-lỵ được
chói sáng.
Trong Thiền định,
Thiền tri,
Bà-là-môn chói
sáng,
Nhưng suốt
cả đêm ngày,
Phật chói sáng
hào quang.
XII.
Thân Hữu (S.ii,285)
1) Trú
ở Sàvatthi.
2) Rồi
hai Tỷ-kheo thân hữu, đệ tử của Tôn giả Mahà Kappina, đi
đến Thế Tôn.
3) Thế
Tôn thấy hai Tỷ-kheo ấy từ đàng xa đi đến.
4) Thấy
vậy, Thế Tôn liền gọi các Tỷ-kheo:
- Các Ông
có thấy không, này các Tỷ-kheo, hai Tỷ-kheo thân hữu ấy đang
đi tới, cả hai là đệ tử của Tôn giả Mahà Kappina?
- Thưa có,
bạch Thế Tôn.
5) Hai
Tỷ-kheo ấy có đại thần thông, có đại uy lực. Thật không
dễ gì đạt được sự chứng đắc mà trước kia những
Tỷ-kheo ấy chưa chứng đắc. Các vị ấy còn ngay trong hiện
tại, tự mình với thắng trí, chứng ngộ, chứng đắc và an
trú vô thượng cứu cánh Phạm hạnh, mà vì mục đích này,
con các lương gia chơn chánh xuất gia, từ bỏ gia đình, sống
không gia đình.
6) Thế
Tôn thuyết giảng như vậy, Thiện Thệ nói như vậy xong,
bậc Đạo Sư lại nói thêm:
Tỷ-kheo thân
hữu này,
Lâu ngày cùng
chung sống,
Chung sống
trong diệu pháp,
Diệu pháp,
Phật thuyết giảng.
Tôn giả
Kappina
Khéo léo huấn
luyện họ,
Trong Chánh pháp
vi diệu,
Do bậc Thánh
thuyết giảng,
Chiến thắng
ma quân xong,
Thọ trì thân tối hậu.
--- o0o ---
| Mục lục Kinh Tương Ưng | 1 | 2 | 3 | 4 | 5 | 6 | 7 | 8 | 9 | 10 | 11| 12 | 13 | 14 | 15 | 16 | 17 | 18 | 19 | 20 | 21 | 22a | 22b | 22c | 23 | 24 | 25 | 26 | 27 | 28 | 29
| 30 | 31 | 32 | 33 | 34 | 35a | 35b | 35c | 35d | 36 | 37 | 38 | 39 | 40 | 41 | 42
| 43 | 44 | 45 | 46 | 47 | 48 | 49 | 50 | 51 | 52 | 53 | 54 | 55 | 56 |
--- o0o ---
| Thư Mục Tác Giả |
Tổ chức đánh máy: Hứa Dân Cường
Trình bày : Nguyên Hân
Chân thành cảm ơn Cư sĩ Bình Anson đã gởi tặng phiên bản điện tử bộ Kinh này.
(Trang nhà Quảng Đức, 1/2002)
Nguồn: www.quangduc.com