NHỮNG CẢNH GIỚI
-ooOoo-
NGUỒN GỐC CỦA THẾ GIỚI
"Không có một lý
do nào để đòi hỏi thế giới này phải có một khởi
thủy. Quan niệm về mọi vật phải có sự bắt đầu thực
ra là do tư tưởng nghèo nàn của chúng ta. (Bertrand Russell)
Có ba trường phái tư
tưởng luận về nguồn gốc thế giới. Tư tưởng của
truờng phái thứ nhất cho là thế giới hiện hữu do thiên
nhiên và thiên nhiên không phải là một sức mạnh có tri
thức. Tuy nhiên, thiên nhiên hành hoạt theo sự hòa hợp của
chính thiên nhiên và luôn luôn thay đổi.
Trường phái tư tưởng
thứ hai nói là thế giới được tạo ra bởi một Thượng Đế
Toàn Năng chịu trách nhiệm về mọi thứ.
Trường phái tư tưởng
thứ ba nói là sự bắt đầu của thế giới và đời sống
không thể nhận thức được bởi vì chúng không có đầu và
cũng không có cuối. Phật Giáo theo trường phái thứ ba.
Triết gia Bertrand Russell tán thành trường phái này nói rằng
"Chẳng có lý do nào để cho rằng thế giới này có một
khởi thủy. Quan niệm này sự vật phải có sự bắt đầu
thực ra do tư tưởng nghèo nàn của chúng ta".
Khoa học hiện đại nói
rằng cách đây vài triệu năm, trái đất vừa mới nguội không
có đời sống và đời sống bắt nguồn từ đại dương.
Phật Giáo không bao giờ tuyên bố là thế giới, mặt trời,
mặt trăng, các tinh tú, gió, nước, ngày và đêm đều sáng
tạo bởi một thượng đế toàn năng hay bởi một Đức
Phật. Người Phật Tử tin là thế giới này không phải tạo
ra một lần, nhưng thế giới này đã được tạo ra triệu
triệu lần mỗi giây và cứ tiếp tục cứ như thế và sẽ
tan rã bởi chính nó. Theo Phật Giáo, hệ thống thế giới lúc
nào cũng xuất hiện và biến đi trong vũ trụ.
H.G. Wells, trong cuốn Tóm
Tắt Lịch Sử về Thế Giới viết: "Nói chung ai cũng
công nhận rằng vũ trụ mà chúng ta đang sống, có tất cả
mọi thứ phát xuất đã hiện hữu trong một thời gian rất lâu
và có thể hiện hữu vô cùng tận. Nhưng ý kiến cho rằng vũ
trụ mà chúng ta đang sống, chỉ hiện hữu sáu hay bẩy ngàn
năm có thể coi như một ý kiến hoàn toàn lỗi thời. Không có
đời sống nào đột nhiên xuất hiện trên trái đất".
Những nỗ lực do
nhiều tôn giáo giải thích sự khởi đầu và sự chấm dứt
của vũ trụ đương nhiên thiếu nhận thức. Lập trường
của các tôn giáo đưa ra quan điểm về vũ trụ được sáng
tạo bởi thượng đế đúng vào một năm nhất định nào đó,
đã trở nên một lập trường khó có thể đứng vững dưới
ánh sáng của kiến thức tân tiến và khoa học.
Ngày nay, khoa học gia,
sử gia, các nhà thiên văn, sinh vật học, thực vật học, nhân
loại học và các nhà tư tưởng vĩ đại, tất cả đã đóng
góp nhiều kiến thức mới về nguồn gốc của thế giới. Khám
phá và kiến thức cuối cùng không chút nào mâu thuẫn với
giáo lý của Đức Phật. Bertrand Russell một lần nữa nói ông
tôn kính Đức Phật vì Ngài
không tuyên bố sai lầm như những người khác đã phạm
phải khi nói về nguồn gốc của thế giới.
Những giải đoán về
nguồn gốc vũ trụ mà nhiều tôn giáo đề ra không được các
khoa học gia hiện đại và các nhà trí thức chấp nhận. Cả
đến những lời chú giải trong Kinh Phật về câu hỏi này do
một số nhà văn Phật Giáo viết cũng không thể được các
tư tưởng khoa học thừa nhận. Đức Phật không phí phạm thì
giờ của Ngài vào việc giải quyết vấn đề này. Lý do Ngài
im lặng vì vấn đề không có giá trị đạo lý gì để đạt
trí tuệ. Sự giải thích về nguồn gốc vũ trụ không phải
là điều quan tâm của tôn giáo. Lời thuyết lý như vậy không
cần thiết cho phương cách sống một cuộc đời chính đáng
và định hướng đời sống tương lai của chúng ta. Tuy nhiên
nếu ai nhất định nghiên cứu vấn đề này, thì phải nghiên
cứu khoa học, thiên văn, địa dư, sinh vật học và nhân
chủng học. Những khoa học này cho nhiều điều đáng tin và
đều được trắc nghiệm về vấn dề này hơn là bất cứ tôn
giáo nào. Mục đích của tôn giáo là trau dồi đời sống nơi
đây, trong thế giới này và về sau này cho đến khi đạt
được giải thoát.
Dưới mắt Đức
Phật, thế giới chẳng là gì cả mà chỉ là Luân Hồi - vòng
tiếp nối của sanh và tử. Với Ngài, sự bắt đầu của
thế giới và sự chấm dứt của thế giới là trong vòng Luân
Hồi này. Khi các nguyên tố và năng lượng tương quan và
phụ thuộc lẫn nhau, thì việc đơn cử ra thứ gì đó cho là
khởi đầu trở thành vô nghĩa. Bất cứ ức đoán nào về
nguồn gốc của thế giới đều không có một sự thật
tuyệt đối trong khái niệm của chúng ta.
"Vô tận là
bầu trời, vô tận là số chúng sanh
Vô tận là những thế giới trong vũ trụ rộng lớn
Vô tận trong trí tuệ mà Đức Phật dạy điều này
Vô tận là những đức hạnh của Ngài đã dạy những điều
này.
-- (Sri Ramachandra)
Một hôm một người
tên Malunkyaputta tới gần Đức Bổn Sư và yêu cầu Ngài
giảng về nguồn gốc vũ trụ . Anh ta lại còn dọa rằng sẽ
không còn là tín đồ của Ngài nữa nếu câu trả lời của
Đức Phật không thỏa đáng với anh ta. Đức Phật bình tĩnh
bẻ lại anh ta việc Malunkyaputta theo Ngài hay không theo Ngài
chẳng gây hậu quả gì cho Ngài, vì Chân Lý chẳng cần ai
phải hỗ trợ cả. Rồi Đức Phật nói Ngài không muốn bàn
thảo về nguồn gốc của Vũ Trụ. Với Ngài, muốn đạt
kiến thức về những vấn đề như vậy chỉ là sự phí
phạm thì giờ vì nhiệm vụ của con người là làm sao tự
giải thoát được ngay ở hiện tại, không phải ở quá khứ
hoặc ở tương lai. Tượng trưng việc này, Đấng Đại Giác
lấy thí dụ một người bị thương vì mữi tên độc. Con người
thiểu trí này từ chối không cho rút mữi tên ra cho đến khi
nào y biết tất cả những gì về người bắn. Kẻ bị thương
này đã chết trong khi các người phụ giúp y lo tìm kiếm
những chi tiết không cần thiết. Giống như vậy, nhiệm vụ
của chúng ta ngay bây giờ là đạt Niết Bàn, chẳng cần
bận tâm gì về khởi thủy của mình.
CÁC HỆ THỐNG THẾ
GIỚI KHÁC
Dưới ánh sáng của các
khám phá khoa học hiện đại, chúng ta có thể công nhận
giới hạn của thế giới loài người và giả thuyết về các
hệ thống thế giới khác có thể đang hiện hữu ở những
phần khác của vũ trụ.
Có một vài dịp, Đức
Phật bình luận về bản chất và thành phần của vũ trụ.
Theo Đức Phật, có những hình thái đời sống khác hiện
hữu ở các phần khác của vũ trụ. Đức Phật ghi nhận có
ba mươi mốt cảnh giới trong vũ trụ. Chúng là:
- 4 khổ cảnh hay ác
đạo (đời sống ở 4 cõi: địa ngục, súc sanh, ngã quỷ và
A Tu La)
- 1 thế giới loài người
- 6 Devalokas, cõi trời hay cảnh giới chư thiên
- 16 Rupalokas hay cõi sắc giới
- 4 Arupalokas hay cõi vô sắc giới
Sự hiện hữu của
những cảnh giới này chưa được xác nhận bởi khoa học
hiện đại. Tuy nhiên, các khoa học gia hiện đại đang nghiên
cứư về giả thuyết là có thể có các hình thái đời
sống hiện hữu trên các hành tinh khác. Với kết quả khoa
học tiến bộ nhanh chóng ngày nay, chúng ta có thể không lâu
sẽ tìm thấy những chúng sanh sống trên các hành tinh khác trên
những phần xa xôi nhất của giải ngân hà. Có thể chúng ta
sẽ thấy họ lệ thuộc vào những định luật giống như chúng
ta. Về vật chất họ có thể khác hẳn chúng ta cả về hình
tướng, nguyên tố và thành phần hóa học và sống trong
những chiều khác nhau. Họ có thể siêu việt hơn chúng ta
nhiều hay cũng có thể thấp kém hơn chúng ta nhiều.
Tại sao chỉ trái đất
là hành tinh duy nhất chứa đựng hình thái của đời sống?
Trái đất chỉ là một hạt bụi nhỏ trong vũ trụ bao la. Sir
James Jeans, một nhà thiên văn lỗi lạc, ước lượng là toàn
thể vũ trụ lớn vào khoảng một ngàn triệu hơn khoảng không
gian mà ta có thể nhìn thấy bằng viễn vọng kính. Trong
cuốn sách của ông "Vũ Trụ Huyền Bí", ông nói
rằng tổng số vũ trụ có thể so với tổng số các hạt cát
trên tất cả bờ đại dương của thế giới. Trong một vũ
trụ như vậy, hành tinh trái đất chỉ là một phần triệu
của một hạt cát. ông cũng báo cho chúng ta là ánh sáng mặt
trời mất một phần bẩy giây mới tới trái đất, phải
mất lối chừng 100.000 năm mới xuyên qua được hết vũ
trụ! Sự mênh mông của vũ trụ là như vậy. Khi chúng ta xét
đến sự rộng lớn của nhiều vũ trụ làm thành cái mà ta
thường gọi là "ngoại tầng không gian", giả thuyết
về các hệ thống thế giới khác hiện hữu có thể tin được
theo khoa học.
Dưới ánh sáng của
những khám phá khoa học hiện đại, chúng ta có thể nhận
thức được những giới hạn của thế giới loài người. Ngày
nay, khoa học đã chứng minh rằng thế giới loài người
hiện hữu trong phạm vi giới hạn của tần số rung động mà
những cơ quan cảm giác của chúng ta có thể tiếp nhận được.
Và khoa học cũng cho chúng ta thấy cũng có những tần số
rung động khác ở trên hay ỏ dưới tầm tiếp nhận của chúng
ta. Với những sự khám phá của làn sóng vô tuyến, quang
tuyến X, làn sóng truyền hình, và làn sóng vi ba, chúng ta có
thể nhận thức tầm nhìn hết sức là giới hạn mà chúng ta
phải chịu bởi những cơ quan cảm giác của chúng ta. Chúng
ta hé mắt nhìn vũ trụ qua "vết nẻ" của những cơ
quan cảm giác của chúng ta, giống như chúng ta ghé mắt nhìn
qua kẽ hở cánh cửa. Sự nhận thức này về giới hạn của
sự tiếp thâu cho chúng ta thấy có thể có những hệ thống
thế giới khác hiện hữu ngăn cách ta hoặc thâm nhập sâu vào
thế giới chúng ta.
Về bản chất của vũ
trụ, Đức Phật nói sự khởi thủy và sự chấm dút của vũ
trụ không thể nhận thức được. Người Phật Tử không tin
là thế giới bỗng nhiên hoàn toàn chấm dứt và hoàn toàn
bị tiêu diệt. Không có việc bỗng nhiên cả vũ trụ bị tiêu
diệt. Khi một phần của vũ trụ biến đi thì phần khác
của vũ trụ vẫn còn lại. Khi một phần khác biến đi, thì
một phần khác lại tái xuất hiện hoặc tạo ra những chất
tản mác của vũ trụ trước đây. Đó là sự cấu tạo bởi
sự tích tụ của các phân tử, những nguyên tố căn bản, hơi
và nhiều năng lượng, một tổng hợp hỗ trợ bởi sức đẩy
tới và trọng lượng thu hút. Rồi một số hệ thống thế
giới mới xuất hiện và hiện hữu một thời gian. Đó là
bản chất của năng lượng vũ trụ. Do đó Đức Phật tại
sao nói sự khởi thủy và sự chấm dứt của vũ trụ không
thể nhận thức được .
Chỉ một đôi khi
trong các trường hợp đặc biệt, Đức Phật mới đề cập
đến bản chất và thành phần của vũ trụ. Khi Ngài nói, Ngài
rất chú ý đến khả năng hiểu biết của người hỏi. Đức
Phật không quan tâm đến loại suy đoán siêu hình không đem
đến sự phát triển tinh thần.
Người Phật Tử không
cùng quan điểm của số người cho rằng thế giới sẽ bị
một thượng đế tiêu diệt, khi có nhiều người vô tín ngưỡng
và nhiều sa đọa trong nhân loại. Về niềm tin này, người dân
có thể hỏi: thay vì tiêu diệt bằng quyền năng, tại sao thượng
đế không dùng sức mạnh ấy để tăng trưởng đức tin nơi
những người ấy và tẩy sạch tất cả những thói hư tật
xấu từ tâm con người? Dù thượng đế hủy diệt hay không,
tự nhiên một ngày nào đó mọi vật khi đã hiện hữu tất
phải đoạn diệt. Tuy nhiên, theo ngôn ngữ của Đức Phật,
thế giới không là gì ngoài là sự kết hợp của sự thành,
trụ, diệt và tái kết hợp của danh và sắc (nama-rupa)
Trong lý giải sau cùng,
Giáo lý của Đức Phật vượt qua những khám phá của khoa
học hiện đại dù những khám phá này gây nhiều ấn tượng
rất mạnh mẽ đến ngạc nhiên. Trong khoa học, kiến thức
về vũ trụ có thể giúp con người làm chủ về tiện nghi
vật chất, và an toàn cá nhân. Nhưng Đức Phật dạy dù
kiến thức có rộng đến đâu đi nữa cũng không thể làm
con người giải thoát rốt ráo khỏi những đau khổ của
cuộc sống. Con người phải tự mình nỗ lực tranh đấu cho
đến khi tiến đến sự hiểu biết thật sự về bản chất
của chính mình và bản chất vô thường của vũ trụ. Muốn
thật sự được giải thoát, ta phải tìm cách thuần hóa tâm
ý mình, đoạn diệt lòng tham ái vào các khoái lạc vật
chất. Khi ta đã thật sự hiểu rõ rằng vũ trụ mà ta đang
cố chinh phục là vô thường, ta sẽ tự thấy mình giống như
Don Quixote đang đánh nhau với kẻ địch tưởng tượng. Với
Chánh Kiến của chính mình, ta sẽ dùng thì giờ và năng lực
để chiến thắng tâm mình và tiêu diệt ảo tưởng của cái
ta mà không cần phải phí phạm nỗ lực vào những cách
giải quyết không quan trọng và cần thiết khác.
QUAN NIỆM PHẬT GIÁO
VỀ THIÊN ĐƯỜNG VÀ ĐỊA NGỤC
Người trí tạo thiên
đường cho chính mình, kẻ ngu tạo địa ngục cho chính mình
ngay đây và sau này.
Quan niệm Phật Giáo
về thiên đường và địa ngục hoàn toàn khác hẳn các tôn
giáo khác. Người Phật Tử không chấp nhận những nơi đó là
trường cửu. Thật vô lý khi đầy đọa một người nào đó
vào địa ngực vĩnh viễn vì những nhược điểm của y nhưng
rất hợp lý nếu cho y có cơ hội tự mình tu sửa. Theo quan
điểm Phật Giáo, những kẻ bị vào địa ngục có thể tự
chuyển hóa để hướng thượng do những công đức đã tạo
được trước đó. Cửa địa ngục không khóa. Địa ngục
chỉ là một nơi tạm bợ và không có lý do nào bắt những
chúng sanh đó phải chịu đau khổ mãi mãi ở nơi đó.
Giáo lý của Đ?c
Phật cho chúng ta thấy có thiên đường và địa ngục không
những bên kia thế giới này, mà cũng có ngay chính trong thế
giới này. Do vậy, quan niệm thiên đường và địa ngục
rất hợp lý. Chẳng hạn, Đức Phật một lần nói: "khi
người thiểu trí cỡ trung bình khẳng định là có Địa
Ngục dưới đại dương, kẻ đó đã quyết đoán sai lầm và
vô căn cứ". "Địa Ngục" là từ ngữ dùng để
chỉ những cảm giác đau đớn. Ý kiến về một nơi chốn đặc
biệt đã được tạo sẵn hoặc một cảnh giới tạo ra bởi
thượng đế như thiên đường và địa ngục không thể
chấp nhận được theo quan niệm Phật Giáo.
Lửa địa ngục trong
thế giới này còn nóng hơn lửa địa ngục bên kia thế
giới. Không có lửa nào bằng lửa sân hận, ái dục, tham lam
và si mê. Theo Đức Phật chúng ta đang bị thiêu đốt bởi mười
một loại đau khổ vật chất và tinh thần: tham lam, sân
hận, bệnh ảo tưởng, suy tàn, chết, lo âu, than van, đau đớn
(vật chất và tinh thần) sầu muộn và nuối tiếc. Con người
có thể đốt cháy toàn thể thế giới với các loại lửa này
do sự thiếu điều hòa về tâm linh. Theo một quan điểm
Phật Giáo, cách dễ nhất định nghĩa địa ngục và thiên
đường là bất luận nơi đâu có nhiều khổ đau ở thế
gian này hay trong bất cứ cảnh giới nào, chỗ đó là địa
ngục cho những người đau khổ. Nơi đâu có nhiều lạc thú
và hạnh phúc, ở thế gian này hay trong bất cứ cảnh giới nào
khác, cõi đó là thiên đường cho những người vui hưởng đời
sống trần thế tại nơi chốn đặc biệt đó. Tuy nhiên,
cảnh giới của loài người có lẫn lộn cả đau đớn lẫn
sung sướng, con người kinh nghiệm được cả đau khổ lẫn
hạnh phúc, và do đó có thể chứng nghiệm được bản chất
thực sự của đời sống. Nhưng ở nhiều cảnh giới, chúng
sinh nơi đó ít có cơ hội coù được sự chứng ngộ này. Có
nơi, đau khổ nhiều hơn hạnh phúc, có nơi lạc thú nhiều hơn
đau khổ.
Người Phật Tử tin
rằng sau khi chết sẽ có tái sanh vào một trong số những
kiếp sống có thể có được. Kiếp sống tương lai này đưôïc
tạo nên bởi chập tư tưởng cuối cùng của một người lúc
sắp chết. Tư tưởng cuối cùng này quyết định kiếp sống
tương lai do kết quả những hành động quá khứ của người
đó trong kiếp này hoặc kiếp trước. Vậy nên, nếu tư tưởng
mạnh nhất phản ảnh được hành động phước đức, người
đó sẽ có một kiếp sống tương lai hạnh phúc. Nhưng tình
trạng đó chỉ tạm bợ đến khi phước đức cạn hết,
kiếp sống khác phải bắt đầu và cứ như vậy tiếp diễn,
do "nghiệp" lực quyết định. Tiến trình này tái
diễn liên tục và vô tận chỉ trừ khi ta đạt tới "Chánh
Kiến" và nhất quyết đi theo Bát Chánh Đạo mới mang
lại cho ta hạnh phúc tối thượng Niết Bàn.
Thiên đường là một
cõi tạm dành cho những ai đã tạo được nhiều hành động
tốt đẹp được hưởng những lạc thú giác quan thêm một
thời gian dài nữa. Địa ngục là một cõi tạm khác mà
những người tội lỗi phải chịu thêm nhiều đau khổ về
vật chất và tinh thần. Không có lý do nào để tin là các nơi
đó thường còn. Không có thượng đế ở sau hậu trường
thiên đưòng và địa ngục. Mỗi và mọi người đều kinh
nghiệm khác nhau tùy theo thiện hay ác nghiệp của mình. Người
Phật Tử chưa bao giờ thuyết phục ai đến với Đạo mình
bằng cách đe dọa lửa điạ ngục hay cám dỗ bằng thiên
đường. Lý tưởng chính của họ là xây dựng cá tính và
huấn luyện tinh thần. Người Phật Tử tu tập không cần
phải nhắm đến thiên đường hay phát triển tâm sợ hãi địa
ngục. Bổn phận của họ là sống đứng đắn bằng cách
giữ vững những phẩm tính của con người và niềm an lạc
trong tâm.
NIỀM TIN VÀO CÁC CHƯ
THIÊN
Phật Tử không phủ
nhận sự hiện hữu của các thần linh hay chư thiên.
Chư thiên may mắn
nhiều hơn loài người về mặt hưởng thụ lạc thú cảm
quan. Họ cũng thủ đắc một số sức mạnh (thần thông) mà
loài người không có. Tuy nhiên thần thông của các chư thiên
này bị giới hạn vì họ cũng chỉ là các chúng sanh nhất
thời. Họ hiện hữu ở các cảnh giới sung sướng và vui hưởng
đời sống lâu dài hơn đời sống con người. Khi nghiệp
thiện họ đã tích lữy được từ các kiếp trước đã
cạn hết, những chư thiện này cũng chết và tái sanh vào
một nơi nào đó tùy theo nghiệp thiện hay ác của họ. Theo
Đức Phật, con người có cơ hội để gia tăng công đức
hầu sanh vào các hoàn cảnh tốt hơn, còn chư thiên kém may
mắn hơn về phương diện này.
Phật Tử không cho là
các chư thiên này là quan trọng. Họ không coi các chư thiên là
nơi nhờ cậy cho việc phát triển đạo đức hay là nơi nương
tựa để đạt giải thoát Niết Bàn. Dù to hay nhỏ, cả loài
người lẫn chư thiên đều phải hoại diệt và tái sanh.
Đại chúng Phật Giáo
thường tin là các chư thiên có thể được cảm ứng và phù
trợ cho họ bằng cách hồi hướng các phước báu đến chư
thiên mỗi khi họ làm được hành vi công đức nào. Niềm tin
này căn cứ vào huấn thị của Đức Phật truyền cho các chư
thiên bảo vệ những người sống đúng đạo lý. Đó là nguyên
do tại sao người Phật Tử hồi hướng các phưóc báu đến
chư thiên hay tưởng nhớ đến chư thiên bất cứ lúc nào
họ hành những hạnh công đức. Tuy nhiên, dâng cúng và lễ bái
các chư thiên không được khuyến khích mặc dù có vài tập
tục Phật Giáo tập trung vào các hoạt động này. Khi gặp khó
khăn, người ta thường quay về với chư thiên để bầy tỏ
nỗi ưu phiền nơi lễ bái. Làm như vậy, họ thấy được
khuây khỏa và an ủi; họ cảm thấy dễ chịu hơn trong thâm
tâm. Tuy nhiên với người trí thức có ý chí mạnh mẽ, có
giáo dục và hiểu biết đứng đắn, những niềm tin và hành
động này không cần thiết phải dùng đến. R‚ ràng không có
lời dạy nào trong Phật Giáo nói người Phật Tử có thể đạt
Niết Bàn bằng cách cầu nguyện chư thiên. Người Phật Tử
tin là " trong sạch hay ô nhiễm tùy nơi ta. Không ai ở
bên ngoài làm cho người khác trong sạch được". (Kinh
Pháp Cú, Câu 165)
Phật Quả và Niết Bàn
có thể đạt được mà không cần đến sự giúp đỡ từ
một nguồn bên ngoài. Cho nên, người Phật Tử vẫn có thể
tu tập dù có hay không có chư thiên.
THẾ GIỚI QUỶ THẦN
Có những chúng sanh
hay quỷ thần hữu hình hay vô hình cũng giống như ánh sáng
ta có thể nhìn thấy hay không nhìn thấy được.
Phật Giáo không bác
bỏ sự hiện hữu của các quỷ thần thiện và ác. Có
những chúng sanh hoặc quỷ thần hữu hình hay vô hình cũng như
ánh sáng ta có nhìn thấy hay không nhìn thấy được. Chúng ta
cần đến những dụng cụ đặc biệt để nhìn những loại
ánh sáng vô hình và chúng ta cần đến giác quan đặc biệt
để nhìn thấy những chúng sanh vô hình. Ta không thể phủ
nhận sự hiện hữu của những quỷ thần đó chỉ vì chúng
ta không nhìn thấy chúng được với mắt trần. Những quỷ
thần này cũng phải chịu sinh tử. Chúng không ở vĩnh viễn
dưới hình thức quỷ thần. Chúng cũng hiện hữu trong thế
giới mà chúng ta đang sống.
Một Phật Tử chân chính
là người hun đúc đời sống của mình theo nhân quả đạo
đức khám phá bởi Đức Phật. Người đó không cần quan tâm
đến việc thờ phượng các thần linh và quỷ thần đó. Tuy
nhiên, loại lễ bái đó có một số lợi lạc và quyến rữ
quần chúng, và tự nhiên đem một số Phật Tử vào giao
tiếp với những sinh hoạt này.
Về việc bảo vệ
chống lại các quỷ thần xấu, lương thiện là cái khiên
chống lại điều ác. Lương thiện là bức tường ngăn tội
ác không xâm nhập được trừ phi người luơng thiện mở
cửa cho ảnh hưởng tội lỗi. Cả đến một người sống
một cuộc đời thật đạo hạnh và thánh thiện, có một cái
khiên tốt bao che cuộc sống đạo đức và cao thượng nhưng
người đó vẫn có thể hạ thấp cái khiên bảo vệ này
xuống vì tin vào sức mạnh của quỷ thần ác có thể làm
hại mình.
Đức Phật không bao
giờ khuyên tín đồ của Ngài sùng bái các quỷ thần đó và
sợ hãi họ. Thái độ của Phật Tử là hồi hướng công đức
và trải tâm từ-ái đến họ. Phật Tử không làm hại chúng.
Mặt khác, nếu một người đạo hạnh, đức độ và trong
sạch, thông minh và có ý chí mạnh mẽ và khả năng hiểu
biết, thì người đó thấy rằng mình mạnh hơn quỷ thần
nhiều. Quỷ thần xấu sẽ tránh xa người đó, quỷ thần
tốt sẽ bảo vệ người đó.
Ý NGHĨA
CỦA VIỆC HỒI HƯỚNG CÔNG ĐỨC CHO NGƯỜI QUÁ CỐ
Nếu thực tình bạn
muốn tôn kính và giúp đỡ người quá cố, bạn hãy hành
những hành vi công đức dưới danh nghĩa của những người
ấy, và hồi hướng phước báu đến cho họ.
Theo Phật Giáo, hành
vi thiện hay "hành động công đức" mang hạnh phúc
cho hành giả ngay trong thế giới này và sau này. Chúng ta tin
rằng hành động công đức chắc chắn dẫn đến m?c tiêu
cuối cùng là hạnh phúc trường cửu. Hành động công đức
có thể thực thi qua thân, khẩu và ý. Mọi hành động thiện
đều tạo công đức sẽ tích lữy vào thiện nghiệp của hành
giả. Phật Giáo cũng dạy công đức tạo được có thể
hồi hướng cho người khác hay có thể chia sẻ với người
khác. Nói một cách khác, công đức có thể "chuyển hoán"
và có thể chia sẻ với người khác. Người nhận được công
đức có thể đang sống hay đã chết.
Phương pháp hồi hướng
công đức rất đơn giản. Trước tiên ta phải thực hiện
một số công đức. Người làm công đức chỉ mong muốn phước
báu đã tạo dành đặc biệt cho người nào đó, hay cho
"tất cả chúng sanh". Phúc nguyện này có thể được
niệm thầm trong tâm hoặc diễn tả bằng lời.
Tâm nguyện khi thể
hiện này có khả năng được cảm ứng bởi người thọ
nhận. Khi người thọ nhận hay biết được hành động hay
nguyện ước này, thì sẽ cùng nhau phát khởi một niềm hoan
hỉ. Nơi đây, người thọ nhận trở thành một người tham
gia hành vi nguyên thủy bằng cách tự liên kết với công đức
đã làm. Nếu người thọ nhận tự đồng hóa với cả hành
vi lẫn hành giả, đôi khi có thể đạt được công đức to
lớn hơn hành giả nguyên thủy, vì tâm hoan hỉ của người
ấy lớn hơn, hay vì nhận thức được giá trị của công đức
này căn cứ trên sự hiểu biết Phật Pháp và, do vậy hưởng
nhiều phước báu hơn. Kinh điển Phật Giáo chứa nhiều câu
truyện về truờng hợp này.
Niềm vui hồi hướng
phước báu cũng có thể sanh khởi dù người làm công đức có
kiến thức hay không. Điều cần thiết phải làm là cốt cho
người thọ nhận cảm thấy hân hoan trong tâm khi nhận biết
được nghĩa cử này. Nếu mong muốn, người đó có thể bày
tỏ niềm vui bằng cách nói lên chữ "Sadhu" có nghĩa
là "Lành thay". Đó là cách bày tỏ sự tán thán
bằng ý hoặc bằng lời. Để chia sẻ công đức do người khác
làm, điều quan trọng là phải có sự chấp thuận thật sự,
và niềm hoan hỉ phát sanh từ tâm người thọ nhận.
Ngay cả khi mong muốn
được như vậy, người làm công đức không thể ngăn người
khác chia vui với công đức mình vì không có quyền gì đối
với tư tưởng của người khác. Theo Đức Phật, trong tất
cả mọi hành động, tư tuởng mới là điều thực sự quan
trọng. Hồi hướng công đức căn bản là một hành động
của tâm.
Hồi hướng công đức
không có nghĩa là cho hết phước báu mà mình đạt được
khi làm việc thiện. Trái lại, hành động của hồi hướng công
đức chính nó là một công đức làm phước báu đã tạo càng
được tăng thêm nữa.
TẶNG PHẨM CAO CẢ
NHẤT CHO NGƯỜI QUÁ VÃNG
Đức Phật nói rằng
tặng phẩm tốt đẹp nhất cho thân nhân đã quá vãng là làm
công đức và hồi hướng phước báu vừa tạo này đến
họ. Ngài cũng nói là những ai hành hạnh hồi hướng cũng
nhận những được quả phước của những công đức mình làm.
Đức Phật khuyến khích những ai làm việc thiện chẳng hạn
như cúng dường cho các bậc thánh thiện, hãy hồi hướng phước
báu đó đến những người thân đã qua đời. Hãy nên cúng dường
với danh nghĩa người quá cố bằng cách hồi tưởng lại
trong tâm những điều như " Khi vị ấy còn sống, vị
ấy đã cho tôi của cải này, vị ấy đã làm cho tôi những
việc này, vị ấy là thân nhân của tôi, là người bầu
bạn với tôi vân vân... (Tirokudda Sutta - Khudakapatha). Không nên
khóc lóc, đau buồn, than van và nuối tiếc; những thái độ
như vậy không đem lợi ích gì cho người đã chết.
Hồi hướng công đức
đến các hương linh được căn cứ trên sự tin tưởng thông
thường là khi một người chết đi, phước và tội được
đem cân nhắc và hành động của người ấy sẽ định đoạt
người ấy tái sanh vào một cảnh giới sung sướng hay thống
khổ nào. Hoặc tin là các nguời chết có thể xuống cảnh
giới của các vong linh không siêu thoát. Những chúng sanh trong
những hình thái thấp kém này không thể tạo được phước
đức m?i, và phải sống nhờ vào những công đức tạo được
từ trên thế gian này.
Những ai không làm
hại người khác, và hành các hạnh thiện lành trong đời mình,
chắc chắn có cơ may tái sanh vào nơi nhàn cảnh. Những người
như vậy không cần đến sự giúp đỡ của thân nhân hiện
tiền. Tuy nhiên, với những người không có cơ duyên để
được sanh vào cảnh giới sung sướng, luôn luôn chờ đợi các
công đức của những thân nhân đang sống để bù đắp
những thiếu hụt và giúp họ có thể tái sanh vào một nơi
tốt đẹp hơn.
Những người tái sanh
dưới hình thái ma quỷ bất hạnh có thể giải thoát được
khổ cảnh nhờ sự hồi hướng phước báu do công đức được
tạo của bè bạn và thân nhân .
Lời dạy về hồi hướng
công đức đến người quá cố là thể thức tương ứng
với tập tục Ấn Độ Giáo đã truyền thừa qua các thời đại.
Nhiều nghi lễ được cử hành để vong linh các tổ tiên được
sống trong bình an. Tập tục này đã có một ảnh hưởng to
lớn vào đời sống xã hội của một số quốc gia Phật giáo.
Người chết bao giờ cũng được nhớ đến khi ta hoàn tất
bất cứ một công việc phước thiện nào, và vào các dịp
liên quan đến đời sống của họ, như những ngày sanh hay ngày
giỗ. Vào những dịp như vậy, ta thưòng cử hành một vài
nghi lễ. Người hồi hướng công đức rót nước từ một cái
bình đến một bình khác tương tự, trong khi đọc một câu
kệ bằng tiếng Pali được dịch như sau :
Như con sông, khi đầy phải chảy
đem nước tràn đến tận nơi xa
Cũng như vậy, điều được nơi đây
sẽ đem phước đến vong linh tại đấy
Như nước nguồn rót từ ngọn núi
chảy xuống và dâng ngập cánh đồng
Cũng như vậy điều được nơi đây
sẽ đem phước đến vong linh tại đấy.
-- (Kinh Nidhikanda trong Khuddakapatha)
Nguồn gốc và ý nghĩa
việc hồi hướng công đức được các học giả đem ra bàn
cãi. Mặc dầu tập tục cổ xưa này còn hiện hữu đến ngày
nay tại nhiều quốc gia Phật Giáo, một số rất ít Phật
Tử theo tập tục cổ xưa này hiểu được ý nghĩa của
việc hồi hướng công đức và cách thức thích đáng để
thi hành.
Nhiều người đã phí
phạm thì giờ và tiền bạc vào những lễ nghi và trình
diễn vô nghĩa để tưởng niệm người đã qua đời. Họ không
hiểu là không thể nào giúp đỡ được người chết đơn
giản bằng cách xây dựng mộ phần, mộ chí và nhà táng to
lớn và những đồ tế nhuyễn khác. Cũng chẳng có thể giúp
đỡ được người chết bằng cách đốt hương, vàng mã vân
vân...; và cũng chẳng thể giúp đỡ người chết bắng cách
giết các súc vật và đem các loại thực phẩm khác để dâng
cúng . Ta cũng không nên phí phạm đem đốt các vật dụng
của người chết cho rằng họ sẽ được hưởng do hành động
này, đáng ra các vật dụng này nên đem phân phát cho những
người nghèo khó.
Cách duy nhất để giúp
đỡ người chết là làm một số công đức theo đúng cách
thức đạo giáo để tưởng nhớ đến họ. Công đức gồm có
những hạnh lành như bố thí, xây trường học, tự viện, cô
nhi viện, thư viện, bệnh viện, ấn tống kinh sách để
tặng, và các công việc từ thiện tương tự.
Tín đồ của Đức
Phật nên hành động khôn ngoan và không nên mù quáng làm theo
bất cứ điều gì. Trong khi những người khác cầu nguyện thánh
thần cho người chết thì người Phật Tử trải tâm từ-ái
trực tiếp đến họ. Bằng cách làm những việc thiện, họ
có thể hồi hướng công đức này đến người yêu quí để
những người này được hưởng lợi lạc. Đó là cách thức
tốt nhất để tưởng nhớ, để đem vinh dự thật sự và để
khắc ghi mãi mãi tên người đã khuất. Được hoan hỉ, người
quá cố sẽ đền đáp phúc lành lại cho những thân quyến
hiện tiền. Cho nên bổn phận của thân quyến là tưởng
nhớ đến người đã ra đi bằng cách hồi hướng công đức,
và rải tâm từ-ái trực tiếp đến họ.
-ooOoo-
Ðầu
trang | Mục lục | 01
| 02 | 03 |
04
| 05a | 05b |
06
| 07 | 08 |
09
| 10 | 11 |
12
| 13 | 14 |
15
| 16 | 17
--- o0o ---
Trình bày:
Chân Đức & Nguyên Thảo
Cập
nhật
ngày:
01-11-2002