.


VIỆT NAM PHẬT GIÁO SỬ LUẬN

Nguyễn Lang

---o0o---

 

TẬP III

 

CHƯƠNG XXXX

CHÍNH QUYỀN NGÔ ĐÌNH DIỆM SỤP ĐỔ 

SINH VIÊN VÀ HỌC SINH ĐỨNG DẬY

 

Sáng ngày 21.8.1963,sau khi đánh úp các chùa trong toàn quốc, tổng thống Ngô Đình Diệm triệu tập nội các và báo tin là quân luật đã được thiết lập trên toàn lãnh thổ vì Cộng quân đã xâm nhập vào các châu thành thủ đô Sài Gòn. Ông cũng cho các vị bộ trưởng hay về việc đánh chiếm các chùa và bắt giữ “bọn tăng ni làm loạn”.

Bộ trưởng Ngoại giao Vũ Văn Mẫu đập bàn lên tiếng phản đối hành động dã man của chính quyền. Ông bỏ buổi họp ra về, cạo đầu để bày tỏ lập trường mình và gửi thư từ chức bộ trưởng bộ Ngoại Giao. Rồi ông bôn ba tìm các vị khoa trưởng và các vị giáo sư đại học đồng nghiệp cũ của ông, vận động thành lập Phong trào Trí Thức Chống Độc Tài. Hành động quả cảm của ông Vũ Văn Mẫu đã châm ngòi cho sinh viên và học sinh bùng cháy trong toàn quốc. Sinh viên Trung Tâm Kỹ Thuật Phú Thọ bãi khóa ngay trong buổi chiều 21.8.1963. Giáo sư Lê Sĩ Ngạc của Trung Tâm đứng lên tán đồng lập trường của sinh viên và lên án chính sách tàn bạo của chính quyền.

Chiều ngày 22.8.1963 khoa trưởng Y Khoa Sài Gòn là bác sĩ Phạm Biểu Tâm gửi đơn từ chức. Ông bị bắt giam và ngày hôm sau 23.8.1963, nghe tin ông bị bắt, tất cả sinh viên Y Khoa kéo nhau đến trường. Họ bàn tính kế hoạch chia nhau từng nhóm nhỏ đi thuyết phục các vị khoa trưởng và giáo sư các khoa từ chức. Đồng thời họ bàn luận kế hoạch vận động thành lập một Ủy Ban Chỉ Đạo Sinh Viên Liên Khoa. Chiều hôm ấy Ủy ban này được thành lập, do sinh viên Tô Lai Chánh đứng đầu làm chủ tịch. Ủy ban gồm có mười tám sinh viên. Đại diện cho Dược Khoa có cô Lê Thị Hạnh; Y Khoa: Đường Thiệu Đồng; Văn Khoa: Lâm Tường Vũ; Kiến Trúc: Nguyễn Hữu Đồng; Công Chánh: Nguyễn Thanh; Sư Phạm: Nguyễn Văn Vinh; Luật Khoa: Tô Lai Chánh.: Ủy Ban Chỉ Đạo Sinh Viên Liên Khoa phát động phong trào bãi khóa: sinh viên các trường Y Khoa, Luật Khoa, Dược Khoa, Mỹ Thuật v.v… theo gót sinh viên Trung Tâm Kỹ Thuật Phú Thọ lần lượt bãi khóa. Trong thời gian vài tuần lễ, phong trào bãi khóa lan tới tất cả các cấp trung học toàn quốc.

Sáng ngày 24.8.1963 trên ba ngàn sinh viên và học sinh tụ tập tại trường Luật Khoa Sài Gòn để tiếp giáo sư Vũ Văn Mẫu. Họ vây quanh ông Mẫu, hoan hô ông vang dội. Đồng thời Ủy Ban Chỉ Đạo tung ra một bản tuyên ngôn mà họ đã biểu quyết ngày hôm qua, 23.8.1963, yêu cầu chính quyền:

1- Thực sự tôn trọng và bảo vệ tự do tín ngưỡng.

2- Trả tự do cho tăng ni và tín đồ Phật giáo, sinh viên, học sinh và giáo sư hiện giam giữ.

3- Chấm dứt tình trạng khủng bố, bắt bớ hành hạ tín đồ Phật giáo.

4- Giải tỏa chùa chiền, ban bố tự do ngôn luận.

Bản tuyên ngôn kết thúc bằng những câu sau đây: “Sinh viên và học sinh Việt Nam nguyện đem mồ hôi và xương máu để tranh đấu cho bốn nguyện vọng khẩn thiết trên. Đồng bào hãy sát cánh cùng chúng tôi sẵn sàng hy sinh cho tự do và đòi được quyền phụng sự Tổ Quốc”.

Dưới bản tuyên ngôn, danh từ Ủy Ban Chỉ Đạo Sinh Viên Liên Khoa được đổi thành Ban Chỉ Đạo Sinh Viên Và Học Sinh.

Chỉ trong vòng ba hôm sau ngày đánh úp các chùa, phong trào sinh viên và học sinh đã làm rung động thủ đô Sài Gòn.

Ngày 25.8.1963 ba trăm sinh viên học sinh tổ chức biểu tình tại Công trường Diên Hồng phía trước chợ Bến Thành. Cuộc biểu tình này được tổ chức một cách tài tình bởi vì trong tình trạng giới nghiêm, khắp nơi trong thủ đô đều có các đơn vị võ trang canh gác, nhất là tại trung tâm Sài Gòn. Từng nhóm nhỏ sinh viên và học sinh đã do nhiều ngã đường đi tới: vào khoảng mươi giờ sáng đột nhiên biểu ngữ được tung ra trước chợ Bến Thành và cuộc biểu tình thành hình. Các trung đội Cảnh Sát Chiến Đấu gần đó được tin liền kéo tới đàn áp. Cảnh sát bắn cả vào đám biểu tình. Một em nữ sinh tên Quách Thị Trang bị trúng đạn tử thương(195). Một số sinh viên trốn thoát được. Một số bị thương. Khoảng 200 người bị bắt giữ. Tử thi Quách Thị Trang bị mang đi mất. Ngay chiều hôm đó chính quyền đô thành ra thông cáo rằng các lực lượng an ninh đã được lệnh nổ súng vào bất cứ đám đông nào tụ họp ngoài công lộ mà không xin phép trước.

Sau cuộc biểu tình ngày 24.8.1963, sinh viên và học sinh đã trở thành đối tượng khủng bố và đàn áp của chính quyền. Các phân khoa đại học và các trường trung học lớn tại Sài Gòn đều được giây thép gai và những hàng rào cảnh sát để gác. Để đáp lại biện pháp này, sinh viên và học sinh tổ chức bãi khóa. Họ còn vận động với các giáo sư của họ gửi thư từ chức.

Ngày 7.9.1963, học sinh các trường trung học công lập Gia Long, Trưng Vương và Võ Trường Toản tổ chức mít tinh bãi khóa ngay tại sân trường của họ. Họ không vào lớp mà kê bàn tại ngoài sân để đứng lên diễn thuyết, tố cáo tội ác của chế độ. Biểu ngữ được họ viết lên trên các bức tường hoặc trên những tấm bia lớn mà họ giăng lên khắp nơi.

Học sinh các trường Trưng Vương và Võ Trường Toản định tổ chức biểu tình diễn hành, nhưng vừa ra khỏi cổng trường họ liền bị cảnh sát đàn áp. Cuộc xung đột tại cổng trường trung học Chu Văn An là một trường nam sinh, nổi tiếng là tranh đấu ác liệt nhất với cảnh sát(196). Ta cũng nên nhớ là ba trường đi tiên phong cho phong trào bãi khóa và tranh đấu của học sinh có tới hai trường nữ trung học: đó là Trưng Vương và Gia Long.

Số học sinh các trường trung học tại Sài Gòn bị bắt giữ lên tới hai ngàn. Tại các tỉnh, học sinh các trường công lập và tư thục cũng đứng lên tranh đấu tương tự.

Trong lúc đó, trên đài phát thanh Sài Gòn, chính quyền kêu gọi phụ huynh học sinh kiểm soát con cái mình đừng cho chúng “mắc mưu Cộng sản”. Ông Phan Văn Tạo, tổng giám đốc Thông Tin mở cuộc họp báo đưa hai thiếu nhi 15 và 16 tuổi để hai em này tự nhận là Cộng Sản xúi dục đồng bạn đi biểu tình. Cuộc họp báo này không chinh phục được ai bởi vì trong thâm tâm các bậc phụ huynh đều biết vì lý do gì mà con cái mình tham dự vào cuộc tranh đấu. Dưới sự đàn áp của bạo quyền, đất nước mang một bộ mặt rách nát, tả tơi. Vấn đề không còn là vấn đề thành bại của cuộc tranh đấu Phật giáo. Vấn đề là vấn đề sinh mệnh và thể diện của cả một dân tộc. Một bầu không khí u uất nặng trĩu đè nặng lên cả trên một đất nước. Không những dân chúng mà đến quân đội và nhiều thành phần trong lực lượng chính quyền và cảnh sát cũng cảm thấy áp lực nặng nề và u uất đó.

 

PHẬT GIÁO THUẦN TÚY

 

Liền ngay sau khi tấn công các chùa trong toàn quốc, chính quyền đưa ra một tổ chức là Ủy Ban Liên Hiệp Phật Giáo Thuần Túy. Người chủ chốt này là thiền sư Nhật Minh ngày trước đã từng là học viên của một khóa tu nghiệp cho các vị trú trì được Giáo Hội Tăng Già Việt Nam tổ chức tại chùa Tuyền Lâm ở Chợ Lớn. Mục đích của Ủy Ban Liên Hiệp Phật Giáo Thuần Túy là tạo ra một hình ảnh Phật giáo không chống đối chính quyền và được sống an lành trong sự che chở của chính quyền. Vì thiền sư Nhật Minh không có một khuôn mặt có kích thước lớn nên chính quyền, qua trung gian của một vài người phật tử thân chính quyền như bà Võ Văn Vinh và ông Đoàn Trung Còn, đã tìm cách thuyết phục được thiền sư Thiện Hòa đứng tên vào Ủy Ban. Hứa hẹn rằng Ủy Ban sẽ có uy lực can thiệp để chính quyền thả tự do cho toàn thể tăng ni và cư sĩ đang bị bắt giam. Nóng lòng về việc “giải cứu chư tăng” thiền sư Thiện Hòa nhận lời và sau đó chính quyền đã phóng thích một số tăng ni và phật tử mà họ cho là vô hại và không có tính cách chủ chốt trong cuộc tranh đấu. Việc chấp thuận để tên mình trong Ủy Ban Liên Hiệp Phật Giáo Thuần Túy có lẽ là vết tì duy nhất trong cuộc đời hành đạo của thiền sư Thiện Hòa. Ta cũng nên biết là trong thời gian này tất cả những đạo lữ và cố vấn của thiền sư Thiện Hòa đều đang bị chính quyền giam giữ. Tuy chính quyền đã để cho đại lão thiền sư Tịnh Khiết về chùa Ấn Quang, nhưng tất cả các thiền sư phụ tá cho người đều còn bị giam cầm.

 

NGỌN LỬA QUẢNG HƯƠNG

 

Trong khi ấy, cuộc tranh đấu của các giới vẫn được tiếp tục. Các cuộc biểu tình của thanh niên và phụ nữ tổ chức vào ngày cuối của tháng Chín tại Sài Gòn chứng tỏ rằng cuộc tranh đấu vẫn còn được tiếp tục.

Vào giữa trưa ngày 5.10.1963, thiền sư Quảng Hương châm lửa tự thiêu trước tại chợ Bến Thành, để lại một huyết thư cảnh giác tổng thống Ngô Đình Diệm.

Ngọn lửa Quảng Hương chứng tỏ cho thế giới thấy rằng vấn đề Việt Nam vẫn còn đó nguyên vẹn, và đồng thời vô hiệu hóa tất cả những hình thái giả trang của chính quyền. Những giả trang nhằm đánh lừa dư luận quốc tế, gây cảm tưởng là cuộc tranh đấu của Phật giáo đồ tại Việt Nam đã kết liễu.

Thiền sư Quảng Hương năm ấy ba mươi bảy tuổi, tên đời là Nguyễn Ngọc Kỳ; ông sinh năm 1926 tại Phú Yên. Ông xuất gia năm 1943, thọ đại giới năm 1949 rồi trú trì chùa Liễu Sơn. Năm 1950 ông vào thụ huấn Phật viện Nha Trang và đến năm 1959 được cử làm giảng sư tại tỉnh hội Phật Giáo Ban Mê Thuột. Ông hành đạo tại đây cho tới ngày ông vào châm lửa tự thiêu tại chợ Bến Thành ở Sài Gòn.

 

PHÁI ĐOÀN ĐIỀU TRA LIÊN HIỆP QUỐC TỚI SÀI GÒN

 

Sáng ngày 7.1.1963 tại Nữu Ước, Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc mở một cuộc họp về tình hình Việt Nam. Cũng vào sáng hôm đó, tại Trung Tâm Tôn Giáo (Church Center for the United Nations) trong Carnegie Hall, gần bên phòng của đại hội, thiền sư Nhất Hạnh họp báo nhân danh Ủy Ban Liên Phái Bảo Vệ Phật Giáo để nói rõ về nhu cầu gửi một phái đoàn sang điều tra về tình trạng nhân quyền bị vị phạm tại Việt Nam. Sau cuộc họp báo, ông bắt đầu một cuộc nhịn ăn. Cuộc nhịn ăn này được kéo dài tới ngày 12.10.1963.

Một phái đoàn 7 người được Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc cử do ông Abdul Rahman Pazhawak đại diện A Phú Hãn cầm đầu, có nhiệm vụ qua Việt Nam điều tra tình trạng chính quyền và Phật giáo. Trước khi lên đường, phái đoàn đã được thiền sư Nhất Hạnh chỉ dẫn sơ lược về những phương pháp để có thể thu nhập được những sự kiện chính xác về tình trạng Việt Nam và qua mắt được những giả trang của chính quyền Sài Gòn(197). Phái đoàn rời Nữu Ước vào ngày 21.10.1963 và tới phi cảng Tân Sơn Nhất vào nửa đêm rạng ngày 24.10.1963.

Tại Sài Gòn, tổ chức bí mật của Ủy Ban Liên Phái Bảo Vệ Phật Giáo tìm mọi cách để liên lạc với Phái Đoàn. Ủy Ban đã tìm cách đưa được vào cho ông trưởng đoàn một lá thư của đại lão thiền sư Tịnh Khiết ngay hôm đầu tiên phái đoàn tới cư trú tại khách sạn Hoàn Mỹ, dù khách sạn đã được công an và mật vụ canh gác một cách nghiêm mật. Ngày 27.10.1963, phái đoàn tuyên bố đi điều tra tại Thủ Đức nhưng đã bất ngờ tới chùa Ấn Quang để tiếp xúc với thiền sư Tịnh Khiết. Trong cuộc tiếp xúc này, phái đoàn đã yêu cầu tất cả mọi người ra khỏi phòng họp và chỉ để thiền sư một mình tiếp xúc với phái đoàn.

 

NGỌN LỬA THIỆN MỸ

 

Đúng vào mười giờ sáng hôm ấy, thiền sư Thiện Mỹ châm lửa tự thiêu trước nhà thờ Đức Bà tại Sài Gòn. Thiền sư Thiện Mỹ tên đời là Hoàng Miều sinh năm 1940 tại Bình Định. Ông xuất gia từ hồi bé thơ, thọ giới sa di năm mười sáu tuổi và thọ đại giới năm hai mươi tuổi. Ông từ Đà Lạt vào Sài Gòn vào giữa tháng mười năm 1963 và cư trú tại chùa Vạn Thọ. Ông đã định tự thiêu tại chùa Ấn Quang trước đó nhưng sau vì cảnh sát và mật vụ biết trước nên ông lại thôi.

Ông châm lửa tự đốt mình vào lúc 10 giờ 30 sáng ngày chủ nhật 7.10.1963 ngay tại trước nhà thờ Đức Bà nên lúc phát giác ngọn lửa, nhiều đồng bào Công giáo đã từ trong nhà thờ chạy ra chứng kiến. Những phật tử đi ngang cũng đã bao quanh lại. Hoảng hốt họ không biết làm gì nên dùng nón để quạt lửa, nhưng càng quạt thì ngọn lửa càng lớn. Một số ký giả ngoại quốc có lẽ vì được thông báo trước đã tìm tới để chứng kiến cảnh tượng. Phim và máy hình của họ đã bị cảnh sát giật đi. Cảnh sát chạy tìm được một cái mền đem phủ lên người thiền sư Thiện Mỹ. Cái mền bốc cháy. Thấy thế cảnh sát liên giật mền và kéo ngã vị thiền sư đang tự thiêu. Thiền sư Thiện Mỹ gượng ngồi trở lại trong tư thế kiết già. Thoáng thấy những người chung quanh đang dập đầu đảnh lễ, ông chắp hai tay vái họ và cố ngồi vững chãi giữa ngọn lửa hồng. Mười phút sau, ông ngã ra. Lúc ấy xe cứu hỏa mới ào tới xịt nước. Lúc bốn người trong Phái Đoàn Điều Tra của Liên Hiệp Quốc tới được thì xe cứu hỏa vẫn còn xịt nước để xóa bỏ những dấu tích của vụ tự thiêu; trong khi đó đồng bào đang tụ họp lại thành một cuộc biểu tình.

Thiền sư Thiện Mỹ có để lại bốn bức thư: một cho tổng thống Ngô Đình Diệm, một cho thiền sư Tịnh Khiết, một cho ông U Thant và một cho Phật giáo đồ.

Ngọn lửa tự thiêu và Thích Thiện Mỹ là ngọn lửa cuối cùng làm sụp đổ bạo quyền.

 

CUỘC ĐẢO CHÍNH NGÀY 1.11.1963

 

Phái đoàn Liên Hiệp Quốc chưa hoàn tất được việc điều tra thì ngày 1.11.1963 một cuộc đảo chính đã xảy ra ở Sài Gòn: Quân đội Việt Nam Công Hòa đã đứng dậy lật độ chính quyền Ngô Đình Diệm.

Cuộc đảo chính này được chuẩn bị từ cuối tháng Bảy nhưng mãi đến đầu tháng Mười một mới thực hiện được bởi các tướng lãnh trong quân đội đã gặp nhiều khó khăn.

Chính quyền Ngô Đình Diệm biết rằng lòng dân căm phẫn cho nên đã chuẩn bị thật kỹ lưỡng để ngăn ngừa những âm mưu đảo chính.

Trước hết, chính quyền ra lệnh thuyên chuyển các tướng lãnh tư lệnh các Vùng Chiến Thuật. Tướng Tôn Thất Đính từ Vùng Hai được đem về Vùng Ba. Tướng Huỳnh Văn Cao về Vùng Bốn. Tướng Nguyễn Khánh về Vùng Hai. Tướng Đỗ Cao Trí về Vùng Một. Những tướng bị nghi ngờ thì được triệu về Sài Gòn giữ những chức vụ không có quân trong tay. Tướng Trần Văn Đôn làm cố vấn quân sự cho Phủ Tổng Thống. Tướng Dương Văn Minh cũng vậy. Hai lực lượng hùng hậu nhất mà chính quyền tin cậy là Lực Lượng Đặc Biệt do trung tá Lê Quang Tung làm tư lệnh và Lữ Đoàn Liên Minh Phòng Vệ Tổng Thống Phủ mà chủ lực đóng tại thành Cộng Hòa, Dinh Gia Long, nơi cư ngụ của tổng thống và cố vấn, cũng được bố phòng rất chặt chẽ và có đủ sức chống lại chiến xa của quân đảo chính ít nhất là trong mười hai giờ.

 

VAI TRÒ CỦA NHỮNG CẤP CHỈ HUY TRẺ TRONG QUÂN ĐỘI

 

Những vị tướng lãnh đầu tiên nghĩ đến chuyện đảo chính là Trần Văn Đôn, Lê Văn Kim và Dương Văn Minh. Nhóm tướng lãnh này chuẩn bị cuộc đảo chính rất kỹ lưỡng, có thể nói là chậm chạp nữa. Áp lực trong quần chúng và trong quân đội rất lớn, những các tướng vì sợ thất bại như những lần đảo chính trước nên đã chần chừ rất nhiều. Một mặt họ muốn Hoa Kỳ cam kết là không xen vào phá hoại chương trình của họ, một mặt họ lại không tin lời cam kết của Hoa Kỳ, sợ Hoa Kỳ phản bội vào giờ chót.

Nên biết rằng lúc này dư luận thế giới và dư luận dân chúng Hoa Kỳ đã nổi lên chống chế độ Ngô Đình Diệm kịch liệt và Hoa Thịnh Đốn đã hết hy vọng làm áp lực được cho chính quyền Ngô Đình Diệm thực thi bản Thông Cáo Chung hoặc trục xuất hai vợ chồng ông cố vấn Ngô Đình Nhu ra khỏi chính quyền. Theo tài liệu mật Ngũ Giác Đài, Hoa Kỳ có ý muốn ủng hộ một cuộc đảo chính tại Sài Gòn để diệt trừ ông Ngô Đình Nhu. Cũng theo tài liệu này, tình báo C.I.A. báo cáo có ít ra là mười nhóm âm mưu đảo chính. Chính những nhóm tướng tá trẻ trong quân đội đã làm áp lực cho các tướng lãnh cấp cao ngồi lại với nhau để nói chuyện lật đổ chính quyền. Các nhóm tướng trẻ này thấy các tướng lãnh cấp cao chần chờ lâu quá nên đã tự động sắp xếp kế hoạch cấp tốc và liều lĩnh để mau đạt được mục đích. Tướng Dương Văn Minh cầm đầu cuộc đảo chính đã chần chừ khá lâu trong thời gian từ giữa tháng Chín đến đầu tháng Mười, một phần vi nghi kỵ Hoa Kỳ, một phần vị sợ cuộc chính biến sẽ làm đổ máu nhiều quá. Sự hình thành của những nhóm đảo chính trẻ đã thúc đẩy các tướng lãnh rất mạnh(198).

 

CÁC TƯỚNG LÃNH NGỜ VỰC HOA KỲ

 

Từ sau ngày chính quyền càn quét các chùa, đại sứ Henri Cobot Lodge can thiệp để đài Tiếng Nói Hoa Kỳ (V.O.A.) cải chính tin đã loan báo rằng quân đội Việt Nam Cộng Hòa đã tham dự vào việc càn quét chùa chiền 20.8.1963 như chính quyền ông Diệm đã phao vu.

Tướng Dương Văn Minh lại còn yêu cầu Hoa Kỳ tuyên bố ngưng viện trợ chính quyền Ngô Đình Diệm để tỏ thiện chí sẽ không phá hoại âm mưu đảo chính. Cũng vì vậy từ hồi tháng Tám. Hoa Thịnh Đốn đã bí mật cho phép đại sứ Lodge tuyên bố cắt viện trợ cho chính phủ Diệm bất cứ lúc nào mà ông đại sứ thấy cần thiết. Lực Lượng Đặc Biệt mà ông Diệm đã sử dụng để càn quét chùa chiền đêm 20.8.1963 cũng được cắt viện trợ từ cuối tháng này. Lực lượng này được Hoa Kỳ trang bị rất tối tân. Sự cắt đứt viện trợ cho chính quyền Ngô Đình Diệm được thực hiện dần dần bắt đầu từ tháng Mười.

Như vậy đài V.O.A. đã cải chính tin quân đội có tham dự vào việc càn quét chùa chiền và chính quyền Hoa Kỳ đã tuyên bố ngưng viện trợ cho chính phủ Diệm. Tuy vậy các tướng lãnh vẫn còn nghi ngờ là tướng Paul Harkins của Hoa Kỳ và ông Jonh Richardso, giám đốc tình báo C.I.A. sẽ tìm cách phá hoại cuộc đảo chính. Tướng Harkins, ông Richardson và ông đại sứ Nolting đều được coi như là những người có cảm tình với ông Ngô Đình Diệm.

Các tướng lãnh chủ mưu trong cuộc cách mạng vì sự nghi ngờ ấy đã không tiết lộ cho Hoa Kỳ biết chiến lược của họ.

 

TIẾN TRÌNH CỦA ĐẢO CHÍNH

 

Tướng Trần Văn Đôn đã có công thuyết phục các tướng Tôn Thất Đính tham dự vào công cuộc lật đổ chính quyền. Tướng Đính lúc này thực sự có binh quyền trong tay: ông vừa làm tư lệnh Vùng Ba vừa chỉ huy quân sự thủ đô. Ông được ông Ngô Đình Nhu tin cẩn.

Theo tài liệu của Ngũ Giác Đài, ông Ngô Đình Nhu đã nghe phong phanh về cuộc đảo chính và có với tướng Đính vào để nhờ giăng một cái bẫy đảo chính giả với mục đích tiêu diệt những tướng tá muốn đảo chính. Tướng Đính đã về thuật lại với các đồng chí của mình. Các tướng vẫn lo ngại một số đơn vị quân đội còn trung thành với ông Diệm nên đã đưa những đơn vị này đi hành quân ở những vùng khá xa Sài Gòn để các đơn vị này không kịp về cứu ứng trong ngày có cách mạng.

Họ còn tổ chức hai chiến dịch Phi HỏaHắc Dịch tại miền Tây và cho tướng Đính vào thuyết phục tổng thống Diệm cho bớt một số binh sĩ thuộc Lữ Đoàn Phòng Vệ Tổng Thống Phủ và thuộc Lực Lượng Đặc Biệt tham gia(199). Ông lại còn thuyết phục để sư đoàn 7 đóng ở Mỹ Tho được sát nhập vào quân đoàn Vùng Ba Chiến Thuật do ông làm tư lệnh.

Nữa đêm rạng ngày 31.10.1963, tướng Đính hạ lệnh cấm trại toàn thể quân đoàn Vùng Ba Chiến Thuật. Rồi ông ủy đại tá Nguyễn Hữu Có xuống Mỹ Tho đoạt quyền tư lệnh Sư Đoàn 7. Sau đó đại tá Nguyễn Hữu Có đem một đơn vị tới bắc Mỹ Thuận tịch thu hết tất cả tàu bè để cản đường về thủ đô của bất cứ đơn vị nào của quân đoàn Vùng Bốn Chiến Thuật. Như vậy là Sư Đoàn 7, một sư đoàn đã từng góp phần lớn trong việc đàn áp cuộc đảo chính ngày 11.11. 1960 đã được trấn ngự.

Các tướng lãnh đã chặn ba nẻo chính có thể tiến quân về thủ đô: con đường từ Lục Tỉnh về thì do đại tá Nguyễn Hữu Có án ngữ tại Phú Lâm. Con đường miền Tây có thiếu tướng Mai Hữu Xuân với quân lực Trung Tâm Huấn Luyện Quang Trung. Con đường từ miền Bắc có đại tá Vĩnh Lộc với chiến đoàn Vạn Kiếp. Các tướng này vừa có nhiệm vụ cản đường những đạo quân từ xa kéo về “cứu giá” vừa có nhiệm vụ bao vây và tiến đánh các lực lượng phòng thủ của chính quyền.

Sáng 1.11.1963, trung tướng Trần Văn Đôn triệu tập cấp chỉ huy của một số đơn vị quân đội đồn trú tại Sài Gòn và các vùng phụ cận, những vị từ cấp Úy đến cấp mà ông nghi có thể còn trung thành với chế độ. Về tới Tổng Tham Mưu, các vị nầy bị tướng Đôn cầm chân để cho quân lính của họ trở thành “rắn không đầu”. Cũng vào sáng hôm ấy, nhiều đơn vị trong đó có chiến đoàn Thủy Quân Lục Chiến đã được âm thầm di chuyển về tới tận thủ đô.

Đại sứ Henri Cabot Lodge giờ này vẫn chưa hay biết gì về cuộc đảo chính. Vào hồi mười giờ sáng, ông đưa đô đốc Harry Felt vào dinh Gia Long để ông này từ biệt tổng thống Diệm về nước.

Trưa hôm ấy, tướng Đôn cũng mời tất cả các tướng lãnh đến dùng cơm tại trụ sở Tổng Tham Mưu. Trong bữa cơm, ông Dương Văn Minh đứng dậy đề nghị tất cả tướng lãnh tham dự vào cuộc lật đổ bạo quyền. Hầu hết đều vỗ tay hưởng ứng nồng nhiệt. Đại tá Lê Quang Tung, tư lệnh Lực Lượng Đặc Biệt đứng dậy phản đối bỏ về. Ông bị bắt ngay sau khi ra khỏi nơi đó.

Vào lúc 1 giờ 30 chiều hôm đó, tiếng súng Cách Mạng đầu tiên nổ. Thiếu tướng Mai Hữu Xuân chế ngự ngay được đơn vị của Lực Lượng Đặc Biệt đóng tại Tân Sơn Nhất. Theo xa lộ Biên Hòa, các đơn vị của chiến đoàn Vạn Kiếp và Thủy Quân Lục Chiến rầm rộ tiến về thủ đô, chiếm Đài Phát Thanh, Tổng Nha Cảnh Sát, Ty Cảnh Sát Đô Thành và Nha Viễn Thông của Bộ Nội Vụ. Thành Cộng Hòa, nơi đồn trú của Lữ Đoàn Liên Minh Phòng Vệ Tổng Thống Phủ, cũng tức thời bị vây hãm.

Đài Phát Thanh được quân Cách Mạng chiếm vào lúc 1 giờ 45’ đài bắt đầu phát thanh tiếng nói của Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng. Hội Đồng Cách Mạng kêu gọi tổng thống Ngô Đình Diệm từ chức. Các tướng lãnh ra điều kiện là nếu ra hàng, hai ông Diệm và Nhu sẽ được bảo đảm tính mạng và đưa ra ngoại quốc. Cố vấn Ngô Đình Nhu cho mời các tướng vào dinh thương thuyết, nhưng lời mời bị các tướng bác bỏ.

Từ trong thành Cộng Hòa, Lữ Đoàn Phòng Vệ Tổng Thống Phủ dùng đại bác và đại liên chống trả. Họ có tới bốn mươi xe thiết giáp. Cuộc tấn công thành Cộng Hòa khởi sự từ 5 giờ 55 chiều, đến 7 giờ, lực lượng này đầu hàng.

 

CHIẾC HẦM BÍ MẬT DƯỚI DINH GIA LONG

 

Tại dinh Gia Long, tổng thống Diệm được tin báo về cuộc đảo chính vào lúc 12 giờ 10’. Lập tức tổng thống và ông cố vấn xuống ngồi dưới chiếc hầm bí mật đào dưới dinh Gia Long. Hầm này được hoàn thành ngày 28.10.1963, có phòng ngủ, phòng tắm và phòng khách cho tổng thống và ông cố vấn, và có địa đạo dẫn ra ngoài dinh. Tổng thống Diệm ra lệnh cho các sĩ quan cận vệ liên lạc với các tướng Trần Thiện Khiêm, Tôn Thất Đính đến cứu ứng. Ông lại cho liên lạc với tòa đại biểu chính phủ ở Huế bằng đường vô tuyến đặc biệt của phủ Tổng Thống. Các sĩ quan cận vệ không liên lạc được với các tướng Khiêm và Đính, song tổng thống vẫn hy vọng vào những tướng lãnh trung thành của mình. Mãi đến lúc 4 giờ chiều, khi đài phát thanh Sài Gòn đọc tên các vị tướng lãnh trong Hội Đồng Tướng Lãnh với giọng nói của từng vị ông mới biết là không còn hy vọng được ở những người này.

Nhưng từ dưới hầm dinh Gia Long, ông cố vấn Ngô Đình Nhu liên lạc được với đại tá Hồ Tấn Quyền tư lệnh Hải Quân. Ông đã ra lệnh cho đại tá Quyền đi liên lạc với một đại tá có lực lượng đồn trú tại Thủ Đức. Một lực lượng chống đảo chính mới được thành lập xong ngày 28.10.1963. Đại tá Quyền còn được lệnh cho tàu ra khơi để bắn những chiếc phi cơ đang bay liệng trên không phận Sài Gòn lúc ấy, và sắp đặt để bí mật chở tổng thống Diệm và ông cố vấn Nhu về Phước Tuy bằng đường biển. Ra lệnh cho hai chiến hạm ở Sài Gòn nhổ neo và cho một đơn vị hải quân ở khơi Vũng Tàu kéo về bến Sài Gòn, đại tá Quyền cải trang dùng một chiếc traction lái ra khỏi bộ Tư Lệnh Hải Quân, theo xa lộ Biên Hòa để đi về Thủ Đức.

Vào lúc tám giờ tối, sau khi biết tin sứ mạng của đại tá Quyền bất thành, tổng thống Diệm và ông cố vấn Nhu theo đường hầm ra khỏi dinh Gia Long và trốn về nhà một người Hoa Kiều ở Chợ Lớn tên là Mã Tuyên. Rồi từ nhà MãTuyên, họ sang ở ẩn một ngôi nhà thờ gọi là nhà thờ Cha Tam, nơi có một linh mục lai Pháp tên là Jean chủ trì.

Vào lúc hai giờ sáng ngày 2.11. 1963, khi biết rằng tổng thống Diệm và ông cố vấn Nhu đã thoát ra khỏi dinh Gia Long, đại úy Lê Công Hoàn, một trong những sĩ quan trong đạo quân phòng vệ Tổng Thống Phủ liền điện thoại cho bộ Tổng Tham Mưu và yêu cầu ngưng tấn công dinh Gia Long. Vì vậy, quân Cách Mạng đã tiếp thu dinh này mà không gây thiệt hại cho nhân mạng. Trong lúc đầu vây dinh, một sĩ quan chỉ huy thiết giáp là đại úy Bùi Ngương Ngãi đã bị quân trong dinh bắn chết. Chiến xa của ông bị đạn bốc cháy giữa ngã tư Công Lý và Gia Long.

 

SỐ PHẬN KHÔNG MAY CỦA ÔNG TỔNG THỐNG VÀ ÔNG CỐ VẤN

 

Tại nhà thờ cha Tam ở Chợ Lớn, biết kế hoạch trốn đi Phước Tuy bị hỏng, tổng thống Ngô Đình Diệm và ông cố vấn Nhu liền liên lạc với bộ Tổng Tham Mưu, yêu cầu các tướng cho người tới rước và đưa ra ngoại quốc như đã hứa.

Vào khoảng 7 giờ sáng, một chiếc thiết vận xa M.113 tới nhà thờ cha Tam để đón hai người. Giữa đường về bộ Tổng Tham Mưu, tổng thống và ông cố vấn bị hạ sát.

Tài liệu bí mật của Ngũ Giác Đài nói rằng đến đón tổng thống và ông cố vấn là hai sĩ quan đã thù ghét ông Diệm sẵn. Theo Đỗ Thọ, tùy viên của tổng thống Diệm(200), thì đó là hai vị thiếu tá tên Nhung và Nghĩa. Không biết có phải là hai vị này đã hạ sát tổng thống Diệm và cố vấn Nhu hay không, và nếu có thì đó là tự ý hay là đã vâng theo lệnh vị tướng lãnh nào. Đây còn là một nghi vấn lớn. Cả hai vị thiếu tá đều bị những người thân ông Diệm tra khảo và hạ sát trong cuộc chỉnh lý của tướng Nguyễn Khánh ngày 30.1.1964.

Sự hạ sát tổng thống Diệm và ông cố vấn Nhu là một điều đáng tiếc trong cách mạng 1.11.1963. Dù có ra lệnh hay không ra lệnh, các tướng lãnh trong Hội Đồng Quân Lực cũng chịu trách nhiệm về việc không thực hành lời hứa bảo đảm được cho tính mệnh hai người. Cái chết của họ đã kéo theo cái chết của hai vị thiếu tá Nhung và Nghĩa. Nhưng đã hết đâu. Oan oan tương báo, biết bao giờ cho sợi giây oan được cắt đứt.

 

NIỀM VUI CỦA QUẦN CHÚNG SAU NGÀY ĐẢO CHÍNH

 

Tin Cách Mạng thành công vào sáng 2.11.1963 được loan trên đài Phát Thanh Sài Gòn làm cho quốc dân mừng rỡ kéo nhau ra đường bày tỏ niềm vui. Tại Sài Gòn, các con đường như Lê Lợi, Lê Thánh Tông, Gia Long, Công Lý và Pasteur người đổ ra tràn ngập. Họ đổ xô về phía dinh Gia Long. Họ leo tường vào dinh. Họ leo lên xe thiết giáp, ôm chầm lấy các quân nhân. Họ nô nức reo hò. Dân chúng thủ đô biểu lộ sự vui mừng trong suốt ngày hôm ấy và trong hai ngày kế tiếp.

Tại chùa Xá Lợi, trú sở Ủy Ban Liên Phái Bảo Vệ Phật Giáo, ngày nào cũng có cả chục ngàn phật tử tới tụ tập. Các vị lãnh đạo Ủy Ban Liên Phái và chư tăng ni cùng phật tử bị bắt đã được thả tự do từ chiều ngày 1.11.1963. Các chính trị phạm từ Côn Đảo trong đó có thiếu tá Phan Trọng Chính cũng được thả tự do về tới. Nhóm sĩ quan xướng xuất cuộc đảo chánh không thành công ngày 11.11.1960 trong đó có đại úy Huỳnh Minh Đường lưu đày tại Nam Vang cũng về tới hôm 16.11.1963. Đại úy Đường đã không thi hành lệnh của tổng thống Diệm đánh đắm chiếc tàu chở chính trị phạm ra Côn Đảo ngày 5.10.1963.

Thiền sư Trí Quang tỵ nạn tại tòa đại sứ Hoa Kỳ từ ngày thoát được cuộc càn quét chùa Xá Lợi cũng đã về tại chùa Ấn Quang sáng ngày 2.11.1963.

Hội Đồng Quân Cách Mạng do tướng Dương Văn Minh cầm đầu tuyên bố Cách Mạng Thành Công. Ngày 4.11.1963 một bản Hiến Ước tạm thời được ban hành, tướng Dương Văn Minh lên làm quyền quốc trưởng Việt Nam Công Hòa và ông Nguyễn Ngọc Thơ được mời làm thủ tướng để tổ chức một nội các mới.

Nguồn cảm hứng gây nên do một cuộc vận động của phật tử Việt Nam đã vô cùng rạt rào trong sáng tác của văn nghệ sĩ trong nước. Thơ và nhạc được sáng tác rất nhiều. Ở đây chỉ xin ghi một bài thơ của Trụ Vũ, bài Tình Sông Nghĩa Biển(201) 

Việt Nam và Phật giáo

Phật giáo và Việt Nam

Ngàn năm xương thịt kết liền

Tình sông nghĩa biển mối duyên mặn nồng

 

Cây đa bến cũ

Hình bóng con đò

Thiết tha còn nhớ câu hò

Cây đa bến cũ con đò năm xưa

 

Trang sử Việt Nam yêu dấu

Thơm ướp hương trầm

Nghe trong tim Lý Lê Trần

Có năm cánh đạo nở bừng nguy nga

 

Suối xanh ra biển

Ngát ngát hoa vàng

Suối thơm lòng đất Việt Nam

Chim xanh nhả ngọc, lúa vàng trĩu bông

 

Nắng reo trên lúa

Gió bay trên cờ

Lũy tre vững hiện mái chùa

Ấm tay đại thụ mát bờ quê hương

 

Tóc cài hoa bưởi trắng

Hồn ướp nhị sen vàng

Đời đời cô gái Việt Nam

Trăng lên ngôi vị nữ hoàng tình yêu

 

Phượng hoàng châu Á

Bay vượt nghìn trùng

Thái Sơn, Hy Mã hào hùng

Kết tình châu ngọc trong lòng trường sơn

Mẹ ơi nhớ nước nhớ nguồn

Thương quê thương đạo con còn làm thơ

 

 

GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM THỐNG NHẤT ĐƯỢC THÀNH LẬP

 

Ngày 31.12.1963 các đoàn thể Phật giáo trong đó có Tổng Hội Phật Giáo Việt Nam khai mạc Đại Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất tại chùa Xá Lợi. Đại hội này đi đến quyết nghị thống nhất Phật giáo trong một giáo hội duy nhất gọi là Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất, suy tôn thiền sư Tịnh Khiết làm tăng thống lãnh đạo một viện Tăng Thống và bầu thiền sư Tâm Châu làm viện trưởng viện Hóa Đạo. Một bản Hiến Chương của Giáo Hội mới được công bố ngày 4.1.1964 đại hội bầu xong Viện Tăng Thống Viện Hóa Đạo của giáo hội.

Ước vọng thống nhất Phật giáo từng được giới Phật giáo đồ ôm ấp từ gần 50 năm nay đã được thực hiện. Những tập đoàn trong Tổng Hội Phật Giáo Việt Nam kể từ đây được thực sự xóa bỏ. Trụ sở của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất được đặt tại chùa Ấn Quang cùng với văn phòng của hai viện Tăng Thống và Hóa Đạo. Phần lớn các văn phòng của các Tổng Vụ cũng được đặt tại chùa Ấn Quang.


 

(195) Sau ngày cách mạng thành công, người ta tìm ra được ngôi mộ của Quách Thị Trang tại nghĩa địa Gò Vấp.

(196) Cảnh Sát Chiến Đấu đã phá cổng và leo tường, thâm nhập vào trường Chu Văn An để đàn áp học sinh. Học sinh bắt loa kêu gọi cảnh sát và quân đội ủng hộ cuộc đấu tranh của họ. Sau khi cảnh sát thâm nhập vào trường, học sinh bắt đầu kháng cự lại. Họ liệng bàn ghế từ trên lầu xuống làm hàng chục cảnh sát viên bị thương. Họ cầm cự được trong nhiều giờ trước khi bị chế ngự. Chỉ có độ 100 học sinh leo tường sau trốn sang được khu cư xá đại học, còn tất cả đều bị bắt.

(197) Tại Liên Hiệp Quốc lúc này người đại diện của chính phủ Ngô Đình Diệm alf nhà bác học Bửu Hội từ Phi Châu được lệnh bay sang Nữu Ước vào đầu tháng Chín để lãnh đạo Phái Đoàn Việt Nam tại Liên Hiệp Quốc. Tại Sài Gòn thân mẫu của ông là ni sư Diệu Huệ, nghe tin con mình đang vận động che dấu sự thực về cuộc đàn áp Phật giáo tại Việt Nam, đã tìm mọi cách liên lạc với ông để khuyên ông từ bỏ công việc đó. Tại Nữu Ước, thiền sư Nhất Hạnh đã gặp ông Bửu Hội tới hai lần để khuyên ông từ chức, nhưng không được ông nghe lời. Ngày 20.10.1963, thân mẫu của ông họp báo tại Sài Gòn tuyên bố bà không còn nhận ông Bửu Hội là con nữa.

(198) Tài liệu bí mật Ngũ Giác Đài cũng khẳng định rằng các tướng lãnh cao cấp trên bị thúc đẩy bởi những cuộc âm mưu đảo chính của các tướng tá trẻ tuổi. Điện văn của đại sứ Lodge gửi về Hoa Thịnh Đốn ngày 5.10.1963 cho biết là sáng hôm ấy tướng Minh đã nói rằng một trong những nguyên n do khiến ông phải hành động mau chóng là vì có nhiều cấp chỉ huy đơn vị sư đoàn, đại đội v.v… đang âm thầm chuẩn bị đảo chính của riêng họ, và nếu ông không hành động mau thì “những cuộc đảo chính ấy có thể thất bại” và có thể làm hư hết công chuyện. Tướng Minh cũng nhấn mạnh rằng cuộc đảo chính là việc của ông và các tướng lãnh khác trong quân đội, và ông không muốn Hoa Kỳ xen vào. Ông chỉ cần Hoa Kỳ cam kết là không tìm cách “thọc gậy bánh xe” mà thôi.

(199)

(200)

(201)

BẢNG TRA CỨU

 

- Bảng tra cứu này gồm những tên sách báo, tên người và các tổ chức Phật Giáo được nhắc đến trong tác phẩm nhằm giúp bạn đọc tra cứu được dễ dàng. Tuy nhiên, việc tra cứu chỉ giới hạn ở phần chính văn, không bao gồm cả chú thích.

- Đối với những người xuất hiện trong tác phẩm dưới nhiều tên khác nhau thì để tránh trùng lặp hoặc nhầm lẫn, chúng tôi sẽ gộp chung vào một đơn vị tra cứu, lấy tên nhà Phật (đối với các vị sư) lấy tên hiệu đi cùng với tên đời (đối với người thế tục hoặc cư sĩ) để làm đơn vị tra cứu. Chẳng hạn: Sở Cuồng Lê Dư, hoặc Lê Dư hoặc Sở Cuồng đều gộp lại một đơn vị tra cứu Sở Cuồng Lê Dư. Thiền sư Bích Liên, tên đời là Nguyễn Trong Khải, pháp danh Chơn Giám, tự Đạo Quang, hiệu Trí Hải đều gộp vào đơn vị tra cứu Bích Liên.

- Trường hợp một tên gọi xuất hiện ở nhiều trang, chúng tôi đặt trật tự số trang từ thấp đến cao, in đậm ở trang giới thiệu chi tiết (chủ yếu là tiểu sử, hành trạng các nhà sư).

 

A

 

A Di Đà

A Di Đà Kinh Diễn Nghĩa

A Di Đà Kinh Sớ Sao

Albert Camus

Ambedkar

An Nam Phật Học (H)

An Nam Tạp Chí

An Lạc

André Migot

Ánh Đạo Vàng

Ánh Sáng

Auguste Tholance

Ấn Tâm

Âu Dương Tiệm

 

B

 

Ba Rảm

Bác Hồ

Bản Phụ Đính

Bản Thông Cáo Chung

Bảo Đại

Bảo Đảnh

Bảo Giám

Bảo Long

Bát Nhã Tâm Kinh

Bát Nhã Trực Giải

Bắc Kỳ Phật Giáo (H)

Bất Phế Hán Tự, Bất Túc Dĩ Cứu Nam Quốc

Bích Liên (tên đời là Nguyễn Trọng Khải, pháp danh Chơn Giám, tự Đạo Quang, hiệu Trí Hải)

Bích Phong

Bình Minh

Bồ Đề

Bồ Đề Bản Vô Thụ

Bồ Đề Đạt Ma

Bồ Tát Giới

Bồ Tát Thừa

Bốn Mươi Tám Phép Niệm Phật

Bùi Hưng Gia

Bùi Ngươn Ngãi

Bùi Thiện Căn

Bùi Thiện Cơ

Bùi Thiện Cư

Bùi Tường Huân

Bửu Bác

Bửu Cầm

Bửu Chơn

Bửu Hội

Bửu Huệ

Bửu Lai

Bửu Ngọc

Bửu Sơn

 

C

 

Các Tông Phái Đạo Phật Ở Viễn Đông

Cải Tà Quy Chính

Cải Tổ Sơn Môn Huế

Cái Thang Phật Học

Cao Chánh Hựu

Cao Hữu Đính

Cao Minh

Cao Văn Luận

Cát Tường

Cát Tường Lan

Chánh Lạc

Chánh Quả

Chánh Quan

Chánh Thống

Chánh Tiến

Chánh Trí Mai Thọ Truyền (pháp danh Chánh Trí)

Chân Dung

Chân Nguyên

Chân Nhật (bà Thái Văn Hiệp)

Chấn Hưng Phật Giáo Phải Thực Hành Thế Nào Mới Thấy Kết Quả

Châu Đức

Châu Long

Châu Quang (tên đời là Huỳnh Văn Sính)

Châu Toàn

Châu Tự Ca

Chỉ Nguyệt Lục

Chí Thành

Chí Bảo

Chí Mẫn

Chí Thanh

Chí Thiện

Chí Tín

Chí Tịnh

Chí Quang

Chín Năm Máu Lửa

Chín Năm Máu Lửa Dưới Chế Độ Ngô Đình Diệm

Chính Bỉnh (pháp tự Bình Bình, pháp hiệu Vô Tướng, hiệu Thái Hòa Sa Môn)

Chơn An Lê Văn Định (tên đời là Lê Văn Định, hiệu Chơn An)

Chơn Huệ

Chơn Hương

Chơn Lễ

Chơn Tánh

Chơn Trí (H)

Chúc Thánh

Chuyện Phật Đời Xưa

Chư Kinh Nhật Tụng

Chứng Đạo Diễn CA

Cô Con Gái Phật Hái Dâu

Công Cầu Đạo Của Đức Thích Ca

Công Chân

Công Chức Cách Mạng (H)

Công Cuộc Tranh Đấu Của Phật Giáo Việt Nam

Công Cuộc Tranh Đấu Của Phật Giáo Việt Nam Từ Phật Đản Đến Cách Mạng 1963

Công Nữ Thúc Huấn

A Di Đà

Cung Đình Bính

Cuộc Tranh Đấu Lịch Sử Của Phật Giáo Việt Nam

Cuốn Sách Nhỏ Của Người Tại Gia

Cương Kỷ (tức Hải Thiệu, pháp danh Thanh Tú, pháp tự là Phong Nhiêu)

Cưu Ma La Thập

Cửu Giới

Cứu Quốc

 

D

 

Dã Thảo

Danh Thùy Bất Hủ

David Hewvitarane

David Halberstam

Dharmpala

Di Đà

Di Lặc

Dierre Pasquier

Diên Trường (pháp danh Thanh Ninh, pháp tự Diên Trường)

Diệu Đức

Diệu Hoa

Diệu Hương (tên đời Nguyễn Thị Kiều)

Diệu Không (tên đời Hồ Thị Hạnh, pháp danh Trừng Hảo)

Diệu Kim

Diệu Minh

Diệu Ninh (tên đời là Vương Thị Kiến)

Diệu Pháp

Diệu Pháp Liên Hoa

Diệu Quang (tên đời là Ngô Thị Thu)

Diệu Tánh

Diệu Tấn

Diệu Tịnh (tên đời là Phạm Đại Thọ, Pháp danh Hồng Thọ)

Diệu Thuận

Diệu Viên

Doãn Hải (tên đời là Dương Văn Hiển)

Du Lịch Xứ Nhật

Duy Tâm

Duy tân

Duy Thức Luân

Duy Thức Thuật Ký

Duy Thức Tam Thập Tụng

Duy Thức Triết Học

Duy Vật Biện Chứng Pháp

Duy Tôn Luận Sớ

Dược Sư Sám Pháp

Dương Bá Trạc

Dương Nhân Sơn

Dương Văn Hiếu

Dương Văn Minh

Dương Xuân Dưỡng

 

Đ

 

Đà Thành Phật Học (H)

Đại Bảo Tích

Đại Bát Nhã Kinh

Đại Học

Đại Nam Đồng Văn Nhật Báo

Đại Nam Thuyền Uyển Truyền Đăng Tập Lục

Đại Tạng Kinh

Đại Thừa Chỉ Quán

Đại Thừa Chỉ Quán Thiên Thai

Đại Thừa Nhất Thiết Luận

Đại Thừa Trang Nghiêm Mật Kinh

Đại Viên

Đại Việt Tân Báo

Đàm Chất

Đàm Dậu

Đàm Hinh

Đàm Kiền

Đàm Nghĩa

Đàm Soạn

Đàm Thu

Đàm Thuần

Đám Chay Chùa Thiên Mụ

Đảnh Lễ

Đào Nguyên Phổ

Đáo Liên Hành Lộ

Đạo Hòa Bình Trong Nền Hòa Bình Thế Giới

Đạo Lý Nhà Phật

Đạo Nguyên (Pháp Danh Khoan Dực, Pháp Tự Phổ Chiếu, Pháp Hiệu Thanh Lăng)

Đạo Phật Có Quan Hệ Mật Thiết Đến Sự Sống Của Đời Người

Đạo Phật Có Quan Hệ Mật Thiết Đến Sự Sống Của Conngười

Đạo Phật Và Nền Dân Chủ Mới

Đạo Sinh (Pháp Tự Minh Đạt, Pháp Hiệu Thanh Như)

Đạo Tràng

Đạt Bửu

Đạt Thanh

Đạt Thụy

Đạt Từ

Đắc Ân (tên đời là Đặng Kỳ Đỉnh, pháp hiệu là Đắc Ân)

Đắc Cần

Đắc Nhất

Đăng Cổ Tùng Báo

Đặng Sĩ

Đặng Tống

Đặng Văn Lợi

Đặng Văn Khuê

Đề Thám

Để Đi Đến Một Nền Phật Giáo Dân Tộc

Để Của Thân Sau

Đế Châu

Địa Tạng

Địa Tạng Bổn Nguyện

Địa Tạng Mật Nghĩa

Điều Đình Cái Aùn Quốc Học

Đinh Gia Thuyết

Đinh Văn Lục

Đinh Chí Nghiêm

Dinh Văn Chấp

Đinh Văn Nam

Đinh Văn Vinh

Đoàn Trung Còn

Độc Lập

Đôn Hậu (tên là Diệp Thuần, pháp danh là Trừng Nguyện)

Đông Du (H)

Đông Dương Tạp Chí

Đông Đồ

Đông Giao

Đông Kinh Nghĩa Thục (H)

Đông Pháp

Đồ Nam Tử Nguyễn Trọng Thuật

Đỗ Cao Trí

Đỗ Đình Nghiêm

Đỗ Trí Viên

Đỗ Tiết Triệu

Đỗ Thọ

Đỗ Trần Bảo

Đỗ Xuân Hàng (Thiện Minh)

Đỗ Văn Hỷ

Đời Vui

Đời Sống Vui

Đuốc Tuệ

Đức Mẹ La Vang

Đức Nghiệp

Đức Nhuận

Đức Tâm

Đức Trạm

Đường Thái Tôn

Đường Thiệu Đồng

 

E

Edwin Arnold

Emmanuel Mouvier

Ernest Babut

 

F

 

Frederic Nolting

 

G

 

Gandhi

George Coedes

Gia Đình Phật Hóa Phổ (H)

Gia Đình Phật Tử (H)

Gia Định Báo

Gia Long

Gia Thiện (H)

Giác Bản (pháp tự minh nam, pháp hiệu Thanh Nguyên)

Giác Đức

Giác Hải

Giác Lâm (pháp tự Minh Liễu, pháp hiệu là Lục Hòa)

Giác Ngộ

Giác Nghiêm

Giác Nhiên

Giác Nhựt

Giác Phong

Giác Tâm

Giác Tha

Giác Thiên

Giác Tiên (Nguyễn Giác Tiên)

Giác Viên

Giác Vượng

Giác Xã

Giải Ngạn

Giải Thoát

Giang Minh Xinh

Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất (H)

Giáo Hội Tăng Già Việt Nam (H)

Giáo Hội Tăng Già Toàn Quốc (H)

Giới Đàn Tăng

 

H

 

H.S

H.T

Hà Thị Hoài

Hai mươi lăm bài thuyết pháp

Hải Điện (pháp hiệu là Mật Đa)

Hải Hoằng (pháp tự là tịnhHải Điện (pháp hiệu là Mật Đa)

Hải Hoằng (pháp tự là Tịnh Đức, hiệu Nhu Nhã)

Hải Ngoại Huyết Thư

Hải Triều Âm

Hải Triều Âm Văn Khố

Hàn Mặc Tử

Hán Việt Tự Điển

Hành Sơn

Hành Trì Tập Yếu

Hành Trụ (tên đời là Lê An, pháp danh là Thị An, pháp hiệu là Phước Bình)

Henri Cabot Loldge

Henri Steel Olcott

Hiển Chơn

Hiển Không

Hiển Thụy

Hiển Pháp

Hiến Chương

Hoa Đàm

Hoa Nghiêm Nguyên Nhân Luận

Hoa Nghiêm Sở

Hoa Sen

Hoa Thịnh Đốn Thời Báo

Hoàng Hoa

Hoàng Kim Hải

Hoàng Tăng Bỉ

Hoàng Thông

Hoàng Thị Kim Cúc

Hoàng Thị Uyển

Hoàng Xuân Ba

Hoàng Nghĩa

Hoàng Nguyện

Hoằng Thạc

Hoằng Thâm

Hoằng Thơ

Hoằng Pháp

Học Báo

Hồ Tấn Quyền

Hộ Giác

Hồn Bướm Mơ Tiên

Hồng Chi (tên đời là Đặng Thị Mười, pháp danh là Chí Kiên, pháp tự là Chí Kiên, pháp tự là Như Chi)

Hồng Đạo

Hồng Khê

Hồng Liên

Hồng Tịnh

Huệ Chiếu

Huệ Đăng

Huệ Định

Huệ Mạng

Huệ Minh

Huệ Năng

Huệ Pháp (họ Đinh, pháp danh Thanh Tú, pháp tự Phong Nhiêu)

Huệ Phương

Huệ Quang (tên đời là nguyễn Văn Ân, pháp danh là Thiện Hải)

Huệ Tâm

Huệ Thành

Huệ Tịnh

Huyền Dung

Huyền Giác

Huyền Học

Huyền Huệ

Huyền Không

Huyền Mặc Đạo Nhân

Huyền Quang

Huyền Quý

Huyền Tông

Huyền Vi

Huỳnh Minh Đường

Huỳnh Thái Cửu

Huỳnh Thúc Kháng

Huỳnh Văn Quyền

Huỳnh Văn Cao

Huỳnh Văn Trọng

Huỳnh Văn Yến

Hưng Luyến Vương

Hương Đàm (H)

Hương Đạo

Hương Hải

Hương Từ (H)

Hướng Đi Của Người Phật Tử Việt Nam

Hướng Thiện (H)

Hữu Thanh

 

I

 

Ingormations Catholiques Internationales

 

J

 

Jean

John F. Kennedy

John Richardson

Josept Buttinger

 

K

 

Kao Khả Chính

Kao Tâm Nguyên

Kế Châu

Kế Đăng Lục

Kết Sinh Tương Tục Luận

Khai Hóa

Khải Định

Khang Hữu Vi (Khương Hữu Vi)

Khánh An

Khánh Anh (tên đời là Võ Hóa, pháp danh Chân Húy

Khánh Anh Văn Sao

Khánh Hoa

Khánh Hòa (pháp hiệu Như Trí)

Khánh Tuyên

Khoa Học Tạp Chí

Khóa Hư

Khóa Hư Lục

Khóa Tụng Hàng Ngày

Khoan Giai

Khoan Giáo (pháp tự Nhu Hòa, pháp hiệu Thiệu Căn)

Khoan Nhân (pháp tự là Phổ Tế, hiệu Thanh Từ)

Khoan Thông (pháp tự Chính Trí, pháp hiệu Thanh Quang)

Khôn Nghi Xương Đức Thái Hoàng Thái Hậu

Không Không

Khrautheimer

Kiêm Minh

Kim Cang

Kim Cang Bát Nhã Diễn Nghĩa

Kim Cương

Kim Cương Chư Gia

Kim Cương Lược Sớ

Kim Sơn

Kinh Di Giáo

Kinh Di Đà

Kinh Giải Thâm Mật

Kinh Hiền Nhân

Kinh Lăng Nghiêm

Kinh Lễ Sáu Phương

Kinh Lục Độ Tập

Kinh Phạm Võng

Kinh Pháp Bảo Đàn

Kinh Pháp Cú

Kinh Pháp Hoa

Kinh Thiện Sinh

Kinh Thủ Lăng Nghiêm

Kinh Tứ Thập Nhị Chương

Kinh Vị Tằng Hữu

Kính Hiển Vi

 

L

 

Lạc

Lan Đinh

Lavoisier

Làm Thế Nào Để Giữ Vững Tín Tâm Của Phật Tử

Lăng Già Tâm Aán

Lăng Nghiêm

Lăng Nghiêm Tông Thông

Lâm Em

Lâm Tường Vũ

Le Bouddhisme Au Việt Nam

Le Bouddisme En Annam Des Orgines Au 13è Siècle

Lê Bá Ý

Lê Bối

Lê Cao Phan

Lê Công Hoàn

Lê Đại

Lê Đỉnh

Lê Hiển Tông

Lê Hữu Hoài

Lê Khánh Hòa

Lê Khắc Quyến

Lê Phước Chí

Lê Quang Thiết

Lê Quang Tung

Lê Sĩ Ngạc

Lê Thanh Cảnh

Lê Thị Hạnh

Lê Thiện Trai

Lê Toại

Lê Tuyên

Lê Tư Oanh

Lê Văn Các

Lê Văn Dũng

Lê Văn Điệu

Lê Văn Giáp

Lê Văn Hậu

Lê Văn Hiệu

Lê Văn Lãm

Lê Văn Lâm

Lê Văn Lương

Lê Văn Nhã

Lê Văn Phó

Lê Văn Phúc

Lê Vinh

Lễ Tụng Hành Trì Tập Yếu

Lệ Thần Trần Trọng Kim

Lịch Sử Truyền Bá Phật Giáo

Liên Hoa

Liên Tôn (tên đời làVõ Trấp, pháp danh Như Phước, tự Giải Tiềm, hiệu Huyền Ý)

Liên Tông Tập Niệm

Liễu Minh

Liễu Như

Liễu Triệt

Linh Cơ

Long thư tịnh độ

Lời nguyện tâm huyết

Lời nói của hòn cuội

Luận chỉ quán

Luận đại thừa khởi tín

Luận đại trượng phu

Luật Truyền (Pháp Chuyên)

Lục Hòa liên hiệp (H)

Lữ long giao

Lửa thiêng đạo màu

Lửa từ bi

Lược Ước tùng sao

Lương duyên

Lương hoàng sám pháp

Lương Khải Siêu

Lương Văn Cang

Lưỡng Xuyên Phật học (h)

Lý học

Lý nhân tông

Lý thái tổ

Lý thánh tông

 

M

 

Mahabodhi Society (H)

Malalasekera

Mai Đăng Đệ

Mai Hữu Xuân

Mai Quang Huy

Mai Tuyết An

Mã Tuyên

Mãn Giác

Mật Hiển

Mật Hiền

Mật Khế (pháp danh Tâm Địa)

Mật Nguyện (tên đời là Trần Quốc Lộc, pháp danh Tâm Như)

Mật Thể (tên đời là Nguyễn Hữu Kê, pháp danh Tâm Nhất

Mật Ứng

Mendès France

Minh Cảnh

Minh Châu

Minh Đức

Minh Hạnh

Minh Nguyệt

Minh Tâm (tên đời là Nguyễn Quang Lý)

Minh Tâm (H)

Minh Thuần

Minh Tịnh

Minh Trí

Minh Trực

Monod Herzen

Mông Sơn Thí Thực Khoa Nghi

Mộng Tuyết

Một Đời Sống Vị Tha

 

N

 

Na Tiên Tỳ Kheo

Nam Kỳ Nghiên Cứu Phật Học (H)

Nam Phong Tạp Chí

Nam Thanh

Nehru

Ngài Huệ Năng Và Ngài La Thập

Nghĩa

Nghĩa Chữ “Cho”

Nghĩa Chữ “Không Trong Đạo Phật

Ngọc Bảo

Ngọc Thừa

Ngô Công Bổn

Ngô Điền

Ngô Đình Cẩn

Ngô Đình Diệm

Ngô Đình Nhu

Ngô Đình Thục

Ngô Đồi

Ngô Thành Nghĩa

Ngô Trọng Hiếu

Ngô Trung Nghĩa

Ngô Trung Tín

Ngô Văn Chương

Ngộ Không

Ngũ Giới Diễn Ca

Nguyên Cát

Nguyên Hương (tên đời là Huỳnh Văn Lễ, đạo hiệu là Đức Phong)

Nguyên Thiều

Nguyễn Bình

Nguyễn Can Mộng

Nguyễn Cao Tiêu

Nguyễn Chinh

Nguyễn Chí Quang

Nguyễn Công Thành

Nguyễn Công Trứ

Nguyễn Du

Nguyễn Duy Trinh

Nguyễn Đại

Nguyễn Đình Dương

Nguyễn Đình Hòe

Nguyễn Đình Thuận

Nguyễn Đỗ Mục

Nguyễn Huệ

Nguyễn Huy Xương

Nguyễn Hữu Ba

Nguyễn Hữu Có

Nguyễn Hữu Đồng

Nguyễn Hữu Kha

Nguyễn Hữu Quán

Nguyễn Hữu Tiến

Nguyễn Khải

Nguyễn Khánh

Nguyễn Khắc Ngữ

Nguyễn Khoa

Nguyễn Khoa Kỳ

Nguyễn Khoa Tân

Nguyễn Khoa Toàn

Nguyễn Kinh Lịch (hiệu Văn Trai)

Nguyễn Mạnh Bổng

Nguyễn Mạnh Trừng

Nguyễn Minh Được

Nguyễn Minh Tâm

Nguyễn năng quốc

Nguyễn năng Viên

Nguyễn ngọc thơ

Nguyễn quang độ

Nguyễn quang oánh

Nguyễn quốc thanh

Nguyễn quyền

Nguyễn Phan long

Nguyễn Phúc Chu

Nguyễn phương

Nguyễn Thanh

Nguyễn Thiện Dzai

Nguyễn Thiện Thuật

Nguyễn Thượng Hiền

Nguyễn Tiến Lãng

Nguyễn Tư Thái

Nguyễn Văn Cảnh

Nguyễn Văn Cần

Nguyễn Văn Cẩn

Nguyễn Văn Chế

Nguyễn Văn Đẳng

Nguyễn Văn Đức

Nguyễn Văn Hầu

Nguyễn Văn Hiếu

Nguyễn Văn Hinh

Nguyễn Văn Hợp

Nguyễn Văn Khánh

Nguyễn Văn Khỏe

Nguyễn Văn Minh

Nguyễn Văn Ngọ

Nguyễn Văn Minh

Nguyễn Văn Ngọ

Nguyễn Văn Ngọc

Nguyễn Văn Nhã

Nguyễn Văn Nhiêu

Nguyễn Văn Nhơn

Nguyễn Văn Quỳ

Nguyễn Văn Phiên

Nguyễn Văn Phò

Nguyễn Văn Phụng

Nguyễn Văn Tâm

Nguyễn Văn Thi

Nguyễn Văn Thiện

Nguyễn Văn Thoa

Nguyễn Văn Thục

Nguyễn Văn Tố

Nguyễn Văn Tường

Nguyễn Văn Vật

Nguyễn Văn Vinh

Nguyễn Văn Vĩnh

Nguyễn Văn Xuân

Nguyễn Xuân Chữ

Nguyễn Xuân Thanh

Nguyễn Xuân Tiêu

Nguyệt Đàm

Ngư Khê Tống Tịnh Trai

Ngữ Lục Vấn Đáp Môn Hạ

Nhân Gian Phật Giáo

Nhân Minh Đại Sớ

Nhân Sơn

Nhân Từ

Nhất Cá Khoa Học Giả Nghiên Cứu Phật Kinh Đích Báo Cáo

Nhất Định

Nhất Hạnh

Nhất Liên

Nhất Linh Nguyễn Tường Tam

Nhất Long

Nhất Báo Tỉnh

Nhật Liên

Nhật Minh

Nhị Khóa Hợp Giải

Nhung

Như Hiển

Như Hoa

Như Huy

Như Huyền

Như Nhiêu

Như Như

Như Sơn

Như Thanh

Như Ý

Những Cặp Kính Màu

Nhựt Chánh

Niêm Tụng Kệ

Niết Bàn Sớ

Nolting

Nông Cổ Mín Đàm

 

P

 

Paul Harkins

Phạm Aân

Phạm Biểu Tâm

Phạm Đăng Trí

Phạm Đình Vinh

Phạm Gia Khánh

Phạm Học

Phạm Hữu Bình

Phạm Mạnh Xứng (Đông Phố)

Phạm Ngọc Vinh

Phạm Quỳnh

Phạm Văn Côn

Phạm Văn Đồng

Phạm Văn Liêu

Phạm Văn Luông

Phạm Võng Lược Sớ

Phạm Võng Bồ Tát Giới

Phan Bội Châu

Phan Cảnh Tú

Phan Cảnh Tuân

Phan Châu Trinh

Phan Đình Bính

Phan Đình Hòe

Phan Hiền Đạo

Phan Khanh

Phan Khôi

Phan Thanh Hà

Phan Thanh Khuyến

Phan Thơ

Phan Văn Hùm

Phan Văn Tạo

Phan Xuân Sanh

Pháp Aâm

Pháp Bảo Đàn

Pháp Cú

Pháp Dõng

Pháp Hải (tên đời Nguyễn Văn An)

Pháp Hoa

Pháp Hoa Đề Cương

Pháp hoa Huyền Nghĩa

Pháp Môn Niệm Phật

Pháp Long

Pháp Minh (tên đời Dương Tâm Minh, hiệu Thiền Lâm)

Pháp Tràng

Phật Bửu

Phật Giáo

Phật Giáo Bắc Kỳ (H)

Phật Giáo Bị Lợi Dụng

Phật Giáo Cổ Sơn Môn (H)

Phật Giáo Cư Sĩ Lâm (H)

Phật Giáo Cứu Quốc Nam Bộ (H)

Phật Giáo Dưới Kính Hiển Vi

Phật Giáo Tranh Đấu

Phật Giáo Đối Với Nhân Sự

Phật Giáo Giáo Khoa Toàn Thư

Phật Giáo Hợp Tiến (H)

Phật Giáo Khái Luận

Phật Giáo Sơ Học

Phật Giáo Tân Luận

Phật Giáo Tăng Già Bắc Việt (H)

Phật Giáo Tăng Ni Bắc Việt (H)

Phật Giáo Nam Lai Khảo

Phật Giáo Sơ Học

Phật Giáo Tân Luận

Phật Giáo Tăng Già Bắc Việt (H)

Phật Giáo Tăng Ni Bắc Việt (H)

Phật Giáo Thống Nhất (H)

Phật Giáo Thuở Xưa Và Phật Giáo Ngày Nay

Phật Giáo Thuyền Lữ (H)

Phật Giáo Tích Lan

Phật Giáo Tổng Hội

Phật Giáo Trong Ba Bài Diễn Thuyết

Phật Giáo Tương Tế (H)

Phật Giáo Và Đức Dục

Phật Giáo Và Xã Hội

Phật Giáo Văn Tập

Phật Giáo Vấn Đáp

Phật Giáo Việt Nam

Phật Giáo Việt Nam Trung Phần

Phật Giáo Vô Thần Luận

Phật Giáo Với Hiện Đại

Phật Giáo Với Văn Minh Aâu Tây

Phật Giáo Yếu Lược

Phật Giáo Tân Thanh Niên

Phật Học Bình Định (H)

Phật Học Giáo Khoa

Phật Học Giáo Khoa Thư

Phật Học Kiêm Tế (H)

Phật Học Nam Việt (H)

Phật Học Phổ Thông

Phật Học Thiền Thuyết

Phật Học Tổng Yếu

Phật Học Từ Điển

Phật Học Vấn Đáp

Phật Học Việt Nam (H)

Phật Lục

Phật Pháp

Phật Tổ Đích Truyền Nhất Thống

Phật Tổ Thống Ký

Phật Tử Việt Nam (H)

Phật Với Chúng Sinh

Phép Lạy Hồng Danh Sám

Phổ Huệ (họ Trần)

Phổ Môn

Phổ Sĩ

Phổ Thoại

Phổ Thuyết Hướng Thượng Nhất Lộ

Phổ Thuyết Sắc Thân

Phổ Trí

Phổ Tuệ

Phụ Nữ Liên Đới (H)

Phụ Nữ Tân Văn

Phụ Trương

Phúc Điền

Phúc Hậu

Phước Hảo

Phước Hậu

Phước Huệ (tên đời là Nguyễn Tấn Giao)

Phương Anh

Phương Tiện

Pierre Marti (pháp danh Long Tử)

 

Q

 

Quả Dưa Đỏ

Quan Aâm

Quan Aâm Tạp Chí

Quán Vô Lượng Thọ

Quán Vô Lượng Thọ Phật

Quang Lư (pháp tự Đường Đường, pháp hiệu Như Như, cũng gọi là Hồng Phúc sa môn)

Quang Nghiễm

Quang Phú

Quang Thể

Quảng Độ

Quảng Đức (tên đời là Lâm Văn Tức và Nguyễn Văn Khiết)

Quảng Hằng

Quảng Huệ

Quảng Hương (tên đời là Nguyễn Ngọc Kỳ)

Quảng Liên

Quảng Long

Quảng Minh

Quảng Nhuận

Quảng Tu

Quách Thị Trang

Quách Tòng Đức

Quốc Oai

Quốc Tri

Quốc Tuệ

Quy Nguyên Trực Chỉ

Quy Sơn Cảnh Sách

 

R

 

Rhys David

Richardson

Rivoal

Robert Guillanin

 

S

 

Sa Di Luật Giải

Sa Di Luật Giải Nghĩa

Sen Hái Đầu Mùa

Sir Edwin Arnold

Société d’Etude Et d’Exercice De la Religion Bouddhique En Annam (H)

Sở Cuồng Lê Dư

Sơn Môn Tăng Già (H)

Sơn Môn Tăng Già Ở Trung Việt (H)

Sơn Thái Nguyên

Sự Lý Dung Thông

Sự Thực Cuộc Đấu Tranh Phật Giáo

Sự Tích Phật Tổ Diễn Ca

Sylvan Lévi

 

T

 

T.M

Tài Liệu Mật Ngũ Giác Đài

Tại Gia Cư Sĩ Luật

Tại Sao Tôi Cám Ơn Đạo Phật

Tam Bảo

Tam Ích

Tam Luận Sớ

Tam Quy Ngũ Giới

Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu

Tánh Huyền (tên đời Nguyễn Văn Hàm)

Tăng Ni Chỉnh Lý Bắc Việt (H)

Tâm Bác

Tâm Bảo

Tâm Băng

Tâm Châu

Tâm Giác

Tâm Hoàn

Tâm Hỷ

Tâm Kiên

Tâm Kinh Việt Giải

Tâm Lai

Tâm Lĩnh

Tâm Minh Lê Đình Thám (tên đời Lê Đình Thám, pháp danh Tâm Minh, pháp tự Châu Hải)

Tâm Nghĩa (pháp tự là Nhân Từ)

Tâm Nguyệt

Tâm Quán

Tâm Quảng

Tâm Tấn

Tâm Thể

Tâm Thường

Tâm Tịnh (tên đời là Nguyễn Hữu Vinh)

Tâm Truyền

Tâm Ứng

Tâm Và Tánh

Tâm Viên

Tân Duy Thức Luận

Tân Hoa Nhật Báo

Tập Kỷ Yếu

Tây Song Ký

Tế Sinh Bắc Việt (H)

Tế Xuyên

Thạc Đức

Thạch Điều

Thái Hòa

Thái Hư

Thái Khánh

Thái Phước

Thái Thượng

Thanh Aát

Thanh Cát

Thanh Đàm (pháp danh Giác Đạo, pháp tự Minh Chính, pháp hiệu Hoằng Quang)

Thanh đặc

Thanh Hạnh (tên đời là Nguyễn Thanh Đàm)

Thanh Hậu

Thanh Hoán

Thanh Hương

Thanh Hy

Thanh Niên Đức Dục

Thanh Phán

Thanh Sam

Thanh Thái

Thanh Triệu

Thanh Trọng

Thanh Tuệ (tên đời là Bùi Huy Chương)

Thanh Tuyền

Thanh Từ

Thanh Tường (tên đời là Đinh Xuân Lạc)

Thanh Văn

Thanh Văn Thừa

Thanh Vân

Thành Duy Thức Luận

Thành Thái

Thánh Duyên

Thánh Đăng Lục

Thẩm Oánh

Thần Phong

Thập Mục Ngưu Đồ

Thập Nhị Nhân Duyên

The Light of Asia

The New Yofk Times

The Times Of Vietnam

Théravada

Thể Quán

Thể Thanh

Thể Thuyền

Thể Tín

Thế Giới Phật Giáo Liên Hữu (H)

Thế Giới Quan Phật Giáo

Thế Tôn

Thế Yến (tên đời là Tuyết Sơn)

Thiên Âm

Thiên Ân

Thiên Đức

Thiên Thai Thiền Giáo Tông Liên Hữu (H)

Thiền Định

Thiền Phố

Thiền Tịch Phú

Thiền Uyển Kế Đăng Lục

Thiền Uyển Tập Anh

Thiện Ác Báo Ứng

Thiện Ân

Thiện Chí

Thiện Chiếu (tên đưòi là Nguyễn Văn Sáng, Nguyễn Văn Tài, bí danh Xích Liên)

Thiện Dung

Thiện Hoa

Thiện Hòa (tên đời là Hứa Khắc Lợi)

Thiện Mẫn

Thiện Mỹ (tên đời là Hoàng Miều)

Thiện Niệm

Thiện Quả

Thiện Quang

Thiện Phú

Thiện Siêuư

Thiện Sinh

Thiện Tánh

Thiện Trí

Thiều Chí

Thiều Chửu (Nguyễn Hữu Kha, tự Lạc Khổ)

Thiệu Trị

Thỉnh Âm Hồn Văn

Thọ Cầu

Thông Bạch

Thông Dũng

Thông Thỉnh

Thụ Giới Như Phạm

Thuần Viên

Thủy Nguyệt

Thuyền Minh

Thuyết Nghiệp Báo

Thực Nghiệp Dân Báo

Thực Nghiệp Dân Báo

Thượng Sĩ Ngữ Lục

Tích Lạc Văn

Tiến Đức Cảnh Sách (H)

Tiến Hóa

Tiếng Dân

Tiếng Chuông Sớm

Tiêu Diêu

Tiêu Đầu Nguyễn Bá Trác

Tinh Nghiêm

Tinh Thần Vô Úy Của Phật Giáo

Tinh Tấn

Tinh Tiến

Tình Sông Nghĩa Biển

Tình Hình Phật Giáo Trong Nước

Tính Chúc (pháp tự Thiện Thuật, hiệu Đạo Chu)

Tịnh độ cư sĩ (H)

Tịnh Độ Tông Việt Nam (H)

Tịnh Độ Huyền Cảnh

Tịnh Đức

Tịnh Giác (pháp danh Từ Sơn, tự Hành Nhất, hiệu Tăng Thống Tịnh Giác Hòa Thượng)

Tịnh Hạnh

Tịnh Khiết

Tịnh Nhân

Tomomatsu (Hữu Tùng Viên Đế)

Tô Lai Chánh

Tố Liên (tên đời là Nguyễn Thanh Lai)

Tôn Thất Đính

Tôn Thất Hạnh

Tôn Bảo

Tôn Giáo

Tông Nguyên

Tôn Quang Huy

Tôn Thắng

Tôn Thất Đính

Tôn Thất Quyên

Tôn Thất Tùng

Tống Hồ Cầm

Tống Anh Nghị

Tổng Hội Phật giáo Trung Hoa (H)

Tổng Hội Phật Giáo Việt Nam (H)

Trạch Pháp Tu Tâm

Tràng An

Tráng Đinh

Tranh Biện

Trầm Quân

Trần Cao Vân

Trần Đăng Khoa

Trần Đỗ Cung

Trần Huỳnh

Trần Lê Nhân

Trần Lệ Xuân (bà Ngô Đình Nhu)

Trần Nguyên Chấn

Trần Nhân Tông

Trần Quỳnh

Trần Quý Cáp

Trần Thái Tông

Trần Thanh Hiệp

Trần Thến

Trần Thiện Khiêm

Trần Triều Dật Tồn Điển Lục Trần Triều Thiền Tông Bản Hạnh

Trần Văn Đôn

Trần Văn Giác

Trần Văn Giáp

Trần Văn Hương

Trần Văn Hữu

Trần Văn Khuê

Trần Văn Phú

Trần Văn Tư

Trí Châu

Trí Diệu

Trí Dung

Trí Độ (tên đời là Nguyễn Kim Ba)

Trí Đức

Trí Giải

Trí Hải (tên đời là Đoàn Thanh Tảo)

Trí hiển

Trí Hữu

Trí Không

Trí Nghiêm

Trí Nghiễm (pháp hiệu Thiện Minh)

Trí Thành

Trí Thiên

Trí Thiền (tên đời Nguyễn Văn Đồng)

TríThiếp (pháp danh Hải Tại, tự là Lợi Sinh)

Trí thủ

Trí Thuyên (tên đời là Trần Trọng Thuyên)

Trí Tịnh

Trí Quang (tên đời là Phạm Quang)

Trí Quảng

Trí Uyên

Triết Lý Nhà Phật

Trình Tiên

Trịnh Tiên

Trình Đình Rư

Trọng Ân

Trọng Đức

Trúc Diệp

Trúc Lâm Tam Tổ Ngữ Lục

Trúc Lâm Tông Chỉ Nguyên Thanh

Trung Dung

Trung Hậu

Trung Thứ

Truyện Phật Thích Ca

Trực Hiên

Trương Đình Vi

Trương Đình Ý

Trương Hoàng Lâu

Trương Tú

Trương Văn Luận

Trương Xướng

Trường A Hàm

Trường Lạc

Tu Tập Chỉ Quan Tọa Thiền Pháp Yếu

Tục Tạng Kinh

Tuệ Chiếu

Tuệ Giác

Tuệ Nhuận Văn Quang Thùy

Tuệ Pháp

Tuệ Tạng (tên đời là Trần Thanh Tuyên, pháp danh là Tâm Thi)

Tuệ Trung Thượng Sĩ Ngữ Lục

Tuệ Uyển

Tùng Thiện Vương

Tuyên Ngôn

Tuyên Ngôn Độc Lập

Từ Bi Âm

Từ Bi Hỷ Xả

Từ Bi Thủy Sám Pháp

Từ Cung

Từ Mẫn

Từ Nhãn

Từ Nhẫn

Từ Phong

Từ Quang

Từ Thông

Từ Vân

Tứ Phần

Tứ phần Giới Bổn Như Tích

Tự Đức

Tự Giác

Tường Quang

Tỳ Ni Đa Lưu Chi

 

U

 

U Thant

Uông Trí Biểu

Ủy Ban Liên Hiệp Phật Giáo Thuần Túy (H)

Ưng Bàng

Ưng Bình

Ưng Dinh

Ưu Bà Tắc Giới

Ưu Thiên Bùi Kỷ

 

V

 

Vạn Ân

Vạn Hạnh

Vạn Pháp

Văn Đình Hy

Vân Đàn

Vấn Đề Cải Tạo Xã Hội

Vi Phạm Nhân Quyền Tại Miền Nam Việt Nam

Vì Sao Tôi Tin Phật Giáo

Viên Âm

Viên Đình

Viên Giác

Viên Minh

Viên Quang

Viên Thành (tên đời là Công Tôn Hoài Trấp, hiệu Thành Thượng Nhân)

Viên Trí

Viễn Đệ

Việt Nam Phật Điển Tùng San

Việt Nam Phật Giáo (H)

Việt Nam Phật Giáo (Bắc Việt Tại Miền Nam) (H)

Việt Nam Phật Giáo Sử Luận

Việt Nam Phật Giáo Sử Lược

Việt Nam Phật Giáo Tranh Đấu Sử

Việt Nam Thiền Tông Thế Hệ

Việt Quốc

Vincent Aurol

Việt Nam Phật Học (H)

Vĩnh Gia

Vĩnh Nghiêm

Vĩnh Tường

Võ Chiêm Khôi

Võ Đình Cường

Võ Hoành

Võ Trứ

Võ Trường

Võ Văn Vinh (bà Võ Văn Vinh)

Vu Lan Bồn

Vũ Bảo Vinh

Vũ Cúc Sơn

Vũ Đình Mẫn

Vũ Hoàng Chương

Vũ Ngọc Hoành

Vũ Như Trác

Vũ Thị Định

Vũ Trụ

Vũ Văn Mẫu

Vương Quốc Chính

Vai Trò Đạo Phật Trong Xã Hội Loài Người

Vang Bóng Đức Từ Phụ

Văn Học Tạp Chí

Văn Minh Nhà Phật

Văn Minh Vật Chất Với Đọa Phật

Vô Lượng Thọ

 

W

 

W.P.Daluwatte

Wayne L.Morse

World FelloWship Of Buddhists (Thế Giới Phật Giáo Liên Hữu)

 

X

 

Xuân Đạo Lý

Xương Minh Đạo Phật Ngày Nay Đã Phải Thời Chưa

 

Y

 

Ý Nghĩa Niết Bàn

Ỷ Lan Phu Nhân

Yến Sáng Á Châu

Yếu Lãm

 

TÀI LIỆU THAM KHẢO

 

Hán văn

1. Thiền Uyển Tập Anh

2. Tục Tạng Kinh, Thương Vụ Ấn Thư Quán in lại 1926

3. Đại Tạng Kinh, Châu Khánh Lan, Diệp Quang Xước, Thích Phạm Thành… in, 1931

4. Mông Sơn Thí Thực Khoa Nghi, Lá Bối giữ bản.

5. Ngự Chế Thiền Điển Thống Yếu Kế Đăng Lục

6. Đại Nam Thiền Uyển Truyền Đăng Tập Lục

7. Đạo Giáo Nguyên Lưu

 

Anh Văn, Pháp Văn

8. Bulletn De l’Ecole Francaise d;Extrême (B.E.F.E.O), Hà Nội, 1932.

9. Le Monde, Robert Guillain, Paris, ra ngày 6.4.1961

10. Le Bouddhisme Au Vietnam, Mai Thọ Truyền, Sài Gòn, 1962

11. Informations Catholiques Internationales, số 188, Paris, ra ngày 15.3.1963

12. Levre Jaune Du Vietnam, Hélène Tournaise, Perrin, 1965.

13. The Light Of Asia, Sir Edwin Arnold

15. The Pentagone Paper, nhật báo The New York Times xb, New York, 1971

 

Quốc Văn

16. Quả Dưa Đỏ, Nguyễn Trọng Thuật, Giải thưởng Khai Trí Tiến Đức 1925

17. Chuyện Phật Đời Xưa, Đoàn Trung Còn, Agence, Saigonnaise de Publicité xb, Sài Gòn, 1931

20. Truyện Phật Thích Ca, Đoàn Trung Còn, Sài Gòn 1932

21. Phật Giáo Vấn Đáp, chùa Hưng Long

22. Tăng Đồ Nhà Phật, Đoàn Trung Còn, Sài Gòn, 1934

23. Các Tông Phái Đạo Phật Ở Viễn Đông. Đoàn Trung Còn, Sài Gòn, 1935

24.Việt Nam Tây Thuộc Sử, Đào Trinh Nhất, Sài Gòn, 1937

25. Xuân Đạo Lý, Mật Thể, 1942

26. Việt Nam Phật Giáo Sử Lược, Mật Thể, Tân Việt xb. Hà Nội, 1943

27. Phật Giáo, Trần Trọng Kim, Tân Việt xb, Sài Gòn, 1950

28.Phật Giáo Trong Ba bài Diễn Thuyết, Trần Trọng Kim, Tân Việt xb, Sài Gòn, 1950

29. Cụ Trần Cao Vân, Hành Sơn, Minh Tân xb, Paris, 1952

30. Phật Giáo Thuở Xưa Và Phật Giáo Ngày Nay, Trần Trọng Kim, Tân Việt xb, Sài Gòn, 1953

31. Hương Đạo Hạnh, Tâm Tấn, Liên Hoa xb, Huế, 1956

32. Lịch sử Việt Nam Hiện Kim, Phan Xuân Hòa, Sài Gòn, 1957

33. Phật Giáo Tranh Đấu Sử, Quốc Oai, Tân Sanh xb, Sài Gòn, 1963

34. Thủ Lăng Nghiêm, Tâm Minh Lê Đình Thám dịch, 2 tập, Ban Hoằng Pháp, Hội Phật Giáo thống nhất Việt Nam xb, Hà Nội, 1964

35. Chín Năm Máu Lửa Dưới Chế Độ Ngô Đình Diệm, Nguyệt Đam và Thần Phong, Sài Gòn, 1964

36. Công Cuộc Tranh Đấu Của Phật Giáo Việt Nam, Quốc Tuệ, Sài Gòn, 1964

37. Cuộc Tranh Đấu Lịch Sử Của Phật Giáo Việt Nam, Nam Thanh, Sài Gòn, 1964

38. Việt Nam Phật Giáo Tranh Đấu Sử, Tuệ Giác, Sài Gòn, 1964

39. Phật Học Từ Điển, Đoàn Trung Còn và Huyền Mặc Đạo Nhân, Sài Gòn, 1965

40. Yến Sáng Á Châu, Phật Học Tùng Thư xb, Sài Gòn, 1965

41. Ánh ĐạoVàng, Võ Đình Cường

42. Ý Văn, Tam Ích, Lá Bối xb, Sài Gòn, 1967

43. Kinh Thủ Lăng Nghiêm, Sài Gòn, 1973

44. Đông Kinh Nghĩa Thục, Nguyễn Hiến Lê, Lá Bối xb, Sài Gòn, 1974

45. Thiền Sư Viền Thành, Nguyễn Văn Thoa, Môn đồ Ba La Mật và Tra Am xb, Nha Trang, 1974

 

Tạp Chí Quốc Văn

46. Nam Phong, số 167 (1931), số 189, (1933), số 195 (1934), số 208 - 209 (1934)

47. Tiếng Chuông Sớm, số 2 (1.7.1935), số 3 (15.7.1935), số 9 (12.10.1935)

48. Viên Âm, số 2 (1.1.1934), số 8 (1.7.1934), số 13 (2.1935), số 14 (4.1935), số 15 (5.1935), số 13 (1336), số 25 (1.6.1937), số 48 (5.1942), số 52 (9.1942), số 58 (3.1945), số 59 (4.1943)

49. Đuốc Tuệ, số 2 (17.12.1935), số 11 (25.2.1936), số 29 (30.6.1936), số 32 (21.7.1936), số 54 (1.2.1937), số 60(1.5.1937), số 108 (15.5.1939), số 159 (1.7.1941)

50. Pháp Âm, số 1 (2.1937), số 5 (5.1937), số 7 (7.1937), số 10 (10.1937), số 12 (12.1937), số 13 (2.1938)

51. Tiến Hóa, số 1 (1.1938), số 2 (1.2.1938), số 3 (1.3.1938), số 8 (8.1938), số 9 (9.1938)

52.. Tam Bảo, số 2 (15.2.1937), số 5 (6.7.1937)

53. Từ Bi Âm, số 151 (7.1938)

54. Quan Âm Tạp Chí, số 1 đến 34 (24.10.1938 - 2.1943)

55. Giải Thoát, 1936

56. Thuyền Lữ

57. Bồ Đề, số 11 (17.2.1950), số 24 (28.8.1950)

58. Phật Giáo vn, số 1 (1956., số ()), số 3 (1956), số 4 (1956), số Xuân (1957), số 8 (1957), số 9 (1957), số 11, 12 (1957), số 16 đến 21 (1958), số 22 (1958), số 27 (1959), số 28 (1959)

59. Hải Triều Âm, số 1 (21.4.1964)

60. Từ Quang, số 161 (1.1966), số 237 (11.1972), số 239 (1.1973)

 

---o0o---

[ Mục Lục tập III]

[Chương XXVI ] [Chương XXVII ] [Chương XXVIII ]

[Chương XXIX ] [Chương XXX ] [Chương XXXI ]

 [Chương XXXII ] [Chương XXXIII ] [Chương XXXIV ]

[Chương XXXV ] [Chương XXXVI ] [Chương XXXVII ]

 [Chương XXXVIII ] [Chương XXXIX ] [Chương XXXX ]

---o0o---

[ Mục Lục ][ Tập I ] [ Tập II ] [ Tập III ]

---o0o---

Trình bày: Nhị Tường

Vi Tính: Nguyên Trang
Cập nhật: 01-11-2004

Nguồn: www.quangduc.com

Về danh mục

đinh bên số chè CÃn sống ở đời nên học cách cúi đầu ăn chay và mối tương quan giữa người TP Trường Cần giao tieng nguoi thi dau kho Nước chanh ấm muoi lam dieu dang de suy ngam trong cuoc thanh thiếu niên với việc đi chùa ï½ çŠ cham soc nguoi benh co phuoc bau chua long tuyen can mang doi nguoi Gánh lá dong chợ Tết bong mat tam hon dung ich ky Chùa Bà Thao Mùng vấn 9 Giáo hoa tu mieng ra Thịt đỏ làm tăng nguy cơ bệnh đường Thay đổi độ cao đột ngột có thể Đủ học cách çš tình yêu đôi lứa qua cái nhìn đầy ý thoi dựng phien nao va benh tat ÄÆ lang liên hoa sắc con đường của nến và hoa 8217 knock out Phật giáo ç on tự tại với sanh tử y nghia ngay phat dan Viết bo kinh phat co nhat tai chua bo da duoc xep hang Ăn uống lành mạnh để giảm bệnh tim tap nghe thuat lam viec chuyen