Phạm Kim Khánh dịch Việt, 1998
Chiến
đấu để thành đạt Đạo Quả
"Làm
việc xấu xa và vô ích thì dễ, Nhưng làm được những điều
hữu ích và tốt đẹp, quả thật là rất khó." --
Kinh Pháp Cú.
---o0o---
Cuộc Chiến Đấu
Luôn
luôn gặp trở ngại, nhưng Đạo Sĩ Gotama không bao giờ nản
chí. Với tinh thần bất khuất, nay đây mai đó trong xóm
Maghada (Ma Kiệt Đà) để tìm trạng thái Thanh Bình An Lạc và
Chân Lý tối thượng. Một ngày kia, Đạo Sĩ đến Uruvela,
thị trấn của xứ Senani. Nơi đây Ngài tìm ra một địa điểm
giữa đám rừng tươi tốt, bên cạnh một dòng sông ngoạn
mục, uyển chuyển uốn mình trong lòng hai bãi cát trắng, không
xa có xóm làng thạnh vượng, hằng ngày có thể đến đó trì
bình khất thực. Ngài nghĩ như sau:
"Cảnh vật quả thật hữu hình,
cụm rừng đẹp đẽ, dòng sông thú vị với bãi cát trắng và
thôn xóm không xa. Ta có thể dễ dàng đến đó trì bình. Đối
với những mầm non đạo đức quyết tâm cố gắng hướng đến
mục tiêu cao quý, thì đây quả thật là nơi thích hợp"
[1].
Địa điểm thích nghi với công phu hành
thiền. Không khí an lành, cây cỏ sum suê, phong cảnh xanh tươi.
Ngài nhất định lưu lại đây để thành tựu nguyện vọng.
Khi hay tin Thái Tử Siddhattha (Sĩ Đạt
Ta) từ bỏ đền đài cung điện để ra đi sống đời tu sĩ,
Kondanna (Kiều Trần Như) là vị đạo sĩ Bà La Môn trẻ tuổi
đã tiên đoán rằng về sau thái tử sẽ đắc Quả Phật, cùng
với bốn người con của bảy vị đạo sĩ khác tên Bhaddiya,
Vappa, Mahanama và Assaji cũng đi tìm Ngài để tu học.
Thuở bấy giờ người Ấn Độ rất
thiết tha trung thành với các nghi lễ, các hình thức khổ
hạnh và các thể thức cúng tế. Theo sự tin tưởng ấy,
nếu không ghép mình vào nếp sống khắt khe khổ hạnh thì không
thể giải thoát. Trưởng thành trong tín ngưỡng này, Đạo Sĩ
Gotama (Cồ Đàm) và năm anh em Kondanna (Kiều Trần Như) bắt đầu
cuộc chiến đấu phi thường kéo dài sáu năm trường, tự khép
mình vào nếp sống cực kỳ kham khổ cho đến một ngày kia
thân hình tráng kiện của Đạo Sĩ Gotama (Cồ Đàm) chỉ còn
là bộ xương bọc da. Càng ép xác khổ thân, Ngài càng lìa xa
mục tiêu.
Nhiều bài kinh đã ghi chép lời của
chính Đức Phật, mô tả đầy đủ sự nỗ lực kiên trì,
những phương pháp khác nhau mà Ngài đã áp dụng , và sự thành
công cuối cùng của Ngài, trong cuộc tranh đấu vạn phần cam
go đau khổ này.
Kinh Maha Saccaka Sutta [2] mô tả hạnh
tinh tấn của Bồ Tát như sau:
"Lúc ấy tư tưởng sau đây phát
sanh đến tôi:
"Hay là ta cắn chặt răng lại,
ép lưỡi sát vào nắp vọng, rồi dùng tâm (thiện) đè nén,
chế ngự, và tiêu diệt những tư tưởng (bất thiện)!
"Rồi tôi cắn chặt răng lại,
ép lưỡi sát vào nắp vọng, và nỗ lực đè nén, chế ngự,
và tiêu diệt những tư tưởng (bất thiện) bằng tâm (thiện).
Lúc tôi chiến đấu như vậy thì mồ hôi từ trong nách chảy
tuôn ra.
'Như người mạnh nắm lấy đầu hay
hai vai một người yếu rồi đè xuống, dùng sức cưỡng bách
và khắc phục, không cho ngóc lên, cũng dường thế ấy, tôi
chiến đấu và khắc phục (những tư tưởng bất thiện).
"Sự tinh tấn của tôi quả
thật kiên trì và bất khuất. Tâm niệm của tôi thật là
vững chắc và không hề chao động. Tuy nhiên, thân tôi mòn
mỏi và không an lạc sau khi cố gắng một cách đau khổ --
thể xác phải chịu khuất phục trước sự nỗ lực kiên trì.
Mặc dầu những cảm giác đau đớn phát sanh đến thân tôi,
nó không làm tổn hại đến tâm tôi chút nào.
"Lúc ấy tôi nghĩ như sau: Hay ta
thử trau giồi pháp hành thiền nín thở!
"Rồi tôi kiểm soát chặt chẽ hơi-thở-vô
và hơi-thở-ra, từ miệng và mũi. Khi tôi kiểm soát hơi-thở-vô,
thở-ra, ở miệng và ở mũi, thì có luồng hơi thoát ra từ
lỗ tai, tạo nên một thứ âm thanh to lớn khác thường. Hơi
gió thoát ra từ hai ống thụt của anh thợ rèn kêu như thế
nào thì lúc tôi ngừng thở, luồng hơi từ lỗ tai thoát ra
tạo một âm thanh cũng to như thế ấy.
"Dẫu sao, hạnh tinh tấn của tôi
vẫn kiên trì và bất khuất. Tâm niệm của tôi vẫn vững
chắc và không hề chao động. Tuy nhiên, thân tôi mòn mỏi và
không an lạc sau khi cố gắng một cách đau khổ -- thể xác
phải chịu khuất phục trước sự nỗ lực kiên trì. Mặc
dầu những cảm giác đau đớn phát sanh đến thân tôi, nó không
làm tổn hại đến tâm tôi chút nào.
"Rồi tư tưởng sau đây phát
sanh đến tôi: Hay là ta thử trau giồi pháp nín thở!
"Rồi tôi kiểm soát hơi-thở-vô,
thở ra từ miệng, mũi và tai. Lúc ngừng thở bằng miệng, mũi
và tai thì hơi (bị dồn ép) đập mạnh trong đầu tôi. Như có
người thật mạnh khoan vào sọ tôi một lưỡi khoan thật bén,
khi tôi ngừng thở, hơi đập vào đầu tôi cũng làm đau đớn
như vậy. Mặc dầu những cảm giác đau đớn như vậy phát
sanh ở thân tôi, nó không ảnh hưởng đến tâm tôi chút nào.
"Lúc ấy tôi tự nghĩ: Hay ta
thử hành pháp thiền nín thở ấy một lần nữa!
"Rồi tôi kiểm soát hơi-thở-vô,
thở-ra từ miệng, mũi và tai. Và lúc tôi ngừng thở, đầu tôi
nghe đau bưng lên. Trạng thái đau đớn kinh khủng lúc bấy
giờ giống như có một lực sĩ dùng dây thừng siết chặt đầu
tôi lại. Tuy nhiên, hạnh tinh tấn của tôi vẫn một mực kiên
trì. Những cảm giác đau đớn ấy không gây ảnh hởng đến
tâm tôi.
"Lúc ấy tôi tự nghĩ: Hay ta
thử hành thiền về pháp nín thở một lần nữa!
"Rồi tôi ngưng thở bằng miệng,
mũi và tai. Khi tôi kiểm soát hơi thở như thế ấy thì một
luồng hơi mạnh thọc xuyên qua bụng tôi. Tên đồ tể,
thiện nghệ hay mới tập sự, dùng dao bén rạch một đường
trên bụng, làm đau đớn thế nào thì luồng gió mạnh thọc
xuyên qua bụng làm tôi đau đớn dường ấy. Tuy nhiên tôi
vẫn một mực kiên trì tinh tấn. Những cảm giác đau đớn
ấy không ảnh hưởng đến tâm tôi.
"Lần nữa tôi tự nghĩ: Hay ta
thử hành thiền thêm về pháp nín thở!
"Rồi tôi kiểm soát hơi-thở-ra,
thở-vào từ miệng, mũi và tai. Và khi nín thở như vậy tôi
cảm giác như có một ngọn lửa to khủng khiếp bừng lên và
bao trùm lấy tôi. Như có người mạnh nắm chặt một người
yếu và đặt lên ống lửa than đang cháy đỏ cho đến lúc
hoàn toàn thiêu rụi, lửa thiêu đốt thân tôi lúc ngừng
thở cũng nóng dường thế ấy. Tuy nhiên, tôi vẫn kiên trì
tinh tấn. Những cảm giác đau đớn không gây tổn hại đến
tâm tôi.
"Lúc ấy có những vị Trời
thấy tôi vậy thì nói với nhau: Đạo Sĩ Gotama (Cồ Đàm) đã
chết! Vài vị khác ghi nhận: Đạo Sĩ Gotama chưa chết hẳn,
nhưng đang chết dần! Trong lúc ấy cũng có vị nói: Đạo Sĩ
Gotama chưa chết hẳn cũng không phải đang chết dần. Ngài là
một vị A La Hán. Đây là lối sống của một vị A La Hán."
"Rồi tôi nghĩ: Hay ta thử hành
pháp tuyệt thực!
"Lúc ấy có những vị Trời
gần tôi và nói: "Bạch Ngài, xin Ngài chớ nên hành pháp
tuyệt thực. Nếu Ngài tuyệt đối không dùng vật thực nữa
thì chúng tôi sẽ rót trên thân Ngài những chất bổ của
cảnh Trời để cho nó thấm vào lỗ chân lông và nuôi sống
Ngài."
"Và tôi nghĩ: Nếu ta hành pháp
tuyệt thực mà các vị Trời lại rót chất bổ của cảnh
Trời để nuôi sống thân này thì quả là một điều gian
dối, nên tôi từ chối rằng: "Điều ấy không cần
thiết".
"Lúc ấy tôi suy nghĩ như sau: Hay
ta thử dùng chút ít vật thực, mỗi lần chỉ một chút thôi,
một ít nước đậu xanh hay rau cỏ, hay đậu đỏ, hay đậu
trắng.
"Khi mà tôi chỉ dùng thật ít
vật thực như thế, ở thể đặc hay tể lỏng, thì thân tôi
trở nên cực kỳ gầy yếu. Vì thiếu vật thực, những bộ
phận lớn và nhỏ trong thân tôi ốm gầy không khác nào
những cọng cỏ ống hay những cây đăng tam thảo. Bàn tọa
của tôi chỉ còn bằng cái móng của con lạc đà. Xương
sống tôi cũng như một xâu chuỗi dựng đứng lên và cong vào.
Xương sườn tôi tựa như một cái sườn nhà bị sụp đổ.
Trong mắt tôi không khác nào hình ảnh của những ngôi sao mà
ta có thể thấy dưới một cái giếng sâu. Trái mướp đắng
cắt ra lúc còn tươi rồi đem phơi, gió và nắng làm da mướp
teo lại, nhăn nhó và héo tàn thế nào thì da đầu tôi lúc
ấy, vì thiếu chất dinh dưỡng, cũng nhăn nhó và héo tàn như
thế ấy. Khi muốn rờ da bụng thì tôi đụng nhằm xương
sống. Và khi muốn rờ xương sống thì tôi lại đụng nhằm
da bụng. Vì thiếu vật thực, da bụng tôi ép sát vào xương
sống và, lúc muốn đứng dậy đi tiểu tiện, thì tôi luống
cuống té ngã xuống. Tôi đập nhẹ trên chân, tay để làm
cho thân mình sống lại. Than ôi, lúc đập như thế, lông trên
mình tôi lả tả rơi xuống đất vì đã chết gốc. Thấy tôi
như vậy, có người nói: 'Đạo Sĩ Gotama đen'. Vài người nói:
'Đạo Sĩ Gotama (Cồ Đàm) không đen mà xanh dương'. Cũng có
người nói: 'Đạo Sĩ Gotama không đen mà cũng không xanh dương
mà nâu sậm'. Màu da sáng sủa và trong trẻo của tôi tàn tệ
đến như thế ấy vì thiếu vật thực.
"Rồi tư tưởng sau đây phát
sinh đến tôi: Dầu các đạo sĩ hay các nhà tu khổ hạnh
trong quá khứ đã chịu những cảm giác nhức nhối, đau đớn,
dữ dội hay xót xa như thế nào, thì cũng đến mức này là cùng,
không thể hơn nữa. Dầu các đạo sĩ hay các nhà tu khổ
hạnh trong tương lai sẽ chịu những cảm giác nhức nhối, đau
đớn, dữ dội hay xót xa thế nào, thì cũng đến mức này là
cùng, không thể hơn. Tuy nhiên, đã trải qua bao nhiêu khắc
khổ, khó khăn và đau đớn mà ta không đạt được điều
chi tốt đẹp, xứng đáng với sự giác nộ cao thượng và trí
tuệ vượt hẳn những trạng thái cao thượng của loài người.
Hay là còn con đường nào khác dẫn đến Giác Ngộ chăng?"
Ép xác khổ hạnh dưới đủ hình
thức, Đạo Sĩ Gotama vẫn không thu hoạch được kết quả
cứu cánh, mà chỉ kiệt sức. Mặc dầu, nhờ lúc thiếu
thời sống trong cảnh đầy đủ ấm no sung túc nên có sức
lực dồi dào và thân hình tráng kiện, nhưng Ngài vẫn thấy
không còn chịu đựng được nữa. Vóc mình đẹp đẽ xưa
kia nay đã trở nên gầy còm suy nhược, màu da vàng tươi đã
trở thành xanh lợt. Máu cạn, gân rút, thịt teo, mắt thụt và
mờ dần. Ngài chỉ còn là một bộ xương có sự sống. Nhưng
cái chết đã gần kề.
Giữa tình trạng nguy ngập ấy, trong
khi ý chí vững chắc của Ngài ở mức độ cao nhất (Padhana),
trong khi Ngài vẫn ngồi bên bờ sông Neranjara (Ni-liên-thiền)
nỗ lực kiên trì và suy niệm để thành đạt cho được
trạng thái châu toàn tuyệt đối thì Namuci [3] đến gần và
nói những lời sau đây [4]:
"Hỡi này Đạo Sĩ, người gầy
còm, thân hình tiều tụy, giờ chết đã đến.
"Một ngàn phần (trong thân hình
người) đã chết mòn, chỉ còn lại một phần sống. Hãy
sống, hỡi Đạo Sĩ! Sống là hơn. Có sống mới tạo được
phước.
"Hãy sống độc thân và hằng cúng
tế Thần Lửa, người sẽ tạo được nhiều phước. Ép mình
sống đời khổ hạnh như thế này để làm gì? Con đường
kiên trì nỗ lực quả thật kham khổ, khó khăn, và không
phải dễ thành tựu."
Ma Vương đứng trước mặt Đức
Thế Tôn, nói những lời như vậy. Để trả lời, Bồ Tát
dạy:
"Này con người xấu xa quỉ
quyệt, thân quyến của tội lỗi và lười biếng! Ngươi đến
đây vì lợi ích riêng của ngươi.
"Đối với ngươi, phước báu nào
có giá trị gì, dầu bao nhiêu phước cũng vô ích. Nhưng bổn
phận của ngươi là phải nói như vậy.
"Với niềm tin vững chắc (saddha),
tự kiểm soát tâm chặt chẽ (tapo) [5], tinh tấn (viriya) và trí
tuệ (panna), ta tu hành như vậy. Ta đã quyết tâm như vậy,
sao ngươi còn cật vấn ta về đời sống?
"Gió thổi mãi, một ngày kia cũng
có thể làm cạn dòng suối, thì máu huyết của người tu ép
xác khổ hạnh (nhịn ăn, nhịn uống) làm gì khỏi bị khô
dần?
"Máu cạn thì mật khô, thịt cũng
hao mòn. Thịt càng hao mòn thì tâm càng thanh tịnh. Tâm càng
an tịnh, càng an trụ, càng sáng suốt, thì tâm định càng
vững chắc.
"Lúc ấy cơ thể ta đau đớn vô
cùng. Thể xác càng đau đớn, tâm hồn càng xa lìa tham ái.
Chừng ấy ta biết rõ thế nào là trạng thái trong sạch của
một chúng sanh!
"Tham dục (Kama) là đạo binh số
một của ngươi. Đạo binh thứ nhì là Bất Mãn với đời
sống thánh thiện (Arati). Ba là Đói và Khát (Khuppipasa) [6].
Bốn là Ái Dục (Tanha). Năm là Hôn Trầm Dã Dượi (Thina-Middha,
uể oải, lười biếng và hôn mê). Sáu là Sợ Hãi (Bhiru).
Bảy là Hoài Nghi (Vicikiccha) [7]. Tám là Phỉ Báng và Cố
Chấp (Makkha-Thambha). Chín là Lợi Lộc (Labha), Khen Tặng (Siloka),
Vinh Dự (Sakkara) và Thinh Danh Bất Chánh (Yasa), và đạo binh
số mười là Sự Đánh Cao Quá Mức Giá Trị Của Mình và
Khinh Rẻ Kẻ Khác (Attukkamsanaparavambhana).
"Namuci, đó là quân đội của ngươi.
đó là khách luôn luôn lưu trú bên trong hạng người xấu xa
quỷ quái. Người hèn nhát ươn yếu thì không thắng nổi, nhưng
ai chế ngự được những đạo binh ấy là tìm ra hạnh phúc.
"Ta cột trên ngọn cờ của ta chùm
cỏ Munja [8]. Đời sống trên thế gian này rõ là khốn khổ.
Thà ta chết trên chiến trường còn hơn sống mà thất bại!
[9]
"Kiểm soát chặt chẽ dòng tư tưởng,
và với chánh niệm kiên cố vững chắc, ta sẽ đi bất định
từ nơi này đến nơi khác, rèn luyện một số đông môn đệ.
"Chuyên cần tinh tấn, quyết định,
và thực hành giáo huấn của ta -- không quan tâm đến ngươi
- những vị ấy sẽ đến tận nơi mà không còn đau khổ."
Với những lời cương quyết ấy, Đạo
Sĩ Gotama cả thắng Ma Vương Tâm Ác, và nhất định thành đạt
cho kỳ được mục tiêu, Đạo Quả Phật.
Sau sáu năm tự bản thân kinh nghiệm,
Đạo Sĩ Gotama đã nhận thức chắc chắn rằng lối tu khổ
hạnh không thể đem lại lợi ích, mặc dầu các triết gia và
các tu sĩ thời bấy giờ quả quyết rằng đó là nếp sống
tối cần thiết để đạt đến cứu cánh. Thấy rằng khổ
hạnh chỉ làm giảm suy trí thức và mệt mỏi tinh thần, Ngài
liền dứt khoát từ bỏ lối tu ấy, cũng như trước kia đã
từ bỏ lối sống lợi dưỡng, chỉ làm chậm trễ tiến bộ
khoa học, và chọn con đường "Trung Đạo" mà sau sẽ
trở thành một trong những đặc điểm của Giáo Lý Ngài.
Hồi tưởng lại khi còn thơ ấu, vào
một buổi lễ Hạ Điền kia, trong lúc vua cha và mọi người
đang chăm chú cử hành các cuộc vui, thì Ngài đã ngồi thế
nào dưới tàng bóng mát mẻ của một cây trâm, tham thiền,
nhập định và đắc Sơ Thiền.
Đó mới thật là con đường dẫn đến
Giác Ngộ.
Ngài nhận định rằng vơí tấm thân
mòn mỏi không thể hoàn toàn sáng suốt, một sức khỏe thích
nghi rất cần thiết để thành đạt tiến bộ tinh thần, nên
quyết định không nhịn đói nữa mà dùng những vật thực
thô sơ.
Năm vị tu sĩ thân tín bấy giờ lâu
nay theo hầu cận với bao nhiêu hy vọng, nay thấy Ngài đột
ngột thay đổi phương pháp tu tập như vậy thì lấy làm
thối chí, bỏ đi Isipatana (Vườn Lộc Giả) và nói rằng:
"Đạo Sĩ Cồ Đàm đã trở lại
ưa thích xa hoa, đã ngừng cố gắng, và đã quay về đời
sống lợi dưỡng."
Trong lúc quyết định quan trọng như
vậy, sự hỗ trợ bên ngoài thật vô cùng khẩn thiết. Chính
ngay lúc ấy, những người bạn đồng tu lại bỏ ra đi. Nhưng
Ngài không ngã lòng. Một mình, trong cảnh cô đơn, giữa
chốn rừng sâu, các bậc vĩ nhân thường chứng ngộ những
chân lý cao sâu thâm diệu và giải quyết được những vấn
đề phức tạp, khó khăn.
Sau khi độ một vài vật thực thô sơ,
Đạo Sĩ Gotama (Cồ Đàm) phục hồi sức khỏe và dễ dàng
nhập Sơ Thiền (Jhana), tầng thiền mà Ngài đã thành tựu
trong buổi thiếu thời [10]. Rồi từ đó dần dần Ngài nhập
Nhị Thiền rồi Tam và Tứ Thiền. Khi nhập thiền, tâm Ngài
an trụ hoàn toàn vững chắc vào một điểm, lắng dịu trong
sáng như mặt gương lau chùi bóng láng, và mọi sự vật đều
có thể phản chiếu một cách vô cùng trung thực. Rồi tư tưởng
trở nên lắng dịu, tinh khiết, trong sạch, không còn ô
nhiễm, dễ uốn nắn, giác tỉnh, vững chắc và không thể
lay chuyển, Ngài hướng tâm về tuệ giác có liên quan đến
trạng thái "Hồi Nhớ Những Kiếp Quá Khứ" (Pubbe-nivasanussati
Nana, Túc Mạng Minh, tuệ hồi nhớ tiền kiếp).
Ngài nhớ lại nhiều kiếp sống qúa
khứ như thế này: Đầu tiên một kiếp, hai kiếp, rồi ba
kiếp, rồi bốn, năm, mười, hai mươi, đến năm mươi, rồi
một trăm, một ngàn, một trăm ngàn, rồi sự phân tán của
nhiều chu kỳ thế gian, rồi sự phát triển của nhiều chu
kỳ thế gian, rồi cả hai, sự phân tán và sự phát triển
của nhiều chu kỳ thế gian. Ở đây Ngài tên gì, sanh trưởng
trong gia đình nào, giai cấp nào, kiêng cữ điều gì, vui thích
và đau khổ thế nào, và chết cách nào. Từ cảnh ấy ra đi,
Ngài tái sanh vào cảnh nào, có tên gì, sanh trưởng trong gia
đình nào, giai cấp nào, kiêng cữ điều gì, vui thích và đau
khổ thế nào và chết cách nào. Rồi từ đó ra đi, tái sanh
vào cảnh này.
Như thế ấy Ngài hồi nhớ cách
thức tái sanh và nhiều chi tiết về những kiếp sống quá
khứ.
Đây, hẳn vậy, là Tuệ Giác Đầu
Tiên mà Ngài chứng ngộ vào lúc canh một, đêm Thành Đạo.
Đã phá tan lớp vô minh có liên quan
đến qúa khứ, Ngài hướng tâm thanh tịnh về tuệ "Tri
Giác hiện tượng Diệt và Sanh của Chúng Sanh" (Cutupapata
Nana, Thiên Nhãn Minh).
Với tuệ nhãn tinh khiết và siêu phàm,
Ngài nhận thấy chúng sanh chết từ kiếp này tái sanh vào
một kiếp sống khác.
Ngài chứng kiến cảnh tượng kẻ
sang người hèn, kẻ đẹp người xấu, kẻ hạnh phúc người
đau khổ, tất cả đều trải qua hiện tượng diệt và sanh,
tùy hành vi tạo tác của mỗi người.
Ngài biết rằng người này, do hành
động, lời nói và tư tưởng bất thiện, nguyền rủa bậc
Thiện Trí Cao Thượng, tin tưởng không chân chánh và có nếp
sống của người tà kiến, sau khi thể xác phân tán và lìa
đời, đã tái sanh vào những trạng thái bất hạnh.
Ngài biết rằng những người kia, do
hành động, lời nói và tư tưởng tốt đẹp, biết tôn
trọng bậc Thiện Trí Cao Thượng, có đức tin chân chánh và
có nếp sống của người có chánh kiến, sau khi thân hoại
mạng chung, đã tái sanh vào những cảnh Trời an vui hạnh phúc.
Như vậy, với Thiên Nhãn Minh, Ngài
mục kích tình trạng phân tán và cấu hợp trở lại của chúng
sanh.
Đây, hẳn vậy, là Tuệ Giác Thứ Nhì
mà Ngài chứng ngộ trong canh giữa, đêm Thành Đạo.
Đã phá tan lớp vô minh có liên quan
đến tương lai, Ngài hướng tâm thanh tịnh về "Tuệ
Hiểu Biết sự Chấm Dứt các pháp Trầm Luân" (Asavakkhaya
Nana, Lậu Tận Minh) [11]. Đúng với thực tại, Ngài nhận
thức: "Đây là Phiền Não", "Đây là sự Chấm
Dứt Phiền Não". "Đây là Con Đường dẫn chấm dứt
Phiền Não".
Cùng một thế ấy, đúng với thực
tại Ngài nhận định: "Đây là Ô Nhiễm". " Đây
là sự Chấm Dứt Ô Nhiễm". "Đây là con đường
dẫn đến Chấm Dứt Ô Nhiễm".
Nhận thức như thế, tâm Ngài giải
thoát ra khỏi dục lậu (ô nhiễm của dục vọng), hữu lậu
(ô nhiễm của sự luyến ái đời sống) và vô minh lậu (ô
nhiễm của vô minh).
Được giải thoát, Ngài biết rằng:
"Ta đã được giải thoát" [12] và Ngài nhận thức:
"Tái sanh đã chấm dứt, đời sống Phạm Hạnh đã được
viên mãn, đã làm xong những việc cần phải làm, không còn
trở lại trạng thái này nữa." [13]
Đây là Tuệ Giác Thứ Ba mà Ngài
chứng ngộ trong canh ba, đêm Thành Đạo.
Màn vô minh đã được giải tỏa và
trí tuệ phát sanh. Đêm tối đã tan và ánh sáng đến.
[1] Majjhima Nikaya, Trung A -Hàm,
Ariya-Pariyesana Sutta, số 26, Tập I, trang 166.
[2] Majjhima Nikaya - Trung A-Hàm, số 36,
Tập I, trang 242.
[3] Namuci là một tên khác của Ma Vương
(Mara). Theo kinh sách, có năm loại Ma Vương là: 1. Trời Ma Vương
(Devaputta), Khát vọng (Kilesa), 3. Hành (Abhisamkhara), 4. Uẩn (Khandha),
và 5. Tử Thần (Maccu).
[4] Sutta Nipata, Padhana Suta, trang 74.
[5] Tapo - trong bản thảo của Pali
Text Society, danh từ này viết là "Tato"
[6] Đói và Khát, do sự tự nguyện
nghèo khổ.
[7] Hoài nghi ở đây hàm ý là sự
bất định về mục tiêu. Xem Chương 37
[8] Thời bấy giờ, trước khi ra
trận người chiến sĩ cột trên ngọn giáo của mình chùm
cỏ Munja, tỏ rằng không bao giờ lùi bước trước quân địch.
[9] Sangame me matam seyyo - Yan ce jive
parajito.
[10] Jhana, xem chú thích về Lễ Hạ
Điền ở Chương 1
[11] Asavas, pháp trầm luân, là những
hoặc lậu, hay bợn nhơ trong tâm. Nhìn về phương diện cảnh
giới, là những ô nhiễm ngủ ngầm trong tâm, trôi chảy theo
luồng nghiệp cho đến các cảnh giới cao nhất. Nhìn về phương
diện luồng tâm, là những ô nhiễm ngủ ngầm, trôi chảy
theo luồng nghiệp đến trạng thái Gotrabhu (chuyển tánh). Có
bốn pháp trầm luân là: Dục (Kama), Hữu (Bhava), Tà Kiến (Ditthi)
và Vô Minh (Avijja). Đoạn kinh này chỉ đề cập đến ba pháp
hoặc lậu mà thôi. Ở đây, Bhava hay Hữu có nghĩa là ý
muốn tái sanh vào những cảnh giới Sắc và Vô Sắc (Rupa và
Arupa Bhava).
[12] Vimutto'smi
[13] Khina jati, vusitam brahmacariyam,
katam karaniyam, naparam itthattaya.
( Trang nhà Quảng Đức, 02/2002)
Nguồn: www.quangduc.com