Phật Học - Tấm gương tam quy.

 

 

 

 

 

Tấm gương tam quy

 

HT Tố Liên

 

Mục lục

1. Lời nói đầu.

2. Thanh niên với vấn đề quy y

3. Những điều cần biết trong phép giao truyền quy giới

4. Quy kính Tam bảo

5.Thực hành ba phép phương tiện trước và sau khi quy y.

6. Phép tắc trao truyền Tam quy.

7. Đã quy y phải bền lòng gìn giữ phép quy y.

8. Chú thích.

 

Lời nói đầu

Phàm ai đã đọc đến lịch sử tiến hoá của nhân loại là đều tự nhận thấy hiện tại khối óc thông minh, bàn tay tinh xảo của loài người đã khám phá cũng như chiếm đoạt biết bao huyền ảo bí tàng của vũ trụ để đem ra xây đắp giữa nhân loại một nền văn minh vật chất phồn thịnh đến cực điểm. Như vậy đáng lẽ loài người đều được hưởng hạnh phúc hoà bình thì mới phải, nhưng tại sao tất cả nhân loại trên thế giới hiện tại đều phải chịu chung cái số phận đau khổ về tâm hồn lẫn vật chất như mắt chúng ta đã mục kích. Vậy thì cuốn sách này sẽ là hồi chuông giác ngộ đáp lại những điều hồ nghi đó.

Tại sao Đức Phật tổ Thích Ca bắt đầu tiếp hóa các đệ tử hữu duyên của Ngài bằng phép Tam quy.

Ôi! Chỉ vì chúng sinh mê mất chân tâm, do nghiệp tà ác nên cứ phải khúm núm ba đường luân hồi vòng quanh sáu ngả khổ não hết đời này sang kiếp khác. Đức Đại bi Thế Tôn còn thấy chúng sinh bị đau khổ cũng như ngài đau khổ, nên mới chế ra phép quy y cho hết thảy chúng sinh muôn đời về sau biết đường mà quay về đạo chính, ngõ hầu tu tỉnh thân tâm cho được lợi ích, đoạn trừ mê hoặc, dứt bỏ nghiệp ác cho được lợi ích, tin tội phúc báo ứng, minh nhân quả luân hồi, sẽ đều phải giữ gìn ý nghĩ, lời nói và việc làm cho rất mực chân chính để tự đào tạo cho thân mình trở nên con người có đủ nhân cách. Một người làm, mười người bắt chước, mười người làm, trăm người bắt chước, rồi sẽ tạo nên một nền phong hoá chí thiện giữa gia đình, giữa xã hội. Xem thế thì đủ tin rằng mỗi người nên hiểu phép quy y cho đúng, không những có lợi ích cho riêng một thân mình mà còn làm lợi ích chung cho cả gia đình, xã hội nữa. Người ta lúc sống đã quy y chính đạo lại thêm gắng gỏi làm việc công đức cho thân mình, cho người, cho đời, tức là cuộc sống  có mục đích cao quý thì lúc chết đi đâu mà chẳng được giải thoát.

Cuốn sách này đối với giáo lý trong Phật pháp cũng tỷ như dúm lá trong rừng rậm, chén nước trong biển cả, nhưng cũng đủ phương tiện chỉ điểm cho những ai đã quy y, vì không biết mà bị sai lầm sẽ được tỉnh ngộ, những ai sắp quy y sẽ có phương pháp để cố gắng xem xét phép quy y cho rành, nghiền nghĩ phép quy y cho rõ, rồi sẽ thực hành phép quy y cho đúng, làm được đầy đủ công phu trong đạo quy y, như vậy mà không thu lượm được cái kết qủa đại công đức như trên, thì bần tăng này sẽ cam vào địa ngục “ Bạt Thiệt” để chịu lấy tội vọng ngữ vậy.

Nam mô Hộ Pháp Chư Thiên Bồ Tát Ma Ha Tát.

Viết tại chùa Quán sứ – Hà Nội, ngày mồng 3, tháng giêng, năm Kỷ sửu.

Thượng toạ Tố Liên.

 

Thanh niên với vấn đề quy y

Đức Khổng Tử nói với giới thanh niên rằng: “ Bọn hậu sinh thật đáng sợ lắm”. Câu nói gọn gàng, đanh thép đó có hai ý:

ý khen ngợi: Chân lý của vũ trụ (1) mới phó cho mỗi người một tâm hồn (2) minh mẫn; khí phách (3) của non sông mới đúc cho mỗi người một khối hình hài tuấn tú, lại có một nền nếp gia đình, trau dồi lễ nghĩa, nhất là bạn nào được một nền học vấn sâu xa giữa xã hội, để trở nên ngưòi có chí khí thông minh, tài năng hữu dụng, nghị lực tiến thủ.

Đương lúc tuổi giàu sức mạnh, mà lại có những đức tính ấy, bản lĩnh (4) ấy, ai là không phải khen ngợi. Cố nhiên cuộc đời tương lai tươi sáng của gia đình các bạn, cũng như của quốc gia, đều trông mong vào các bạn thanh niên cả.

ý khuyên răn: Tuổi thanh niên, đương lúc khí huyết cương cường, chí khí bồng bột, hay thích mới chuộng lạ, mặc dầu cái mới cái lạ nó có hại. Đại khái như người ta đề xướng tự do, chưa biết cái thuyết tự do đó sẽ đưa mình đến đâu, và xã hội có những cái gì không cho phép mình được tự do. Không cần cân nhắc, suy xét thế vội, miễn là hãy tự do đã, bao giờ vấp ngã sẽ hay. Cái phong trào tự do của một thời đại ác nghiệt kia, nó đã đưa ra rất nhiều thanh niên tự do ra ngoài kỷ cương pháp luật, ra ngoài phong hoá lễ giáo; còn có trăm ngàn thứ tự do sai đà quá mực nữa, những cái tự do hủ bại nó đã làm cho bao thanh niên mất nhân cách của con người, lại còn gây nên bao dư luận búa dìu giữa cửa miệng thiên hạ.

Đối với vấn đề tự do mà người ta đưa đến, bỏ bả chúng mình đó, nếu các bạn biết hối thì trước hết hãy bài trừ hết những luận thuyết và những tư tưởng tự do hủ bại của một thời đại ác nghiệt kia gây nên, làm cho dân hồn, quốc hồn, hầu như ngọn đèn trước gió.

Ôi! Dân mà mất hồn, chẳng chết cũng phải điên rồ, nước mà mất hồn, chẳng diệt vong cũng phải bại hoại. Hỡi các bạn thanh niên Việt Nam, hiện thời dân hồn, quốc hồn của chúng ta đương trầm trệ, đương hấp hối, các bạn có muốn cấp cứu cho hồi sinh lại không? Nếu như muốn, quyết nhiên các bạn phải tìm đến phương pháp Phật giáo, bởi vì Phật giáo đã có lịch sử (5) gần 2000 năm ở nước mình; Phật giáo đã thai nghén cũng như đã dưỡng dục nên hồn dân Việt Nam. Số là Phật giáo đã từng làm quốc giáo của hết thảy các triều đại độc lập, cường thịnh; vì thế nên Phật giáo đã xây đắp cho nước Việt Nam một nền văn hoá triết học rất thích hợp với tính tình, phong tục của dân tộc mình. Gần 2000 năm nay, tiền nhân chúng ta, dân tộc chúng ta đã dốc biết bao bầu nhiệt huyết ra bồi đắp nền Phật giáo Việt Nam, cũng như xây đắp nền phong hoá Việt Nam. Nỡ nào chúng ta ngày nay lại nhãng bỏ những sự nghiệp của tiền nhân, của dân tộc đã vì nhân tâm thế đạo mà gây dựng nên. Nói tóm lại, Phật giáo Việt Nam là thứ keo sơn để luôn luôn gắn bó con thuyền Việt Nam. Thế cho nên trải qua bao nhiêu thời đại, hễ Phật giáo thịnh thì quốc gia cũng thịnh, Phật giáo suy thì quốc gia cũng suy. Ngày nay, muốn cho nhân tâm phong hoá có chỗ cải thiện, đạo đức luân lý lại được truyền tụng, hiếu trinh, tiết nghĩa lại được tưởng lệ, tu ố liêm sỉ lại được khuyến khích, cho pháp chính luật trị có chỗ thi thố, để khôi phục lại vận hội quốc gia thịnh vượng như xưa, quyết nhiên trước phải phục hưng lại nền phật giáo Việt Nam; mà chủ động phong trào phục hưng Phật giáo, phục hưng thế đạo nhân tâm đó, một phần lớn là mong đợi ở giới thanh niên.

Như vậy mỗi khi đem vấn đề quy y ra khuyến khích giới thanh niên, thể nào cũng có bạn trả lời rằng:

Đương lúc trẻ trung như chúng tôi, chưa có thể quy y được, là vì còn phải cạnh tranh cho kịp với thời cuộc tiến hoá của nhân loại.

Xin hỏi: “Cuộc nhân loại mà các bạn đang hăm hở theo đuổi kia, còn có hồ nghi gì nữa không? Tất nhiên phải có. Đây là những mối hồ nghi thắc mắc, hiện các bạn đương nan giải: Chả biết loài người ở đâu mà sinh ra? Tại sao có người thông minh, có người ngu xuẩn, có người hiền hậu, có người hung ác, có người hiếu thuận, có người bội bạc, có người phương phi tốt đẹp, có người thô bỉ xấu xa, có người lành lặn khỏe mạnh, có người mù què, yếu ớt? Nếu bảo là tự trời sinh, thì tại sao duyên cớ gì mà trời lại sinh ra bất bình đẳng như vậy? Tại sao có người phú quý, có người bần tiện, có người tiền bần hậu phú, có người tiền phú hậu bần. Nếu lại để cho trời tự thưởng phạt thì tại duyên cớ gì mà ông trời kia thưởng phạt bất bình đẳng như vậy? Cũng lại có số người không đổ tại trời, mà quy về số mệnh. Số mệnh là gì? Ai tạo ra số mệnh ấy? Và ai chủ trương cho bao nhiêu ức triệu số mệnh ấy? Tại sao giữa nhân loại với nhân loại, giữa quốc gia với quốc gia, giữa gia đình với gia đình, giữa cá nhân với cá nhân, đều cùng chung với tính tình, cùng chung xương máu, mà cứ gây ra cạnh tranh để ghen ghét lẫn nhau, cừu thù lẫn nhau, tàn hại lẫn nhau, không một phút nào là ngừng những tấm kịch đau thương, mà bạn thanh niên chúng ta, cũng sắp phải đóng những vai tuồng ấy, rồi ra cuộc trăm năm của chúng ta thành bại, đắc thất, vinh nhục, chẳng biết nó sẽ ra sao. Các bạn thanh niên a! Những nghi án chung của các bạn đó, trừ Phật giáo ra, tất cả các tôn giáo, các học thuyết, đông, tây, cổ, kim chưa giải quyết được. Các bạn muốn giải quyết những vấn đề đó, phải kêu cứu đến phật giáo. Nếu nhận ngay ở một số người tin theo tà đạo, ma đạo, có thể tai hại hơn tai nạn nước lửa, vì rằng, nước lửa người ta còn trông thấy mà tránh, dù không tránh được nó cũng chỉ làm mất thể xác thôi chứ tai nạn mê tín dị đoan nó cổ hoặc cho tâm hồn u minh, mê muội đi mãi mãi, tức là nó giết chết tâm hồn; đó là chưa nói đến sự hao phí tài sản huyết mạch. Các bạn phê bình bọn mê tín dị đoan là thái hoá, chưa được xác đáng, theo ý đông người đã liệt họ vào đồ đảng ma quỷ.

Đối với tai nạn mê tín dị đoan ấy, các bạn có chí nguyện cứu vãn không? Nếu không thì bần tăng này đành vỗ ngực thở dài. Mà nếu có, thì ít nhất cũng phải sắm lấy tấm gương trí tuệ của Phật pháp, nhiên hậu soi vào người mình tín ngưỡng kia xem, đâu là Phật tổ thiên địa, thần minh, đâu là các bậc anh hùng lịch sử mà tín ngưỡng sùng bái, lẽ cố nhiên dân tộc nào cũng phải có, còn như chỉ căn cứ vào một vài thuyết hoang đường mà phụng sự, là mê tín dị đoan. Nguyên bản tâm dân chúng có ai muốn mê tín dị đoan đâu, bởi vì xứ sở nào, cũng có bọn người họ lợi dụng vào số người yếu bóng vía, nhất là khi bị tật bệnh, bị tai nạn, họ sẽ đem những  thuyết oai thần, ma quỷ ra để cám dỗ, để cổ hoặc. Có người vì mong khỏi tật bệnh, thoát tai nạn mà nghe theo. Có người vì thiếu trí suy xét, rồi vì sợ sệt mà nghe theo.

Trong nước mà còn phần đông những người mê tín dị đoan, là còn mê muội, còn thoái hoá (9), còn nhu nhược. Chúng ta phải nghiên cứu lấy phương pháp để đem ra mà giải thích, mà tuyên truyền, ngõ hầu giác ngộ cho dân chúng bỏ tà theo chính và bài trừ cho hết bọn người vô lại, chuyên sinh sống bằng nghề nghiệp buôn thần bán thánh, đó cũng là một sự nghiệp cứu quốc, cứu dân.

Cổ nhân có câu: “Cỗ ngon có ăn mới biết ngon, đạo hay có học mới biết hay”. Một khi đã quy y học đạo, sẽ thấy mình đã kiếm được thêm nhiều món nuôi sống tinh thần, sẽ cùng nhau reo hò lên, nhảy múa lên mà tiến hoá theo; càng tiến càng cao, càng tiến hoá càng màu nhiệm, cao mầu đến cả vũ trụ, vạn vật, chẳng có cái gì ra ngoài tâm lý của ta. Vì đạo Phật dạy cho người đời biết ngay từ căn bản tiến hoá là thế này:

ở cái Không mà có cái Có, ở cái Có mà có cái Không. Nhưng chớ vội nhận cái mà lúc sáng, lúc tối, lúc nắng, lúc mưa kia là thực cái Không. Cái Không đương nói đây, nó là Duy tâm, nhà Phật gọi là Bồ đề (10), là Bát nhã (11), là chân tâm, là Phật tính. Nhà Nho gọi là Nhân tính, là Thiên lý, là Thái cực (13), quy nạp cái danh từ đó mà gọi là Duy tâm, là vũ trụ (14). Cái có tức là duy vật, nói rộng ra , là vạn vật hay vật chất. Nhà Nho nói: Tất cả vạn vật, mỗi vật đều có lý Thái cực, vậy thì loài vật có thể tiến hoá lên làm người được, người có thể tiến hoá lên làm trời được. Lý đó cũng như nhà Phật nói. “Tất cả chúng sinh, mỗi loài đều có Phật tính”. Vậy thì tất cả chúng sinh đều có thể tiến hoá lên làm Phật được.

Cái lý đó, chỉ có bậc đã giác ngộ hết nguyên uỷ nghiệp thiện của chúng sinh mới phát minh ra được. Các bạn còn đợi gì nữa, mà không theo lời đức Đại Giác dạy dỗ mà tiến hoá. Vì muốn cho người đời giác ngộ cái chân lý duy tâm, duy vật ấy nên đạo Phật mới dạy phép tu quán “vô nhân, vô ngã, vô ngã sở” (15) để phá hẳn cái thói quen nhận nhầm rằng tâm người với tâm ta khác nhau, thân người với thân ta khác nhau, của người với của ta có khác nhau.

Đây là phương pháp trừ diệt các mâu thuẫn kia. Tâm mọi người với tâm ta đều là chân lý của thái cực phó cho, vì kiếp xưa ta có tu nhiều tuệ nghiệp và hiện tại được ăn học, nên ta mới thông minh hơn người, cần phải đem cái thông minh ra mà dạy bảo cho mọi người sẽ được thông minh như ta, chứ không nên cậy ta thông minh mà khinh rẻ mọi người ngu độn, không nên biến chế trí thông minh ra mà cổ hoặc người đời lường bịp người đời; Tâm ta ham cầu mong muốn, tâm mọi người cũng ham cầu mong muốn. Tâm ta đau khổ phiền não, tâm mọi người cũng đau khổ phiền não. Ta cần phải giúp đỡ cho mọi người được toại nguyện, được thoát khổ não, chứ không nên vì tính ích kỷ mà chướng ngại điều mong cầu của mọi người, làm cho người ta tăng thêm sự đau khổ phiền não. Thân thể ta với thân thể mọi người, đều nhờ bốn đại hoà hợp mà thành, dù thân thể nào, nó cũng chỉ có ý nghĩa là túi da chứa đựng các món xương, thịt, máu, mủ và hấp thụ các sự khoái lạc hay khổ não; Cái cơ quan làm ác hay thiện , hưởng phúc hay chịu tội thôi. Đã biết nghĩ thế thì không nên cậy ta lớn mà hiếp bé, cậy ta mạnh mà hiếp yếu. Ta muốn no ấm an nhàn thì mọi người cũng đều muốn như ta. Ta cần phải có độ lượng khoan dung đối với mọi người chứ không nên quá thiên trọng thân ta, mà khinh rẻ, mà đầy ải những người hèn hạ để chiếm hết phần hạnh phúc của mọi người đem về làm phần hạnh phúc cho thân ta, nhà ta, nước ta, làm cho thân người, nhà người, nước người bị thiếu thốn đau khổ. Của ta và của người đều coi như của chung, vì ta có phúc dầy nên được hưởng giàu có, người kia kém phúc nên bị nghèo cùng đói rét. Ta nên theo với lực lượng mà san sẻ giúp đỡ cho người kia, để gieo trồng thêm cây phúc về mai sau, chứ không nên cậy ta đây giàu có mà khinh rẻ người kia nghèo cùng. Thân ta có phúc phận của ta, không nên tìm cách bóc lột mọi người thíếu thốn. Nhà ta có phúc phận nhà ta, không nên bòn đãi của nhà người khác. Nước ta đã có phúc phận của nước ta, không nên chinh phục để xâm chiếm lấy đất đai, tài sản của nước người.

Nếu người đời tin dùng phép “vô ngã” của Phật giáo đó mà tu đạo xuất thế (17) sẽ chứng được Phật quả mà tu đạo xử thế(18). Tu ở thân sẽ nên người hiền lương quân tử. Tu ở nhà, ở họ, ở làng sẽ đều được hoà mục an ninh. Tu ở quốc gia, ở thiên hạ sẽ tạo nên vận hội hoà bình thịnh trị. Nếu không tin như vâỵ mà chỉ toàn những tiến hoá theo cuộc đời vật chất, đua tranh nhau những mối lợi trước mắt, sẽ thấy những sự nguy hiểm hiển nhiên đây.

Ôi! năm sáu thế kỷ nay, tất cả các dân tộc nhiệt liệt hoan hô triết học mới, khoa học mới, từ khối óc thông minh, từ bàn tay tinh xảo của  con người, đã khám phá được biết bao bí tàng của tạo hoá, nhưng sự thật chỉ thấy rằng: tôn giáo cách mệnh (19), học thuyết cách mệnh, chính trị cách mệnh, xã hội cách mệnh, công nghệ cách mệnh. Tất cả nhân loại đã đổ biết bao xương máu, tài sản vào những cuộc cách mệnh rùng rợn khủng khiếp đó, mục đích chỉ mong cầu giải quyết vấn đề đưa nhân loại tiến hoá đến cuộc đời bình đẳng tự do. Thế mà nhân loại càng mong đợi nó gần gũi sáng sủa, càng thấy nó xa xăm, mờ mịt. Thế là tại làm sao? Vì cớ người đời thi nhau rằng: tinh thần do vật chất tiến hoá mà phát triển, chỉ có vật chất mới là trung tâm điểm (20) của loài người. Vật chất đã dễ cám dỗ, dễ say mê mà còn thêm vào cho nó hàng mớ học thuyết phát huy vật chất. Cố nhiên vật chất càng lắm, xa hoa càng nhiều. Càng xa hoa, càng thiếu thốn, càng cạnh tranh, càng tàn sát, càng phá hoại. Lạ thay loài người không có nanh nọc, mà độc ác giết người gấp nghìn vạn rắn rết.

Hoặc giả có bạn muốn hỏi: “Đạo Phật dạy tiến hoá theo cuộc đời văn minh Tĩnh” mà hiện tại nhân loại tiến hoá theo cuộc đời văn minh động. Giả sử có bọn người họ dùng võ lực để xâm chiếm mình thì bọn thanh niên phật tử tại gia sẽ đối phó thế nào?

Kinh Pháp Hoa, Phật dạy rằng: “Tất cả mọi công nghiệp giúp ích cho cuộc nhân sinh, đều là chính pháp” Đủ tin rằng: Đạo Phật cho người tu tại gia, được dùng phép phương tiện rất rộng rãi, không bắt ai câu chấp một phép gì nhất định, cũng không chướng ngại ai một công việc gì cả, miễn là các việc làm của mình không hổ với thiên lý, không thẹn với lương tâm, không tổn đến nhân đạo, là sẽ hợp với đạo Phật. Kẻ kia cậy mạnh, cậy lớn mà đàn áp xâm lăng. Bổn phận của các Phật tử tại gia  phải đem thân nhân nghĩa ra mà giẹp giặc tàn bạo, như thế không phải là giết người mà là giết giặc để cứu người. Đến khi giặc hết, dân an, liền vứt đao kiếm để trở về tu hành, lại được thành Phật. Lịch sử anh hùng trong Phật giáo đã cho biết rằng: “Vua A-Dục ở ấn độ, khi còn làm thấi tử, rất lưu tâm kê cứu Phật giáo. Khi lên nối ngôi quốc vương, bèn tôn Phật giáo làm quốc giáo, lấy đạo Phật làm chính thể, để cải cách chính trị, pháp luật, cải cách chế độ giai cấp xã hội. Lại dùng võ lực bình định giang sơn, thống nhất được quốc gia, gây nên vương triều Khổng tước, hùng cường linh ba trăm năm.

Vua Trần Nhân Tông nước ta, khi còn ít tuổi đã thông hiểu Phật lý. Năm 16 tuổi, quyết chí nhường ngôi cho em, sau lại đi trốn vua cha, vào núi Yên tử định xuất gia tu hành. Vì sự bất đắc dĩ mà Ngài lại phải về làm vua. Tuy ở ngôi chí tôn với quốc sự hồi đó hết sức rối ren về nỗi đối phó với nhà Nguyên (Tàu) mà Ngài vẫn không bỏ tu thiền định; thường đêm ra chùa Tu Phúc bàn thuyền lý với ngài Tuệ Trung. Thế mà nhất đán quốc gia hữu biến, liền xếp ngay kinh kệ, dùng đao kiếm, cả quyết ngự giá thân chinh nào bình định quân Lào, nào đánh tan quân Nguyên, khiến cho các dị tộc phải kính nể, e sợ.

Vậy mà sau khi Ngài về núi Yên tử tu hành, lại trở nên một vị Phật tổ của dân Việt Nam. Vua A-Dục, vua Nhân tôn chính là hai tấm gương đại giác ngộ, đại từ bi, đại hùng lực cho các bạn thanh niên hiện tại.

Phàm ai đã hiểu về đạo lý cũng như lịch sử Phật giáo, không còn dám phê bình đạo Phật là mê tín dị đoan, là thoái hoá nhu nhược như những kẻ mê theo tà đạo, ma đạo hoặc vô đạo, toan đem những câu đó để rào rấp con đường quy y Phật giáo. Mong rằng các bạn thanh niên để ý nhận xét kỹ đến một tôn giáo lớn nhất, cổ nhất giữa á châu, cũng như giữa dân tộc Việt Nam vậy.

 

 

Những điều cần biết trong phép trao truyền quy giới:

1). Xét mình. -  Nên xét mình xem về phần đạo đức có đủ cảm hoá và học thức có đủ phương pháp cần thiết về việc tu hành để đem ra dạy bảo cho các đệ tử giác ngộ mà tu hành không? Nhược bằng đủ, thì sẽ làm thầy trao truyền quy giới, mà không đủ thì thôi. Nếu vì cung kính danh dự và lợi lộc mà vội làm thày độ người, thì Phật đã dạy: những món cung kính danh dự và lợi dưỡng đó, nó sẽ bó buộc người học đạo không hiểu lý, phải mang nợ về mai sau.

2). Cần phải làm lễ sám hối trước khi lên đàn quy. – Tuy xét không phạm trọng giới nên không có trọng tội thực, nhưng mình hàng ngày không có trọng tội thực, nhưng mình hàng ngày hành động và sử dụng, tránh sao khỏi các tội phạm luật nghi do ba nghiệp, sáu căn gây nên. Nếu mình còn tội lỗi, mà toan độ người khác  khỏi lỗi thì thực là dối mình, dối người và dối cả Tam bảo nữa. Vì thế nên trước một vài ngày lên đàn quy y, tự mình và cho cả các người tam quy làm lễ sám tội đã.

3). Diễn giảng.-  Mỗi khoá lễ sám xong, nên diễn giảng hết mọi sự, lý Tam quy và sự lý Tam bảo cho mọi người quy hiểu rành rọt, để người ta phải phát tâm thèm khát đạo lý Tam quy, thì mới phát được thượng phẩm tâm quy y và còn học thuộc các bài văn lễ sám, phát nguyện và quy y trước, để đến khi đọc theo mới đủ nghĩa lý, mới khỏi nhầm lẫn, như thế mới thành được phép quy.

4) Định số người quy. – Chỉ nên mỗi Đàn quy độ 30 người; nếu người quá nên chia làm 2 – 3 đàn, để cho các người lĩnh thụ phép quy, dễ nhận các bài làm phép quy mà đọc theo cho rõ ràng thì mới thành được phép quy. Nhưng nếu mọi người đều đã hiểu, đã thuộc thì một đàn quy bao nhiêu người cũng được.

5) Phải dùng quốc âm mà truyền phép quy. – Phật dạy rằng: “Khi trao truyền phép quy giới mà dùng thứ tiếng khác, để cho mọi người lĩnh thụ quy giới không hiểu gì cả như thế sẽ không thành phép quy giới, người làm thày sẽ phải tội. Xem như thế đủ tỏ rằng: Chư tăng Việt nam phải dùng tiếng Việt nam mà làm phép trao truyền quy giới cho các phật tử Việt Nam.

6) Xin phép độ người.- Thày quy phải lễ Tổ để xin phép độ người, rồi mới lên chùa làm lễ quy y.

7) Đọc sớ quy. - Sớ quy phải đọc sau khi đã quy xong, vì bấy giờ người mới hướng nhận tên hiệu. Đọc sớ xong, liền hồi hướng rồi tam tự quy, sẽ thoái ban xuống lễ tạ Tổ, đoạn ra cấp điệp Bồ đề.

 

Những điều cần biết của các người quy y

1) Phát tâm quy y:

 Đại ý Phật dạy rằng: Công đức quy y thì bình đẳng, nhưng người quy y được công đức sẽ có hơn kém. Nếu hiểu rằng lòng từ bi của Tam bảo thương xót chúng sinh, cũng như mẹ hiền thương lũ con thơ; còn như tế độ cho từng người một cố nhiên phải theo với mực nhân duyên phát tâm của người đó mà ban công đức tế độ cho.Vì thế nên luật Bà Sa có câu: “Người phát được phẩm tâm, hay trung, hạ phẩm tâm quy y, tuỳ phát tâm theo với phẩm nào, sẽ được sức cảm cách của Tam bảo theo với mực phát tâm đó mà tế độ cho”

2) Phiên tà quy y.

 Người tại gia chỉ quy y mà không thụ giới, được kêu là: Phiên tà quy y, nghĩa là người ấy đã quyết liệt quay hẳn tâm tà về nơi tâm chính để trở nên người đủ nhân cách chân chính hiền lương. Nếu không cả quyết cải tà quy chính, thì quy y cũng vô ích. Vì nếu vẫn giữ thói tà ác, thì dù có quy y chăng nữa, cũng vẫn làm hung đồ đảng cho tà đạo, ma đạo chứ sao nên được người chân chính Phật tử.

3) Lựa thày quy.

Phật dạy rằng: “Phàm làm đệ tử phải chọn lấy bực minh sư mà thờ”. Tổ dạy rằng: “Nhược bằng thày bất minh, phải bỏ đi tìm minh sư; Nếu không thì thày đã xa ngã, rồi mình sẽ bị xa ngã theo”. Phật tổ dạy phải thận trọng về việc tìm thày như vậy, cho nên trước khi dự định quy y phải lựa lấy một vị xuất gia cao tuổi, có đạo đức học thức, có thể thay Tam bảo mà làm thày cho ta, rồi sẽ đến xin quy.

4) Thỉnh cầu Lễ sám và nghe giảng.

Lòng từ bi của Tam bảo thương chúng sinh như mẹ thương con, nhưng nếu chúng sinh còn vô duyên nặng nghiệp thì không thể thương, không thể độ được. Chính Phật cũng dạy rằng: Tuy quy y mà không tha thiết thành kính thì không được phép quy y. Nay ta muốn tỏ lòng thành kính để cầu phép quy, ít nhất cũng trai giới hai ba ngày để theo Lễ sám cho tiêu trừ nghiệp chướng đã. Khi lễ sám xong, lại còn phải học tập các bài văn làm phép quy cho trơn trước đi để đến lúc lên đàn quy, đọc cho minh bạch thì mới thành phép quy”. Trước khi quy nên đọc quyển Tam quy này, vì người cần phải biết sự lý Tam quy mà trong này đã giảng rất rõ ràng về lý sự đó rồi, mình tự đọc lấy mà suy nghĩ có lẽ tiện hơn nghe người không quen giảng.

5) Cần nhớ diệu hiệu quy của mình.

Vì nó mới chính là tên của mình làm Phật tử hơn nữa ta phải nhớ tên pháp danh của thày quy.

6) Hiểu rõ Tam quy.

 Nên nhớ Tam quy là Quy Phật, Quy Pháp, Quy Tăng. Thày là Tăng, vì phải đủ bốn vị xuất gia đại đức trở lên mới được kêu là Tăng. Xem thế đủ biết vị Tăng nào cũng đều là thày quy của mình cả, trong tâm đều phải quý như thày quy cho mình. Nhưng quý là quý ở tâm, còn như thân cận để học hỏi, lại phải chọn những vị có học thức, có đạo đức, cũng như lựa chọn thày quy vậy, chớ nên âu đâu chầu đấy. Không phân vàng đá, để cho người đời sinh nghi kỵ bài báng, làm hại chung cho cả đoàn thể Phật giáo Tăng già, Quy y như thế lại càng thêm tội vào thân. Nhãn tiền chúng ta thấy có nhiều kẻ đem cái nhân Phật tử đi quy y học đạo, rút cục là tự gieo thành cái qủa địa ngục.

7) Trong kinh Báo ân Phật dạy rằng: “Chỉ quy Phật quy Pháp mà không quy Tăng không thành tam quy, chỉ quy Phật quy Tăng mà không quy Pháp cũng không thành tam quy”.

Như vậy, mà hiện nay có một số người không hiểu lý nhẽ quy y, bị kẻ khác cổ hoặc đi quy y người tại gia, mặc dầu người ấy có tu có học cũng không có phép thay ngôi Tam bảo, nhất là không phải là người tu hành trong tăng đoàn không có phép thay chư Tăng mà trao truyền phép quy cho ai được. Các người đã chót quy nên nhớ lời Phật dạy: Quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng chư Phật có dạy: Từ khi Phật truyền đạo đến nay, người tại gia quy y Phật, quy y Pháp, quy y tại gia đâu cư sĩ tu hành quy của mình chỉ là thầy thay Tam bảo mà quy cho, được kêu là thày, chứ không được kêu ngôi sơ nhị tâm quả thánh hiền cũng nhiều. Nhưng không có người tại gia nào dám ngang nhiên phá luật pháp của Phật mà làm phép trao truyền phép quy cả, mà nay có người làm thày quy và có người quy, thực hiện tượng suy vi của đạo Phật vậy.

8) Kính cẩn Điệp Bồ đề.

Điệp Bồ đề là tường thuật ý chỉ Phật dạy về phép tu hành thiết yếu, phải treo lên nơi tôn nghiêm nhất là ở bàn thờ Phật, hay bàn thờ Gia tiên cũng được, để luôn trông thấy mà nhớ nghĩ mà giữ gìn, mà tu hành chứ không nên cuốn cất đi.

9) Dùng Điệp Bồ đề khi tận số.

Cần dặn con cháu đến khi gần hấp hối sẽ bầy hương hoa vào một cái bàn con ở đầu giường rồi sẽ đọc Điệp. Đọc xong, đốt vào cái chậu mới sạch, tro của nó sẽ bọc vào miếng lụa hoặc vải, hoặc giấy mới sạch. Đàn ông thì để gói tro đó vào ống tay tả, đàn bà để bên hữu, sẽ lại tụng kinh niệm Phật, nếu thỉnh được chư tăng tụng niệm đương lúc này thì quý nhất.

Quy kính tam bảo

 Đức Phật thích ca khi mới thành Phật, Ngài liền than rằng: “Lạ lắm thay, lạ lắm thay, tất cả chúng sinh đều có chân tâm trong sạch (22), thiêng liêng như Phật, chỉ vì không quay về mà nhận lấy, mà chỉ đi nhận cái vọng tâm (23) thôi.

Ôi! Quý hoá thay! Sung sướng thay! Chắc rằng chúng ta cũng có chút thiện duyên gì với Phật từ kiếp xưa, nên ngày nay mới lại biết thân thế ta giờ đây, tuy còn làm chúng sinh nhưng vẫn có sẵn chân tâm làm Phật miễn là  ta chịu quay về với nó mà nhận thẳng lấy. Nhưng còn cần suy xét xem, tại cái nguyên nhân (24) gì, mà cái chân tâm của ta trước kia, bỗng hoá ra cái vọng tâm, tức là cái tâm Phật của ta lại hoá ra tâm chúng sinh. Phàm hết thảy muôn  vật ở thế gian này, từ nhỏ đến lớn, từ hữu hình đến vô hình, vật gì cũng phải có nguyên nhân mới có kết quả (25), chứ không có vật gì lẻ loi mà tự sinh ra được. Có khi chỉ một nguyên nhân rất nhỏ mà gây nên kết quả rất lớn, tỷ như: Một hạt đa rất nhỏ mà mọc thành cây đa to tát nhường kia. Người ta ai cũng chỉ có một cái chân  tâm làm chủ tể (26) chứ không làm gì có cái vọng tâm mê hoặc thứ hai nữa , chỉ vì cái chân tâm đó, một khi  cảm xúc với mọi cảnh ngoài, tự nó không có đủ năng lực (27) giác ngộ (28) để chuyển hoá được cảnh vật, liền bị cảnh vật nó quay chuyển, thế là tâm bị cảnh chuyển, cảnh chuyển tâm theo, dần dà chân tâm chuyển thành vọng tâm, cũng như Phật tâm chuyển ra tâm chúng sinh vậy. Tâm chúng sinh tức là vọng tâm, tức là mê hoặc tâm; mà cái tâm mê hoặc chính là tổ mẫu sinh ra những cái tham, sân, si và kiêu mạn (29), tật đố (30) cố nhiên nó phải tạo ra nhiều ác nghiệp.Đã tạo ra nhiều ác nghiệp,sẽ phải chịu lấy nhiều khổ quả. Thế nên từ bao nhiêu đời kiếp tới nay, chúng ta chỉ vì mê hoặc mà gây ác nghiệp, cũng chỉ vì gây nên ác nghiệp mà phải chịu nghiệp báo (31) khổ não . Đau đớn thay! Chua sót thay! Nào khổ về thể xác, nào khổ về tâm hồn, chỉ có một mảnh hình hài nhường kiếp phù du (32), một điểm tâm hồn in tuồng huyễn hoặc, thế mà nó tạo nên cho ta cái bể khổ (33) mênh mang, bát ngát, thực là đáng kinh hoàng, dáng khủng khiếp. Ta đã biết khổ, cố nhiên phải tìm phương cứu khổ, mới phải là người có trí khôn; mà phương cứu khổ thì chỉ duy có giáo pháp mầu nhiệm của tam bảo mới tế độ cho ta thoát khỏi nỗi khổ đó. Vì thế nên ngày nay chúng ta phải thành thực quy y Tam bảo, có quy y Tam bảo thì lòng tín ngưỡng chính đạo của chúng ta mới được nhất trí, lòng đau khổ của chúng ta mới có nơi quy y, do đó sẽ dần dần học hỏi tu hành, mới có ngày giác ngộ, mà có giác ngộ, mới trừ hết được cái tâm mê hoặc, mới hết nguyên nhân tạo nghiệp, sẽ giải thoát hết mọi cái kết qủa khổ não. Cái mê hoặc, cái ác nghiệp với cái khổ quả , tỷ dụ như ba cái cây dựa vào nhau thỉ đứng được, nay đem tháo rút một cây đi, tự nhiên hai cây kia phải đổ. Một lẽ rất giản dị là đã giác ngộ được mê hoặc thì tự ý nghĩ lời nói, việc làm đều chân chính cả, tức là mọi sự thực hành hàng ngày, đều đúng với đạo Phật; như vậy, thì còn làm gì có ác nghiệp nữa mà chả hết khổ qủa. Vì mong cầu giác ngộ, nên chúng ta phải tha thiết tìm đến lịch sử và sự thực của con đường giác ngộ. Chúng ta nhận thấy rằng: chỉ có Phật là bậc đã tu hành đến giác ngộ tuyệt đối; chỉ có đệ tử chân chính của Phật mới có thể thay Phật đem pháp đó ra mà giáo hoá  cho ta giác ngộ, chỉ vì mong cầu giác ngộ nên chúng ta phải thực hành tín ngưỡng Tam bảo, thành thực quy y Tam bảo; mà chẳng những một gì chúng ta quy y, thiên hạ cổ, kim như các đấng  vương công  các nhà hiền triết, cũng phần nhiều  tín ngưỡng quy y Tam bảo…

Có phải vì sự cầu thêm tôn vinh, phú quý và thêm hiển đạt, thêm danh dự mà các bậc vương công và các nhà hiền triết sùng tín quy y Tam bảo không? Không, đừng nên nhận xét ở một số người mê tín, mà vội phê bình một cách chênh lệch để làm cho sai lạc cái tôn chỉ (34) của tiền nhân  chúng ta , vì cần giác ngộ mà quy y Tam bảo, vì muốn duy trì nhân tâm thế đạo mà tôn sùng phật giáo. Nhỏ là một gia đình, lớn là một quốc gia, hễ người trên xu hướng sao, thì người dưới cũng sẽ xu hướng vậy. Người trên xu hướng thiện, thì người dưới cũng cảm hoá theo mà xu hướng thiện. Người trên xu hướng ác, thì người dưới cũng dễ cảm hoá mà xu hướng ác. Việc đó đã được chứng minh rõ ràng: Vua Lê Thánh Tôn (35), vua Trần Nhân Tôn (36) đều giác ngộ Phật tính. Ông Tô Hiến Thành (37), ông Trần Quốc Tuấn (38) đều thâm đắc Phật học, cho nên các ngài đều sùng thượng Phật giáo theo con đường chính tín, cho nên cảm hóa được hầu hết quốc dân xu hướng về con đường chính tín Phật giáo. Từ đời Hậu Lê về sau, các vị vua chúa cũng rất sùng kính Phật giáo, nhưng các vị Phật chỉ được coi như các vị thần linh; các pho kinh cũng được coi như các bộ khoá cúng; các vị đại đức cũng được coi như các ông thầy cúng; chỉ biết áp dụng sự sùng kính Tam bảo vào những lúc thiên tai, quốc hoạ mà thôi, ngoài ra không biết giáo lý của Tam bảo là gì nữa, vì thế mà reo rắc nên cái rừng mê tín dị đoan di hại cho phần lớn dân tộc ngày này.

Chẳng những các bậc vương công xưa xùng bái quy y Tam bảo mà thôi, như giời kia mà vua Đế Thích (40) còn quy y Đức Phật Thích ca, Đức Nhạc Đế (41) còn thụ ngũ giới ở Tổ Khuê Phong; thần thông quảng đại như thần tiên, mà ông Lã đồng Tân cũng phải thụ tam quy ở tổ Hoàng Long; pháp thuật cao cường đến như chúa Liễu và các vị thận về tứ pháp mà các vị đó cũng đều quy y Tam bảo cả.

Thiên địa tuy thế, nhưng chỉ sinh thành, che chở cho tấm thân xương thịt của chúng sinh trong một cõi thế gian, đạo lý cũng chỉ điểm hoá được chúng sinh trong một thế gian này thôi; Đức hoá của Tam bảo thì sinh thành che chở cho cả pháp thân (45) tuệ mệnh (46) của chúng sinh trong hàng hà sa số cõi. Tinh thần sáng suốt của nhật, nguyệt chỉ soi xét được thiện ác của nhân loại trong một thế giới, trí tuệ của Tam bảo soi xét thiện ác của chúng sinh trong cả ba cõi.

Lại còn xét rõ được nhân quả, nghiệp duyên thiện ác ngoài muôn kiếp nữa. Pháp thuật của các thần tiên cũng chỉ bảo hộ được nhân dân một xứ sở, nhớn nhất là bảo hộ được nhân dân một xứ sở, nhớn nhất là bảo hộ nhân loại một thế gian thôi;  đạo lớn đức cả của Tam bảo tế độ hết cả muôn loài chúng sinh trong cõi đại thế giới (17) Vương công chỉ uy quyền trong một nước thuộc quyền cai trị, còn đối với người nước khác, tuyệt nhiên chẳng có oai quyền gì. Giáo pháp của Tam bảo cảm hóa hết thảy đại thiên thế giới; chúng sinh ở xứ sở nào chưa biết đến thì thôi, nếu đã biết đến là đều tín ngưỡng quy y, vì thế nên nhà cổ nho nước ta đã phải tán dương công đức oai thần của Tam bảo rằng: “Đức lớn của Tam Bảo trời đất cũng còn nhường; thần thông của Tam bảo, thần tiên cũng còn kém, ngôi quý của Tam bảo, Vương công cũng phải thua”. Xem thế thì đủ tin rằng: ngôi tam bảo là trời trong trời, nhật nguyệt trong nhật nguyệt, tiên thánh trong tiên thánh: pháp vương (48) trong hàng vương công vậy.

Chúng ta đã thực tin công đức cao của Tam bảo một cách bao quát rồi, nhưng còn phải nhận xét về lịch sử và sự thực của Tam bảo, khiến cho sự tín ngưỡng quy y của ta mới khỏi mơ hồ.

Trụ trì tam bảo

1. Trụ trì Phật bảo.

Người nào tu hành đã giác ngộ cho mình và đã giác ngộ cho chúng sinh, đều tôn xưng làm Phật. Tất cả các đấng thánh, không có vị nào được tôn quý bằng Phật, nên mới kêu là Phật bảo. Thay cả chư Phật để làm thầy giáo hoá cho chúng sinh trong cõi đại thiên thế này, là Phật Thích Ca. Ngài sinh ở nước Ca-Tỳ-La-Vệ, miền trung ấn độ, phụ vương là Tịnh Phạm, mẫu hậu là Ma-Da; Ngài sinh ra đủ 32 tướng trượng phu, trí tuệ xuất chúng, văn võ toàn tài; nếu không xuất gia, sẽ làm bậc thánh vương, giầu có cả bốn bể, chỉ vì muốn lấp bằng bể khổ giữa trần gian, để dìu dắt chúng sinh đều lên cõi giác, nên mới hy sinh cả ngôi chí tôn, hỷ xả cả quốc thành thê tử, để đi vào núi Tuyết sơn tu hành khổ hạnh, dòng dã 6 năm, mới giác ngộ được hoàn toàn chân lý của vũ trụ, lại đem đạo lý mà Ngài đã giác ngộ ra giáo hoá cho nhân dân khắp 18 nước thuộc miền ấn độ. Chúng sinh nào có sẵn tuệ căn, được Ngài giáo hoá là đều được giác ngộ, đều được giải thoát (49) khổ não vì thế nên các vua chúa, cùng là các sĩ thứ về quy y không biết lượng nào mà kể. Sau khi Ngài thoát hoá về cõi chân như (50), nhân dân các nước đó vì nhớ ơn giáo hoá, mới tạc tượng lên thờ, để làm đài gương từ bi bình đẳng cho nhân loại. Chúng ta nên nhận ngay các tượng Phật là trụ trì (51) Phật bảo.

2. Trụ trì Pháp bảo.

 Pháp tức là phép tắc, vạn sự vạn vật ở thế gian này, mỗi sự mỗi vật đều phải có phép tắc nhất định, thì mới thành kết quả của sự vật được. Phép tắc của thế gian như Lễ, Giáo, Pháp luật.v.v chỉ có một mục đích là đưa người đời vào con đường luân lý trật tự, cho cuộc nhân sinh được an ninh, hoà bình, chứ không phải là giáo pháp có thể khiến cho người đời giác ngộ được mọi sự mê hoặc, phá trừ được hết ác nghiệp, giải thoát được hết khổ não. Đã được các bậc Thánh tăng đem vô lượng pháp môn đó chép thành ba tạng Kinh, Luật, Luận.

Kinh. - Chủ trương bầy tỏ hết mọi trí đức, mọi pháp môn, mọi cơ duyên của chư Phật lại bày tỏ hết mọi nghiệp duyên thiện ác báo ứng (52), nhân quả luân hồi (53) của chúng sinh.

Luật. – Tuy có chia ra luật tu tại gia, luật tu xuất gia khác nhau, nhưng cũng chung một tôn chỉ ngăn điều lỗi, cấm điều ác, hết thảy các Phật tử đều tuân theo giới luật về phân minh mà phòng giữ từ ý nghĩ, lời nói, việc làm thì ba nghiệp mới thanh tịnh, sáu căn (54) mới thuận hoà, để trở nên bậc tu hành đầy đủ nhân cách, đầy đủ phẩm hạnh, đủ làm mực thước, làm khuôn mẫu cho đàn sau; vì thế nên Phật mới truyền dạy các đệ tử, đối với giới luật của Phật, phải tôn kính như Phật.

Luận- Chủ trương biện luận để phát huy những nghĩa lý bí mật ở Kinh, Luận, Luật: lại còn biện bạch thế nào là chính đạo, tà đạo, thế nào là chính giáo, tà giáo, các Phật tử có dụng công học luận, mới xét được chân, ngay, mới hiện được tà, chính, mới giáo hoá cho tín đồ phát huy được đường mê tín dị đoan. Hơn thế nữa, là có dụng công học Luận, mới đủ được mọi lý, học được mọi sự.

3. Trụ trì tam bảo.

ấn Độ kêu là Tăng, Tàu dịch là hoà hợp chúng, phải đủ bốn vị đại đức tu hành trở lên, cùng nhau đoàn kết để phụng sự một chủ nghĩa “ Lục hoà” mới được kêu là Tăng, tức là một đoàn thể nhu hoà, nhẫn nhục, tránh hết mọi sự tranh đoan do nghiệp tham, sân, si, kiến, mạn, tật đố sinh ra; giúp đỡ nhau, dìu dắt nhau, khuyên răn nhau, dạy bảo nhau, cho thành một đoàn thể có học vấn uyên thâm, có giới luật tinh nghiêm, có đức hạnh thanh nhã, ngòai ra còn phải đồng tâm hiệp lực để làm mọi công việc tuyên Phật, Pháp, khai hoá cho nhân sinh, bồi bổ cho nền phong hoá, làm phúc lợi cho xã hội. Một đoàn thể có công nghiệp ấy, có công đức ấy mới xứng đáng với cái huy hiệu Tăng bảo vậy.

 

Thực hành ba phép phương tiện trước và sau khi quy y.

 

Trước khi quy y, cần phải thực hành ba phép phương tiện (55) để bày tỏ mục đích của ta quy y; sau khi đã quy y, là mục đích của ta đã đạt, vì rằng Tam bảo đã chứng giám trong khi tha thiết lễ bái, sám hối và phát nguyện mà trao truyền cho ta cái nhân chính pháp; hàng ngày ta phải dùng công thực hành ba phép phương tiện đó để vun bón lấy quả chính pháp. Người nào đã lĩnh thụ được chính pháp mà không biết tin dùng các phép phương tiện để thực hành và gìn giữ lấy chính pháp đó, nó cướp mất chính pháp cũng tỷ như phụ mẫu để lại món của báu, phải biết đem ra mà tìm phương sinh hoạt để sẽ kinh doanh nên cơ nghiệp phong phú, cho hợp với cái chí nguyện của phụ mẫu để món của báu ấy lại cho.

Nếu cứ lẽo đẽo giấu kín đi, lỡ khi trộm cướp nó lấy mất thì chẳng những  mất của mà thôi, lại còn phải tội với phụ mẫu nữa. Phật dạy rằng: “Làm luôn thì sẽ trở nên tinh tiến mà lười biếng sẽ bị đoạ lạc”, hai câu pháp ngôn đó, người mới quy y phải ghi tạc với cái chí nguyện học đạo Phật, tu đạo Pháp vậy.

 

 

I/ Lễ bái.

 Mục đích lễ bái, để tỏ lòng tín ngưỡng, đấng Từ bi sẽ cảm kích với tấm lòng đương thiết tha cầu nguyện của ta. Muốn thế thì mỗi khi lễ bái tâm, thân cần phải hợp nghi. Tâm hợp nghi tức là trong tâm phải chăm chú hết mức vào điểm thanh tịnh quán tưởng(56). Thân hợp nghi tức là ngoài thân phải từ đầu đến hai khuỷu tay, hai ống chân đều phải rạp sát xuống đất để tỏ rằng trong tâm mình không có một điểm hoài nghi kiêu mạn, cho nên mới chịu lễ thành kính như vậy. Tâm thành kính của ta tỷ như hỗ nước trong, tâm từ bi của Tam bảo cảm ứng, tỷ như vầng trăng sáng. Lẽ tất nhiên là nứơc có trong thì trăng mới chiếu, tâm có thành thì Tam bảo mới cảm. Việc lễ bái mà có thấy cảm ứng, thì mới thấy được sức oai nghiêm hiển ứng nhiệm mầu của Tam bảo, mà chỉ có oai thần của Tam bảo mới trừ diệt hết nghiệp chướng, Tỷ dụ như chỉ có sữa của con sư tử mới đánh tan được sữa của các loài vật khác ra thành nước. Ta nên nhớ rằng: Vua Đế Thích chỉ vì sợ hãi ác báo đã đến nơi mới chịu thiết tha lễ bái quy y, vậy mà đương lúc đang làm lễ quy y mà cái nghiệp báo gớm ghê kia lập tức tiêu trừ ngay. Hiện nay ta chưa bị nghiệp báo như vua Đế Thích mà lại thành kính lễ bái quy y, có lẽ gì nghiệp chướng chẳng bị khối tâm thành này tiêu trừ hết.

II) Sám hối.

Sám nghĩa là thành thực xin đổi hết mọi tính nết xấu xa từ trước, cũng như xin  chừa hết mọi điều tội lỗi đã phạm từ trước. Hối là thành thực xin tu tỉnh lại, hơn nữa là ăn năn tủi thẹn, từ xưa đến nay vì tâm mình mê hoặc, đã làm nên bao ác nghiệp, hoặc mình làm, hoặc nghe người khác khuyên làm ác mà theo, hoặc ý mình ưng thích chơi với những kẻ làm ác. Nay xin gột rửa thân tâm, bầy dãi can tràng, đối trước Tam bảo để thú nhận tội lỗi, từ nay về sau thành thực xin tu tỉnh lại.

Thế là đã bao quát được hết ý nghĩa của hai chữ sám – hối. Nhưng nếu chúng ta muốn hiểu sâu xa, rộng rãi hơn nữa, tất không thể bỏ qua được sáu phép sám hối sau đây:

1. Tàm quy sám hối:

Tàm là lương tâm thẹn thùng, quý là nét mặt bẽn lẽn. Tỷ như tiền nhân chúng ta đã để lại cho chúng ta ngu dại, đi chuốc lấy những cái xấu xa, hủ bại về làm bả mê hồn, cái bả mê hồn đó đã làm cho chúng ta mất hết nhân cách (57) của con người. Mà thực thế, kia bao nhiêu sự hành vi, cử chỉ xấu xa hủ bại của chúng ta, nó đã làm cho luân lý của gia đình tan tác, phong hoá của xã hội đội bại. Nay chúng ta hồi tỉnh lalị, quả thực thấy lương tâm thẹn thùng với bóng anh linh của các bậc thiện trí thực chung quanh chúng ta. Lại nữa, Phật dạy rằng: Người Phật tử tu tại gia, cần phải dùng chính pháp mà cư xử trong gia đình, ngoài xã hội, như vậy mà chúng ta e bổn phận làm cha mẹ thiéu nhân từ, làm con thiếu hiếu kính, làm chồng thiếu chính nghĩa, làm vợ thiếu thuận đạo, làm anh em thiếu hoà mục, làm bè bạn thiếu tín nghĩa, làm thầy thiếu nghĩa phương (58), làm trò thiếu cung kính (59), làm chủ thiếu nhân hậu, làm tôi thiếu trung thành. Giờ phút này đây, chúng ta đương bùi ngùi thẹn hổ với trước bóng từ bi là đã trái phép Phật dạy nên mới phạm những tội tình lỗi đạo cương thường như vậy.

2. Khủng bố sám hối.

Khủng là sợ sệt, bố là hãi hùng. Phải thú nhận rằng: Chúng ta hàng ngày hành động tự ba nghiệp thân, khẩu ý đã tạo nên biết bao tội nghiệp. Nào trong ý nghiệp luôn phát ra mối nghĩ tham độc, sân độc và si độc; nào khẩu nghiệp lại luôn luôn theo với ý nghiệp nói độc ác, nói lừa dối, nói lật lường, nói đơm đặt, nói cho người ta gây thù, kết oán, nói cho người ta đang trong sạch hoá ô nhục, nó cho người ta cốt nhục tàn sát, ân nghĩa biệt ly, dĩ chi nói cho người ta khánh kiệtgia tài, nguy hiểm tính mệnh. Lại đén thân nghiệp cũng luôn luôn theo với ý tưởng thích khẩu, khoái trí mà đi giết chóc sinh linh vô độ; theo với ý tưởng tham lam tài bảo, mà đi buộc tội, doạ nạt để ức hiếp xâm chiếm, dĩ chí gian giảo trộm cắp, để lấy của cải, cơ nghiệp của người ta, mà lại theo với ý tưởng mê sắc mà đi tà dâm. Những tội bất nhân bất nghĩa, bất lễ đó, nếu nó có hình tưởng hiển nhiên, có lẽ chúng ta sẽ thấy nó cao ngang núi, sâu hơn bể, thật là đáng kinh khủng, đáng sợ sệt, độc nhất của chúng ta, cả ở hiện tại và vị lai nữa. Vì những tội nghiệp đó sẽ đầy đoạ chúng ta vào những thứ cực kỳ khổ não, như địa ngục, ngã quỷ và súc sinh, cho nên giờ phút này, chúng ta phải chí thành khủng bố sám hối.

3. Yếm ly sám hối.

Yếm là chán, ly là bỏ. Chúng ta đương muốn chán bỏ những cái khăn áo rách rưới, hôi hám, để tắm gội cho đầu óc, thân thể được sạch sẽ, thơm tho thế nào thì cũng muốn chán bỏ cái ý nghĩ độc, cái thân làm ác, cái miệng nói ác cũng như vậy.

Ba cái nghiệp và ba cái độc đó nó là cái tâm bệnh truyền nhiễm của chúng ta đã bao nhiêu đời kiếp đến nay, nếu không thực lòng chán bỏ hẳn đi, mà chỉ vì sợ hãi tỗi lỗi trong giây phút mà sám hối xuông, thì các cái độc đó, cái nghiệp đó nó chỉ tạm dẹp được giây phút đó thôi, rồi đến khi kiến cảnh lại sinh tình, gặp duyên gì sinh ý, lại tham lam, lại độc ác, cũng tỷ như bệnh sốt rét cách nhật, hôm nay khỏi, ngày mai lại sốt vậy.

4. Oán thân bình đẳng sám hối.

Oán thân là oán giận, oán thù, oán nghiệp với mình. Thân là thân nhân, thân thuộc với mình. Theo luật báo phục của lý nhân quả thì kiếp xưa chúng ta đã gây nên thù hằn, oán kết với mọi người, nên ngày nay mọi người lại đem cái thù hằn, oán kết đó mà báo phục lại chúng ta đó. Chúng ta phải vui vẻ, thản nhiên coi như đã trả xong được một món nợ oan gia nghiệp chướng, như vậy thì kiếp sau, chúng ta không còn bị oan gia nghiệp chướng nữa. Nếu lại tức tối, hậm hực, chỉ mong những báo thù trả oán, thế là chúng ta lại bắt đầu gây cái nhân oán thù, nghiệp kết về mai sau. Có lẽ cái nhân quả oán kết tuần hoàn báo phục không biết đến kiếp nào cho giải thoát được. Vì thế nên Phật dạy: “Muốn sám hối cho tiêu trừ hết oan gia nghiệp chướng, thì nên đối đãi với bao nhiêu người thâm thù, thâm oán với chúng ta từ trước, đều phải coi như những người thân quyến với chúng ta cả”.

Đến đây lại bàn đến phương pháp giải oan trái ngay từ trong gia đình, Cổ nhân có câu: “Phi ân phi oán bất thành phụ tử, phi duyên phi trái bất thành phu thê” Xem như thế đủ tin rằng: Trong một nhà mà cha mẹ ăn ở với con hết đạo nhân từ, con cái ăn ở với cha mẹ hết đạo hiếu thảo, đó đều là các ân gia với nhau kiếp trước. Cha mẹ ác nghiệp, con cái bội bạc, đó lại là các oan gia với nhau kiếp trước. Lại phần nhiều cha mẹ đương nhân từ, bỗng sinh ra ác nghiệp, đương ác nghiệp bỗng lại nhân từ, con cái đương hiếu thảo bỗng hoá ra bội bạc, đương bội bạc lại hoá ra hiếu thảo đó là báo ân, báo oán lẫn nhau từng ngày, từng giờ vậy. Đạo vợ chồng cũng chẳng kém thế. Nếu bạn sắt cầm mà là đôi thiện duyên kiếp trước, mà kiếp này gặp gỡ, thì sẽ được hưởng hạnh phúc gia đình của cuộc trăm năm hoà hợp trong đạo sướng tuỳ, vinh nhục vẫn cùng nhau san sẻ, trẻ già vẫn cùng nhau yêu quý. Chẳng may mà bị đôi nặng nợ gặp nhau, thì cái nghiệp trái đó, nó sẽ làm cho điêu đứng đủ mọi bề, như vừa hợp đã tan, khiến cho người thì chồng nam, vợ bắc, người thì chồng khuất vợ còn, lênh đênh lá bách giữa dòng. Người thì lúc hàn vi cùng nhau âu yếm, lúc vinh hoa cùng nhau cô đơn, nghĩa là tao khang không được tôn trọng, đạo xướng tuỳ bao nỗi đau thương, Không những ngày này, mà đã có đến  bao nhiêu kiếp rồi, chúng ta cứ bị cái dây oan gia nghiệp trái ấy, nó buộc trong vòng luân hồi khổ não. Nay tỉnh ngộ, chúng ta phải nên thiết tha sám hối cho chúng ta và cho cả thân thuộc của chúng ta, nguyện cùng nhau ân trả nghĩa đền, cùng nhau giải oan nghiệp, giải trái nghiệp, kiếp sau đừng có báo phục nhau nữa. Người tu tại gia mà mong cầu cho giải thoát, phải chú trọng nhất vào phép “oán thân bình đẳng sám hối này”

5. Phát Bồ đề tâm sám hối.

ấn độ kêu là Bồ đề, Tàu dịch là Đại đạo, là cái lòng từ bi cao cả hơn trời đất, sâu rộng hơn sông biển, chứa chất được cả đại thiên thế giới chúng sinh ở trong lòng từ bi quảng đại ấy.

Đức Phật Thích Ca đã phô diễn cái lòng ấy ra làm sáu chính pháp để giáo hoá cho hết thảy mọi hạng người tu, người nào thành thực tin cậy vào sáu phép đó mà tu hành, là đều được thành phật cả, mà chỉ tu được một hai phép thôi cũng được nhiều công đức.

     - Một là phép tu Bố thí (60) để giáo hoá chúng sinh, bỏ tính tham lam keo cú.

- Hai là phép tu trì giới, giáo hoá cho chúng sinh bỏ tính xa hoa phóng túng.

- Ba là phép tu Nhẫn nhục để giáo hoá cho chúng sinh bỏ tính tức giận căm hờn.

- Bốn là phép tu tinh tiến, để giáo hoá cho chúng sinh bỏ tính lười biếng trễ nải.

- Năm là phép tu Thiền định (61), để giáo hoá cho chúng sinh bỏ tính loạn tư, vọng tưởng.

- Sáu là phép tu Trí tuệ, để giáo hoá cho chúng sinh bỏ tính ngu si, mê hoặc.

Sáu phép bồ đề trên, trong tâm chư Phật cũng như trong tâm chúng ta đều có sẵn.

Chư Phật đều phát khởi ra mà tu hành thành Phật, còn chúng ta không chịu phát khởi để tu hành , nên vẫn phải luân hồi, làm chúng sinh, thực đáng ăn năn biết bao, hối hận biết bao!

Nay xin chí thành sám hối cái tội không chịu phát tâm tu hành, và xin phát nguyện  tu theo sáu phép bồ đề như chư Phật đã tu, đã làm, đã chứng để cứu độ mình và cho tất cả chúng sinh.

Nên nhớ rằng: Bà Vi-Đề-Hy (62), tội ác đến nơi, phải đoạ làm loài mãng xà, mà bà ấy chỉ nhờ vào phép sám hối mà cái ác báo mãng xà kia lập tức giải thoát ngay.

Ta tuy tội lỗi nhiều thực, nhưng chưa đến nỗi đầy đoạ như bà Vi-Đề-Hy. Vậy mà nay ta thành kính sám hối, tất nhiên bao nhiêu tội ác cũng phải tiêu tán hết.

6) Phát nguyện

Phát nguyện là đối trước Tam bảo mà phát lại lời thề nguyện tu hành cho tròn đầy công quả; phát nguyện lại có ý nghĩa là mối lòng mới phát khởi ra ý niệm ham cầu, mong muốn, hiện giờ lòng ta đương hàm cầu, mong muốn gặp đựơc ông thầy đạo đức cao cả, để thay ngôi Tam bảo mà trao truyền chính pháp quy y, cho ta biết đường tu hành, cũng tỷ như người đi đường bị tối tăm, mà ham cầu gặp được đèn đuốc đưa đón. Người đương bị đắm đuối mà ham cầu mong muốn gặp được thuyền bè cứu vớt, nhất là đương mong cầu Tam bảo chứng minh cho bốn điều đại nguyện của ta tuyên thệ đây, nó cũng in hợp với bốn điều đại nguyện của chư Phật, Bồ tát nữa.

a. Phát nguyện độ chúng sinh.

Người mới phát tâm quy y, ai cũng mang một quan niệm (63) cầu độ cho bản thân còn chưa xong, huống chi lại còn giao cho cái trách nhiệm độ chúng sinh, cố nhiên phải rụt rè, sợ hãi không làm nổi, mà thực thế, nếu nói đến sự đầy đủ công đức độ chúng sinh, thì chỉ  có Đức Phật, còn chúng ta đương ở vào hàng tập sự Phật này, được theo phép phương tiện của Phật mà phát nguyện tuỳ tâm lực mà độ chúng sinh.

Theo ý Phật dạy về việc độ chúng sinh của người tu tại gia, thì tự gần là các người trong gia đình, trong quyến thuộc và xa là các người ngoài xóm, ngoài làng, dĩ chi xã hội đều là chúng sinh cả, như hiếu kính với cha mẹ, nuôi dạy con em, giúp đỡ họ hàng, bè bạn, cũng là việc công đức độ chúng sinh, dĩ chi người biết trung thành với quốc gia, thương xót giống nòi. Lại nữa nhỏ như một cây hoa kia nó đương bị mưa gió lay đổ, ta đỡ dựng nó lên cho nó sống cũng là việc độ chúng sinh; dĩ chí một con vật đương bị tai nạn đáng thương, ta cứu cho nó cũng là độ chúng sinh. Người nào theo đạo Phật cũng cố gắng với chí nguyện độ chúng sinh để thương yêu nhau, giúp đỡ nhau mà gây lấy tinh thần bình đẳng, bác ái ở giữa xã hội để mà hưởng chung cuộc an ninh, hoà bình như thế thì làm gì còn có sự đau khổ như cảnh chiến tranh hiện tại nữa.

Đã quy y Đại thừa Phật giáo mà không làm công đức độ chúng sinh, sẽ bị liệt vào hạng tu theo lối ích kỷ. Chính Đức Phật Thích ca, là thầy tôn kính của chúng ta, xưa đã nhiều lần quở mắng những đệ tử tu ích kỷ, làm cho “thui mầm, nát giống Bồ Đề” Vả lại việc độ chúng sinh là việc Phật đã làm, mới xứng đáng làm Phật tử.

b) Phát nguyện đoạn trừ phiền não.

Vì ta phải theo tôn chỉ Đại thừa (64) nên hàng ngày ta phải làm mọi việc phúc đức, nhân duyên (65) để cứu độ chúng sinh, tất nhiên sẽ gặp nhiều báo chướng, phiền não chướng (66) hoặc tự trong tâm phát ra, sinh ra, hoặc tự cảnh ngoài đưa đến, mà thế tất nhiên phải có, vì nó là nghiệp báo truyền kiếp. Nếu ta không đủ đạo lực nhẫn nhục để diệt trừ hết lòng tự ái và kiêu căng, sẽ bị nó làm chướng ngại con đường tu hành. Trái lại, nếu ta đoạn trừ được bao nhiêu phiền não, sẽ thấy đạo lực của ta tăng tiến thêm lên được bấy nhiêu. Vì thế nên trong kinh mới nói Phiền não tức bồ đề. ý nói chuyển cả tâm cảnh phiền não ra tâm cảnh Bồ đề. Đến đây sẽ thấy chân tâm ta chuyển hoá được cảnh vật, cảnh vật đã phải chuyển theo với chân tâm của ta, bao nhiêu ma nghiệp, phiền não kia, ta đều hoá độ được hết, mà có hoá độ được phiền não, mới thành được Bồ đề.

Nên nhớ rằng, ông Đề-Bà-Đạt-Đa (67) đã bao nhiêu đời theo dõi Đức Phật Thích Ca để làm chướng ngại tu hành, thế mà đến khi Ngài thành Phật, Ngài liền nói rằng: “Vì ông Đề-Bà-Đạt-Ma nên ta mới chóng được thành Phật”. Phật tử chúng ta nên ghi nhớ lời vàng ngọc đó làm tấm gương phản chiếu cho những khi bị phiền naõ chướng ngại trong việc tu hành.

c) Phát nguyện học pháp môn.

Độ chúng sinh là tu phúc, học pháp môn là tu tuệ, phúc với tuệ là hai bánh xe cho người tu hành đến con đường thành công quả. Lại cũng vì hàng ngày làm việc độ chúng sinh mà sinh ra phiền não, nên hàng ngày phải để thì giờ học tập pháp môn, mới đủ đạo lực để đoạn trừ phiền não, cho nên sau khi phát nguyện độ chúng sinh, lại phải phát nguyện đoạn trừ phiền não, rồi kế đến phát nguyện học pháp môn mà mỗi một pháp môn sẽ đoạn trừ được một nghiệp phiền não, phiền não vô tận. Nên Phật dạy pháp môn diệt trừ phiền não cũng vô lượng.

d) Phát nguyện thành Phật.

Tin tưởng theo chân lý Phật giáo ở kinh Nhân quả, thì đã gieo nhân gì tất có kết quả ấy. Ba điều phát nguyện trên là gieo nhân thành Phật, điều nguyện thứ tư này là để tỏ chí nguyện mong muốn tu hành chóng kết quả thành Phật.

Phật dạy rằng: Tất cả chúng sinh đều có Phật tính. Phật tính tức là nguyên nhân. Nếu tâm ta gắn bó chắc chắn với ba điều nguyện trên để vun trồng cho cái nguyên nhân Phật tính đó luôn luôn tươi tốt, luôn luôn nảy nở, quyết nhiên phải có ngày kết thành Phật quả. Ta phải tin lời Phật Thích Ca dạy: “Chúng sinh đời nay, là chư Phật của các đời mai sau”. Lại chính Đức Thích Ca khi xưa còn làm chúng sinh, bị đoạ vào ngục Hoả xa cảm thấy cảnh khổ địa ngục vô cùng đau đớn nên Ngài mới phát ra bốn điều đại nguyện này làm tôn chỉ tu hành, trong trăm ngàn ức kiếp. Ngài cứ theo dõi bốn điều nguyện đó mà tu hành cho đến thành Phật. Nay ta cũng cảm thấy tâm là nguồn ác, thân là rừng tội, nên cũng học đòi Đức Thích Ca, cũng phải theo bốn điều Đại nguyện đó, để cố gắng tu hành theo chí nguyện Ngài, quyết nhiên có ngày ta cũng sẽ thành Phật như Ngài vậy.

 

III) Quy y.

Quy nghĩa là quay đầu về, ví như bỏ chỗ tối quay về chỗ sáng, bỏ nghiệp ác, quay về làm nghiệp thiện và bỏ tà đạo quay về chính đạo.

Y nghĩa là nương tựa, là tin cậy như con cái nương tựa vào cha mẹ, hoặc trò tin cậy vào Thầy. Nay ta quy y Tam bảo là quay đầu về tin cậy ở Tam bảo.

Nhưng cần phải biết thế nào là “Quy y” và thế nào là “Tự quy y”

Quy y là quy y “Biệt tướng Tam Bảo”, như thế ta chí thành chiêm ngưỡng vào hình tượng Phật Thích Ca và chư Phật mà lịnh thu phép Quy y, thế là Quy y Biệt tướng Tam bảo; tuân theo phép Phật dạy ở kinh Luật, Luận mà nhận chịu phép quy y và giữ gìn phép quy, là quy y Biệt tướng Pháp bảo, nghe ông thày thay Phật và chư Tăng giáo hoá cho mà tu hành, là quy y Biệt tướng Tăng bảo (Xem bài Trụ trì Tam bảo ở trên).

Tự quy y là tự quy y Đồng thể Tam bảo. Nên chú ý đặc biệt vào chữ “Tự”. Tự nghĩa là mình, ngày ở mình có tâm Phật thiêng liêng, sáng suốt, có tâm Pháp, chân chính mầu nhiệm, có tâm Tăng, thanh tịnh nhu hoà. Sẵn có mà mình không biết, là vì từ bao nhiêu kiếp đến nay, ta chỉ nhận cái nghiệp thức tham, sân, si, mạn, nghi làm thực tâm của ta. Cái tâm mê hoặc đó, nó đã sai khiến ta gây ra biết bao nhiêu tội nghiệp. Nó đã đầy đoạ ta vào bao kiếp luân hồi. Cũng tỷ như người nhận giặc làm con, mới bị quân giặc nó giết người, cướp của. Mặc dầu ta bị mê hoặc lâu đời, nhưng cái chân tâm Tam bảo của ta vẫn tự ở trong cái tâm mê hoặc đó. Tỷ như trăng vì mây mù che phủ, nhưng trăng vẫn ở trong mây, mây tan thì trăng lại sáng.

Đã biết tâm Phật, tâm Pháp, tâm Tăng ta sẵn có, thì tự nay ta cứ tin cậy vào cái tâm Tam bảo của ta, mà trừ diệt cái tâm tham, sân, si thế nghĩa là bỏ mê hoặc mà quay về giác ngộ.

 

Kết luận

Biệt tướng Tam bảo là sự thiết thực, Đồng thể Tam bảo là lý cao xa, chớ nên chấp sự mà bỏ lý, cũng chớ nên chấp lý mà bỏ sự. Có sự thì lý mới rõ rệt, có lý thì sự mới có chỗ mà y cứ. Sự tức là lý, lý tức là sự. Sự lý phải dung hoà thì mới hợp với tôn chỉ Phật Pháp. Nhận lại sự thiết thực, thì trước phải quy y biệt tướng Tam bảo, về sau, học hỏi tu luyện dần dần vào sâu bể  Phật Pháp, mới có thể  tự quy y Đồng thể Tam bảo được. Vì rằng Phật tính của ta tuy vẫn có, mà không nhờ có Phật Thích Ca ra đời giáo hoá, thì giác ngộ làm sao được tâm Phật của ta. Tâm pháp chân minh, mầu nhiệm ta vẫn có, mà không nhờ có Kinh, Luật, Luận là ba kho Pháp bảo lưu truyền, để chỉ điểm phương pháp tu hành, thì ta tìm đâu ra mà tu trì cho chứng ngộ được tâm Pháp. Tâm Tăng thanh tịnh, nhu hoà ta vẫn có, mà không nhờ có chư Tăng chỉ dẫn thì thấy làm sao được tâm Tăng.

     Muốn ngộ tâm Phật của ta, trọn đời ta phải tin kính cúng dàng Đức Phật Thích Ca cũng như tin kính cả chư Phật. Muốn ngộ tâm Pháp của ta, trọn đời ta phải tín kính cúng dàng ngôi Pháp bảo và chăm chỉ học hỏi Kinh, Luật, Luận của Phật. Muốn ngộ tâm Tăng của ta, trọn đời ta phải tin kính cúng dàng ngôi Tam bảo và tuân theo phép giáo hoá của ông thầy chân chính cao cả. Có thế thì mục đích quy y của ta mới được kết quả hoàn toàn.

Phép tắc trao truyền Tam quy.

1. - Lễ bái

( Thầy quỳ xuống xướng):

Hết thảy đều kính cẩn.

(Các người quỳ đọc theo):

Dốc lòng kính lạy chư Phật thưởng ở khắp mười phương.

Dốc lòng kính lạy chư tôn Pháp thường ở khắp mười phương.

Dốc lòng kính lạy chư tăng thường ở khắp mười phương.

Dốc lòng kính lạy Đức Phật thày chúng con là Thích Ca Mâu Ni.

Dốc lòng kính lạy chư Phật ở đạo tràng đời sau,

Dốc lòng kính lạy chư tôn Pháp, chư Bồ tát, chư Hiền Thánh, Tăng ở đạo tràng đời sau,

Dốc lòng kính lạy chư vị Tổ sư Bồ Tát.

Dốc lòng kính lạy chư vị Bồ tát hiện làm Thiên thần, ủng hộ Phật pháp.

(Lễ này xong, điểm 3 tiếng chuông, rồi đều ngồi trang nghiêm. Thầy quy lại điểm 3 tiếng chuôn, sẽ lại rung mõ, cùng tụng khen ngợi hương):

Lư hương vừa đốt,

Cõi pháp thơm lây,

Chư Phật bốn bề đều hay,

Thấu tâm thành này,

Chư Phật hiện thân ngay,

Kính lạy đức Hương Vân Cái Bồ Tát Ma Ha Tát (3 lần)

 

Kệ khai kinh

Phật dạy chân kinh phép nhiệm màu,

Vô duyên muôn kiếp dễ gặp đâu,

Con nay nghe thấy xin vâng giữ,

Phép Phật con mong hiểu rất sâu,

Kính lạy đức Phật thầy chúng con là Thích Ca Mâu Ni (3 lần)

Kính lạy đức Hương Vân Cái Bồ Tát Ma Ha Tát (3 lần)

2.- Mời Tam Bảo.

(Thầy quy và người quy đều quỳ, chắp tay ngang ngực, thầy quy đọc từng câu rành rọt, các người quy đọc theo đều đều.)

Đệ tử con, họ, tên là:…..(tên ai người ấy đọc thật rõ) dốc lòng kính mời Đức Phật thầy chúng con là Thích Ca Mầu Ni và kính mời hết thảy ba đời chư Phật, chư tôn Pháp, chư Bồ tát, chư Hiền Thánh, rất mong chư Tôn mở lòng lành thương giáng đến toà Pháp bảo đây xét chứng cho, chúng con đều trông nhờ vào lòng lành thương của chư Tôn mà được quay về nương nhờ vào ba ngôi Phật bảo, Pháp bảo và Tăng bảo, xin ba ngôi tế độ cho.

(Đọc 3 lần xong, điểm 3 tiếng chuông và thầy quy, người quy đều đứng dậy lễ).

Kính lạy 3 ngôi Phật, Pháp, Tăng thường ở khắp mười phương.

(Lề 3 lễ xong điểm 3 tiếng chuông cùng đứng lên váI dài, rồi cùng quỳ chắp tay ngang ngực đọc bài sám hối).

3.Sám Hối

(Thầy quỳ xuống đọc lên từng câu, các người quy đọc theo cho đều).

Dốc lòng sám hối

Chúng con tên là: ……….(họ, tên ai người ấy đọc).

Xưa kia gây nên bao ác nghiệp,

Đều vì 3 độc: Tham, sân, si,

Thân làm, miệng nói, ý nghĩ ra.

Bao tội ác kia xin sám hối.

 (Đọc 3 lần xong, điểm 3 tiếng chuông sẽ cùng đứng lên làm lễ Tam bảo)

Sám hối đoạn

(Câu này riêng thầy quy đọc thôi).

Dốc lòng kính lạy ba ngôi Phật, Pháp, Tăng thường ở khắp mười phương.

(Lễ xong 3 lễ, điểm 3tiếng chuông, cùng đứng lên vái dài 1 vái, đều quỳ đọc bài phát nguyện).

4.-Phát nguyện

(Cách đọc bài phát nguyện cũng như bài sám hối).

Dốc lòng phát nguyện:

Vô biên chúng sinh thề xin độ

Vô tận phiền não thề xin đoạn.

Vô lượng pháp môn thề học thấu.

Vô thường Phật đạo thề tu hành.

Phát nguyện đoạn

Dốc lòng kính lạy ba ngôi Phật, Pháp, Tăng thường ở khắp mười phương.

5.-Trao truyền phép quy

(Thầy quy đọc từng câu rành rọt cho người đọc theo, nếu người quy nào đọc không rõ ràng là không thành phép quy).

Tam quy.

Đệ tử con……..(họ, tên ai người ấy đọc).

Từ nay cho đến chết, quay về nương nhờ ngôi Phật bảo; từ nay cho đến chết, quay về nương nhờ ngôi Pháp bảo; từ nay cho đến chết, quay về nương nhờ ngôi Tăng bảo.

(Đọc 3 lần, mỗi lần điểm 1 tiếng chuông, lần thứ 3 xong lại điểm 3 tiếng chuông để đọc sang bài):

Tam kết.

Đệ tử con…..(họ, tên ai người ấy đọc)

Từ nay cho đến chết, quay về nương nhờ ngôi Phật bảo cho trọn vẹn.

Từ nay cho đến chết, quay về nương nhờ ngôi Pháp bảo cho trọn vẹn;

Từ nay cho đến chết, quay về nương nhờ ngôi Tăng bảo cho trọn vẹn.

(Đọc xong 3 lần, điểm 3 tiếng chuông rồi đọc sớ, hoá sớ xong, cùng ngồi trang nghiêm tụng bài hồi hướng).

6.- Hồi Hướng

Quy y công đức vô biên,

Xin đem hồi hướng báo đền bốn ân (68)

Bao loài đắm đuối mê tân,

Nhờ ơn tế độ siêu thăng bảo đường,

Chư Phật, Bồ tát vô lường,

Tâm kinh Bát nhã chỉ đường chúng sinh,

Bốn loài (69), chín cõi (70) u minh,

Ba đường (71), tám nạn (72) cũng sinh Liên đài.

Kính lạy Đức Phật thầy chúng con là Thích Ca Mầu Ni.

(Lễ này tụng 3 lần, rồi sẽ đổ mõ, điểm 3 tiếng chuông, đều đứng dậy lễ tam tự quy).

Con tự quay về, tin cậy tâm Phật, nguyện cho chúng sinh, thể nhận đạo cả mở lòng tuyệt vời. (1 lễ)

Con tự quay về, tin cậy tâm Pháp, nguyện cho chúng sinh, hiểu thấu tạng kinh, trí tuệ như bể. (1 lễ)

Con tự quay về, tin cậy tâm Tăng, nguyện cho chúng sinh, coi cả đại chúng, không gì chướng ngại. (1 lễ)

(Xong điểm 3 tiếng chuông, cùng đứng dậy vái đọc)

Kính lạy mọi bậc Thánh chúng

(Cùng thoái ban, xuống lễ cụ Tổ, rồi ra lễ tạ thầy quy, Lễ tạ xong liền ban điệp quy. Nếu còn thì giờ, nên giảng cho đệ tử quy biết những phép thiết thực, cần phải giữ gìn và thực hành sau khi đã quy).

 

Đã quy y phải bền lòng gìn giữ phép quy y

Vì thấy tự xưa đến nay có rất nhiều người không gặp được minh sư dạy bảo cho tường tận trong các phép quy, thành thử đã quy y, mà mọi sự hành động vẫn sai lầm như người chưa quy, như vậy sao được gọi là đệ tử chân chính của Phật, sao được gọi là người dốc lòng tôn kính và tuân theo Tam bảo.

Vậy dưới đây, tác giả xin chiểu theo các lời thiết yếu của Phật đã dạy ở Kinh luật lược dịch ra đây để cống hiến các vị đã quy y tam bảo, noi theo thực hành  cho tròn phận sự quy y.

1.Tôn kính Tam bảo.

Phật dạy rằng: “Người đã quy y Tam bảo, phải coi ngôi Phật như cha, chăm chỉ lễ Phật, niệm Phật luôn luôn, nhớ tưởng  đến công đức Phật, học theo phép Phật đã học, tu theo phép Phật đã tu, làm theo phép quy y đó chóng được kết thành chính quả, có thế mới xứng đáng là con của Phật”.

Phải coi ngôi Pháp như mẹ, phải tôn kính Pháp, phải đem những Pháp đã biết ra thực hành. Những Pháp chưa biết, phải chăm chỉ học hỏi, chăm chỉ xem nghe, chăm chỉ suy nghĩ, tưởng nhớ Pháp, phải tha thiết mong cầu Pháp, như đương đói mong ăn, đương khát mong uống, đương tối mong sáng, đương nghèo mong của. Phải chăm chỉ cung kính cúng dàng các vị chân chính pháp sư, phải lo toan giúp đỡ trong mọi công việc truyền bá đạo Pháp, phải luôn luôn đem những lời hay, lẽ phải của Phật dạy ra mà khuyến khích cho mọi người cũng được biết như mình.

Phải coi các vị chân Tăng như thày, mỗi khi trông thấy nên kính chào. Thấy có bệnh tật phải lo giúp đỡ thuốc thang, thấy bị tai nạn, phải lo cứu hộ, thấy có chí chăm chỉ tu học, nên giúp đỡ đủ phương diện cho các vị đó tu học được minh kinh, đạt đạo, để sau này sẽ nối gót Phật tổ khai hoá cho nhân sinh, còn như  những người giả mạo tu hành cũng không nên bài báng, công kích, cũng không nên cung kính cúng dàng. Nếu cúng dàng những vị đó, tức là giúp thêm tiền của vào việc phá hoại Tam bảo, nếu còn có những hành động và nói năng điều gì trái ngược, vô lễ với Tam bảo, tức là phá mất phép Tam quy, và nếu sinh lòng chán nản, lười biếng đối với Tam bảo cũng phá mất phép Tam quy.

2. – Phép thờ cúng lễ bái

Việc thờ cúng tổ tiên phụ mẫu và các đấng Quốc Thần, là phận sự cố nhiên của mọi người, còn người tu phải theo lời Phật dạy mà thờ cúng cho sự tín ngưỡng được duy nhất, mới khỏi sa vào đường mê tín dị đoan. Phật dạy rằng: “Người đã quy y chỉ được thờ cúng lễ bái Tam bảo thôi, cấm tuyệt không được thờ cúng, lễ bái những hạng tà thần, ma quỷ, mặc dù có thiêng liêng cũng không được thờ cúng lễ bái các thần thánh của ngoại đạo, trừ khi muốn xem cho biết, không được thờ các thầy ngoại đạo làm thầy, trừ khi vì sự ngoại giao. Nhưng Phật cho phép các phật tử tại gia, vì cớ cầu đảo cho gia môn được thịnh vượng, nhân vật được bình yên, thì được thờ cúng các đấng thần như Phạm Thiên, Đế Thich, Thiện Chủ, Thiện Đưc, Thương Chủ, Hộ Pháp, 18 vị Long Thần, 8 vị Kim Cương, 12 đại tướng, 4 vị Tứ chấn Thiên Vương, Kiên Lao Địa Thần và Mật Tích Lực sĩ. Vì các đấng Thần này đã dầy công đức ủng hộ Phật Pháp, phù trì  nhân dân.

3. – Giữ phép tu hành lợi mình, lợi người

Kinh Đề Vị dạy rằng: “Người đã quy y, phải dứt bỏ hết thảy mọi điều ác, phải làm hết thảy mọi điều thiện, phải thương xót hết thảy chúng sinh”.

Luật dạy rằng: “ Người đã quy y, ít nhất mỗi tháng cũng phải có 2 ngày sám hối (15 và 30, tháng thiếu 29), nên đến trước Tam bảo sám hối hết thảy tội lỗi, nghiệp chướng cho thân tâm được trong sạch yên vui”.

 

Chú thích

1)Vũ trụ: Bốn phương và trên dưới là Vũ. Từ xưa qua nay gọi là Trụ (không gian và thời gian).

2) Thái cực: Là cái nguyên lý và nguyên khí trước khi chưa sinh trời đất, mà trời đất và muôn vật đều do đó tạo thành.

3) Tâm hồn: Tâm tư và linh hồn.

4) Khí phách: Cái tinh lực của non sông, người ta không thấy mà vẫn cảm xúc với người.

5) Bản lĩnh: Cái nền gốc của nhân cách.

6) Lịch sử Phật giáo: Nguồn gốc Phật giáo ở ấn độ, mà Tổ sư Phật giáo là Đức Phật Thích Ca. Ngài là con vua Tịnh Phạn, nước Ca- Tỳ-La-Vệ, miền trung ấn độ, Hoàng hậu là Ma-Gia. Về niên đại giáng sinh của Ngài có nhiều thuyết khác nhau.

Theo thuyết phổ thông, thì Ngài sinh ngày mồng 8 tháng 4 âm lịch, đời vua Chiêu Vương nhà Chu (Trước Tây Lịch 1027). Nhưng theo Pháp Chân Pháp sư người Tàu, đã từng du lịch ở Tích Lan, có dầy công nghiên cứu về lịch sử Phật, có dẫn chứng bằng mấy chục bộ sách vừa văn Tầu vừa văn Ba Ly, thì Ngài sinh vào khoảng 563 trước Tây lịch kỷ nguyên. Năm Ngài 19 tuổi xuất gia tu ở núi Tuyết Sơn, năm 31 tuổi thành Phật. Truyền bá đạo Phật 49 năm. Ngài thọ 80 tuổi.

Phật giáo truyền qua Tầu về đời vua Minh Đế nhà Hán, niên hiệu Vĩnh Bình (thế kỷ thứ I) do Ngài Ca Diếp Ma Đẳng và Ngài Trúc Pháp Lan từ ấn Độ truyền sang.

Phật giáo truyền sang Việt Nam vào khoảng cuối thế kỷ thứ II, đầu thế kỷ thứ III, do ngài Mâu Bạc, người Tàu, và Ngài Ma- Ha-Kỳ-Vực, Ngài Khương Tăng Hội, Ngài Chi-Khương-Lương, ba Ngài đều là người ấn độ.

Lịch sử Phật giáo ở nước Việt Nam có thể chia làm 3 thời kỳ:

A/ Thời kỳ truyền bá: Từ cuối thế kỷ thứ II đến cuối thế kỷ thứ IV, tức là lúc nội thuộc nhà Hán đến hết đời Nam Bắc triều, cũng nhờ có các vị sư Tầu và các vị sư ấn Độ mà Phật giáo dần dần truyền trong dân gian nhưng chưa có tổ chức gì cả.

B/ Thời kỳ thịnh đạt: Từ thế kỷ thứ IV đến thế kỷ thứ XIV, tức là từ lúc nội thuộc nhà Tuỳ (Tầu) cho đến cuối đời nhà Trần.

C/ Thời kỳ suy dần: Tức là từ thế kỷ thứ  XV, cuối đời Hậu Lê trở về sau.

  7) Văn hoá: Văn vật và giáo hoá, dùng văn tự và giáo hoá cho người.

  8) Triết học: Phái triết học, theo các thứ triết học mà lựa chọn lấy điều thích đáng, để mong theo đó mà tìm chân lý.

 9) Phong triều: Gió và nước triều. Phàm việc gì mà làm ồn ào lay động một thời, như gió thổi, như nước dâng, gọi là phong triều.

10) Hoang đường: Truyện bịa đặt không có thực.

11) Ma quỷ: Đạo ma quỷ, tức là tà đạo hay làm hại chính đạo.

12) Thoái hoá: Trí thức và năng lực của người ta nguyên có sẵn mà dần dần thụt lùi, kết quả dẫn đến tiêu diệt, gọi là thoái hoá.

13) Bồ Đề: ấn Độ gọi là Bồ Đề. Tàu gọi là Đại Đạo tức là đạo lý cao cả tuyệt vời.

14) Bát Nhã: ấn Độ gọi là Bát Nhã. Tàu gọi là trí tuệ nghĩa là sáng suốt. Trí tuệ này do giữ giới, tu thuyền định mà sinh ra. Chỉ có trí tụê của Phật mới chứng minh được cùng tột chân lý của vũ trụ, nghiệp tính của chúng sinh, là một thứ màu nhiệm lạ lùng, khác hẳn với Trí tuệ người thế gian.

15) Vô nhân, Vô ngã, Vô ngã sở: Không phân biệt người kia khác, ta đây khác và của người ta khác.

16) Bốn đại hoà hợp: Đất, nước, gió, lửa. Bốn chất lớn đều hợp mà thành thân người. Xương, thịt là chất đất. Máu, mủ, đờm, dãi là chất nước. Khí nóng là chất lửa. Hơi thở là chất gió.

17) Tu sử thế: Tu tại gia.

18) Tu xuất thế: Xuất gia tu đạo.

19) Tôn giáo cách mệnh: Thế kỷ thứ 15 trở đi, tư tưởng người Âu Châu đã giải phóng, trí thức người Âu châu lại phát triển. Đối với các học thuyết và sự vật trong đời đều tiến lên trình độ nghiên cứu. Cái chế độ lấy uy quyền tôn giáo mà buộc lòng người bèn bị lay chuyển từ cội rễ. Cũng vì giáo hội uy quyền càng mạnh thì càng sinh hư bại, khiến người ta trước còn công kích cá nhân trong thời giáo sĩ, sau đến công kích nghi thức và giáo nghĩa của tôn giáo. Gia dĩ Giáo hoàng thường can dự chính trị, lạm phạt xá tội. Chỉ vì những cớ ấy mà càng gây thêm mối phản kháng tôn giáo, đề xướng ra tân giáo và cựu giáo. Tất nhiên phải phát sinh Tôn giáo Gia Tô cách mệnh bắt đầu từ nước Đức, rồi lan tràn ra hầu khắp các nước Âu châu, từ cựu giáo Tân giáo gây nên chiến tranh 30 năm mới được giải quyết bằng 1 chữ  “Tín Giáo Tự Do”.

20) Trung tâm điểm: Chỗ chính giữa, chỗ rất trọng yếu.

21) Thuyền lý: Lý huyền bí của đạo thuyền.

22) Chân tâm: Tâm chân thực không giả dối, như vọng tâm, tức là cái tâm trong sạch, sáng suốt thiêng liêng mầu nhiệm.

23) Vọng tâm: Chân tâm bỗng cảm xúc với cảnh vật giả dối bên ngoài, mà không chuyển hóa  nổi cảnh vật giả dối.

24) Nguyên nhân: Cái cớ do đó mà sinh ra một kết quả gì.

25) Kết quả: Phàm việc gì một sự tính gì trước là tạo nhân, mà sinh ra sự tình gì sau là kết quả.

26) Chủ tể: Tâm xét đoán và điều khiển hết thảy vạn sự, vạn vật, cũng như người có quyền lực thống trị hết thảy.

27) Năng lực: Cái sức mạnh tích trữ ở trong người hay trong một vật gì.

28) Giác ngộ: Tỉnh biết: Đương mê mà tỉnh, đương nhầm mà biết.

29) Kiêu mạn: Láo xấc ngạo mạn. – Nghĩa bóng, tỏ ra vẻ khoe khoang, cậy ta kẻ giờ, không chịu phục tùng.

30) Tật đố: Ghen ghét.

31) Nghiệp báo: Quả báo của các điều ác nghiệp, nghĩa là kiếp trước làm điều ác nghiệp, thì kiếp sau phải chịu quả báo xấu.

32) Phù du: Một thứ trùng nhỏ, đầu như đầu chuồn chuồn, mà nhỏ, hay bay gần nước, tối thì hay bay ở gần đèn, mau chết lắm.

33) Bể khổ: Muốn bể nhiều nước để tỉ dụ tâm nhiều khổ não hay đời nhiều khổ não.

34) Tôn chỉ: ý chỉ chính đáng, cái chỗ để nhằm làm mục đích của công việc làm.

35) Vua Lý Thánh Tôn chứng ngộ Phật tính: Năm Kỷ Dậu (1069) Thảo đường Tôn sư ở Tầu sang ta trụ trì chùa Khai Quốc trong thành Thăng Long. Các đệ tử đến học đạo đông lắm. Ngài lập thành một phái Thảo Đường Thiền Tôn ở nước ta. Vua Lý Thánh Tôn thụ giáo ở Thảo đường, sau chứng ngộ Phật tính, được Ngài truyền Pháp cho, làm bực nối truyền Tôn thống đầu tiên của phái Thảo đường.

36) Vua Trần Nhân Tôn chứng ngộ Phật tính: Ngài là con vua Thánh Tôn tên là Khâm; Ngài bẩm sinh sùng mộ đạo Phật từ nhỏ. Năm 18 tuổi, được lập làm Hoàng Thái Tử. Ngài cố nhường cho em, nhưng vua cha không cho. Một hôm trốn vào núi Yên tử, định xuất gia tu hành, lại bị vua cha bắt về nối ngôi, bất đắc dĩ phải lên ngôi vua. Ngoài việc triều đình ra, vẫn chuyên tu thiền định. Thường đêm ra nghỉ ở chùa Tri Phúc để cùng Ngài Tuệ Trung Thượng Sĩ giảng bàn thiền đạo, nên Ngài chứng ngộ được Phật tính rất sâu. Lúc nước yên thì Ngài hâm mộ học đạo tu hành như vậy, mà đến khi nước loạn, thì Ngài liền xếp kinh giáo để ra dẹp giặc cứu nước: như hai phen đánh quân Nguyên, cứu dân ra khỏi vòng nô lệ. Thực là một ông vua đủ đức đại bi, đại hùng lực. Vua Nhân Tôn làm vua đến năm Quý Tỵ (1293) thì truyền ngôi cho vua Anh Tôn, còn Ngài lên làm Thái Thượng Hoàng. Đến năm Kỷ Hợi (1299) đi xuất gia, vào tu ở núi Yên tử, lấy hiệu là Hương Vân đại đầu đà, lập trường giảng đạo độ Tăng, môn đồ lần lượt tìm đến trước sau đó hàng vạn. Ngài cũng lập thành Phái Trúc Lâm. Ngài lại đi khắp các nơi, khuyên dân huỷ phá dâm từ để bài trừ mê tín dị đoan, truyền bá giáo lý, khuyên dân làm thiện. Thuyền tôn ở nước nhà mà còn truyền nối đến nay, là đều nhờ ở phái Trúc Lâm mà Ngài là Tổ đệ nhất của phái đó.

37) Ông Tô Hiến Thành mộ đạo Phật: Ông là người đã thể nhận đạo từ bi của nhà Phật, rồi đem thực hành cái tâm nhân từ đối với mọi người và với cả loài vật. Ông thương dân như con, giúp vua làm những việc nhân từ và khuyên mọi người nên phóng sinh, giới sát.

38) Đức Thánh Trần sùng thượng: Đức Hưng Đạo Vương cũng rất sùng mộ đạo Phật. Ngài có khuyên các đệ tử rằng: Những khi tụng chính kinh xong đều phải lễ Phật, niệm Phật, để trước là cầu nguyện cho gia tiên siêu linh Cực lạc, sau là cầu cho gia quyến bình an.

39) Thiên tai: Cách sùng thượng đạo Phật về đời Hậu Lê, thì chỉ những khi nào có xảy ra điềm thiên tai lưu hành như nắng dữ, mất mùa hoặc dịch bệnh ...v.v.thì triều đình mới sắc lệnh cho các chùa lập ra trai đàn cầu đảo và tụng kinh sám. Ngoài ra thì không có gì đáng kể cả.

40) Vua Đế Thích quy y: Kinh pháp cú nói: Vua Thiên Đế thấy trong mình xuất hiện nhiều tướng xấu, biết ngay là thiên phúc của mình đã hết, sắp phải xuống trần đoạ làm kiếp con lừa, lấy làm sợ lắm, may sao lai nghĩ ra rằng: Trong ba cõi, chỉ còn có Phật cứu được ta thoát nạn này thôi, liền vội vàng đến nơi lễ Phật kể hết duyên do, xin quy y thực giáo. Phật cũng hoan hỷ mở lòng tế độ mà cho thụ giáo quy y. Khi đương lễ thì hồn đã lìa thân, đoạ làm con lừa nhà thợ đúc. Con lừa thấy đau đớn giở dạ mới vùng té chồm dậy làm vỡ hết các đồ mới nặn đang phơi.  Người chủ lò tiếc của, vội giận đuổi đánh, đến nỗi phải đoạ thai. Linh hồn lại tái sinh về Thiên cung nhập vào thân cũ, vẫn làm vua Đế Thích như trước, liền nghĩ đến công ơn Tam bảo, đến lễ tạ Phật. Đức Thế Tôn bèn thuyết pháp cho Thiên đế nghe. ý nghĩa như sau này: “Những cái đã có hình tướng, lâu đều phải thiên biến tan nát, chứ không được mãi, có ra rồi lại hoại mất. Chính là phép thịnh tất có suy. Ôi! Sinh rồi lại tử, chỉ có diệt hẳn sinh tử, mới là yên vui. Thí dụ như thợ đúc, nhào nặn làm thành đồ rồi lại tan tành hết. Mệnh người cũng vậy”. Vua Đế Thích được nghe giáo pháp, hoan hỷ phụng hành, lập tức chứng được thánh quả “Tu đà hoàn”

41) Thần Nhạc Đế quy y: Sách Thánh đăng chép rằng: “Ngài Khuê Phong Tổ sư tu ở núi Tăng nhạc. Một hôm thần Nhạc Đế hiện đến bạch rằng: “Tôi được nghe giới pháp của Phật đủ công đức cứu được cả cõi Thiên cõi Nhân. Vậy xin Thiền sư mở lòng từ bi, truyền thụ giới pháp cho tôi”. Thiền sư liền giảng tường cả lý sự, ngũ giới, rồi truyền thụ cho. Truyện này tường ở Đuốc Tuệ số 62.

42) Lã đồng Tân quy y: Khi Hán-chung-Là tiên ông đem pháp thuật truyền cho học trò là Lã-Đồng-Tân, thì Ngài đã khuyên răn Đồng Tân rằng: “ Không được đến những cảnh Thiền quán mà làm náo loạn các vị Hoà thượng tu hành, nếu trái lời cáo giới sau này nhân quả nhà ngươi sẽ phải chịu lấy”. Sau quả nhiên ông cậy pháp thuật cao cường, quyết cãi lời thầy, đến đấu phép cùng Tổ pháp thuật, sau phải quy y Tam bảo, Tổ sư mới trả lại pháp thuật cho.

43) Chúa Liễu quy y: Các sách chép về chuyện Ngài nhiều lắm, đây chỉ xin lược qua cái duyên do khi Ngài bị hạn mà phải quy Phật thôi. Vua Ngọc Đế chính chưa phải hoá sinh, không đầu thai như kỳ trước, xuống trần lần thứ hai là chính về đời Hậu Lê, triều vua Thần Tôn. Ngài hoá sinh ở ngay núi Sùng sơn, thuộc tỉnh Thanh. Ngài là tiên nữ hoá sinh nên lắm sự hiển ứng lạ thường ở đời bấy giờ. Dân gian qua lại núi Sùng sơn hễ ai vô ý là bị khốn, mà nhiều khi Ngài quá giận độc tay làm cho nhiều người vô tội bị chết oan. Vì thế nên miền Nam định chẳng bao lâu mà đã có hơn 200 miếu mạo để phụng sự. Tiếng anh linh chấn động cả thiên hạ. Nhiều nhà phù thuỷ cao tay đến để định thu phục đều bị chết oan. Oai thế như thiên tử mà vua Thần Tôn ngự giá về Thanh, Ngài cũng dùng pháp thuật ám ảnh ngang đường, làm cho vua cùng quan đều phải trở lại. Vua về triều lấy làm tức giận, mới hạ cho Đội Đạc Tam quan tức là 3 vị Cư sĩ học đã đủ các pháp thần thông của Phật đến non tróc nã và tàn phá các miếu mạo. Ba vị vốn là người trung ái với quốc gia nên đều phải phụng chỉ cả. Khi tiền quan đến Sùng sơn giả mạo ra làm người thường để đi vào lễ bái, rồi mới dò la được các cơ quan huyền bí của một vị Iiên nữ, mà cũng phải để ý sợ hãi, cho là chúa không  phải yêu ma tầm thường, mà chúa trông thấy cách cử chỉ của Tiền quan cũng biết ngay từ bậc pháp thuật cao cường. Bấy giờ mới vội ra mời chào đón rước một cách tôn trọng. Tiền quan nói: “Tiểu thần với Tiên nữ đều là thần tử của Thiên đế cả. Nay Chúa có nạn nên phải đến phò cứu. Hiện nay vua Lê Thánh Tôn đã cử Tam quan là những bậc thần thông quảng đại đến đây để tróc nã hỏi tội, cản đường Thiên Tử. Thiên nữ  mau hãy đem các phép hay thử cho tôi coi. Nếu mà pháp gì còn thiếu thì tôi sẽ truyền thêm cho”. Lạ gì lời ngọt thuận tai, liền miệng chú tay quyết, rồi có bao nhiêu phép mầu đem thử cho xem cả. Ngờ đâu Tiền quan thu mất hết mới biết đã bị lừa. Chúa Liễu lấy làm phẫn uất quá chừng, tức thì nổi giận, hịch truyền cho tam phủ công đồng tức thời áp trận, phút chốc đã thấy ào ào nổi gió đổ mưa, rung trời chuyển đất. Bên triều quan cũng nổi hiệu để chiêu tập cả Tam quan cứ nghe hiệu lệnh là lại áp trận, lại mật sai Tam quan đi đốt hết cả hơn 200 cung điện, còn một mặt thì hô cho hết các phương Thiên tướng, Thiên binh cứ lệnh giao phong, hai bên đánh nhau dòng dã 3 ngày. Bấy giờ Chúa mới chịu đuối sức, đến lúc trông thì ra binh tướng của mình đã đào tẩu cả rồi, cũng toan biến hình đi nốt, thì liền bị Thiên La Địa võng vây phủ cả tứ bề rồi. Đương khi tiến thoái lưỡng nan, tâm thần bối rối, thì Phật thế tôn ngự gía đến giải cứu. Tam quan thấy có đám mây ngũ sắc, biết là pháp gí Phật giáng lâm, vội vàng cùng nhau ra bái yết. Thế Tôn đáp xong phán rằng: “Thần nữ đây là con của Ngọc Đế đã đành phạm tội thực, nhưng cũng còn hối cải được, để ta tiếp hoá quy Thiên, nghe kinh luyện tính, đổi ác làm lành, cũng sinh Cực Lạc”. Tam quan nói: “Thế Tôn đã mở lòng từ bi mà có lời chỉ giáo, chúng con xin tuân từ chỉ. Nhưng từ nay về sau mà Thiên Nữ còn dùng pháp thuật sát hại đa dân vô tội, để động đến uy trời, luật nước thì dầu có quy Phật chăng nữa mà công pháp cũng không dung được. Hiện tiền có Thế Tôn chứng kiến, dù sao Chúa cũng phải phát lời thề nguyện đề làm tin.

Lời Chúa phát nguyện: “Tôi từ ngày bị vua cha đầy đoạ bản ý chỉ muốn lấy đường xe gió làm lối ngược xuôi, lấy điện núi, lầu hoa làm nơi hứng thú, cho khỏi thẹn với phận làm Thiện nữ mà còn phải mang tấm liễu bồ ở nơi trần tục, chứ có mong chi đến sự lâu đài ở nơi trần ai ô uế này làm chi. Nhưng chỉ vì nhân dân ngu muội, quen thói khinh nhờn, nếu không hiển hiện pháp thần cho thế gian coi, thì lòng tiết mạn Thánh hiền chúng không đổi được. Vì vậy mà cũng nhiều khi quá giận độc tay làm cho nhiều kẻ bị oan, mà cũng lại vì tôi nên để nhọc đến Tam quan, Tôn Thánh cũng là Thiên binh, theo với Triều đình pháp luật, thì tội đáng nặng thực. Nay lại nhờ Đức Thế Tôn mở lượng giác ngộ, chỉ lối siêu phàm, dưới nhờ liệt vị khoan hồng, tha thứ cho Tiền phi trọng cứu. Vậy từ nay tôi xin phát nguyện đầu thiền quy Phật, theo như lời Đức Thế Tôn đã chỉ giáo”. Tiền- quan mới bạch Phật ban cho Chúa một áo cà sa, một cái mũ Liên hoa, Chúa bái lĩnh, tạ từ Tam quan theo Phật quy thiền.

44) Từ pháp quy y: Sách Lục tam giáo nguyên lưu chép rằng: “ Nước ta đời Sĩ Vương cai trị, lúc ấy là thưòi nội thuộc nước Tàu, triều Hán Minh Đế, có Ngài Đa- La ở ấn Độ sang tu tại chùa Phúc Lâm. Đa La là bậc đủ cả đạo đức, thần thông nên ở đấy được ít lâu thì người thiên hạ quy đông như chợ.

Bấy giờ có một ông họ Mâu đem lệnh nữ là Mâu Tiểu đến cầu cho xuất gia học đạo. Ngài dạy rằng: Hãy cho ở tạm để xem tính hạnh có tu đựơc không, mà bao nhiêu công việc Chiền già phải nên chăm chút, để xây đắp lấy nền hạnh phúc nghiệp. Ngoài ra lại phải chuyên tâm niệm Phật Di Đà, để cầu cho mãn kiếp được siêu thăng Cực lạc, những sự tu hành như vậy, lịnh cô có chịu được không?” – Bạch Tôn sư, con đã đem thân đến cửa Thiền quan, chỉ mong đắc đạo, há toan tiếc mình”. Nghe lời cầu đạo khẳng khái, với thương tình nhi nữ, mới cho thụ giáo quy y. Kể từ được nước Dương tưới dạ, đuốc Thiện soi tâm, thì một niềm quyết chí tu hành, xả thân cầu đạo, nơi chú táo các việc nặng nề ra công cáng đáng, trên Phật đài sớm tối hương đăng cần mẫn, việc hầu Thầy cũng chẳng dám quản công, đêm nào cũng hầu trực nghe giảng kinh xong đi soi xét mọi việc rồi mới đi ngủ.

Một hôm, ngồi chờ khoá giảng khuya quá, mà lại gặp buổi trời nóng bức mới tạm ngả lưng ngoài giảng đường, ngờ đâu ngủ mất. Tôn sư hốt nhiên đi tới, vội vàng bước qua. Sáng dậy, Mâu nữ thấy trong mình hơi khác, biết là có thai, vội đem truyện trình cùng thân phụ. Mậu công biết vậy, liền đến trách Tôn sư. Ngài bảo rằng: Đó là một điềm cát tường, không có điều chi đáng quản ngại cả. Tuy vậy mà tiếng đồn dâm uế đã sôi nổi tứ bàng, đến nỗi thầy trò phải mỗi người một ngả. Mâu tiểu thì phải gửi mình ở một cảnh chùa cỏn con giữa cánh đồng không, rồi đi hành khất độ nhật, chẳng bao lâu sinh hạ được một ả Tiên nương. Đương lo phiền về nỗi con non, mẹ yếu, không người tư trợ, thì may đâu Tôn Sư thuận bước du sơn vừa tới, Mâu- Tiểu liền đem Hằng Nga trao phó, mà lòng từ bi cũng không quản ngại, liền hoan hỷ bế lên cánh tay, đem đến nơi gốc cây dâu rất to lớn, miệng chú nguyện rằng: “Tăng tôi từ thoát bụi hồng, chí mong đắc đạo, thực không sự này. Con thơ này chính Phật tử đây, sau này thành đạo là nhờ công đức ở ngươi (ý trỏ vào cây dâu) đó”. Chú nguyện xong mới để Tiểu nương vào trong hổng cây. Về sau cây này tự nhiên đổ gẫy. Bà Mâu- Tiểu mới truyền cho dân gian đem cây gỗ ấy tạc thành 4 pho  tượng: Pháp văn, Pháp vũ, Pháp lôi, Pháp điện. Tiên nga đã được nơi ký thác, mà Mâu-tiểu thì có duyên truyền đạo cũng đã tới nơi. Tôn sư liền trao cho Mâu tiểu một cái thần trượng (cái gậy thiêng) và dặn rằng: “Ta truyền cho ngươi cái gậy này là cốt để giúp công hóa dục của trời đất, cứu cơn tai nạn cho trần gian, khi đại hạn thì đem gậy này cắm ở mặt đất là mưa ngay, mà khi mưa dầm ngập lụt, lại đem gậy này tung lên hư không là tức thì tạnh nắng”

Truyền phép xong liền biến mất. Mâu-tiểu lại trở về cảnh chùa nơi Tôn sư tu trước, rồi y phép lại đó mà thi hành, quả nhiên vạn pháp, vạn linh. Thiên hạ xa gần đều nhờ công đức trừ tai cứu họa, vì thế nên nước ta có nhiều đền thờ Tứ pháp.

45) Pháp thân: Pháp là đường lối chín pháp. Thân là tàng chứa. Người nào theo đường lối chính mà tu hành thành Phật, sẽ có pháp thân, tức là cái thân tàng chứa hết mọi pháp.

46) Tuệ mệnh: Người tu hành dùng chính pháp làm món ăn để nuôi cái thân tinh thần tuệ mệnh.

47) Đại thiên thế giới: Hợp 4 đại châu và nhật nguyệt làm một thế giới, hợp một nghìn thế giới ấy gọi là Tiểu thiên thế giới, lại hợp một nghìn Tiểu thiên thế giới gọi là Trung thiên thế giới, lại hợp cả một nghìn Trung thiên thế giới thành Đại thiên thế giới. Theo kinh Phạm Võng, cõi Đại thiên thế giới có trăm ức thế giới và trăm ức nhất nguyệt.

48) Pháp vương: Vua pháp, Phật là vua cả vạn pháp.

49) Giải thoát: Giải là không bị bó buộc, thoát là được ung dung tự tại.

50) Cõi chân như: Cảnh giới có thực mãi mãi, không như cảnh giới thế gian có, không biến ảo vô thường.

Nghĩa bóng: chỗ Phật ở, đạo lý đến chỗ thực tại.

51) Trụ trì: Người trụ trì công việc trong chùa hoặc tự viện.

Nghĩa bóng: ngôi Tam bảo thường ở thế gian để độ trì cho chúng sinh.

52) Báo ứng: Tạo nhân gì sẽ được kết quả ngay. Làm điều hay thì gặp hay, làm điều dở thì sẽ gặp dở.

53) Luân hồi: Xoay vần không thôi. Người ta lần lượt sống chết trong vòng lục đạo, xoay vần như cái bánh xe không khi nào ngừng.

54) Sáu căn: Sáu nơi căn cứ trong thân người: 1) Căn mắt, 2) Căn tai, 3) Căn mũi, 4) Căn lưỡi, 5) Căn thân, 6) Căn ý. Mắt là nơi căn cứ cho tính biết nghe của tai, mũi là căn cứ cho tính biết ngửi. Thân là căn cứ cho tính biết động chạm của thân người. ý làm căn cứ cho tính biết của tư tưởng.

55) Phương tiện: Phương là phương pháp, tiện là thông lợi. Tam quy ngũ giới là phương pháp thông lợi cho người tu về nhân đạo. Mười điều thiện là phương pháp lợi cho người tu về thiên đạo..v.v Tuỳ phương nhân tiện là theo phương hướng và nhân việc tiện lợi mà làm. Phàm việc có lợi ích cho người đều gọi là phương tiện.

56) Quán tưởng: Đây là bàn riêng về phép quán tưởng trong khi lễ bái, chia làm hai: 1) Tổng lễ quán tưởng: khi cất tiếng xướng “Nam mô Thập-phương Thường trụ Tam bảo”, thì tâm mục ta phải chăm chú tưởng tượng cầu khẩn được cả ngôi Tam bảo ở khắp mười phương, đều giáng làm nơi đạo tràng thanh tịnh trang nghiêm đây mà chứng giám tấm lòng thành kính cầu nguyện của ta. 2) Biệt lễ quán tưởng: Khi cất tiếng lễ riêng một vị Phật như: “Nam mô Bản sư Thích Ca Mâu Ni Phật”, phải chăm chỉ tưởng tượng cầu khẩn Đức Phật Thích Ca giáng lâm đến hoặc đương ở nơi đạo tràng thanh tịnh trang nghiêm này mà chứng minh lòng thành kính cầu nguyện cho.

57) Nhân cách: Phẩm cách của người. Cái tính cách riêng của 1 một người, cái tư cách tự chủ, độc lập của người ta ở trên pháp luật

58) Nghĩa phương: Phương hướng đi theo lối nghĩa. Dạy học trò phải chỉ vẽ cho chúng đi theo đường nghĩa.

59) Cung kính thầy: Kinh Phạm- Vọng, Phật dạy rằng: Phải cung kính thầy thụ giới, thầy dạy học ngang như cha mẹ.

60) Bố thí: Có 3 phép bố thí: 1) Đem của cải cho mọi người (tài thí), 2) Đem đạo lý dạy bảo mọi người, hoặc lấy lời hay lẽ phải khuyên răn mọi người (pháp thí), 3) Dùng thế lực, tài năng cứu giúp bênh vực mọi người cho người ta khỏi sợ hãi, thoát tai nạn (vô úy thí)

61) Thuyền định: Phép tu luyện cho tâm tĩnh mịch, sẽ phát sinh ra trí tuệ. Trong khi tu thuyền định, sẽ để cho tâm tĩnh mịch, không suy nghĩ một điều gì cả. Cứ kiên tâm dụng công tu như thế mãi, càng lâu dài, càng thấy tâm trong sạch sáng suốt mãi lên. Tu cho đến ngộ Phật tính, chứng Phật quả, mới là cực phẩm của phép tu này.

62) Bá Hy đoạ làm mãng xà: Hoàng hậu Hy- Thị, vợ vua Vũ nhà Lương (bên Tàu) lúc sống, tuy thân thể là người mà tâm địa thì là rắn độc, nên lúc chết bị đoạ làm mãng xà. Sau nhờ có Trí Công Thuyền sư làm phép sám, liền được giải thoát thân mãng xà.

63) Quan niệm: Phàm những sự ý thức do sự nhận biết mà có như: Cảm giác, tưởng niệm, tưởng tượng, khai niệm, đều gọi là quan niệm. Phàm ý thức do ngoại cảnh, cảm xúc mà có cũng gọi là quan niệm. Trái với tưởng niệm, cái ấn tượng đã qua mà hiện lại  trong trí người ta, cũng gọi là quan niệm.

64) Đại thừa: Giáo nghĩa của Phật Thích Ca giảng cho các bậc Bồ tát ví như cái xe lớn để chở hạng người căn khí lớn, ở trên tiểu thừa. Đạo Phật phổ độ hết thảy chúng sinh, ví như cái xe lớn chở được nhiều người

65) Nhân duyên: Nhân là nguyên nhân, Duyên là những sự tình giúp cho cái nguyên nhân thành kết quả. Ví như hạt thóc giống là nhân, nhờ có đất nước, khí trời làm duyên giúp cho mới thành cây lúa.

66) Báo chướng, phiền não chướng: Đương tu hành hoặc làm việc công đức mà bị nhân sự hoặc ma sự quấy nhiễu, ngăn cản, đều gọi là báo chướng. Bị tâm phát sinh phiền não mà đâm chán nản, hoặc phóng túng mà bỏ lùi gọi là phiền não chướng. Phải tận thành sám hối mới có thể diệt trừ được.

67) Đức Thích Ca: Nhiều kiếp tu hành Bồ Tát đạo, đều gặp ông Đề- Bà-Đạt-Đa chướng ngại, vì có ông ấy chướng ngại, nên Phật càng kiên tâm tinh tiến, nhẫn nhục tu hành đến thành Phật.

68) Bốn ân: Ơn trời, đất, ơn cai trị, ơn phụ mẫu, sư trưởng và ơn thập phương.

69) Bốn loại: Loài sinh thai, loài sinh trứng, loài sinh ở nơi ẩm thấp và loài hoá sinh.

70) Chín cõi; Cõi Dục có 1, cõi Sắc có 4, cõi Vô sắc có 4.

71) Ba đường: Đường đạo, đường máu, đường lửa (đường khổ ở địa ngục)

72) Tám nạn: Nạn tu địa ngục, nạn ngã quỹ, nạn súc sinh, nạn tu theo tà đạo, sinh cõi trời trường thọ, không được nghe chính pháp của Phật, nạn ngu mê không chịu nghe chính pháp, nạn mù điếc, câm ngọng, nạn thế chí biện thông, nạn sinh trước và sau Phật.

 

 

 

---o0o---

Vi tính: Hoằng Chơn - Quảng Đại

Cập nhật: 8-2007

Nguồn: www.quangduc.com

Về danh mục

lời đức đạt lai lạt ma đời sống Đậu hủ chưng tương tu bo 5 nghịch lý ngược đời của người Bí quyết ăn khuya giảm thiểu gây Thưởng thức các món ngon tại Ẩm Táo tàu vị thuốc quý món ăn ngon Trần Nhân Tông Sở đắc giải Nhớ ơi khoai lang ngày cũ các nguyên tắc đạo đức của phật tử Phà Šhàng ngàn ngon nến lung linh tưởng nhớ hạnh phúc là gì mà ai cũng phải tìm bßi chân nguyên Dễ dàng làm món khổ qua trộn temple of heaven Bánh chuối hấp cho những ngày hè Phật giáo còn lẽ thùy à Pho tượng như người thật ở chùa Quán nguoi Duyên lành với khóa tu thiền thất テス Cơm gạo lứt trộn nấm Hai cuốn sách về tình mẹ tạm thien su nhat huu tong thuan con Trà Sống bình an và hiến tặng bình an Thức học lòng từ Dễ thư đầu hằng Các loại đậu không phải là thực cương lương tiếp và pháp hoa tam muội lang ngam ky quan phat giaoco xua bac nhat the Rễ cây dâu Vị thuốc chống ho trừ Nguy cơ trẻ mắc tự kỷ tăng gấp ton giao cua bien chung va khoa hoc Đồng Tháp Tưởng niệm Đại Uống trà xanh có thể giảm tác dụng ch羅a Tiễn biệt một tấm lòng tận tụy với huu bon åº