I. Những
định lý chi phối con người và sự vật.
1.
Định lý Vô thường: Anicca.
Định lý đầu tiên là
định lý Vô thường (Anicca) nêu rõ
không một sự vật gì ở trên đời mà
được thường hằng, bất biến. Nói một cách
khác, mọi sự vật kể cả con người đều bị luật Vô thường chi phối. Núi non,
nhà cửa, cây cối, người vật đều được
thay đổi và bị thay đổi trong từng sát
na, từng phút, từng giây. Có khi sự thay đổi rất mau lẹ chúng ta có thể
thấy được như nhà cửa bị đổ nát trong
thời kỳ chiến tranh; có khi sự thay đổi tế nhị lâu dài hơn từ
đời này qua
đời khác như sông núi, mặt trăng, mặt trời.
Định lý Vô thường này được nhận xét
dưới nhiều trạng thái hình thức khác nhau như sanh tử, khởi diệt, tăng
giảm, co dãn, thành hoại, hữu vô, tiến thối v.v... Dù dưới hình
thức nào, định lý Vô thường này hàm
chứa ý nghĩa một sự thay đổi từ trạng thái này
qua trạng thái khác. Như vậy vô thường ngự trị và chi phối toàn thể thế
giới, không có một sự vật cá nhân gì có thể thường còn bất biến. Thời gian
di động tất cả, di động cả chúng ta, dù
chúng ta muốn hay không. chúng ta sống trong một thế giới vô thường biến
dịch, và chính danh mạng căn của chúng ta và
sắc mạng căn của chúng ta được thay đổi biến
dịch từng sát-na, từng giây phút. Sabbe sankhàrà aniccà: Tất cả
pháp hữu vi là vô thường. Nếu mọi pháp là vô thường, nhưng không có vật gì
là hoại diệt. Chỉ có hình thái thay đổi,
không có gì tiêu tan mất hẳn. Trạng thái chất cứng biến thành chất
lỏng, trạng thái chất lỏng biến thành trạng thái chất hơi, nhưng không có
sự vật gì hoàn toàn bị tiêu diệt. Vật chất là một biểu hiện của năng
lượng, và như vậy không bao giờ tiêu mất hay bị hủy hoại.
Đây cũng là
định lý khoa học: Conservation of energy.
Chúng ta cũng biết là thân ta luôn luôn bị thay
đổi, và cứ bảy năm
một lần thân thể hoàn toàn đổi mới.
Cho đến khi chết, cũng không có gì hoại diệt. Một phần thân thể của
chúng ta sẽ biến thành chất lỏng hay chất hơi, kim khí hay muốl, tùy theo
từng thân phần. Nếu sinh vật học dạy rằng thân thể chúng ta hoàn toàn
đổi mới sau bảy năm, thì
đức Phật dạy rằng thân thể chúng ta biến đổi
trong từng sát na một, và sự diễn tiến của sự biến dịch này
được mang tên là Khanika marana nghĩa
là sự chết trong từng sát na.
Một
đặc tính của định lý Vô thường này là
không có biên giới rõ rệt giữa một trạng thái này với một trạng thái nối
tiếp, những trạng thái này hoàn toàn cách biệt với nhau. Hãy nhìn những
làn sóng khởi lên rồi diệt xuống, mỗi làn sóng khởi lên rồi xuống khiến
cho một làn sóng kế tiếp được khởi lên.
Rồi làn sóng này lại rơi xuống dể làm khởi lên một làn sóng kế tiếp. Chúng
ta khó mà chỉ đích thực đâu là ranh
giới giữa hai làn sóng, chỗ nào là chỗ diệt xuống của một làn sóng trước
và chỗ nào là khởi điểm cho làn sóng
sau. Mỗi một làn sóng như chìm sâu vào làn sóng kết tiếp và làn sóng kế
tiếp nữa. Như vậy định lý Vô thường giúp
chúng ta ý thức được con người và sự vật luôn luôn thay
đổi, biến dịch; tuy thay đổi nhưng chỉ thay
đổi trạng thái, không mất hẳn hay diệt hẳn. Và giữa hai trạng thái
liên tục, không có một ranh giới rõ rệt.
2.
Định lý Hiện hữu (Bhava) và
định lý Liên tục (Santati)
Từ
định lý Vô thường, chúng ta bước sang định lý Hiện hữu trong một trạng
thái khác. Danh từ Pàli gọi là Bhava. Hán dịch là Hữu: Ái duyên
Thủ, Thủ duyên Hữu.
Hột lúa luôn luôn ở trong trạng
thái hình thành cây mạ, nụ hoa luôn luôn ở trong trạng thái hình thành
bông hoa, con nít luôn luôn ở trong trạng thái hình thành người lớn, người
lớn luôn luôn ở trong trạng thái hình thành người già.
Có người hỏi, nếu hột lúa
được tưới nước sôi vào và cây mạ bị
nhổ lên thời hột lúa có thành cây mạ không, và cây mạ có thể trở thành cây
lúa không? Lẽ dĩ nhiên là không, những định
lý hình thành hay hiện hữu này không chấm dứt. Nó tiếp tục nhưng
hướng về tiêu mòn, hao diệt, mà không mất hẳn. Cả hột giống và cây mạ
đều thay đổi, tiêu mòn và có thể trở
thành bốn đại chủng nhưng không mất hẳn. Định
lý Hiện hữu này đưa đến một định lý
khác, gọi là định lý Liên tục
hay Tương tục (Santati).
Chúng ta thấy sự vật là vô
thường, biến dịch, thay đổi từ trạng thái này
qua trạng thái khác. Chất cứng có thể trở thành chất lỏng, chất lỏng có
thể trở thành chất hơi nhưng không một chất nào tiêu diệt hẳn. Các năng
lực mà những chất này là những hình thức hiện hữu, vẫn tiếp tục dù
hình thức của những chất này có thay đổi.
Như vậy chúng ta thấy có sự
liên tục của năng lực, và sự liên tục
này là một đặc tính của mọi sự vật. Chính vì
có sự liên tục, nên khó mà nêu rõ ranh giới giữa một trạng thái này qua
một trạng thái khác. Không những không có ranh giới không gian mà cũng
không có ranh giới thời gian, vì thời gian cũng liên tục thay
đổi. Khó mà chỉ
đích thực lúc nào là quá khứ, lúc nào
là hiện tại, lúc nào là vị lai. Hiện tại từng sát na cũng
đi vào hiện tại. Khi có người bạn nói
ta mấy giờ, ta xem đồng hồ đáp 10 giờ vài
giây rồi. Thời gian không có đứng một chỗ,
luôn luôn xê dịch vào quá khứ. Và như vậy thời gian cũng do
định lý Liên tục chi phối. Sự vật
đã như vậy, không gian thời gian
đã như vậy, thời con người với hai
phần danh và sắc lẽ nào có thể thoát khỏi sự chi phối của
định lý Vô thường. Hiện hữu và Liên
tục được. Và như vậy, khi con ngườỉ
mới sanh ra, định lý Liên tục, cho ta
thấy có sự liên kết với những đời sống quá
khứ; và khi con người chết đi, sự chết
không có nghĩa là mất hẳn mà chỉ là mở
đầu cho một đời sống mới. Đó là những vấn
đề khiến chúng ta cần phải suy nghĩ.
3.
Định lý Nghiệp báo hay định lý Nhân quả.
Định lý này nêu rõ, mỗi
hành động tạo tác ra phải có kết quả của hành
động ấy như câu sau này nêu rõ:
"Yàdisam vatate bijam tàdisam harate phalam" (Gieo hạt giống nào thì gặt
kết quả ấy). Định lý này áp dụng cho
thế giới vật chất và thế giới tâm linh, và khi áp dụng cho hành
động con người, định lý Nhân quả này
được gọi là
định lý Nghiệp báo.
Theo
đạo Phật, mọi hành
động cố ý về thân, khẩu, ý đều gọi là
Kamma hay Nghiệp, và kết quả của những hành
động ấy là Kammavipàka hay Nghiệp báo. Hành
động thiện (Kusalakamma) đưa đến nghiệp báo
thiện (kusalavipàka), và hành động bất
thiện (akusalakamma) đưa đến nghiệp báo bất thiện (akusalavipàka).
Nhưng ở đời, chúng ta thấy nhiều người làm
ác mà vẫn phây phây sung sướng giàu sang; có người làm thiện lại phải trải
qua nhiều thời gian truân đau khổ. Sự phân
chia không đồng đều về khổ lạc, về giàu nghèo, và yểu thọ giữa loài
Người hình như nói lên sự bất công của định
lý Nhân quả, Nghiệp báo này. Sự hành
động của chúng ta có nhiều loại khác nhau, và thời gian giữa nhân
và quả, giữa nghiệp và nghiệp báo không phải nhất luật, theo một thời gian
nhất định. Thêm nữa, giữa nhân quả,
giữa nghiệp và nghiệp báo thường hay xen lẫn nhiều yếu tố khác nữa và
chính những yếu tố này đã chi phối sự
hình thành của những kết quả .
Theo tập Abhidhammattthasangaha
(Thắng Pháp Tập Yếu Luận), sự phân chia các nghiệp (Kamma)
được trình bày như sau:
- Về phương diện công tác, có
bốn loại nghiệp: sanh nghiệp, trì nghiệp, chướng nghiệp và
đoạn nghiệp.
- Về phương diện sức mạnh thứ
tự đưa đến hình thành của quả báo,
có bốn loại nghiệp: cực trọng nghiệp, cận tử nghiệp, tập quán nghiệp và
tích lũy nghiệp.
- Về phương diện thời gian
đưa đến sự thọ lãnh kết quả của
nghiệp, có bốn loại nghiệp: hiện báo nghiệp, sanh báo nghiệp, hậu báo
nghiệp và vô hiệu nghiệp.
- Về phương diện vị trí quả
báo, có bốn loại nghiệp: bất thiện nghiệp, dục giới thiện nghiệp, sắc
giới thiện nghiệp và vô sắc giới thiện nghiệp.
Janakakamma (sanh nghiệp) là
nghiệp chi phối sự sinh trưởng trong một đời
sau. Sự chết của con người chỉ là sự kết liễu tạm thời của một hiện
tượng tạm thời.
Chính tâm sát na cuối cùng
định đoạt đời sống tương lai của con người.
Uppatthambhakakamma (trì
nghiệp) là nghiệp tiếp theo Janakakamma, duy trì và nâng
đỡ nghiệp này cho
đến khi mệnh chung. Một thiện trì
nghiệp có thể làm con người khỏe mạnh, an lạc, hạnh phúc. Trái lại, một
bất thiện nghiệp có thể làm con người bệnh hoạn
đau khổ Upapilakakamma là chướng
nghiệp. Nghiệp này, trái với nghiệp trước, làm cho yếu ớt, dừng lại và
chậm trễ sự kết thành của sanh nghiệp. Như một người sanh ra với một thiện
sanh nghiệp có thể đau đớn bệnh hoạn, do vậy
không có kết quả tốt lành của nghiệp thiện.
Upaghatakamma,
đoạn nghiệp đoạn trừ, tiêu diệt năng
lực của sanh nghiệp, như một mũi tên
đang bay có thể bị một sức mạnh nào khác cản lại khiến cho mũi tên
rơi xuống. Sức mạnh ấy là đoạn nghiệp. Đoạn
nghiệp này có thể thiện hay ác.
Garukakamma (cực trọng nghiệp)
có thể thiện hay bất thiện. Nghiệp này nhất
định tạo quả đời này hay đời sau. Nếu
là thiện thời thuộc ý nghiệp như các thiện tâm.
Nếu không phải thiện, có thể
khẩu nghiệp hay thân nghiệp là giết cha, giết mẹ, giết A-la-hán, phá hòa
hợp Tăng, làm thân Phật chảy máu. Cực
trọng này cũng gọi là Anantariyakamma (vô gián nghiệp) vì nhất
định nghiệp này
đem đến kết quả trong đời sau. Nếu một người
tu Thiền và sau làm một cực trọng nghiệp, thiện nghiệp của người
này sẽ bị cực trọng nghiệp tiêu trừ.
Đời sống sau này của vị
này sẽ bị chi phối bởi cực trọng nghiệp, như Devadata mất thần thông và
phải sinh và ác thú vì đã làm
đức Phật bị thương và phá hòa hợp Tăng.
Như vua Ajatasattu không thể
chứng Sơ quả vì đã giết phụ vương.
Asannakamma (cận tử nghiệp) là
nghiệp làm ra hay nhớ nghĩ khi lâm chung. Nghiệp này rất quan trọng vì chi
phối đến đời sống sau này. Cho nên
nhiều lễ nghi tổ chức khiến người sắp chết nhớ lại việc thiện
để người ấy được sinh vào những cõi
tốt đẹp hơn. Một người ác có thể sinh lên
thiện thú nếu khi chết người ấy nhớ hay làm một thiện sự. Trái lại một
người khi chết người ấy làm hay nhớ đến một
việc ác. Như hoàng hậu Mallika, vợ của vua Kosala sống một
đời ngay thẳng tốt lành, nhưng chỉ vì
khi lâm chung, nhớ đến một lời nói láo của mình,
nên phải sống 7 ngày đau khổ trong ác thú.
Acinnakamma (tập quán nghiệp)
là nghiệp thường làm và thường nhớ đến. Chính
những hành động trở thành tập
quán tác thành cá tánh con người. Cunda, người
đồ tể, chết la hét như con heo, vì
sống bằng nghề đồ tể, dù sống bên cạnh
chùa của đức Phật. Vua Dutthgami ở Tích Lan
thường cúng dường cơm nước cho chư Tăng trước khi ăn cơm. Chính tập quán
nghiệp này khiến vua hoan hỷ lúc chết và
được sanh lên cõi trời Tusita (Đâu-suất).
Katattakamma (tích lũy nghiệp)
nghĩa là làm những nghiệp không thuộc vào ba loại nghiệp kể trên và những
nghiệp làm mà quên liền, thuộc về loại nghiệp này. Nghiệp này như là chỗ
chứa đựng các nghiệp cho một chúng sinh.
Ditthidhammavedaniyakamma: Hiện
báo nghiệp là nghiệp đưa dến kết quả hiện
tại. Theo Abhidhamma, chúng ta làm thiện hay ác trong giai
đoạn Javana (tốc hành tâm), tâm này
tồn tại đến bảy sát na. Quả báo của tâm sát
na thứ nhất, tâm yết ớt nhất, có thể được lãnh thọ ngay ở
đời này. Như vậy gọi là hiện báo
nghiệp.
Nếu không thọ lãnh ngay trong
đời này, nghiệp ấy gọi là vô hiệu. Tâm
sát na yếu ớt thứ hai là tâm sát na thứ bảy.
Quả báo của tâm này có thể thọ
lãnh đời sau thì gọi là
Upapajjavedanìya (sanh báo nghiệp). Nghiệp này nếu không
đưa đến quả báo đời sau thì
được gọi là vô hiệu.
Quả báo của các sát na tâm ở
giữa có thể được thọ lãnh bất kỳ lúc
nào cho đến khi chứng được Niết Bàn.
Loại nghiệp này gọi là Aparaparapariyavedanìya hậu báo nghiệp. Chính
đức Phật và các vị A-la-hán cũng không
thoát khỏi nghiệp này. Không có một loại nghiệp
đặc biệt gọi là Ahosikamma (vô hiệu
nghiệp), nhưng khi một nghiệp nào phải có quả báo ở
đời này hay
đời sau, mà không thành tựu
được, nghiệp ấy gọi là Ahosikamma.
Sự trình bày này giúp chúng ta
hiểu tại sao ở trên đời này, có những
sự kiện hình như là bất công mâu thuẫn về
định lý nghiệp báo, nhân quả; nhưng sự thật định lý này cũng vô tư,
trung thực như các định lý khác.
Xem phần tiếp theo
--- o0o ---
Mục Lục
|
01
|
02
|
03
|
04
|
05
06
|
07
|
08
|
09
|
10
|
11
|
12
|
13
|
14
|
15
|
16
|
17
|
18
--- o0o ---
Vi tính: Mỹ Hồ
Trình bày: Linh Thoại
Cập nhật: 01-02-2004
Nguồn: www.quangduc.com
Về danh mục