Phật Học - Con người giác ngộ.

 

 

 

 

 

Con người giác ngộ 

Thích Phước Tú biên soạn

 

MỤC LỤC

 

A. LƯỢC SỬ 

I. Thân Thế

II. Sự Nghiệp

III. Gia Phả

 

B.TRUYỆN TÍCH 

I. Đản Sanh Chào Đời

II. Nuôi Dạy

III. Lập gia đình, cưới vợ

IV. Làm Việc

V. Xuất Gia

VI. Tìm Đạo

VII. Thành Đạo

VIII. Chuyển Pháp Luân ( Hoằng hoá lợi Sanh)

IX. Thâu Nạp Đệ tử- Bước đường Hoằng Hoá

X. Tổ Chức Tăng Đoàn

XI. Đời Sống

XII. Phát Triển Tăng Đoàn

XIII. Nghịch Duyên

XIV. Các Đệ Tử Tiêu Biểu

XV. Tư Cách Và Nếp Sống Đời Thường

XVI. Cuối Đời – Viên Tịch - Nhập Đại Niết bàn- Chết

 

C. TỔNG LUẬN

 

 

Hạnh phúc thay đức Phật ra đời!

Đức Phật là vị hữu tình không có si ám, sinh ra ở đời vì hạnh phúc cho nhân loài. Vì an lạc cho muôn loài, vì lòng thương tưởng cho đời, vì lợi ích, vì hạnh phúc, vì an lạc cho loài Trời và loài Người.

 

LỊCH SỬ ĐỨC PHẬT THÍCH-CA MÂU-NI

(624-544 Trước dương lịch)

A. LƯỢC SỬ

I. THÂN THẾ

Đức Phật Thích-Ca Mâu-ni, sinh năm 624 trước dương lịch. Đến nay (2004) là 2628 tuổi.

Ngài tên: Tất-đạt-đa(Siddhattha)

Họ: Kiều-đáp-ma (Gautama-Cồ Đàm)

Dòng: Thích-ca (Sakya)

Sinh tại: Vườn Lâm-tỳ-ni (Lumbini), Thành Ca-tỳ-la-vệ (Kapilavastu) xứ Népal ngày nay (Ấn Độ).

Sinh ngày trăng tròn tháng Vesak (tháng 2) theo lịch Ấn Độ, nhằm rằm tháng 4 âm lịch.

Ngài gốc dân Árya, giống da trắng.

Ngài là Hoàng Thái Tử (con vua)

Cha: Vua Tịnh Phạn (Sudhodana)Mẹ: Hoàng hậu Ma-da (Maya).

Mẹ nuôi: Ma-ha Ba-xà-ba-đề) Maha Pạapati Gotami

Khi còn là Thái Tử, Ngài có vợ là Da-du-đà-na (Ýaodhảa) và một con trai là: La-hầu-la(Rahula) (17 tuổi cưới vợ, 19 tuổi có con).

Ngài sinh và sống trong lúc thời thịnh trị của triều đại.

Ngài có đời sống hạnh phúc hưởng ngũ dục đầy đủ.

 

II.SỰ NGHIỆP

-Ngài xuất gia tìm đạo năm 19 tuổi (mùng tám tháng 2 âm lịch)

-Ngài thành đạo năm 30 tuổi (594 trước dương lịch-ngày mùng 8 tháng 12)( Đạo Phật có từ đây).

-Ngài hành đạo giáo hoá truyền Pháp cứu khổ chúng sanh 49 năm. Đệ tử chính thức là Tăng là Ni-Tỳ-kheo, Tỳ -kheo-ni ( giới xuất gia) trên dưới hai ngàn vị(2000)

-Ngài nhập Niết-bàn(chết) năm 544 trước dương lịch (15-2 âm lịch). Ngài sống được 80 tuổi. Đến nay (2004) là 2628 tuổi.

-Năm ngài mất được lấy làm lịch Phật (ngày giỗ). Nay (2004) là PL.2584. Ngài được người đời tôn là Phật (Bouddha-Giác) hay Phật Thích-ca Mâu-ni (Sakya Muni- người dòng Thích-ca vắng lặng). Ngài tự xưng là Như Lai.

 

III. GIA PHẢ

Đất nước Ấn Độ ngày xưa, trước kỷ nguyên được chia ra làm nhiều vương quốc. Dòng họ Thích-ca là một trong những vương quốc thời ấy. Vị vua được biết là đầu tiên của dòng họ này có tên: Chúng Sở Hứa. Từ vị này truyền đến đời Đại Thiện Sanh vương là tổ bảy đời của Thái Tử Tất-đạt-đa. Hệ thống kế thừa như sau:

Đại Thiện Sanh vương – Sư-ma-ý – Ưu-đà-la - Cồ-la – Sư Tử Giáp - Tịnh-phạn vương - Tất-đạt-đa

 

A.     BÊN CHA THÁI TỬ TẤT-ĐẠT-ĐA:

 

SƯ TỬ GIÁP +KIẾN GIÀ NA

(em gái A-noa Thích Ca)

                                                                             

Sinh ra:

1-     Tịnh-phạn vương

 

+Bà Ma-da                                                         

+Bà Ma-ha Bà-xa-ba-đề

2-     Bạch - phạn Vương → Đề -bà-đạt-đa ─ A-nan

3-     Cam-lộ-phạn Vương → Ma-ha-nam ─ A-na-luật

4-     Hộc-phạn Vương → Bà-sa Bạt-đề

5-     Cam-lộ vương Phi → Da-du-đà-la

 

B.     BÊN MẸ THÁI TỬ TẤT ĐẠT ĐA:

A-NOA THÍCH-CA VƯƠNG + DA-DU-ĐÀ-LA

( Em gái Sư Tử Giáp)

(Vua thành Thiện Tý nước Kosala)

 

Sinh ra:

1-     Thiện Giác vương + Cam Lộ vương phi → Đề-bà, Da-du-đà-la (gả cho Tất-đạt-đa)

2-     Ma-da hoàng hậu +Tịnh Phạn vương →Tất-đạt-đa ( Cưới Da-du-đà-la)

3-     Ma-ha Ba-xà-ba-đề +Tịnh Phạn vương →Nan-đà.

 

B. TRUYỆN TÍCH

I. ĐẢN SANH CHÀO ĐỜI

a. Vào thai:

Vua Tịnh Phạn trị vì vương quốc Ca-tỳ-la-vệ (Kapila-vastu) đã nhiều năm đến tuổi ngũ tuần mà chưa có con nối nghiệp. Vua và hoàng hậu Ma-da đã nhiều đêm trăn trở lo âu cho cơ nghiệp không có ai nối dõi. Rồi một hôm vua và hoàng hậu đến đền Thần để cầu con.

Với tấm lòng chí thành chí kính thần linh, Vua và Hoàng hậu được toại ý hài lòng. Một hôm hoàng hậu Ma-da nằm mộng thấy từ trên không hiện ra một con voi trắng sáu ngà. Voi uy nghiệm xà xuống lòng bà. Hoàng hậu đem điềm mộng này báo cho đức Vua truyền chiêm tinh gia đoán mộng. Nhà đoán mộng cho biết đó là điềm lành, Hoàng hậu sẽ có quý tử. Hoàng hậu có thai, năm này Hoàng hậu đã 45 tuổi.

Từ đó đức Vua và Hoàng hậu rất mực vui sướng. Triều đình, thần dân trăm họ cũng vui lây. Cả đất nước đều rạng ngời niềm hoan hỷ chờ đón một hoàng tử sắp chào đời.

Hoàng hậu Ma-da được từ đức Vua đến triều thần chăm sóc thật chu đáo. Có cả một kế hoạch dưỡng thai đề ra và thực hiện vì đây là quốc bảo quý giá vô cùng vô tận. Kế hoạch dưỡng thai được thực hiện qua hai mặt: An toàn sức khoẻ lành mạnh thân xác và an toàn trí não. Về thai giáo được đặc biệt quan tâm vì đây là nguồn lực trí huệ cho cả dòng tộc và vương quốc. Nhà Vua và triều thần hy vọng hoàng tử sẽ là một bậc tài trí siêu phàm ngự trị ngai vàng đưa đất nước đi lên đến phồn thịnh hùng mạnh tột đỉnh. Hy vọng thật tràn trề về một Thái Tử tương lai, một nhà Vua anh minh lỗi lạc mai kia, vua quan đều hỷ hạ.

TRÍCH KINH:

Kinh Sơ Đại Bổn Duyên - Trường A Hàm - Quyển 1 - Đại Tạng Kinh Việt Nam.

Theo Kinh” Sơ Đại Bổn Duyên”, thì chư Phật ra đời là theo một “ Thường Pháp”, tức Phật xưa cũng ra đời như vậy, Phật nay cũng ra đời như vậy, như đức Phật Tỳ-bà-thi. Trước khi sanh vào thai để thành Phật các vị đều là bậc Bồ-tát. (Điều này có thể hiểu qua sự ra đời của đức Phật Thích-ca Mâu-ni. Ngài cũng theo thường pháp của chư Phật.

-Lời Kinh: “ Bồ tát trước khi vào thai mẹ là ở tại cung trời Đâu-suất. Khi vào thai Bồ-tát lòng chuyên niệm,(luôn giữ chánh niệm) không loạn, đồng thời thân mẹ an ổn, không có những lo âu, trí tuệ tăng trưởng, mẹ tự xem thai thấy thân Bồ-tát các căn (các bộ phận) đầy đủ như màu vàng tía, không vết nhơ, cũng như người có mắt thấy khối lưu ly trong sạch, thấu suốt cả trong lẫn ngoài, không có chướng ngại.

-Bồ-tát từ cung trời Đâu-suất giáng thần vào thai mẹ thì chuyên niệm không loạn, đồng thời tâm mẹ Ngài thanh tịnh, không có những tư tưởng dục nhiễm, không bị lửa dục thiêu đốt.

-Bồ tát vào thai mẹ, chuyên niệm không loạn, mẹ Ngài cũng vâng giữ năm giới, phạm hạnh thanh tịnh, đầy đủ lòng tin và giàu lòng nhân ái, mọi điều lành đều thành tựu, an lạc không sợ hãi. Sau khi bà mẹ mệnh chung thì sanh về cõi trời Đao-lợi”.

b.Chào đời. Thái Tử Tất-đạt-đa hạ sanh

Thời gian lặng lẽ trôi. Niềm mong chờ của người mẹ, người cha và muôn người với cõi lòng háo hức được sớm thấy mặt Hoàng nhi, ngày ấy rồi cũng tới. Hoàng hậu ma-da sắp đến kỳ nở nhuỵ khai hoa.

Theo tục lệ người Ấn Độ lúc bấy giờ, khi người mẹ có mang, trước khi sinh nở thì trở về quê mẹ để sinh nở. Tuy Hoàng hậu Ma-da phu nhân cũng giữ tục lệ ấy. Vả chăng dòng họ bên bà cũng là dòng vua chúa (Vua Thành Thiện Tý nước Kosala) phương tiện cũng đầy đủ.

Bà Hoàng hậu Ma-da lên kiệu, theo sau đoàn thị tùng đông đảo, đủ thầy thuốc chuyên môn hướng về quê mẹ. Đức Vua cũng theo bên đưa tiễn đến tận xa thành. Nhà vua ân cần nhắn nhủ dặn dò hoàng hậu đủ điều, và hẹn ngày gặp lại cùng Hoàng nhi khả ái.

Hoàng hậu trở về quê mẹ thật là sảng khoái, vì quê mẹ êm đềm đẹp đẽ biết bao…nơi đó có bao nhiêu kỷ niệm thời thơ ấu, thời còn là một công chúa xuân thì. Bà đã mong cho mau đến quê nhà. Nhưng con ngựa cứ thong thả mà đi theo lời dặn của đức Vua. Bà cảm nghe thấm mệt, bảo xa phu dừng lại bên đường. Ô! Bên đường là ngôi vườn hoa xinh đẹp. Hoa nở đầy cành như reo cả chào đón Hoàng hậu và Hoàng nhi. Hoàng hậu Ma-da nhìn ngắm vườn hoa bằng tâm hồn thanh thoát lạ! Đây là ngôi vườn hoa Lâm-tỳ-ni (Lumbini) là một công viên của Vương triều.

Hoàng hậu sau khi ngắm cảnh, bà bước về phía ao sen ngắm nhìn sen nở thơm tho dưới ánh sáng ban mai. Bà thoáng hiện như con mình được nở ra từ đoá sen trắng trong kia vậy, và rồi bà nhẹ ngồi xuống bên hồ cho tay vóc nước. Bà rửa tay rửa mặt bằng dòng nước trong mát. Bà nghe hồn lâng lâng.

Sau đó bà nghe bụng mình chuyển động. Bà đứng lên với sự dìu đỡ của những cung nữ. Hoàng hậu ngẩn nhìn một thân cây đầy hoa trắng muốt và bà tiến về cội cây ấy. Cây ấy có tên Ưu-bát-la (Asoka – Vô Ưu). Theo truyền thuyết nhân gian ấn độ xưa, người ta cho rằng cây này ngàn năm mới nở hoa một lần. Và sau khi hoa trổ đó là báo hiệu sẽ có một vị thánh nhân ra đời. Vì vậy hoa này có tên là hoa “Linh Thoại”. Hôm nay hoa Vô Ưu lại nở rộ, màu sắc cực kỳ lộng lẫy, đẹp đẽ vô ngần. Hoàng hậu từ bờ hồ nước từng bước chậm rãi hướng về loài hoa không muộn phiền này. Bà đi chừng năm mươi bước thì đến gốc cây. Bà trông hoa đẹp lạ hồn trộn lẫn vào hương hoa, nghe chừng thanh thoát lắm. Bà chợt nghe bụng mìng quặn thắt, bà đưa tay vịn lấy cành hoa để giữ thăng bằng. Liền khi đó mặt bà chừng như tối sầm lại. Một thoáng mơ màng bà đã sinh con.

Đứa con được sinh ra từ hông phải của bà. Và ô kìa đó là một Hoàng nam. Hoàng tử vừa ra khỏi lòng mẹ liền bước đi bảy bước, mỗi bước nở một hoa sen. Hoa sen đã nâng chân đỡ bước hài nhi. Đứng trên hoa sen thứ 7, Hoàng tử tay phải chỉ trời, tay trái chỉ đất, mặt xoay nhìn bốn hướng thốt lời:

Thiên thượng hạ duy ngã độc tôn

(Trên trời, dưới trời chỉ có TA trên hết)

TRÍCH KINH:

* Cha mẹ, nơi sanh của đức Phật, được đức Phật nói qua kinh “ Sơ Đại Bổn Duyên”.

Thân phụ của ta tên là Tịnh Phạn, thuộc dòng Sát-đế-lợi, mẹ tên Đại Thanh Tịnh Diệu, kinh thành trị vì tên Ca-tỳ-la-vệ. Đất rộng dân giàu có, Ta sinh ra ở đó.

Lúc bấy giờ cả trời đất thảy đều huy hoàng trong sáng lạng. Một buổi sáng Đản sanh một vị thánh. Đức Phật ra đời qua vị Thái Tử vừa mới sinh, Ngài đã dơ tay vẫy chào bạn đời, vạn loại sinh linh.

Thời gian này, khung cảnh này, Ôi! Linh thiêng lạ!

Một đấng vĩ nhân, một bậc thánh ra đời có khác.

Đứa bé chào đời từ hông phải của mẹ, khiến cho da thịt Người phải nhiều đau nhức. Hoàng hậu Ma-da thiếp đi khi biết mình vừa sanh được một đứa con trai kháu khỉnh.

Lúc ấy một luồng gió mát ở đâu lại đưa lại mơn man mái tóc lơ thơ quăn tròn của Thái Tử và cùng người cảnh vật. Cành lá Vô Ưu khẽ động, run mình cho những cánh hoa tuyệt diệu, không vướng muộn phiền đầy niềm hỷ lạc trang nghiêm buông nhẹ bên mình Thái Tử, như chúc tụng, như tán thán một con người siêu phàm xuất thế. Tiếng gió cũng ngân nga ca tán qua lá cành vườn ngự Lâm-tỳ-ni.

Mọi người có mặt nơi ấy hân hoan rõ nét, người có trách nhiệm lo toàn phận sự ắm bồng Thái Tử, chăm sóc cho Hoàng hậu. Đặc biệt một thị vệ đã nhanh chân cấp báo tin vui cho Vua Tịnh Phạn.

Nhà Vua hay tin đại hỷ vui sướng biết nhường nào. Ông như trẻ lại tuổi đôi mươi. Mặt mày tươi rói, những sợi râu bạc nhảy nhót tung tăng quanh chiếc miệng già rực sáng thanh xuân. Ông hò hét ba quân tướng sĩ hãy xa giá cấp tốc để đến rước phu nhân và quí tử về hoàng cung.

Đây là một cái tin mà nhà Vua chờ đợi, không phải chỉ chín mười tháng mà chờ đợi gần cả đời. Lên xe rồi mà nhà Vua vẫn còn thấy chậm, hối thúc xe hãy đánh ngựa nhanh hơn. Lòng vua chừng như tách khỏi người để đến bên con trai yêu quí trước.

Đến vườn Lâm-tỳ-ni, nhà Vua như một chiến tướng giữa sa trường, không đợi long xa dừng, đức Vua nhảy phốc xuống và chạy nhanh đến đám người lúm xúm dưới cội Vô Ưu. Nhà Vua hô lên: Con ta đâu? Con trai yêu quí của ta đâu? - Mọi người có mặt không kịp quỳ để tung hô vạn tuế. Nhà Vua cũng không cần lễ nghi phiền phức ấy. Đức Vua tiến thẳng đến người cung nữ đang bồng đứa bé. Mọi người có mặt đều quì rạp xuống và rơm rớm nước mắt khi nhìn thấy đức Vua đang đưa tay bồng con trai đầu lòng của mình. Họ đầy niềm hỷ lạc an vui lạ.

Nhà Vua bồng con bằng cái bồng lọng cọng, lần đầu biết làm cha khi vào tuổi năm mươi. Nhà Vua bồng con tươi cười hơn bao giờ hết. Nhưng nhìn kỹ sẽ thấy đôi hạt lệ đang lăn tròn trên má già nua. Nhà Vua chừng như quên tất cả những gì xung quanh từ người đến khung cảnh và Hoàng hậu nữa. Một chốc sau như tỉnh còn mơ, nhà Vua nhìn đứa con với ánh mắt trìu mến vô vàn và hỏi: Hoàng hậu ta đâu? Trao con cho thị nữ, nhà Vua đến bên Hoàng hậu đang thiêm thiếp trở mình rên đau. Nhà Vua thấy thế nghe lòng mình đau nhói. Ngài cấp tốc truyền lệnh hồi cung.

Vườn Lâm-tỳ-ni hôm nay đã là nơi đỡ đấng Thầy trời người, đã chứng kiến và là chứng tích cho sự xuất hiện một vị Phật ra đời cho thế nhân, cho vạn loại chúng sinh. Vườn Lâm-tỳ-ni thật sự là thánh địa nhân gian. Hoa Vô Ưu vì vậy mãi mãi là Vô Ưu. Muộn phiền, khổ não của người đời của chúng sinh đã được giải quyết từ đây.

Ngày Hoàng tử chào đời nhằm đêm trăng tròn tháng Vesak, tức tháng hai theo lịch Ấn Độ. Nếu tính theo âm lịch Trung Hoa, Việt Nam là vào ngày rằm tháng tư, tức là ngày 15 tháng tư âm lịch. Năm ấy là năm 624 trước Dương Lịch. Tính đến nay (2004) là (624 + 2004) = 2628 năm tuổi. Hoàng tử sanh tại Lâm-tỳ-ni (Lumbini) nước Népal (Ấn Độ) bây giờ.

-Về năm sinh này có nhiều truyền thuyết khác nhau, có chênh lệch một năm hoặc 2-3 năm. Không nhiều. Nhưng theo Đại Hội Phật Giáo thế giới thì chọn năm 624 trước dương lịch và là ngày trăng tròn.

-Và về nơi sinh thì được xác định là tại Lâm-tỳ-ni(Lumbini) là một khu đất tại phía nam nước Népal ngày nay (Bắc nước Ấn Độ), chính chỗ này có dựng một trụ đá và được khắc chữ xác định nơi sinh ra của Phật một cách rõ rệt, do vua A-dục dựng lên để tôn thờ và đánh dấu. Trụ đá này được phát hiện bởi nhà khảo cổ người Anh có tên Cuningham. Ông tìm thấy vào năm 1896. (Vua A-dục: -336─ - 272 trước D.L) Vua A-dục đã ghi:

1- Năm Thiên Ái Thiện Kiến thứ 25, A-dục đích thân đến đây.

2- Đức Phật đà, dòng họ Thích-ca đi xuất gia, Ngài đản sanh nơi này.

3- Vua sắc dựng thạch trụ để kỷ niệm nơi Ngài đản sanh.

4- Thôn Lumbini nơi Phật đản sanh được miễn thuế.

5- Đó là hồng ân Phật đối với nơi Ngài đản sanh.

 

Qua những phát hiện này, người ta mới xác định đức Phật là một nhân vật lịch sử. Là một con người có khai sinh rõ ràng, do công phu tu hành giác ngộ thành Phật, không phải là nhân vật huyền thoại, tưởng tượng. Như vậy đức Phật là một con người thực sự đã sinh tại Lâm-tỳ-ni đúng như sử sách trong nhà Phật từ xưa đã nói.

Và mới đây vào đầu thập niên 90 của thế kỷ 20, có hai nhà khảo cổ, một người Nhật và một người Népal đã đi theo di chỉ của trụ đá vua A-dục mà khai quật vùng đất đó. Họ đào xuống hơn năm mét đất và gặp một viên đá khối chữ nhật diện tích bề mặt khoảng 40x50 cm và dầy 20cm. Họ cho rằng đây là chỗ xác định đúng nhất là vị trí của đức Phật chào đời khi là hài nhi.

Viên đá này được hiểu như một đứa bé. Đứa bé “ Phật” được ra đời tại đây.

TRÍCH KINH:

(Kinh Sơ Đại Bổn Duyên- Kinh Trường A-hàm. Quyển 1- Đại Tạng Kinh Việt Nam).

- Về việc vào thai và sinh ra của đức Phật trong Kinh Sơ Đại Bổn Duyên cũng có ghi:

“- Lúc mới nhập thai thì chỗ tối tăm nhất cũng đều nhờ ánh sáng tự thân mà chói sáng. Đến khi Ngài sanh ra từ hông bên phải của mẹ, thì cõi đất chấn động, hào quang chiếu sáng khắp nơi.

- Bồ-tát đương lúc sanh ra từ hông bên phải của mẹ thì chuyên niệm không loạn và mẹ của Bồ-tát lúc ấy, tay vịn cành cây, không ngồi, không nằm. Bấy giờ, bốn thiên tử tay bưng nước thơm đứng trước Phật mẫu thưa rằng: “ Thưa thiên mẫu, nay ngài sanh Thánh tử, vậy chớ có âu lo”.

- Bồ tát đương lúc sanh ra từ hông phải thì chuyên niệm không loạn, thân ngài thanh tịnh, không ô nhiễm, cũng như người có mắt, lấy ngọc minh châu sạch sẽ đặt lên lụa trắng, hai bên không làm bẩn nhau, vì cả hai đều sạch. Bồ-tát ra khỏi thai cũng như thế ( mẹ, con đều không nhơ).

- Bồ tát đương lúc sanh ra từ hông phải thì chuyên niệm không loạn, ngài từ hông phải đản sanh và bước xuống đất, đồng thời đi bẩy bước, không cần người nâng đỡ. Ngài nhìn khắp bốn phương và đưa tay lên nói rằng:” Trên trời dưới đất, duy chỉ có ta là tôn quí! Ta muốn độ chúng sinh thoát khỏi khổ sanh, già, bệnh, chết”.

- Bồ-tát đương lúc sanh ra từ hông phải thì chuyên niệm không loạn, có hai suối nước vừa ấm, vừa mát đều tuôn chảy để cung cấp cho Ngài tắm”.

c. Tướng mạo- đặt tên:

Tin báo về Hoàng tử chào đời, cả triều đình thần dân trong hoàng thành không mấy chốc đều rõ biết. Tất cả đều hân hoan nô nức. Triều thần đều nhanh chóng tổ chức một lễ đón rước Hoàng tử, Hoàng hậu và đức vua hết sức là trọng thể, hết sức tưng bừng. Ngày thì cơ xí rợp trời, đêm thì đèn hoa lấn át cả trăng sao. Dù rằng đêm nay trời trong trăng tròn vành vạnh đẹp lạ lùng. Lễ đón mừng được diễn ra suốt ba ngày đêm. Hoàng thành Ca-tỳ-la-vệ tưởng chừng như phải thức trắng reo ca cả đêm ngày.

Việc này đã làm vang động cả trời đất, giật dậy những ai muốn lịm mình trong giấc ngủ, trong say mê tĩnh lự. Các vị tiên từ trên non trên núi cũng đều biết đến. Dù là trên ngọn Hy Mã Lạp Sơn đi nữa thì hào quang từ Ca-tỳ-la-vệ cũng phản ánh qua gương mặt băng làm sáng lên cả đỉnh non thiêng cao nhất thiên hạ. Ngọn Evesest cũng đồng vọng lời hoan hỷ. Vị tiên trưởng A-tư-đà (Asita), nhà tu hành thường được gọi là Kàladevala cũng biết được tin này. Ngài cho rằng đây là “tin mừng” không chỉ cho đức vua Tịnh Phạn, hoàng hậu Ma-da, mà còn là tin mừng cho cả nhân loại, cả Chư Thiên, cả muôn loài sinh linh. Tiên A-tư-đà lấy làm hoan hỷ lắm. Được biết ngài là một vị tiên trưởng có nhiều uy tín trong chốn tu hành và nhân gian Ấn Độ thời ấy.

Tiên trưởng A-tư-đà tuy tuổi đã già, nhưng khi biết được “ tin mừng” này, Ngài không nệ tuổi già, mà vận hết công phu hàm dưỡng bấy lâu nay cầm gậy xuống núi vào hoàng thành để ra mắt “ một trẻ sơ sinh”. Trẻ sơ sinh này dưới con mắt Ngài, đó là tinh hoa của trời đất đã kết tụ nên, là vật chí linh của loài người, là trân bảo của thời đại của mai sau.

Tiên trưởng với dang già nua, nhưng tinh anh qua ánh mắt ngời sáng, cao khiết qua bộ râu tóc bạc như màu tuyết. Đặc biệt râu Ngài đã qua rún trắng toát lên vẻ tiên phong đạo cốt. Với chiếc áo mong manh qua nhiều năm tháng sương pha tuyết phủ cùng chiếc gậy khẳng khiu như thân xác, Ngài đi từng bước chậm rải phiêu bồng vào hoàng thành đến nội cung.

Ngài đã từng là quí nhân của đức Vua và triều đình nên Ngài được tiếp đón rất mực tôn kính. Ngài đến diện kiến đức Vua. Dầu rằng đức Vua đang lo buồn cho sức khoả của Hoàng hậu, nhưng nhà Vua vẫn ân cần tiếp kiến vị tiên trưởng.

Sau khi thi lễ, vị tiên trưởng, người đại diện cho kiến thức thời đại này mở lời chúc mừng cho đức Vua và hoàng tộc vừa sinh được một vị Hoàng tử. Kế đó ngài tỏ ý với đức Vua bằng thái độ trân trọng tôn kính muốn được chiêm ngưỡng dung mạo Hoàng nhi.

Nhà Vua rất hoan hỷ, rất mừng vì Nhà vua cũng có ý muốn triệu tiên trưởng vào cung để xem tướng cho Hoàng tử cũng là chứng minh cho Vua đặt tên con mình. Nhà Vua nhất tâm hoan hỷ.

Hoàng tử cũng được cung nữ ẵm ra trước đức Vua và tiên trưởng. Tiên A-tư-đà vừa thấy Hoàng tử đã cúi đầu sụp lạy một cách thành kính. Hoàng tử nhoài người đặt đôi chân tí hon lên đầu tóc tiên trưởng. Mọi người có mặt đều rất đỗi kinh ngạc. Hoàng tử ban lễ xuống ân huệ cho vị tiên trưởng, khiến cho tiên A-tư-đà càng thêm cảm kích.

Tiên trưởng xin được xem tướng Hoàng tử, đức Vua hoan hỷ. Tiên A-tư-đà nhìn Hoàng tử thật chăm chú. Ngài nhìn từ trên đầu xuống đến chân, từ trước ra sau. Ngài quan sát khắp rồi gật gù khen: Theo như các bậc cổ đức còn lưu lại qua quí tướng của con người, thì Hoàng tử có đủ 32 tướng quí. Đây là tướng của bậc Chuyển luân thánh vương, một vị Vua thánh quý nhất trong các Vua. Là vị Vua của tất cả Vua. Kính xin chúc mừng bệ hạ có một quí tử. Kính xin chúc mừng bệ hạ!

Nói xong tiên A-tư-đà bậc lên một tràng cười vui vẻ, tràng cười đầy hạnh phúc.

Nhà Vua theo đó mà vui lây. Nhà Vua vuốt chòm râu mà thích chí cười khoan khoái như nói lên: Quả là trời không phụ ta, tặng cho ta một đứa con quý như thế này. Nhà Vua cũng biết rằng xưa nay chưa có ai là đủ 32 tướng quí như vậy. Nay con ta có đủ thật là quý báu nào bằng. Nhà Vua nhìn vào con trai còn đỏ hỏn mà lệ lăn tròn. Nhà Vua quá ư sung sướng.

Qua hết tràng cười thanh thoát chúc phúc, tiên A-tư-đà lại cúi mặt khóc lên với tiếng khóc tức tưởi. Ôi! Thảm thương thay cho một cụ già tóc bạc phơ lại quẹt nước mắt trước đứa trẻ sơ sinh mủm mỉm. Hoàng tử khẽ chép miệng, lại hé môi cười. Phải chăng Hoàng nhi thông cảm điều gì sâu kín trong lòng tiên trưởng.

Đức vua thấy tiên trưởng bật khóc lấy làm lạ liền tắt lụn nụ cười hỏi rằng:- Tại sao tiên trưởng hết cười lại khóc vậy? Chẳng hay có gì nguy hại cho con ta và ta không?

Tiên A-tư-đà nhẹ lau nước mắt và quỳ thưa:

-Muôn tâu thánh thượng, kẻ hèn này đã làm kinh động bệ hạ, kính xin bệ hạ thứ lỗi. Kẻ hèn cười khóc đây là vì:- Cười là mừng cho bệ hạ có quí tử, mừng cho thiên hạ có cứu tinh nhất là mừng cho Hoàng tử sau này sẽ thành đạt danh phận cao nhất trong thế gian. Sẽ là người có trí tuệ siêu việt trong loài người loài trời. là người sẽ tự giải khổ cho mình và cứu khổ cho người.

Và khóc là vì kẻ hèn này chết trước khi Hoàng tử thành đạo, không được học hỏi ở Người con đường giác ngộ giải thoát. Kẻ hèn này vì xót thương cho thân phận mình mà khóc.

Muôn tâu bệ hạ hãy hiểu cho kẻ hèn này.

Tiên trưởng lại tiến lên và đến bên Hoàng tử. Hoàng tử lại nảy người quơ tay, mắt mở sáng nhìn thẳng vào tiên trưởng như truyền sức sống mới cho tiên trưởng. Tiên trưởng đón nhận ánh mắt tròn vo trong sáng như pha lê ấy, ấm áp tình người và chan hoà nhựa sống an vui được lưu suốt một bộ não rất ư là đặc biệt. Bộ não vĩ đại siêu việt này ẩn dưới hộp sọ nhô cao khác thường. Đây là đảnh tướng quang minh. Đảnh đầu nhô cao được phủ lên một lớp tóc đen nhánh và xoăn tròn theo chiều phải. Đây là tướng trí tuệ phi phàm. Tiên trưởng đã đặc biệt quan tâm vào quí tướng này.

Và tiên trưởng xin được vén chiếc áo cỏn con của Hoàng tử để được xem kỹ hơn về bộ ngực no tròn của Hoàng tử . Tiên trưởng đã sáng mắt lên khi thấy trên ức ngực cu vun đầy kia hiện lên hình dáng chữ Vạn. Với hình chữ vạn cộng thêm đảnh đầu kia đã khiến cho tiên trưởng sụp xuống lạy thêm Hoàng tử một lần nữa.

Nhà Vua lấy làm lạ nửa mừng nửa lo, Vua hỏi rằng:

-Có chuyện gì thế, nói cho trẫm rõ?

Tiên A-tư-đà quì thưa: Muôn tâu bệ hạ, thật là đặc biệt, thật quí hoá thay. Hoàng tử không phải là con người bình thường sanh ra để lập công danh như bao người. Hoàng tử sẽ không ngồi ngai vàng, không làm Vua. Hoàng tử sẽ xuất gia làm Sa-môn và sẽ giác ngộ giải thoát. Ngài sẽ độ chúng sanh thoát khổ đau. Chính đảnh tướng và vạn tướng đã nói lên điều đó. Kính mong bệ hạ lưu ý cho việc này.

Nhà Vua nghe qua rụng rời cả tay chân, ngồi thụp xuống ngai vàng lắc đầu buồn rầu như nói lên: Con ta rồi phải như thế sao?! Rồi ai sẽ kế nghiệp ngồi vào tiếp ngai vàng của ta đây? Con ta sẽ bỏ ta mà đi à?!

Để chờ nhà Vua qua chút ưu sầu, tiên trưởng lại quan sát Hoàng tử kỹ hơn. Thì ra càng nhìn, tiên trưởng càng thấy rõ Hoàng tử là một con người đặc biệt nhất trần gian. Hoàng tử càng lớn sẽ càng đẹp lạ ra, sẽ là một chàng trai anh tuấn nhất thế gian. Hoàng tử chẳng những đẹp người mà còn rất đẹp nết. Đầu óc thông minh mà cõi lòng lại thương người thương chúng sanh vô hạn. Hoàng tử quả là bất phàm, quả là thập toàn thập mĩ. Ôi! Đây là đại phước cho chúng sanh. Tiếc quá! Tiếc qúa cho ta!

Nhìn qua đức Vua khi biết đức Vua đã qua cơn sầu não, tiên A-tư-đà mới hỏi vua rằng:

-Muôn tâu bệ hạ, vậy chẳng hay bệ hạ đã đặt tên cho Hoàng tử là gì?

Nhà Vua trầm ngâm mà rằng:- Trẫm chưa biết đặt tên gì cho xứng, nay tiên trưởng đã cho trẫm biết về Hoàng tử như vậy thì trẫm sẽ đặt tên cho hoàng nhi là:Tất-đạt-đa (Siddhatha). (Tên này có nghĩa là: Người được toại nguyện).

Tiên A-tư-đà vui lắm, vuốt chòm râu dài trắng nuột nà mà rằng: Tốt lắm. Hoàng tử sẽ là” người được toại nguyện”. Được vậy kẻ hèn này cũng rất toại nguyện.

Thế là sau đó nhà vua truyền chỉ mở hội đặt tên cho Hoàng tử.

Một lễ hội được tổ chức tưng bừng. Hoàng tử tí hon là nhân vật chính. Quà tặng từ các vương tử công thần trưởng giả dành cho Hoàng tử không biết bao nhiêu. Buổi lễ này các thầy Bà-la-môn chủ trì cử hành lễ. Nhân đây nhà Vua cũng tạm thời qua được cơn phiền muộn.

TRÍCH KINH:

(Kinh Sơ Đại Bổn Duyên. Kinh Trường A-hàm. Quyển 1 - Đại Tạng kinh Việt Nam)

- Phụ vương liền triệu tập các tướng sư và các nhà đạo thuật mà khiến họ xem tướng Thái tử, để biết điềm kiết hung của Ngài. Bấy giờ các thầy tướng vâng lệnh liền cởi áo Thái tử ra xem, thấy có đầy đủ tướng tốt và đoán rằng: Người có tướng này theo một trong hai con đường chắc chắn không sai.

1-Nếu Ngài ở nhà thì sẽ làm Chuyển Luân Thánh Vương, trị vì bốn châu thiên hạ, đầy đủ bốn tướng quân binh. Dùng tránh pháp trị dân, không thiên vị, thi ân khắp thiên hạ, bảy báu tự nhiên đến, có ngàn người con mạnh mẽ, có thể hàng phục ngoại địch, không cần dùng binh khí, gậy gộc mà thiên hạ vẫn thái bình.

2- Nếu ngài xuất gia học đạo, sẽ thành Chánh Giác, đầy đủ mười hiệu. Bấy giờ các Thầy tướng liền thưa với Vua rằng:

“Thái tử đã có đủ 32 tướng tốt, thì sẽ theo một trong hai con đường quyết chắc không sai: Nếu ở nhà sẽ làm Chuyển Luân Thánh Vương, nếu xuất gia, chắc sẽ thành bậc Chánh Giác, đầy đủ mười hiệu”.

BA MƯƠI HAI TƯỚNG CỦA THÁI TỬ TẤT-ĐẠT-ĐA

Bấy giờ Vua cha ân cần hỏi lại các tướng sư hai, ba lần, rằng:”Các ông hãy xem lại Thái tử, ba mươi hai tướng tốt của Thái tử là những tướng gì?” Lúc ấy, các tướng sư liền cởi áo Thái tử ra xem, và nói 32 tướng đó như sau:

1.      Bàn chân bằng phẳng, đầy đặn, bước đi vững vàng.

2.      Dưới bàn chân có tướng bánh xe, như xe đầy đủ ngàn căm, rất rõ tươi tắn.

3.      Có màng lưới mỏng ở giữa kẽ tay và chân, chân như ngỗng chúa.

4.      Tay chân mềm mại như áo trời.

5.      Ngón tay ngón chân thon dài, không ai đẹp bằng.

6.      Gót chân đầy đặn, nhìn không chán.

7.      Bụng như bụng nai, trên dưới thon thon.

8.      Các khớp xương móc lấy nhau như dây xích.

9.      Có tướng mã âm tàng.

10.  Đứng thẳng, tay duỗi dài quá gối.

11.  Mỗi lỗ chân lông có một lông, màu sắc như lưu ly, xanh và xoay đều về phía hữu.

12.  Lông xoay về phía hữu mà xanh biếc rất đẹp

13.  Thân như màu vàng của vàng

14.  Da mịn màng, không dính bụi.

15.  Hai vai ngang bằng, đầy đặn, tròn đẹp.

16.  Giữa ngực có chữ Vạn.

17.  Thân cao hơn thân người thường.

18.  Bảy lỗ trong người đều bằng phẳng, đầy đặn.

19.  Thân cao rộng như cây Ni-câu-loại.

20.  Hai má như má sư tử.

21.  Ngực vuông ngay ngắn như ngực sư tử.

22.  Trong miệng có bốn mươi chiếc răng.

23.  Răng vuông ngay ngắn, bằng và đều.

24.  Răng kín không hở.

25.  Răng trắng tươi sáng

26.  Yết hầu trong sạch, ăn thức ăn gì cũng vừa

27.  Lưỡi rộng, dài, có thể liếm tới hai mép tai.

28.  Tiếng nói trong suốt.

29.  Con mắt màu xanh biếc.

30.  Mắt như mắt trâu chúa, hai mí đều nháy một lần.

31.  Có lông trắng giữa hai chân mày, mịn thắm, dịu dàng, nếu kéo ra thì dài một tầm và thả ra thì xoay về bên hữu, đồng thời xoăn theo kiểu ốc như chơn châu.

32.  Trên đảnh có nhục kế.

c-Đại Tạng – Hoàng hậu Ma-da mất

Lễ đặt tên xem tướng đoán vận mệnh Hoàng tử xong, nhà Vua lại dốc lòng lo cho Hoàng hậu.

Bà Ma-da, khi biết mình đã hạ sanh một Hoàng nhi xinh đẹp đầy đủ 32 tướng, bà vui mừng đến nỗi ngất đi. Được cấp cứu bà tỉnh lại và mỉm cười trong nước mắt, mấp máy đôi môi mà rằng: Ta đã làm xong bổn phận, làm tròn chức năng một con người. Con ta! Ôi con yêu quí của ta, con hãy lớn lên thật tốt, sẽ là niềm tin cho dòng tộc, cho thiên hạ.

Nhà Vua luôn túc trực bên Hoàng hậu, Ngài cầm tay bà mà rằng: Hậu này! Con ta thật tốt lắm, nó sẽ đúng như ý Hậu thôi. Hậu hãy an lòng mà tịnh dưỡng, bệnh dầu có nặng rồi cũng qua đi. Thái y luôn có mặt, nỗ lực chữa trị, Hậu hãy yên tâm.

Hoàng hậu lại thiếp đi, buông lỏng tay nhà vua.

Đức vua buồn rười rượi. Vui đó rồi buồn đó, cảnh đời thật trớ trêu. Nhà vua lại cảm thán: Phải chi mẹ tròn con vuông thì hay biết mấy! Tại sao trời đất lại đối xử với ta thế này!

Nhà vua lại mất ăn mất ngủ, lúc tỉnh lúc mơ về bên con bên mẹ. Con mỉm cười đỏ hồng, mẹ thì hốc hác xanh xao, một cảnh tình khiến não lòng người. Không riêng gì đức Vua như thế mà cả hoàng gia cung phi đều vui buồn lẫn lộn. Nhìn qua Hoàng tử thì vui, trông qua Hoàng hậu thì buồn.

Dù rằng đức Vua được triều thần sắp xếp cho việc nuôi nấng Hoàng tử chăm sóc Hoàng hậu thật chu đáo, đức Vua vẫn không yên.

Về phần mẹ thì giao cho Thái Y chăm lo. Về phần con thì giao cho bà dì ruột Hoàng tử là em gái hoàng hậu Ma-da là bà Ma-ha Bà-xà-ba-đề ( Ma ha Prajàpati) chăm sóc nuôi nấng.

Bà Ma-ha Ba-xà-ba-đề  thay Hoàng hậu Ma-da thương yêu Hoàng tử rất mực. bà sắp xếp cho bao nhiêu người xúm lo cho Hoàng tử. Hoàng tử được tưng tiu từng chút. Hoàng hậu Ma-da vì xé bụng sinh con nên sức khoẻ cứ mòi mòn. Không thể nuôi cho con bú được. Bà rất lấy làm buồn cho mình. Thế rồi ngày thứ bảy, bệnh bà càng nặng, Thái y hết cách. Bà cố gắng mấp máy đôi môi: Con!

Bà Ma-ha Ba-xà-ba-đề bồng Hoàng tử đến trước Hoàng hậu và gọi:

-Con Hoàng tỷ đây! Hoàng nhi đây!

Hoàng hậu cố hết sức mở mắt trông con lần sau cuối rồi từ từ khép nhẹ đôi mi. Người mẹ đầy phúc lạc trút hơi thở cuối cùng. Bà đã viên mãn cuộc đời, đã dâng tặng cho cuộc đời một bông hoa tươi đẹp nhất và hữu dụng nhất có khả năng chữa lành các chứng bệnh khổ sanh tử cho chúng sanh. Đó là cành hoa vô ưu Tất-đạt-đa.Một đấng cứu tinh cho nhân loại chúng sanh.

Hoàng hậu Ma-da lìa đời sau 7 ngày sinh nở, tuy vậy vẫn còn số đông người cho rằng bà vì có đức đại phước đức sanh ra được vị Phật tương lai, nên bà tránh được ghánh nặng tội nghiệp cõi nhân gian để về trên cõi trời Đao lợi mà hưởng lạc phúc muôn đời.

Vua Tịnh Phạn cùng hoàng gia cung nữ thương tiếc khổ sở vô cùng. Hoàng tử Tất-đạt-đa cũng bật khóc dai. Rồi chừng như Hoàng tử lắng động tâm tư, như người trầm ngâm thiền định. Hoàng tử mở đôi mắt tròn xoe nhìn vào khoảng không mênh mông.

Lễ tang Hoàng hậu được triều đình tổ chức vô cùng trang trọng. Đức vua vô cùng đau khổ. Ngài đã khóc đến xưng vù đôi mắt. Dự lễ trà tỳ (thiêu xác) đức vua đã khép vành mi không dám nhìn lửa đỏ. Tim gan Ngài gần như tan nát, đầu óc gần như phiu phưỡn đâu đây.

Hạnh phúc và đau khổ đã diễn ra cuộc đời Đức vua mấy ngày thật vừa cay nghiệt vừa ngọt ngào, mang đủ ý vị của cuộc đời. Nhà Vua cảm khái biết bao-Quả là dòng “Sinh-Tử”.

Hoàng tử Tất-đạt-đa vừa chào đời phải nhận đại tang. Hoàng tử mồ côi mẹ từ đây.

Hoàng tử có biết gì không khi mất mẹ?

-Biết, Hoàng tử biết mình mất đi dòng sữa ngọt.

II. NUÔI DẠY

Thái tử Tất-đạt-đa được từ Vua cha đến triều đình và di mẫu có kế hoạch nuôi dạy thật chu đáo. Đây không phải chỉ nuôi dạy một đứa con thôi, mà còn là nuôi dạy một vị vua tương lai. Đức Vua Tịnh Phạn chỉ có một mình Tất-đạt-đa là đứa con trai duy nhất nên Tất-đạt-đa vừa là Hoàng tử vừa là Thái Tử, người chuẩn bị lên ngai vua. Vì kế hoạch nuôi dạy Thái Tử thật chu đáo. Việc nuôi dạy này gồm cả hai mặt: Thân xác và tinh thần.

a- Thân xác:

Thái tử là đứa con cầu khẩn, là niềm tin duy nhất của hoàng tộc nên được “cưng như trứng, hứng như hoa”. Dĩ nhiên là được cưng yêu rất mực.

Về việc chăm nuôi Thái tử có sự tổ chức phân nhiệm vụ rõ ràng cụ thể. Bà dì Ma-ha Ba-xà-ba-đề là người trực tiếp lãnh đạo việc nuôi dạy Thái tử lúc ấu thơ, bà với vai trò không chỉ là mẹ nuôi mà còn là mẹ ruột. Bà dù có con cùng lúc với Thái tử là Nan-đà (Nam da), nhưng bà đã gửi con mình cho vú nuôi để chỉ nuôi mình Thái tử thôi. Tình thương bà lại dồn hết cho Thái tử. Đây là vì tình trạng của Thái tử thật đáng thương vừa sinh ra đã mất mẹ. Dưới bà lại còn cả cùng một đội ngũ nuôi dạy. Người thì chịu trách nhiệm về tình trạng sức khoẻ đau yếu thuốc thang(ngự y), người thì phụ trách về ăn uống, tắm giặt, ngủ nghỉ, trang phục, bồng ẵm, vui chơi v.v…Bao nhiêu nữ tỳ luôn có mặt để chăm sóc Thái tử. Đội ngũ này phải thực hiện đúng theo “ Nội quy nuôi dạy” và phải chịu kỷ luật khi sai phạm. Việc điều động trông coi  sinh hoạt này được một vị quan trực tiếp giám sát chỉ huy. Việc nuôi dạy Thái tử như thế nên thật là tốt.

Thái tử lớn lên xân xẩn, khi một hai tuổi thì bụ bẫm dễ cưng vô cùng, ai nấy cũng muốn bồng muốn ẵm, muốn nựng. Bà dì càng ngày càng thương Thái tử hơn, vì càng lớn Thái tử càng nổi bật vẻ đẹp, các tướng càng phát lộ rõ ràng. Nhất là Đức vua hoan hỷ vô cùng. Nhà Vua dành nhiều thời gian cho Thái tử hơn. Ngài bồng bế Thái Tử, vui chơi cùng Thái tử, đặt con lên đùi, lên đầu lên cổ hun hít con không biết chán. Thái tử đã chiếm trọn vẹn tâm hồn đức Vua. Hình bóng Hoàng hậu Ma-da đã biến mất trong đầu Ngài. Còn chăng chỉ là một thoáng khi thấy con mình có nét giống mẹ. Nhưng rồi hình dáng đứa con cưng liền xoá mất bóng Hoàng hậu trong lòng Đức vua. Nhà Vua chỉ còn biết có Thái tử thôi, chỉ còn biết có đứa con trai cưng là cục vàng thôi.

Rồi Thái tử biết cười, biết nói bập bẹ, ba ba… ma ma…và biết đi lẫm đẫm…mỗi mỗi là niềm vui vô bờ bến của đức Vua. Niềm vui của Đức vua có nhiều ý nghĩa, có thể nói Niệm Phật niềm vui này hơn hẳn niềm vui của các ông cha khác. Đâu ai có được một đứa con đầy tướng đẹp đầy tương lai như thế?

Ôi! Thái tử là nguồn hạnh phúc của Đức vua.

Rồi Thái tử lại lớn lên, biết đi, biết chạy, biết vui đùa trở thành đứa con trai thật sự.

Lần hồi Thái tử trở thành một thiếu niên lành mạnh anh tuấn hơn. Và rồi Thái tử trở thành một thanh niên chững chạc, cơ bắp rắn rỏi hùng mạnh. Dáng vẻ uy nghi, ngũ quan sắc nét đầy vẻ thanh tú. Thái tử là một đấng nam nhi thật sự. Lúc này 32 tướng tốt thật sự phát triển trọn vẹn. Thái tử dung nghi đẹp tợ như một vị thần, một vị trời.

Đức vua sung sướng vô ngần khi thấy con trai yêu quí của mình thật hoàn chỉnh trên thân xác.

Bà Ma-ha Ba-xà-ba-đề đã khéo nuôi, Thái tử thật sự lành mạnh trên thân xác. Bà đã tìm thức ăn quí hiếm đầy đủ dinh dưỡng cho từng thời điểm của cơ thể. Bà đã chọn những người đầu bếp giỏi nhất để làm thức ăn ngon vừa miệng Thái tử. Bà đã khéo phối hợp thức ăn và bài thuốc để nuôi dưỡng Thái tử. Bà cũng đã chọn những hầu hạ thật ý nhị khéo tay khéo ý để làm vừa lòng Thái tử, giúp Thái tử ăn uống ngủ nghỉ, vui chơi học tập…thật tốt. Bà chẳng để một thứ gì làm trở ngại cho Thái tử.

Bà lại chú ý cả trang phục cho Thái tử từ tấm bé cho đến lúc trưởng thành. Đồ mặc nào, trang sức nào đẹp nhất, tốt nhất và thích hợp nhất cho từng thời tiết, Xuân, Hạ, Thu, Đông, và từng thời điểm sớm trưa chiều tối., cùng tình trạng sức khoẻ, và cùng sinh hoạt lễ hội, vui chơi, học văn, học võ v.v…nhất nhất bà đều chu đáo, bà không để một sơ thất dù nhỏ nào. Ai sơ thất bà sẽ nhắc nhở kỷ luật.

Bà lại cùng triều thần thường xuyên tổ chức, những cuộc vui chơi cho Thái tử để Thái tử giữ được sức khoẻ tốt.

Thái tử lại còn được phụ hoàng xây cho cung điện thích hợp cho thời tiết. Mùa đông có cung điện ấm, mùa hè có cung điện mát, có cung điện an toàn không bị ảnh hưởng ướt át gió giông và cung điện mùa xuân. Nhà ở đủ tiện nghi cũng giúp bảo toàn sức khoẻ, khiến Thái tử thật sự hoàn chỉnh về sự phát triển thân xác cả hai mặt: Sức khoẻ và vẻ đẹp.

Nhà Vua và bà Ma-ha Ba-xà-ba-đề  cùng triều thần hoan hỷ, sung sướng cùng hãnh diện biết bao về Thái tử. Một con người thập toàn thập mĩ về dung mạo. Một con người xứng đáng là vị Vua tương lai.

TRÍCH KINH:

Kinh Nhu Nhuyến- Kinh Trung A-tư-đà-hàm-q3-Đại Tạng Kinh Việt Nam.

Theo bài Kinh Nhu Nhuyến” đã cho thấy đời sống của Thái tử Tất-đạt-đa  thật là sung sướng rất phong phú, trên đời hiếm có, từ đây giúp cho thân xác Thái tử được phát triển tốt đẹp hơn.

-Lời kinh:” Một thời Phật du hoá tại nước Xá vệ, Trong rừng Thắng lâm, vườn Cấp-cô-độc. Bấy giờ đức Thế tôn nói với các Tỳ-kheo:

- Chính Ta ngày trước đi xuất gia học đạo là ra đi từ chỗ ưu du, từ chỗ thung dung nhàn nhã, từ đời sống cực kỳ êm dịu. Khi ta còn ở nhà, Phụ vương tạo cho ta đủ thứ cung điện: Cung điện mùa xuân, cung điện mùa hạ và cung điện mùa đông.

Bởi ta thích du ngoạn nên cách cung điện không xa, Người lại tạo không biết bao nhiêu ao hoa: ao hoa sen xanh, ao hoa sen hồng, ao hoa sen đỏ, ao hoa sen trắng. Trong các ao đó trồng dủ các loại hoa: hoa sen xanh, hoa sen hồng, hoa sen đỏ, hoa sen trắng. Nước luôn luôn đầy, hoa luôn luôn trổ, mà những người sai dịch chăm sóc không thông suốt hết được.

Bởi ta thích du ngoạn nên Người sai bốn người tắm rửa cho Ta. Tắm rửa cho ta rồi, lại xoa hương Xích Chiên Đàn vào khắp thân Ta. Xoa vào thân ta rồi lại khoát vào mình Ta chiếc áo lụa thật quí, trên dưới trong ngoài đều mới mẻ. Suốt cả ngày đêm, luôn luôn có người cầm lộng trắng che cho Ta, không để ta đêm phải nhiễm sương, ngày bị nắng háp. Như các Thầy thường được ăn gạo trắng khô, canh đậu, rau, gừng và cho là đồ ăn bậc nhất, nhưng người sai dịch thấp nhất của phụ vương Ta lại cho như vậy là rất dở, chỉ ăn nếp trắng và hào soạn mới cho là đồ ăn bậc nhất.

Lại nữa, nếu có cầm thú nơi đồng ruộng, loại cầm thú ngon nhất như đề-đế-la-hoà-tra, kiếp-tân-xà-la,hễ-mễ-hà, lê-nê-xa-thi-Ma-ha Ba-xà-ba-đề-mễ. Các loại cầm thú nơi đồng ruộng, loại cầm thú ngon nhất như vậy, Ta thường được ăn.

b. Tinh thần

- Vua Tịnh Phạn bị ám ảnh lời tiên tri của A-tư-đà rằng:” Lớn lên Thái tử không ngồi ngai vàng mà lại xuất trần làm tránh giác”.

Thế nên nhà Vua luôn có kế hoạch để đối phó hầu phá tan đi điều mà tiên A-tư-đà dự đoán. Đức vua không thể chấp nhận cho Thái tử xuất gia được mà nhất định đưa Thái tử lên ngai vàng làm Vua để tiếp nối thống trị sơn hà xã tắc, tiếp nối dòng họ kiều hung làm dạng danh thêm nữa truyền thống cha ông, tạo nên một kỳ tích hiển hách nhất trên thế gian.

Trong kế hoạch, nhà Vua thực hiện việc này từ khi Thái tử còn tấm bé. Ngài tránh tất cả việc buồn đau có thể xảy ra cho Thái tử. Nhà Vua tạo mọi phương tiện cho Thái tử được yên vui, để không nghĩ đến việc bỏ cung thành với biết bao cái hay cái đẹp, cái sung sướng hạnh phúc như cõi trời.

Nhà Vua chọn bà dì Ma-ha Ba-xà-ba-đề thế vào chỗ Hoàng hậu Ma-da cũng là nhằm khiến cho Thái tử khỏi buồn đau khỏi cảm thương thân phận bị mồ côi mẹ. Và bà Ma-ha Ba-xà-ba-đề diễn thật hay, giống y mẹ ruột của Thái tử khiến Thái tử khi còn bé vẫn không hay mình bị mất mẹ, bị mồ côi. Tình cảm Thái tử vì thế không bị tổn thương. Thái tử vẫn có đủ phụ hoàng và mẫu hậu, đầy đủ cả cha lẫn mẹ, thế là hạnh phúc trọn vẹn.

Nhà Vua dùng bao nhiêu tình cảm lớn lên bên bà dì, mà còn để Thái tử lớn lên bên cạnh nhà Vua. Từ nội cung  hay xuất cung nhà Vua thường hay cho Thái tử đi cùng, , từ lúc bé cho đến lúc trưởng thành. Đây cũng là lòng thương của người cha mà cũng là một sự ràng buộc Thái tử một cách khéo léo. Nhà Vua nhằm tập cho con quen nếp triều nghi, quen vương quyền phú quí, đoanh vây tâm hồn Thái tử, tránh cho Thái tử suy tư mông lung bất lợi cho tiền đồ.

Nhà Vua còn lập cho Thái tử hưởng đủ dục lạc, ăn chơi theo cung cách đế vương để Thái tử không còn tâm trí nghĩ vớ vẩn điều khác.

Niệm Phật còn đem việc học áp đặt thật sớm đối với Thái tử. Nhỏ ba năm bảy tuổi phải học lễ nghi, triều nghi. Rồi lại phải học văn, học võ. Nhà Vua tuyển chọn những bậc trí giả siêu việt nhất đương thời làm Thầy dạy văn và những bậc võ nghệ siêu quần bạt tục dạy võ cho Thái tử để cho Thái tử mất hết thời giờ, không còn đầu óc trống để viển vông nghĩ ngợi linh tinh.

Nhưng cũng may cho Thái tử, Thái tử vốn là người thông minh mẫn tuệ, nên học văn hay võ đều không có gì cả. Thái tử học một biết mười khiến cho các thầy học phải bái phục. Do vậy mà đầu óc Thái tử vẫn còn trống, vẫn còn nghĩ được điều này điều nọ về mình về người thân, thân phận con người.

Trong cuộc sống, nhà Vua cố tình không để xảy ra một cảnh tượng nào khiến Thái tử phải chạnh lòng, đau thương. Không để người già, người bệnh, kẻ tàn phế, kẻ tội đồ, người thất bại, kẻ chết chóc, cảnh hoang tàn đổ nát, cũ kỹ tàn tạ v.v…hiện ra trước mắt Thái tử. Nghĩa là trước Thái tử chỉ có mầu sáng đẹp mà không có u tối buồn thảm. Có sự sống tươi mơ, không có sự chết chóc thê lương.

Khi giao tiếp, không ai được nói chuyện thương tâm, mà chỉ được nói chuyện vui, chuyện mừng, chuyện tốt lành. Đối tượng giao tiếp với Thái tử cũng được giới hạn và chọn lựa kỹ, chẳng được tuỳ tiện tự do giao tiếp.

Nhà Vua cố tình bưng bít những gì gây thương cảm cho Thái tử để cho Thái tử không sầu muộn. Lỡ có điều gì khiến cho Thái tử sầu muộn thì liền tổ chức tiệc linh đình thâu đêm suốt sáng để khoả lấp nỗi sầu cho Thái tử.

Nhà Vua dốc hết tâm trí đầu tư cho Thái tử được yên vui để Thái tử không khởi lên ý nghĩ xuất trần. Nhà Vua giới hạn sự xuất cung của Thái tử. Thái tử chỉ được đi khỏi cung khi nào đi cùng với phụ hoàng. Có thể nói Thái tử bị kìm kẹp một cách tinh vi khoa học.

TRÍCH KINH:

Kinh Nhu Nhuyến- Kinh Trung A-tư-đà-hàm-q3-Đại Tạng Kinh Việt Nam.

Theo đoạn kinh sau để thấy Thái tử luôn được phụ hoàng quan tâm “kề sát” để hướng dẫn Thái tử theo ý đồ, thực hiện hành trình ngũ dục. Khiến Thái tử phải lên ngai vàng.

-Lời kinh:” Ta nhớ khi xưa lúc còn ở với phụ vương Duyệt-đầu-đàn suốt bốn tháng hạ, mỗi khi lên chánh diện đều không có nam nhân, chỉ toàn là kỷ nữ để cùng vui chơi không hề trở xuống.

Rồi khi ta muốn đến viên quán, thì liền có ba mươi danh kỵ thượng thặng được tuyển chọn với những hàng thuẫn lớn đi dẫn đường hộ tống trước sau, không kể những tiểu tiết khác. Ta có những điều êm dịu, đầy đủ vừa ý như vậy

Ta còn nhớ khi xưa lúc ta thăm ruộng, người làm ruộng nghỉ ngơi trên đám ruộng, ta đi đến dưới gốc cây diêm-phù ngồi kiết già, ly dục, ly pháp ác,bất thiện, có giác, có quán, có hỷ lạc do ly dục sanh…”

-Lần ra thăm ruộng với phụ hoàng, Ngài đã tách khỏi phụ hoàng lắng sâu vào thiền định một cách tự nhiên mà hiểu ra, mà thông cảm với người đời về cái Bệnh, cái Già.

c. Học Tập

Hướng dẫn tinh thần cho Thái tử, vua Tịnh Phạn tập chung đào tạo Thái tử qua việc học tập. Học tập để làm nên một ông Vua tài giỏi. Muốn vậy nhà Vua xắp xếp cho Thái tử phải học cả hai môn của thời đại: Văn và Võ. Làm vị Vua tài giỏi phải kiêm văn võ, văn thao võ lược, văn võ toàn tài, vào văn ra võ mới thực là ông Vua có đủ hùng tài đởm lược, tài trí hơn người. Việc này đức Vua giao cho một đại thần chịu trách nhiệm trông coi quản giáo.

- Về văn phải học hết những kinh thư của thời đại, của đại giáo đương thời (Học bằng khẩu truyền-dạy và học qua lời nói, ghi nhận qua âm thanh không qua chữ). Học về cách chăn dân trị nước (Chính Trị), học về binh thư đồ trận (Quân sự), học về thiên văn, địa lý, học về toán số.v.v…

- Về võ, phải học đủ các môn: Quyền, cước, côn, kiếm, cung. Nói theo Trung hoa là phải đủ” Thập bát ban võ nghệ” -18 món binh khí phải làu thông, tất cả bộ môn võ thuật đương thời phải biết hết.

Văn võ đều phải có thầy. Nhà Vua tuyển chọn những vị thầy tài giỏi nhất nước để làm thầy dạy cho Thái tử.

Thái tử vốn có sức khoẻ lành mạnh, và tinh thần sáng suốt nên Thái tử học rất nhanh, rất giỏi, thầy dạy một Thái tử biết mười. Chẳng như thế Thái tử còn biết những điều mà thầy chưa biết, khiến cho các bậc thầy đều bái phục. Vị thầy nào dạy Thái tử một thời gian rồi cũng xin rút lui vì không đủ sức dạy Thái tử nữa. Trí óc Thái tử như biển cao vời, mênh mông như bầu trời, thu thập chứa đựng hết sở học của thầy mà chẳng còn thấy đầy.

Thái tử đã học với thời gian kỷ lục. Đến tuổi 16 Thái tử đã thành tài, quán thông văn võ. Với thời điểm này nhà Vua biết con mình đã có khả năng phi thường, tài nghệ siêu việt. Nhà Vua rất hài lòng họp triều mở cuộc tỉ thí so tài, đặc biệt cho các bậc vương tôn công tử. Đấu trường gồm cả hai môn văn võ.

Đây là cuộc so tài mấy mươi năm mới có một lần. Từ trong thành đến ngoài thành người người náo nức chờ đón được xem.

Đấu trường được tổ chức vừa to rộng vừa trang trọng và thật là tốn kém. Một đấu trường từ xưa chưa từng có. Người ta chỉ cần nhìn tổng quát đấu trường thôi cũng đủ nể phục ban tổ chức, nể phục triều đình tôn kính đức Vua.

Đặc biệt là các đấu sĩ đều là hàng con vua cháu chúa, tuổi đời không quá hai mươi.

Ban tổ chức là triều đình, dĩ nhiên có Đức vua thân lâm khán chứng, Triều thần tham dự và cũng đầy đủ Hoàng hậu, cung phi, mỹ nữ, công tử công nương đều có mặt. Người xem chật nứt khán đài. Đây quả là một ngày hội lớn. Việc buôn bán trở nên đông vui vô kể.

Đức Vua trên đài cao lòng những mong Thái tử quí yêu của mình toàn thắng.

Thái tử Tất-đạt-đa tuy phải ra đấu trường, nhưng Thái tử không vì thắng bại mà vì phụ hoàng mong muốn mà thôi. Nhưng khi thi đấu, vì tài năng Thái tử có thừa nội lực hùng hậu nên dù không cố sức vẫn thắng các đối thủ. Trong giao đấu Thái tử luôn khiêm nhường chẳng muốn thắng bạn làm gì, nhưng vì bạn kém hơn. Dù rằng có đối thủ lòng dạ nham hiểm Thái tử cũng mỉm cười thông qua, như đối với Đề-bà-đạt-đa là người em họ. Cuối cùng cuộc thi Thái tử được ban giám khảo chấm là vô dịch. “ Vô địch” thật xứng đáng vô cùng.

Đức vua cùng triều thần, Hoàng hậu v.v…đồng vỗ vang tay dần chừng như muốn vỡ cả hư không.

Mọi người đều tung hô nói với nhau: Đất nước mình rồi sẽ có một vị vua anh minh kiêu hùng nhất xưa nay làm dạng danh cho dòng họ Sakya (Thích-ca).

Vua Tịnh Phạn vuốt chòm râu bạc nhìn con nhìn trời đầy hy vọng. Ngày mai đây sơn hà ta sẽ mở rộng đến chân mây do bàn tay, bước chân của đứa con yêu quí của ta. Thật hạnh phúc biết là bao! Đức vua cất lên tràng cười sáng khoái đầy tự tin tự hào.

d.Tánh tình Thái tử

Tánh tình Thái tử được nhìn qua trong kinh.

TRÍCH KINH:

Kinh Nhu Nhuyến – trang 13 – Kinh Trung A-hàm- q3-Đại Tạng Kinh Việt Nam.

-Lời kinh: “ Ta còn nhớ khi xưa lúc ta đi thăm ruộng, Ta đi đến dưới gốc cây Diêm-phù ngồi kiết già, ly dục , ly pháp ác, bất thiện, có giác, có quán, có hỷ, có lạc do ly dục sanh, chứng đắc được thiền thứ nhất thành tựu và an trụ. Ta nghĩ rằng:” Phàm phu ngu si, không đa văn tự có sẵn tật bệnh, không thoát khỏi tật bệnh, nhưng thấy người tật bệnh thì ghê tởm, khinh bỉ, không yêu, không thích mà không tự quan sát mình”. Rồi ta tự nghĩ:” Ta có sẵn tật bệnh, không thoát khỏi tật bệnh, nếu ta thấy người tật bệnh mà ghê tởm, khinh bỉ, không yêu, không thích ta không nên như vậy, vì ta cũng có trường hợp này, quán sát như vậy rồi, thì tâm cuống cao phát khởi do không có tật bệnh liền tự tiêu diệt, ta nghĩ lại rằng: “ Phàm phu ngu si, không đa văn, tự có sự già, không thoát khỏi sự già, nhưng thấy người già cả thì ghê tởm, khinh bỉ, không yêu, không thích, mà không tự quán sát mình”. Rồi ta tự nghĩ:” Ta tự có sự già, không thoát khỏi sự già, nếu ta thấy người già mà ghê tởm, khinh bỉ, không yêu, không thích, ta không nên như vậy, vì ta cũng có trường hợp này”. Quán sát như vậy rồi thì tâm cống cao phát khởi do chưa đến tuổi già liền tự tiêu diệt.

Phàm phu ngu si, không đa văn, vì chưa bị tật bệnh nên tự cao, tự phụ, phóng dật, rồi do tham dục mà sanh si ám, không tụ tập phạm hạnh. Phàm phu ngu si không đa văn, vì còn trẻ trung nên tự cao, tự phụ, phóng dật, rồi do tham dục mà sanh si ám, không tu tập phạm hạnh. Phàm phu ngu si, không đa văn vì còn thọ mạng nên tự cao, tự phụ, phóng dật, rồi do tham dục mà sinh si ám, không tu tập phạm hạnh.

HIỀN – TRÍ – HOÀ ÁI - CẢM THÔNG – BÌNH DỊ ĐƠN GIẢN – KHÔNG “TA ĐÂY” – NHU NHUYẾN

Khi còn bé thơ khoảng tám chín tuổi Thái tử theo Vua cha dự lễ “xuống giống” Thái tử đã tách rời Vua cha ngồi yên dưới cội cây rừng, Thái tử quan sát được như trên. Thái tử thông cảm được cái khổ về bệnh về già, dù Thái tử chưa già chưa bệnh. Thái tử tránh được cống cao, khinh khi người khác. Sống mà không tự cao. Không khi người là điều khó có được, nhất là ở một Thái tử  đầy đủ điều kiện và tư cách để tự cao và khinh người.

Như thế để thấy Thái tử có bản chất ôn nhu từ ái, biết thông cảm cho kẻ khác, không phách lối, không ta đây, thật nhu nhuyến.

- Từ đặc tánh cơ bản này làm nền tảng cho lối sống cư sử với người. Do vậy Thái tử có tính khí rất ôn hoà khi tiếp xúc với người, luôn gây thiện cảm với người, khiến người mến thích Thái tử.

Và cũng từ đoanj kinh này để thấy Thái tử có đời sống nội tâm chuyên sâu, tức con người có “tâm hồn”, không hời hợt như bao kẻ có thế quyền sang giàu khác. Còn trẻ mà Thái tử đã biết lắng lòng mình, biết quán sát một cách sâu sắc vào đời, vào tự thân. Từ đây cho thấy Thái tử có khuynh hướng về con đường Tâm linh rất sâu sắc.

Như vậy Thái tử có tấm lòng vì đời sống sâu rộng. Con người Thái tử là con người đầy tình cảm, đầy tình nghĩa. Đây là bản chất Thái tử mà không do giáo dục từ phụ hoàng hay của thầy học. Bản chất này chính là nghiệp tập từ xa xưa, từ kiếp trước.

Thái tử vì thế được xác định là một con người có bản tính hiền hoà, Ngài không tỏ vẻ ta đây, cống cao mà hay gần gũi với người nên Thái tử cũng là người bình dị. Ngài là Thái tử mà tìm gốc cây để ngồi, không màn người hầu kẻ hạ nên thật đơn giản. Thái tử lại thấy rõ việc mà người lớn có khi vẫn chưa thấy chưa hay, mình chưa hết bệnh, chưa già mà cảm thông người già bệnh mà biết do tham dục mà sanh si ám. Đây là Thái tử có được cái trí sáng suốt hơn người. Thái tử vì thế đáng được gọi là người Hiền trí trong đời.

* BÌNH ĐẲNG

Thái tử được tánh tình như vậy nên quan hệ trong cuộc sống đời thường rất tốt. Thái tử biết kính trọng người trên người lớn, biết bình đẳng với bạn bè trang lứa. Biết thông cảm kẻ trên,  cảm thông kẻ dưới dù là kẻ tôi đòi Thái tử vẫn đối xử một cách nhân ái rất tình người. Thái tử đã có cái nhìn tương quan giữa mình và người rất sớm như vậy. Nên Thái tử không khinh bạc người mà còn tôn trọng người, có cái nhìn “ta, người” không khác gì nhau: người già bệnh, ta cũng già bệnh. Đây là một thứ nhìn “ bình đẳng”, mặc dù thời đại của Thái tử vốn là thời đại giai cấp, thời đại của bất bình đẳng. Xã hội này có bốn giai cấp:1 –Giáo sĩ (Bà-la-môn), 2- Cầm quyền (Sát-đế-lỵ), 3- Thương gia (Phệ-xá), 4-Hạ tiện nô dịch (Thủ-đà-la). Bốn giai cấp này có đối xử khác nhau. Giai cấp một và giai cấp hai là tôn quí, còn giai cấp ba và bốn phải phục dịch cho một và hai, giai cấp bốn còn được coi như thú vật.

Trong bối cảnh xã hội giai cấp như vậy mà Thái tử lại có lối sống bình đẳng, điều này không những là gây sự khó chịu cho vua cha mà cả hoàng tộc và cả thời đại. Thái tử sống như vậy nên có tính nhân bản thật cao. Đó là thể hiện sức sống:

“Không có giai cấp trong dòng máu cùng đỏ, trong nước mắt cùng mặn”

Chẳng những Thái tử có tính nhân bản thật cao, mà có tính “ chúng sanh bản” thật rộng nữa. Thái tử chẳng những yêu thương thông cảm con người thôi mà Thái tử còn thương yêu cả loài vật, cả chim thú cho đến cả cây cỏ. Nhìn cảnh chim muông ăn nuốt con côn trùng trên cánh đồng vỡ đất, Thái tử đã mất vui mà bỏ đi ngồi vào gốc cây nhập thiền quán. Và Thái tử đã tranh dành con chim bị tên của Đề-bà-đạt-đa. Thái tử nhổ tên, đắp thuốc cứu sống chim, và thả chim về bầu trời của nó.

Thái tử có hai đặc tính tuyệt vời:

- Tính nhân bản

- Tính chúng sinh bản

Mà thời đại Thái tử chưa có người biết đến.

*NHIỆT THÀNH

Thái tử hiền hoà nhưng quyết liệt. Khi tranh dành con chim bị tên với Đề-bà-đạt-đa, Thái tử vì” sự sống” mà không nhượng bộ Đề-bà-đạt-đa dù đúng là con chim Đề-bà-đạt-đa bắn. Vì cứu chúng sinh mà Thái tử không khoan nhượng quyết cứu cho bằng được” lẽ sống”.”Lẽ sống”,”sự sống” là quí nhất trên đời, là lẽ phải cần được bảo vệ. Thái tử có quyết tâm không sai, và được triều thần ủng hộ. Thái tử đã thắng. Một sự đắc thắng không làm tổn hại một ai, không gây cho con chim đổ một giọt máu. Ai cũng có sự sống, chim, Đề-bà, triều thần, thân dân ai cũng có sự sống nên “lẽ” cuộc sống là đúng đắn nhất. Lẽ sống = chân lý.

* HY SINH

Từ sự nhiệt tâm vì “lẽ sống” cho thấy Thái tử lại có đức hi sinh thật vĩ đại. Thái tử hi sinh thân phận, hy sinh sự an ổn cho cá nhân. Đức hy sinh này được thấy rõ nét ở ngày Thái tử thoát ly khỏi cung vàng, khỏi điện ngọc, khỏi vợ con v.v…Thái tử đã hy sinh tất cả vì cứu khổ chúng sanh.

* HIẾU ÂN

Thái tử con người đầy HIẾU và ÂN. Mang ơn người, Thái tử đều ghi nhớ và đáp đền.

-Phụ hoàng: Trong đời sống hàng ngày ơn lớn nhất với Thái tử đó là phụ hoàng, Thái tử luôn biết điều này. Thái tử thể hiện bằng sự nghe lời, chịu sự sắp xếp của phụ hoàng. Thái tử chịu khó học tập, chịu cưới vợ, chịu có con. Tuy nhiên Thái tử vẫn có cái suy tư riêng. Điều này không giống phụ hoàng. Đây cũng là chuyện bình thường trong cuộc sống. Nghề cha nghề con đâu buộc giống nhau? Có hiếu không có nghĩa phải giống cha. Mặt con không giống cha là bất hiếu sao? Nhưng dù sao mặt này Thái tử không giống phụ hoàng nên cũng khiến cho đức Vua có điều phiền muộn. Nhất là khi Thái tử vượt thành xuất gia khiến phụ hoàng đau khổ không ít. Điều này được xem là Thái tử bất hiếu. (Tuy đây chỉ là bước tạm thời chưa đủ quyết định mà hãy còn bước sau đó dài hơn quan trọng hơn là bước xuất gia hành đạo). làm con có hiếu không có nghĩa là lúc nào cũng có cái bóng của cha, không thể rời. Phải để cho con có đời sống của con chứ? Và Thái tử đã làm xong việc nối dõi tông đường, (sanh con) đây phải nói là việc cố gắng lớn nhất trong đạo hiếu của Thái tử.

-Thầy học: Với thầy học Thái tử đáp lại công ơn bằng cách học tập tốt, dù Thái tử thông minh hơn cả Thầy, nhưng không bao giờ dám khi bạc, hỗn ẩu với thầy mà lúc nào cũng tôn kính các bậc thầy. Cụ thể khi nghe lời thầy mà luyện tập để khi ra đấu trường được toàn thắng làm rạng danh thầy khiến thầy vừa lòng thích ý.

-Mẹ nuôi: Đối với bà Ma-ha Ba-xà-ba-đề, lúc bé Thái tử không phân biệt được là mẹ ruột hay mẹ nuôi và đối đãi như một đứa con ruột thịt, bằng tình cảm và bổn phận của một đứa con. Thái tử lúc nào cũng tỏ ra hiếu kính đối với mẹ rất trọn vẹn. Khi lớn lên, Thái tử hiểu chuyện biết rõ đây chỉ là mẹ nuôi là bà dì thôi, dù vậy hiếu đạo của Thái tử không thay đổi. Vì ân dưỡng nuôi của bà dì quả thật to tát nặng nề, Thái tử không bao giờ phôi pha, mà càng lớn khôn càng thấy sâu nặng hơn. Nếu không có bà dì thì Thái tử sẽ ra sao? Và bà dì lại thương Thái tử hơn là con ruột là Nan-đà. Tình thâm nghĩa trọng Thái tử luôn ghi khắc và luôn nghĩ phải đáp đền. (Sau khi thành Phật, ngài đã đáp đền cho bà được xuất gia).

-Mẹ ruột: Thái tử là con người hiền từ nhưng lại rất thông minh. Chính yếu tố này đã làm rõ thêm thân phận Thái tử hơn.

Lúc còn thơ dại, Thái tử bị người lớn sắp xếp che mắt mình như ngỡ rằng bà dì là mẹ đẻ, nhưng khi đã lớn khôn rồi Thái tử đã rõ mẹ đẻ đã chết khi sinh ra mình mới được 7 ngày. Biết được cái chết thảm của mẹ Thái tử đau đớn biết dường nào. Thái tử cảm thấy mình là tác nhân khiến mẹ phải chết. Để mình được chào đời mẹ đành phải banh xẻ da thịt, phải xé bụng cho mình chào đời. Ôi! đau đớn cho mẹ. Chính vì xé bụng, mổ bụng mà mẹ mới chết! Cảm thương biết nhường nào! Mẹ đã vì mình mang nặng suốt bao tháng ngày với tất cả tấm lòng thương yêu. Vì Thái tử là đứa con cầu con khẩn, đứa con trông chờ suốt mấy mươi năm, nên tình cảm theo đó mà sâu nặng. Càng nghĩ Thái tử càng đau ( Nhất là khi Thái tử có vợ và vợ có mang và sanh nở. Thái tử lại thấy rõ hình ảnh nặng quằn ở mẹ hơn).

Thái tử thương mẹ vô bờ.

Nhưng làm sao để đáp đền ơn đây?

Câu hỏi này đặt ra không có giải đáp. Mẹ đã chết rồi thì làm sao? Tuy mẹ chết nhưng lòng hiếu thảo của Thái tử không chết cứ tăng trưởng, nhất là khi soi gương thấy hình hài mình là do mẹ mình lại hai phần giống mẹ thì lại đau xót, quặn thắt. Phải chi Thái tử là người vô tình thì đỡ, đằng này là con người có tâm hồn sâu thẳm, có tình cảm dạt dào thì làm sao mà không đau đớn? Thế nên Thái tử có những nỗi buồn thầm lặng xa xăm, mà nỗi buồn này không ai cảm thông được dù là phụ hoàng dù là di mẫu hay vợ hiền đi nữa. Nỗi buồn này, một nỗi buồn “thiêng liêng”, Thái tử luôn luôn giữ kín trong lòng mà tôn thờ mà kính ngưỡng lấy nỗi buồn đau làm nén hương dâng lên mẹ, Nỗi buồn này sâu thẳm làm sao phụ hoàng giải toả cho được?!. Nỗi buồn này đâu thể dùng ca nhạc, cao lương mỹ vị, mỹ nữ, cho đến vợ con đi nữa cũng không làm sao vơi được. Đây là nỗi buồn vạn kỷ. Mất mẹ là mất cả bầu trời! Nỗi buồn mất mẹ cộng với nỗi buồn nhân thế khiến Thái tử cứ dào dào không vui. Nếu có vui thì cũng là gượng để vui lòng phụ hoàng và di mẫu vậy thôi.

Dù thế, Thái tử luôn nghĩ phải làm gì đó để đền ơn báo hiếu cho mẹ. Đây là một công án xoáy cháy tâm hồn Thái tử. Vì đạo hiếu mà quặn thắt đòi cơn.

 

III. LẬP GIA ĐÌNH CƯỚI VỢ

Thái tử càng xuất hiện nhiều nét buồn xa xăm, kém vui chơi dù rằng phụ hoàng luôn qua tâm tạo nhiều cuộc vui. Nhà Vua lo ngại cho vẻ buồn phảng phất trên vầng chán thông minh và vẻ mặt anh tuấn, ngại rằng Thái tử sẽ thực hiện lời tiên đoán của A-tư-đà. nhà Vua hội ý cùng đại thần để tìm giải pháp xoá sầu đem vui cho Thái tử.

Đại thần dâng ý: thuốc chữa bệnh sầu đời không gì bằng lập gia đình cho Thái tử. Đây là kinh nghiệm cả đời của bậc làm cha làm mẹ. Nhà Vua chuẩn y, khi thấy đây là diệu kế. Quả vậy, đây là một kế hoạch hoàn hảo, vẻ đẹp sẽ là sợi dây cột chặt chí xung thiên của kẻ trượng phu dù có chí xuất trần cũng khó bề thoát được. Nhà Vua vội truyền chỉ tứ hôn cho Thái tử.

Năm nay Thái tử 17 tuổi. Nhà Vua muốn cưới vợ cho Thái tử càng sớm càng tốt, có thể đỡ phải lo âu nhiều ngày tránh đi việc “đêm dài lắm mộng”.

Chỉ đã ban truyền cho bộ lễ thi hành hôn sự cho Thái tử. Vua Tịnh Phạn và hoàng tộc triều thần đồng ý hỏi cưới công chúa Da-du-đà-la con gái Vua Thiện Giác, thành Thiện Tý (Thái tử Tất-đạt-đa và công chúa Da-du-đà-la là bà con cậu. Cha Thái tử là anh của mẹ công chúa).

Việc hôn ước được tiến hành thuận lợi. Nhưng còn một chút theo phong tục của dòng họ vua Thiện Tý: Người muốn được vợ phải đủ tài thắng đối thủ. Thái tử muốn cưới được công chúa Da-du-đà-la phải trải qua một phen tỉ võ với đối phương cũng có ý muốn được cưới công chúa. Dù rằng công chúa đã phải lòng Thái tử, khi xem qua lần thi đấu năm rồi. Trong lòng công chúa đã có hình bóng của Thái tử Tất-đạt-đa, nàng đã thầm kén chọn chàng làm phò mã cho phụ hoàng.

Người quốc sắc kẻ thiên tài

Tình trong như đã mặt ngoài còn e.

Thái tử và công chúa  quả là xứng lứa vừa đôi. Công chúa Da-du-đà-la, một người con gái “sắc nước hương trời”, “chim sa cá lặn”.

Chim đáy nước cá lờ đờ lặn

Ngẩng da trời nhạn lửng lơ sa.

Công chúa đẹp, đẹp không gì để sánh. Vừa đẹp người vừa đẹp nết, nàng là con gái ngoan hiền, đoan trang thuỳ mị, hiếu nghĩa, công, dung, ngôn, hạnh đầy đủ thật là một người vẹn toàn.

Công chúa khi được Thái tử dạm hỏi thì lòng đã rộn lên:” Quả là trời đã chiều ý ta”.

Thái tử nhìn thoáng qua dáng dấp công chúa thì tưởng chừng như đã gặp nàng từ lâu rồi: Chính là người trong mộng. Ôi đây là “ duyên tiền định”.

Thái tử và công chúa duyên xưa nay gặp lại. Thái tử nghe lòng bồi hồi xao xuyến. Hình dáng mẹ Ma-da đã nhập thân vào công chúa Da-du-đà-la. Thái tử quên lửng về mẹ.

* TỈ THÍ

Thái tử chấp nhận điều kiện thách đấu để được vợ. Thái tử không dựa vào thế lực phụ hoàng hay triều đình mà dựa vào thế lực bản thân tỉ võ một cách công bằng. Qua nhiều trận đấu do sự xắp xếp từ phía Vua Thiện Giác, qua nhiều đối thủ lợi hại. Trong đó cũng có Đề-bà-đạt-đa cùng tranh với Thái tử.

Dù rằng phần thưởng của trận đấu là công chúa Da-du-đà-la tuyệt vời, là người trong mộng. Thái tử vẫn quang minh lỗi lạc. Luôn giữ thái độ trượng phu người quân tử, vẫn ung dung trong đấu trường, vẫn tôn trọng đối phương, không ý sát thủ mà chỉ biểu dương nghệ thuật cùng thi chuyển nguồn nội lực thâm hậu diệu kỳ có một không hai trong thời đại mà thôi. Ý thức cao độ tinh thần mã thượng chính nhân thuần hậu, rất lịch sự, ra tay không ác ý, lại độ lượng khiến đối phương phải tâm phục khẩu phục. Đối thủ dù có thua cũng mát lòng mát dạ. Thua một kẻ đáng được thua cũng là niềm hãnh diện của họ. Nhất là được cùng đấu sức với một tay vô địch đũng nghĩa rất chân chính như Thái tử thì đó là việc vinh dự rồi nên có phải thua cũng đáng cũng vui.

Thái tử đắc thắng, ngoài tiếng reo hò ca tán, tiếng vỗ tay như bể trời, còn một nụ cười nhẹ nhàng rạng rỡ khi buông tay ôm lồng ngực vì sợ của công chúa Da-du-đà-la. Nàng đã hồi hộp sợ rằng Thái tử không may. Nhưng không, người mộng của nàng phước lớn đức lớn được trời phù hộ. Ôi! Sung sướng quá! Người nàng yêu đã đại thắng! Thế rồi trên làn da mịn màng như tơ trời lại thấm ướt đôi hạt lệ lăn dài. Da-du-đà-la chắp đôi tay măng non mềm mại xá tạ ơn trời. Niềm hạnh phúc đã tràn ngập trong lòng công chúa.

Vừa khi ban giám khảo tuyên bố: Thái tử Tất-đạt-đa thắng cuộc. Thái tử liền ngó quanh một vòng, Thái tử sung sướng biết bao khi bắt gặp đôi mắt long lanh của người mình thương. Thái tử mỉm cười sâu lắng với ánh mắt lồng trong mắt Da-du-đà-la hoà quện hai tâm hồn thuần khiết trong nhau. Thái tử nghe mình lớn ra và tràn ngập cả không gian, nghe đất trời trong vòng tay nồng ấm.

*ĐÁM CƯỚI

Hai nhà Vua, hai triều đình làm sui gia. Tổ chức đám cưới đám gả thì phải tổ chức thật long trọng kéo dài nhiều ngày. Từ trong triều đến ngoài nội đều tưng bừng hỉ hả, tiệc tùng thâu đêm suốt sáng, trò chơi, kịch nghệ hát xướng được liên tục trổ tài giúp vui. Một cuộc lễ cưới chưa từng có từ trước đến giờ.

Ai có dự lễ cưới gả này cũng phải trầm trồ khen ngợi đôi tân nương tân lang hiếm thấy trên đời. Thật là cặp một trời sinh.

Trai anh hùng gái thuyền quyên

Nên duyên cầm sắc vẹn tuyền nhân duyên.

Thái tử sánh vai công chúa bước trên đường hoa ngập ánh triêu dương.

Vua Tịnh Phạn chẳng những cưới Da-du-đà-la làm Thái tử phi mà còn cưới thêm hai người vợ nữa cùng tuyển nạp một số phi tần cho Thái tử để sớm hôm hầu hạ, cùng thể hiện đời sống vương giả.

Đời sống của Thái tử như vậy nên người ta cho là Thái tử hạnh phúc trên đời, sống chỉ biết hoan lạc không biêt đau khổ là gì! Đời sống của Thái tử có thể nói còn sướng hơn cả đức Vua vì Vua còn bận trăm công nghìn việc, phải phê tấu sớ, ban chiếu chỉ v.v…Thái tử chỉ biết hưởng thụ vui chơi, Thái tử mà kém vui thì nhà Vua còn phải buồn nữa là. Người ta cho rằng:” Thái tử phước đức vô lượng vô biên”.

*CÓ CON

Sau thời gian hương lửa mặn nồng, Da-du-đà-la có mang. Giờ đây Thái tử lại hình ảnh hoá qua mẹ Ma-da của mình. Thái tử thấm thía hơn tình cảm ở một người sắp làm mẹ.

Và rồi Da-du-đà-la hạ sanh một hoàng tôn. Thái tử lại càng thắm thía hơn công ơn sâu nặng ở người mẹ.

Lên non mới biết non cao

Nuôi con mới biết công lao mẫu từ.

Thái tử có con, lại một đứa con trai, Thái tử đặt cho con cái tên là La-hầu-la. Đứa bé dĩ nhiên là xinh đẹp, vì cha mẹ đều là kẻ tuyệt vời.

Có con Thái tử dĩ nhiên vui, nhưng rồi Thái tử lại nhìn con, rồi đi vào khoảng không mênh mông mà thoáng buồn. Thái tử lại nhớ mẹ, muốn đáp đền công ơn cho mẹ.

Thái tử lại nhìn vợ, nhìn con, nhìn đời người, nhìn lại kiếp sống thở dài với cái đầu khẽ lắc:

Đời người: Sanh- già- bệnh- chết.

“Sanh” bắt đầu để “già”, “bệnh”, và cuối cùng là “chết”. Đời người là vậy. Có gì đâu gọi là!

Sanh ra rồi sống, sống để làm gì?

Phải chăng “sống” để chờ “chết”?!

Đây không phải là chân lý là sự thật sao? Phải! Đúng! – Là sự thật! Lẽ thật!.

Thái tử lòng lại buồn rười rượi. Hình ảnh con và mẹ, sanh và tử đang lốc xoáy trong tâm hồn Thái tử. Làm sao đây? – Làm sao để vẹn điều sanh tử. Làm sao để giải quyết vấn đề “Sanh-tử” ở mình và người đây? Giờ phút sanh tử ở bện giường vợ con là sự thật nhất đang diễn ra trước mắt trong đầu Thái tử. Con người là thế thôi sao? Chỉ có thế thôi sao, không còn gì nữa sao?

Với đầu óc thông minh, Thái tử không chịu cho chỉ có vậy, mà còn phải có cái gì khác, cái gì nữa, mới xứng đáng là cuộc sống, mới xứng đáng là con người vốn là cao quí hơn trong loài động vật.

Thái tử nhìn con nhìn vợ nở nụ cười buồn, đầu khẽ lắc, và bước lui. Đầu Thái tử dường như khẽ vọng lên hai tiếng:

Kiếp người!

Thái tử tản bộ ra ngự uyển. Thái tử ngồi yên bên dòng suối nhỏ của toà giả sơn. Ngồi đó mà nhìn mình trong mặt nước trong veo. Thái tử nhìn mà không thấy mình. Đầu óc Thái tử chừng như bay biến ở tận đâu đâu! Thỉnh thoảng Thái tử lại thở dài. Thái tử đang mơ màng một điều gì đó, mà không ai biết được. Thực ra, không có gì lạ, đó chỉ là thân phận một con người! Con người điều này lại trở nên mới mẻ với chính Thái tử.

-Con người từ đâu ra? Dù rằng giáo lý Đạo Bà-la-môn giải thích là từ Phạm Thiên mà có Thái tử đã học qua, nhưng giờ đây Thái tử lại đặt ra, vì Thái tử thấy còn điều gì đó chưa ổn.

-Con người sống để làm gì? – Làm dân, làm vua, làm nghề này nghề nọ, làm thế nọ, thế kia…Thái tử cho đó cũng chưa phải.

-Con người sau khi chết sẽ đi về đâu? – Có chỗ nào về chăng? Đạo lý đương thời có lý giải. Nhưng Thái tử vẫn chưa thoả mãn.

Và thực chất con người là gì? – Đây là vấn đề lớn ở Thái tử và cũng ở con người. Thái tử cần phải rõ về chính mình.

Thái tử lại thở dài và đứng lên, lững thững trở về đông cung. Những kẻ hầu đã chực chờ trước diện để thỉnh lệnh. Thái tử phải làm bổn phận của người cha. Trước hết báo tin vui cho phụ hoàng có cháu nội là trai. Thái tử lại không quên bổn phận làm chồng, lệnh cho những người có trách nhiệm phải lo cho Thái tử phi cùng hoàng tôn, Phải chăm lo cho mẹ tròn con vuông. Phải chuẩn bị tiệc mừng cùng lễ tạ tiên đế cùng trời đất.

Như thế Thái tử đã làm tròn bổn phận của người con, và người chồng, làm xong chức năng một con người.

Có con rồi, Thái tử thật sự có riêng một mái ấm gia đình. Thái tử, Da-du vui vầy bên con trẻ, gia đình này hạnh phúc biết bao. Xem như một gia đình có đủ phước đức mà người đời hằng mơ ước.

 

IV. LÀM VIỆC

Thái tử Tất-đạt-đa từ khi có con, chính thức đã thành người lớn. Năm nay Thái tử đã 19 tuổi.

Phụ hoàng bắt đầu sắp xếp công việc cho Thái tử trong triều nội. Việc của Thái tử là việc chuẩn bị cho một ông vua tương lai. Trước Thái tử phải phụ việc cho đức Vua, sau thì bị ràng buộc bởi vợ, bởi con, tuy vậy, Thái tử cũng giúp cho phụ hoàng. Giúp thì giúp mà Thái tử không nghĩ rằng mai kia mình lên ngôi, lên ngai vàng thế Vua cha. Thái tử không có tham vọng đó.

Dù không phải chí của Thái tử, nhưng Thái tử đã tỏ ra là người giỏi giang trong công việc. Thái tử có nhiều sáng kiến trong việc làm. Nhà Vua rất vừa lòng ưng ý. Trong khi giúp việc Vua Thái tử dâng ý làm giảm nhẹ sức dân, lấy dân làm gốc, bớt sưu bớt thuế, nâng đỡ đời sống cho dân một cách thiết thực, cứu tế, chẩn bần nhằm đem lại ấm no hạnh phúc thực sự cho người dân. Nhất là cố làm giảm nhẹ tính giai cấp. Về việc này đụng phải một phản lực rất lớn từ giai cấp Bà-la-môn và Sát-đế-lợi. Vua cha không hài lòng, không thực hiện được. Thái tử còn có mơ ước cải tạo xã hội, cách mạng giai cấp nhưng không thể được. Vì quyền lợi của giai cấp trên qúa lớn, qúa mạnh, và lại nó là truyền thống xã hội, nó đã thâm căn cố đế trong lòng người, kể cả hai giai cấp thương gia và nô tì cũng tự chấp nhận, nên đây là việc nan giải, quá tầm tay của Thái tử. Thái tử dù biết điều đó là phải thực hiện nhưng Thái tử tự nhận chưa đủ khả năng. Thái tử đành thầm lặng tự tìm đường giải quyết.

Trong quan hệ công việc, Thái tử đã tỏ ra là người thực sự có tài năng và lại có đức độ trong công việc, trong quan hệ triều thần. Các quan rất thương mến và nể Thái tử vì Thái tử. Thái tử dù non người non việc nhưng lại thông minh, đởm lược nên việc nào rồi cũng tốt. Thấy rõ khẳ năng đức độ của Thái tử, triều thần mong rằng Thái tử sớm bước lên ngai Vua để thay thế Vua cha mà ban phước cho thần dân trăm họ.

 

V.XUẤT GIA

Thái tử Tất-đạt-đa khi xuất gia tìm Đạo không phải chỉ có một nguyên nhân mà có nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân xa và nguyên nhân gần.

a.Nguyên nhân xa: Thái tử xuất gia có những nguyên nhân sau:

1. Thái tử từ nhỏ 8-9 tuổi đã biết thương vật, thương người, càng lớn lên niềm thương này càng lớn rộng, vì thấy người đời khổ vì già bệnh, mà cảm thông muốn cứu giúp.

2. Thấy người tham dục mà sanh si ám, sanh khổ đau mà cảm thương muốn cứu độ.

3. Thấy xã hội nặng nề giai cấp mà tạo khổ cho nhau, muốn cách mạng giai cấp đem bình đẳng cho xã hội.

4. Vì đạo hiếu, báo ân cho mẹ, muốn tìm đường đến với mẹ để báo đáp thâm ân.

5. Biết được ý đồ của Vua cha và triều thần muốn buộc chân mình vào ngai vàng, buộc phải làm vua. Tạo ràng buộc suốt đời.

b. Nguyên nhân gần: Nguyên nhân gần khiến cho Thái tử xuất gia đó là vì:

- Thái tử ra bốn cửa thành thấy bốn cảnh: già, bệnh, chết, Sa-môn. Đây là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến việc xuất gia tìm đạo của Thái tử Tất-đạt-đa.

Vì buộc chặt cuộc đời vào danh lợi, vào ngai vàng mà vua Tịnh Phạn cũng muốn buộc chặt Tất-đạt-đa vào ngai vàng tiếp nối. nhà Vua lại tin vào lời tiên tri của tiên trưởng A-tư-đà, ngài rằng lời này đúng, và Thái tử sẽ bỏ ngai vàng mà xuất gia tu hành để chánh giác chứ không chịu thành hoàng đế. Vua Tịnh Phạn cũng tìm đủ cách thực hiện ý đồ đưa Thái tử lên ngai vàng càng sớm càng tốt, khi nhà Vua còn sống. Nhà Vua phải chính mắt thấy con trai mình lên ngai vua mới thực yên lòng. Nhà Vua có kế hoạch cụ thể.

- Bước đầu: không khiến cho Thái tử buồn khổ, mà luôn tạo đời sống vui tươi. Cộng với việc học tập nhằm làm mất thì giờ làm bận đầu óc, tránh nghĩa ngợi vớ vẩn mông lung.

- Bước kế: Cưới vợ cho Thái tử để sợi tóc mỹ nhân chói chặt chân người quân tử.

Có con là sợi dây thứ hai trói chặt thêm một chân nữa.

Có đủ vợ con, thế là hai chân Thái tử bị chói chặt bởi hai dây. Hai dây chói này thật chắc. Người đời mấy ai vượt nổi. Dây loại này không thể dùng dao bén, kiếm bén mà cắt chặt được.

Khi buộc được Thái tử bằng hai dây này, có lẽ đức Vua đã thầm nở nụ cười, rằng: mình chắc thắng được con.

- Bước thứ ba, bước kết thúc: buộc chân Thái tử vào ngai vàng. Khi Thái tử chịu có vợ, có con rồi nhà Vua lấy làm chắc là Thái tử trúng kế phải chịu phép. Nhà Vua và triều thần không còn lo cho Thái tử không chịu ngồi ngai vàng mà bỏ đi nữa, dù rằng nhà Vua vẫn còn được báo cáo là: thỉnh thoảng Thái tử vẫn còn nét đăm chiêu tỏ ra sầu đời. Dẫu biết thế nhà Vua vẫn còn tin vào tài năng kế hoạch của mình. Vua họp bàn cùng triều thần chuẩn bị cho Thái tử đăng cơ lên ngai vàng càng sớm càng tốt. Khi Thái tử 19 tuổi thì nhà Vua cũng đã 70. Đây là cái tuổi nhường ngôi cho con được rồi và Thái tử với tuổi này có thể ngồi ngai vàng được; vì đã là chồng là cha thì đã chững chạc. Thế là kế hoạch được thực hiện

- Bước đầu của kế hoặch được đăng cơ:

Để làm vua cho tốt, một vị vua trước hết phải biết rõ sơn hà xã tắc của mình, và phải rõ về dân trăm họ ra sao, biết sinh hoạt của quần chúng ra sao, tức phải biết rõ đất nước và con người. Nhà Vua liền xuống chiếu cho Thái tử xuất cung để tiếp cận với quần chúng với thần dân qua 4 cửa thành: Đông, Tây, Nam, Bắc.

Từ bấy lâu nay Thái tử gần như bị quản thúc trong vòng thành này được lện xuất cung, dạo qua 4 cửa thành, Thái tử cũng lấy làm vui. Đây là một dịp để mở rộng tầm mắt để làm thông thoáng tâm hồn, để thực hiện tiếp giáp cuộc đời. Thái tử được đi như thế là điều tốt, sẽ có nhiều điều hay, và nhất là có thể tìm ra lối thoát cho tâm tư nguyện vọng đã trăn trở ùn tắc từ bấy lâu nay. Thái tử mỉm cười kín đáo, tung hô vạn tuế tiếp nhận thánh chỉ xuất thành.

Theo kinh Sơ Đại Bổn Duyên, nói về “ thường pháp” của chư Phật, thì Bồ-tát khi xuất thành trước đến Viên Lâm để ngoạn cảnh.

Lời kinh: Trên đường Thái tử thấy một người già đầu bạc, răng rụng, mặt nhăn, lưng còng, chống gậy bước đi yếu ớt trong hơi thở khò khè trông thật thảm hại, thật đặc biệt Thái tử chưa từng thấy bao giờ. Thái tử xoay lại hỏi quân hầu:

-Đây là người gì?

Quân hầu thưa:

-Đây là người già.

Thái tử lại hỏi:

-Thế nào là già?

Thưa:

- Nghĩa là sống đang hướng về chỗ chết, mạng sống không còn bao lâu nữa, cho nên gọi là già.

- Vậy thì Ta đây rồi cũng sẽ như vậy, không tránh khỏi hoạn này chăng?

- Thưa phải! Phàm có sanh tức phải có già. Từ kẻ sang đến người hèn không có một ai tránh khỏi.

 Nhìn mạng già sắp chết

Nương chiếc gậy yếu bước

Bồ-tát tự suy nghĩ:

Ta chưa khỏi nạn này.

Ngày khác Thái tử lại xuất thành gặp một người bệnh, thân gầy, bụng lớn, mặt mày đen sậm, nằm một mình trên chỗ ô uế, không một người nào dám nhìn tới, bệnh tình càng bức bách, nên miệng không thể thốt lên lời. Thấy vậy, Thái tử quay lại hỏi quân hầu:

- Đây là người gì?

- Đây là một người bệnh.

- Bệnh là thế nào?

-Bệnh là khổ đau bức bách, chết cóng không biết lúc nào, nên gọi là bệnh.

Thái tử hỏi lại:

- Ta đây cũng vậy, và không khỏi hoạn đó ư?

- Thưa phải, phàm có sanh, ắt có bệnh, không luận kẻ sang hèn nào mà tránh khỏi.

Thấy người bệnh lậu kia

Nhan sắc bị suy tàn

Lặng lẽ tự suy nghĩ

Ta chưa khỏi nạn này.

Một ngày khác, Thái tử lại xuất thành, giữa đường gặp người chết, phạn lụa, màu sắc lẫn lộn, dòng họ thân quyến trước sau đưa tiễn thương tiếc, than khóc và đưa ra ngoài thành, thấy vậy Thái tử hỏi:

- Đây là người gì?

Quân hầu đáp:

-Đây là người chết.

-Chết là thế nào?

- Chết là hết vậy. Nghĩa là tứ đại dần dần tan rã, làm cho các căn hư hoại, kẻ còn người mất khác cõi, gia đình ly biệt, cho nên gọi là chết.

Thái tử lại hỏi quần hầu:

-Ta cũng phải vậy không thể nào tránh khỏi nạn này?

Quân hầu đáp:

-Phàm có sanh tất nhiên phải có chết, bất luận kẻ sang người hèn.

Vừa trông thấy người chết

Biết họ còn tái sanh

Thầm lặng mà suy nghĩ

Ta chưa khỏi nạn này.

­Thái tử ba lần xuất thành thấy ba cảnh Già- Bệnh- Chết như trên, Thái tử cảm khái về thân phận làm người một cách rõ ràng hơn. Thái tử trước đó không phải không biết về ba tình trạng này. Biết, nhưng chưa chính xác, chưa cụ thể. Giờ đây thì Thái tử chứng thật ở mình, ở người việc này xác thật 100%. Người bình thường chấp và bám vào thân xác, khi ba việc này xảy ra không làm sao không khổ. Sự thật khổ này không chối cãi được. Xưa, nay mai cũng vậy. Thái tử xác quyết rồi, ngài không vui và cho xa giá lui về cung lòng buồn rười rượi.

Da-du-đà-la thấy Thái tử buồn gần gũi ân cần hỏi han để cảm thông. Nhưng Thái tử tuyệt nhiên không nói gì chỉ lắc đầu, mỉm cười sâu xa cùng người vợ hiền. Da-du lại tâm lý hơn bồng con trai La-hầu-la đến để làm vui cho Thái tử. Thái tử nhìn con rồi áp tay lên đầu con mà ánh mắt chừng như nói lên: Con ra đời làm chi để chịu cảnh Già-Bệnh-Chết thê lương vậy? Thái tử vẫn không nguôi ngoai. Nỗi “sầu nhân thế” ai là người gỡ cho ra.

Nhà Vua cho vời quân hầu, xem tình trạng Thái tử ra sao khi xuất thành. Quân hầu cho biết Thái tử chỉ buồn mà thôi khi nhìn thấy qua các cảnh Già - Bệnh- Chết ấy

Nhà Vua nghe qua, khẽ lắc đầu, nhíu mày tỏ vẻ tiếc rẻ. Nhà Vua chừng như tiếc rằng kế hoạch bao năm thật tốt, giờ thì lại sơ suất, tại sao không dọn dẹp trước, trang hoàng cảnh quang cho tốt đẹp khi con ta đi qua chứ?! Nhà Vua lấy làm buồn lòng. Vua liền cho tổ chức yến tiệc thật linh đình và cho gọi Thái tử đến để giải sầu.

Thái tử gặp vua cha, cha con tâm sự. Khi nhà Vua đề cập đến chuyến du hành, Thái tử thưa với phụ hoàng rằng:

-Làm sao con trẻ mãi không già?

-Làm sao con sống hoài không chết?

Nhà Vua đang nâng ly rượu nghe con hỏi ba câu như thế. Đức Vua như nghẹn họng, không hớp được rượu cũng không nên lời. Nhà Vua rũ rượi đặt ly rượu xuống, nhìn Thái tử mà lắc đầu buồn!

- Con hỏi chi những điều quái ác đó! Tại sao không hỏi về việc làm thế nào để chăn dân trị nước? Làm thế nào để yên bình thịnh trị, và làm thế nào để mở mang bờ cõi?...Tại sao con không hiểu những điều như vậy? Lại hỏi những điều thế kia? Chẳng những phụ hoàng không giải được mà cả trên Thiên hạ này không ai giải được. Ôi! Con yêu quí của ta! Ta cầu xin con, hãy thôi đi những ý nghĩ vớ vẩn ấy! Con trai cưng ơi! Phụ hoàng đây đang già, đang bệnh và sẽ chết một ngày không xa đây.

Thái tử ưu sầu, lại bế tắc. Trên đời này không có ai có thể giúp ta giải quyết được điều rất thật ở chính ta và con người xung quanh ta. Ôi! tội nghiệp cho ta, thương cảm cho người!

Làm sao và lám sao đây?

Nhất là điều làm Thái tử trăn trở và lo âu lớn nhất, gần nhất đó là chuyến đi qua ba cửa thành, tiếp xúc phụ vương, Thái tử mới rõ ra rằng Vua cha và triều thần đã sắp xếp chuẩn bị cho Thái tử lên ngai vàng vào lúc tuổi 20. Thái tử hơi cuống lên. Nếu bị cột chân vào ngai vàng thì làm sao mà dứt đây?! Vợ con còn có thể cắt nhưng ngai vàng thì làm sao? Và nếu phải lên ngai vàng thì có thời gian đâu để mà nghĩ cách đền ơn mẹ? Chẳng nhẽ mình làm kẻ mang ơn mà không biết đền ơn sao? Đành làm kẻ tội đồ suốt đời suốt kiếp sao?

Thái tử lòng quặn thắt, lại càng ưu sầu hơn! Thật là nan giải. Khó quá! Khó quá!

 

Còn một cửa thành lần cuối nữa, Thái tử phải đi qua.

-Lời kinh: Qua cửa thứ tư, Thái tử lại gặp một người đặc biệt hơn trong xã hội.

Đó là một vị Sa-môn. Một người mang y hoại sắc, cầm bát mắt nhìn xuống đất, chân bước khoan thai. Ngài hỏi quân hầu:

-Đây là người gì?

-Đó là một vị Sa-môn.

Ngài lại hỏi:

-Sao lại gọi là Sa-môn?

-Sa-môn là người xa lìa ân ái, xuất gia tu Đạo, chế ngự các căn không nhiễm ngoại dục, có lòng thương xót cho tất cả mọi người, không làm thương tổn và giết hại ai, gặp khổ không phiền, gặp vui không mừng, nhẫn nại như đất, nên gọi là Sa-môn.

            Thái tử khen:” Quý hoá thay! Đây là Đạo chớn chánh giác ngộ, dứt hẳn trần luỵ, thanh thoát nhẹ nhàng, vi diệu, chỉ có Đạo này là ta thích”. Ngài liền sai quân hầu đánh xe lại gần hỏi vị Sa-môn.

-Cạo bỏ râu tóc, đắp y, mang bát, chí của ngài muốn gì?

Sa-môn đáp:

- Phàm người xuất gia chỉ muốn điều phục tâm lý, dứt lìa trần cấu, thương cứu chúng sanh, không xâm lấn nhiễu hại, một lòng rỗng rang khoan khoái, chỉ một mực giữ Đạo.

Thái tử khen:

-Hay lắm, Đạo này rất chân chính

(Kinh Sơ Đại Bồn Duyên - Trường A-tư-đà-hàm)

 

Qua sự gặp gỡ, Sa-môn đã gợi ý cho Thái tử một lối thoát. Phải rồi, chỉ có con đường này, chỉ có lối này phải làm một kẻ Sa-môn thôi. Phải đi vào con đường tâm linh may ra mới giải quyết được những ưu tư. May ra mới giải quyết được cái khó khổ cho mình và cho người. May ra mới thoát khỏi biển ái sông mê, vàm danh khoá lợi, thoát khỏi khổ đau. Và may ra thành đạt trên nẻo tâm linh sẽ có thể biết mẹ ở đâu, mới có thể tạo giao cảm với mẹ mà đền ơn trả hiếu cho mẹ.

Một loé sáng, một hy vọng dù rất mong manh. Nhưng đây là lối thoát duy nhất có thể được. Thái tử nghe lòng nhẹ ra. Thái tử quyết định nhanh chóng không thể chậm trễ được, phải chịu thực hiện liền. Phải ra đi thôi!

Thái tử Tất-đạt-đa sau lần xuất thành gặp vị Sa-môn, Thái tử lòng chỉ hướng đến việc ra đi. Da-du-đà-la và phụ hoàng thấy Thái tử không có thay đổi lớn tìm cách để làm vui cho Thái tử, nhưng không cách nào khiến Thái tử được yên ổn đổi chí hướng.

Một đêm sau yến tiệc người mệt mỏi ngủ vùi. Vào một đêm Thái tử gọi kẻ hầu tín cẩn là Xa-nặc (Channa) thắng ngựa Kiền-trắc (Khanthaka) cùng Thái tử xuất cung vượt thành, chính thức xuất gia. Thái tử thật sự bỏ lại sau lưng cung vàng điện ngọc, cha già, vợ đẹp, con yêu quí. Thái tử vượt dòng sông A-nô-ma vào tận rừng sâu, bỏ lại sơn hà đất nước. Ở đó Thái tử cắt tóc, thay đổi xiêm y mũ miện, lột hết vàng vòng châu ngọc trao lại cho Xa-nặc mang về cho phụ vương và công chúa cùng lời giã biệt, chúc phúc cho mọi người. Thái tử nguyện một lòng tìm ánh Đạo Vàng.

-Khi Thái tử xuất gia thì con trai La-hầu-la 1 tuổi

Thời điểm ấy theo lịch Trung hoa là mùng 8-2. Lúc đó Thái tử 19 tuổi.

BÀN VỀ TUỔI XUẤT GIA CỦA ĐỨC PHẬT

Về năm tuổi xuất gia của đức Phật Thích-ca được bắt đầu từ Thái tử Tất-đạt-đa , thì có 2 thuyết theo 2 hướng nam và bắc. Theo Phật giáo Nam Tông thì đức Phật xuất gia lúc 29 tuổi. Và 29 tuổi Thái tử mới có con là La-hầu-la ( căn cứ theo sách” Đức Phật và Phật pháp” của Nàrada Thera - Phạm Kim Khánh dịch). Theo Phật giáo Bắc Tông thì đức Phật xuất gia lúc 19 tuổi. Và 19 tuổi đức Phật có con trai La-hầu-la (căn cứ theo sách “ Phật Học Phổ Thông” của Hoà thượng Thích Thiện Hoa) qua hai hệ Nam và Bắc tuổi xuất gia chênh lệch là 10 năm. Như vậy một đức Phật mà lại có 2 tuổi xuất gia, không thể như vậy được. Vậy tuổi nào mới là tuổi chính xác?

a. Với tuổi 20:

1. Phụ hoàng già và đạo hiếu:

Bà Ma-da sanh Thái tử lúc 45 tuổi, Tịnh Phạn vương cũng phải 50 tuổi, thì khi 29 tuổi Thái tử xuất gia, phụ hoàng (50+29) là 79. Đây là tuổi đã già lắm, với tuổi này ở phụ hoàng, Thái tử là một đứa con hiếu dễ có thể bỏ cha già mà xuất gia đành sao? Việc này không thể xảy ra với người thông minh nặng tình nặng nghĩa như Thái tử.

2. 29 tuổi Thái tử phải nhiều con:

Nếu ở vào khoảng tuổi 29 Thái tử không chỉ có một đứa con là La-hầu-la. Vì Thái tử không chỉ có một vợ là Da-du-đà-la mà còn có 2 bà vợ nữa cùng phi tần.

Nói rằng lúc 29 tuổi Thái tử mới có con là La-hầu-la, điều này không có lý. Vì rằng Thái tử và Da-du-đà-la đều là người có sức khỏe tốt, nên không thể có tình trang hiếm muộn. Và nhất là vua Tịnh Phạn không để việc này xảy ra mà phải khiến cho Thái tử có con sớm. Và nếu 19 tuổi có con, thì 29 tuổi thì đến 29 tuổi phải có cả chục đứa con nữa. Nhưng điều này không có vì trong kinh sách Phật Nam tông, Bắc tông đều ghi Thái tử chỉ có một con là La-hầu-la.

3. 29 tuổi Thái tử đã là Vua:

Ở vào tuổi 29 Vua Tịnh Phạn tuổi đã 79-80, đây là tuổi đã rất già thì Thái tử phải lên ngôi vua. Vua Tịnh Phạn rất muốn cho Thái tử lên ngai vàng. Nhà Vua muốn thấy Thái tử lên ngôi vua khi mình còn sống cho vững bụng. Nên với tuổi 29 thì Thái tử làm vua rồi. Cho nên với tuổi 29 mà xuất gia thì kinh sách phải ghi là “Vua” Tất-đạt-đa đi xuất gia. Điều này chứng tỏ Thái tử đi xuất gia lúc còn là Thái tử. Mà còn là Thái tử thì không còn là 29 tuổi. (Thái tử có vợ, tuổi 20 đủ tư cách để lên ngai vàng. Ở Việt nam và nhiều nước khác ngày xưa, có nhiều vị Vua còn rất trẻ chưa tới 20 tuổi).

Qua ba điểm nêu trên, để cho thấy tuổi xuất gia của Thái tử là 29, thì không hợp lý.

b. Với tuổi 19.

1. Phụ Hoàng chưa già lắm:

Với tuổi Thái tử 19 thì phụ hoàng là 50+19 là tuổi 69 tuổi. Tuổi này Vua Tịnh Phạn chưa già lắm còn sức khoẻ, còn ngồi ngai vàng được, còn trị vì tốt. Thế nên khi tuổi 19 Thái tử xuất gia được mà lòng không có gì áy náy.

2. Có vợ và có con:

Thái tử đã có vợ và có con trai, tức là người đã trưởng thành làm xong bổn phận, chức năng một con người. Nhất là một con trai để nối dòng. Điều này Thái tử đã trả hiếu được cho Vua cha và có thể sống cho chí riêng mình.

3. Thấu ý Vua cha và triều thần:

Thái tử có vợ và có con, tức đã thành người lớn chững chạc, có thể lên ngai vàng. Thái tử sau khi được vua cha cho phép xuất cung ra ngoài thành để tiếp cận dân tình và thấy rõ giang sơn xã tắc, Thái tử cũng đã thấy rõ ý định của Vua cha là chuẩn bị cho con mình lên ngai vàng. Trong khi Thái tử xác chứng đời người là khổ qua hình ảnh Già-Bệnh-Chết, thì lại phải sớm tìm cách để cứu mình và người. Và nếu ràng buộc trên ngai vàng thì làm sao thực hiện việc cứu mình cứu người và làm sao tìm đến mẹ để đáp đền ơn sanh thành. Dẫu rằng điều này rất mong manh xa vời.

Để rồi qua hình ảnh của vị Sa-môn, là một gợi ý phải xuất gia. Phải nhanh chóng ra đi, chần chờ sẽ bị kẹt trên ngai vàng (Điều này Thái tử Tất-đạt-đa đã khéo hơn Vua Trần Thái Tông ở Việt Nam. Vua bỏ ngai vàng lên núi Yên Tử định xuất gia, nhưng bị Trần Thủ Độ đuổi theo thỉnh về và nói:” Bệ hạ ở đâu thì triều đình ở đó”. Thế là Vua Trần Thái Tông lại phải chịu quay về kinh ngồi lại ngai vàng).

Ngài xuất gia lúc còn là Thái tử nên kinh sách Phật Nam Tông, Bắc Tông đều gọi ngài là”Thái tử” xuất gia. Và lúc xuất gia chỉ có một con trai là La-hầu-la, điều này cũng được kinh Nam Tông, Bắc Tông nói đến.

Qua ba điểm trên thấy Thái tử xuất gia lúc 19 tuổi là hợp lý hơn. Với tuổi 19 sức khoẻ dồi dào, tâm trí còn trong sáng, thân tâm đều lành mạnh nên việc tìm đạo và chuyên tu rất tốt. Tuổi này so với tuổi 29 thì tốt hơn nhiều. Thế nên với tuổi 19 học và hành dễ thành đạt hơn.

KẾT LUẬN

Qua nhận định trên chúng ta có thể kết luận: 19 tuổi xuất gia, 30 tuổi thành đạo; thời gian tìm đạo và chuyên tu trong vòng 10 năm tròn là hợp lý hơn. Còn nếu: 29 tuổi xuất gia, 35 tuổi thành đạo. Thời gian tìm đạo và chuyên tu chỉ sáu năm thôi, thời gian này chỉ là khiêm nhường khá ít ỏi. Với thời gian này thật khó mà thành đạt.

Theo kinh”Thánh Cầu” 26, trang 367- Kinh trung Bộ I (Đại Tạng Kinh Việt Nam) có đoạn đức Phật đã nói:

“ Khi ta còn trẻ, niên thiếu tóc đen nhánh, đầy đủ khí huyết của tuổi thanh xuân, trong thời vàng son cuộc đời, mặc dầu cha mẹ không bằng lòng, nước mắt đầy mặt than khóc, Ta cạo râu bỏ tóc, đắp áo cà sa, xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình.”

Còn với tuổi 29 thì không còn thích hợp nữa, 29-30 đã là nửa đời người có thể gọi lở thời gian là già rồi (Đời người 60 năm). Với tuổi 29 – 30 làm gì xứng hợp với đoạn văn trên (nếu nói về đá banh thì tuổi 29-30 này thì hầu hết đã ra khỏi sân- Đá hết nổi)

Thế nên đức Phật xuất gia lúc 19 tuổi là hợp lý.

 Ý NGHĨA XUẤT GIA

Thái tử Tất-đạt-đa Xuất gia tìm đạo là một việc làm rất có ý nghĩa và cũng rất khó khăn.

Một người bình thường trong xã hội muốn xuất gia tìm Đạo đã là khó, huống nữa đây là một Thái tử, mà là một Thái tử đầy đủ hạnh phúc. Từ địa vị đến vật chất, cho đến tình cảm, tinh thần đều có đủ đến dư thừa, thế mà Thái tử lại xuất gia tìm đạo, thì quả là rất khó. Từ xưa đến nay chỉ có một người như Thái tử.

Việc này chúng ta vô cùng thán phục. Thái tử là người gan dạ phi thường, Tổ Khánh Anh đã tán thán:

“ Gan anh hùng trổ mặt từ bi”

Thái tử thật sự là một anh hùng, một “đại” anh hùng nữa là! Một con người mạnh mẽ, gan dạ vô cùng dám bứt hết những dây mơ dễ má, những ràng buộc đanh vây từ vật chất đến tinh thần, Đôi tay Thái tử quả là cứng rắn; một tay là Trí, một tay là Dũng, Trí –Dũng song toàn. Đôi tay này đã chuyển cuộc đời mình, đã mạnh dạn xoay bánh xe nghiệp lực, chuyển bánh xe luôn hồi rồi phá nát vòng luân hồi ấy, tự mình ra khỏi nghiệp dĩ, chuyển hoá hoàn toàn cuộc đời mình, vượt thoát càng khôn xoay trời trời chuyển đất, độ khắp quần sanh.

Thái tử quả là một con người phi thường.

“Tìm đạo” là tìm đường cứu khổ mình và người, là hai tiếng xoảy hồn Thái tử. Thái tử đã phi thân nhảy vọt lên tất cả: tài, sắc, danh, thực, thuỳ, vượt lên ngũ dục là thứ rào cản nhốt chặt con người thế gian. Bằng lưỡi kiếm trí huệ sắc bén Thái tử cắt hết những thứ là của Ta như cha, mẹ, vợ, con, quyến thuộc, quốc thành v.v…và cái gọi là Ta là Mình như mái tóc, đầu, mình, mặt mũi…

Thanh gươm trí tuệ của Thái tử quả là sắc bén phi thường:

Một lần vung kiếm, một lần cắt phăng ràng buộc.

Một lần phủi giũ một lần xong.

Thái tử không chần chừ! Thật dứt khoát! Rất dứt khoát!

Ánh thép nháng lên muôn duyên dứt,

Một lần quyết chí một lần buông.

Ngàn dây muôn sợi đều cắt hết,

Bể ái sông mê bỏ lại đời.

Ngài đi ngút tận chân trời,

Tìm về đạo cả sáng ngời niềm tin.

VI. TÌM ĐẠO

Thái tử Tất-đạt-đa xuất gia tìm đô, đó là tìm” Cái gì chí thiện” chứ không phải chỉ tìm cái thiện thông thường theo các vị Sa-môn lúc bấy giờ. Ngài đã nói với các tỳ kheo sau khi ngài thành đạo:

“ Khi ta còn trẻ, niên thiếu tóc đen nhánh, đầy đủ khí huyết của tuổi thanh xuân, trong thời vàng son cuộc đời, mặc dầu cha mẹ không bằng lòng, nước mắt đầy mặt than khóc, Ta cạo râu bỏ tóc, đắp áo cà sa, xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình. Ta xuất gia như vậy, một người đi tìm cái gì chí thiện, tìm cầu vô thượng tối thắng an tịnh đạo lộ”

(Kinh Thánh Cầu 26 trang 367- Kinh trung bộ I)

a. Hành trình tìm kiếm

Sa-môn Cù-đàm trải qua nhiều nơi nhiều người để tìm con đường “ An tịnh trên hết” (Tối thắng an tịnh đạo lộ). Sa-môn Cù-đàm đã đến một số nơi, một số đạo sư đương thời:

1. Nhóm người chuyên tu khổ hạnh ( Nhóm Bạt Già)

Trước hết các Sa-môn Cù-đàm đến “ khổ hạnh lâm” ( khu rừng tu khổ hạnh). Vùng núi Pa-na-ghi-ri. Nơi đây đều là những người chuyên tu khổ hạnh, chuyên hành xác. Họ cho rằng khổ là do cái xác thân, nên phải hành hạ cái xác để thắng được cái thân mà vượt quan tham dục. Họ loã lồ, kẻ thì đứng một chân không ngồi không đi lại, kẻ thì dơ tay lên trời, người thì nằm trên tro than, kẻ thì nắm chặt tay lại để cho móng tay dài ra đâm xuyên bàn tay, có người tự đánh mình bằng roi da cho tươm da rách thịt hay lấy dùi nướng trên lửa mà đâm vào ngực. Hoặc có người nằm lăn lộn trên đống thây ma. Hay có người ngồi nhai mãi một chiếc lá đắng, có người thì mình trần nằm phơi dưới nắng nóng, có người lại đếm hạt mè mà nhai, nhai đến khi nào khô chết v.v…họ hành hạ tấm thân để không còn biết đến cảm giác nữa.

Những người tu này cho rằng:” Hành hạ thân xác cho đến nỗi không còn biết đau đớn, khổ nhọc gì nữa, thì tâm hồn người ấy thoát khỏi thân xác mà lên cõi trời.

Sa-môn Cù-đàm thấy lối tu này chưa phải là điều “ Chí Thiện”. Đây chỉ là một lối tu hành thân hoại để không đến đâu. Sa-môn Cù-đàm rời nhóm này mà ra đi.

2. Đạo sư Alara Kalama (A-la-lam):

 Sa-môn Cù-đàm lại nghe danh đạo sư đương thời là Alara Kalama liền tìm đến.

Cù-đàm hỏi: “Alara Kalama” Hiền giả kalama, tôi muốn sống phạm hạnh trong pháp luật này”?

Alara Kalama nói với Cù-đàm rằng:” Này tôn giả, hãy sống và an trú. Pháp này là pháp như vậy, khiến kẻ có trí, không bao lâu như vị bổn sư của mình chỉ dạy, tự tri, tự chứng, tự đạt và an trú”. Sa-môn Cù-đàm không bao lâu thông suốt pháp ấy một cách nhanh chóng.

Pháp này được Alara Kalama tuyên bố là “ Vô Sở Hữu Xứ”. Theo pháp này Sa-môn Cù-đàm đã thực hành đến trình độ tự tri, tự chứng, tự đạt pháp ấy một cách mau chóng. Cù-đàm an trú trong pháp đó.

Cù-đàm lại tìm đến Alara Kalama và rằng:

“ Này hiền giả Kalama, có phải hiền giả đã tự trị, tự chứng, tự đạt và tuyên bố pháp này đến mức độ như vậy”?

-Kalama đáp:” Vâng, hiền giả, tôi đã như thế”.

Cù-đàm nói: Tôi cũng được như thế, như hiền giả vậy.

Kalama nói: Thật lợi ích cho chúng tôi! Thật khéo lợi ích thay cho chúng tôi, khi chúng tôi thấy một đồng phạm hạnh như tôn giả! Pháp mà tôi tự trị, tự chứng, tự đạt thì tôn giả cũng được như vậy. Pháp mà tôi biết, chính pháp ấy hiền giả cũng biết. Tôi như thế nào hiền giả như vậy. Hiền giả như thế nào, tôi như vậy. Nay hãy đến đây này hiền giả, hai chúng ta hãy chăm sóc hội chúng này!

Alara Kalama là đạo sư của Sa-môn Cù-đàm lại đặt Cù-đàm ngang hàng với mình và tôn sùng Cù-đàm với sự tôn sùng tối thượng.

Tuy Alara Kalama tôn sùng nhưng Sa-môn Cù-đàm suy nghĩ:” Pháp này không hướng đến yểm ly, không hướng đến ly tham, không hướng đến đoạn diệt, không hướng đến an tịnh, không hướng đến thượng trí, không hướng đến giác ngộ, không hướng đến Niết-bàn, mà chỉ đưa đến sự chứng đạt “ Vô Sở Hữu Xứ”.

Nghĩ như thế Sa-môn Cù-đàm không tôn kính pháp này Sa-môn Cù-đàm từ bỏ pháp ấy, từ bỏ Alara Kalama mà ra đi.

(Phỏng theo Kinh Thánh Cầu 26- Kinh Trung Bộ 1)

3. Đạo sư Uddaka Ramaputta ( Uất đầu lam phất)

Sa-môn Cù-đàm lại đến chỗ Uddaka Ramaputta. Cù-đàm nói với Uddaka Ramaputta :

- Hiền giả tôi muốn sống phạm hạnh trong pháp luật này.

Uddaka Ramaputta nói:

-Này Tôn giả, hãy sống và an trú, pháp này là như vậy, khiến người có trí không bao lâu như vị bổn sư của mình chỉ dạy, tự tri, tự chứng, tự đạt và an trú”.

Sa-môn Cù-đàm thông suốt pháp này nhanh chóng. Cù-đàm biết pháp này như người khác biết. Cù-đàm suy nghĩ như sau:

“Rama tuyên bố pháp này không phải vì lòng tin, mà sau khi tự tri, tự chứng, tự đạt, ta mới an trú. Chắc chắn rama thấy pháp này, biết pháp này rồi mới an trú”.

Sa-môn Cù-đàm đến chỗ Uddaka Ramaputta ở và nói rằng:

-“ Hiền giả Rama, cho đến mức độ nào, ngài tự tri, tự chứng, tự đạt và tuyên bố pháp này là gì?”

Uddaka Ramaputta nói rằng:” Không phải chỉ có rama mới có lòng tin, Ta cũng có lòng tin. Không phải chỉ Rama có tinh tấn, ta cũng có tinh tấn. Không phải chỉ Rama có niệm, ta cũng có niệm. Không phải chỉ Rama mới có Định, ta cũng có định. Không phải  chỉ Rama có Huệ, ta cũng có Hệ. Vậy phải cố gắng chứng cho được pháp mà Rama tuyên bố:” Sau khi tự tri, tự chứng, tự đạt, ta an trú”.

Thế rồi chẳng bao lâu Cù-đàm tự tri, tự chứng, tự đạt pháp ấy một cách mau chóng. Cù-đàm an trú được pháp ấy.

Cù-đàm đến chỗ Uddaka Ramaputta ở mà nói rằng:

- “Này Hiền giả Rama, có phải hiền giả đã tự tri, tự chứng, tự đạt và tuyên bố pháp này đến mức độ như vậy?”

Rama trả lời:- “ Vâng Hiền giả, tôi đã tự tri, tự chứng, tự đạt và tuyên bố pháp này đến mức độ như vậy”.

Cù-đàm nói:-“ Này Hiền giả, tôi cũng đã tự tri, tự chứng, tự đạt và tuyên bố pháp này đến mức độ như vậy”.

Rama nói:-“Thật lợi ích thay cho chúng tôi!, khi chúng tôi thấy một đồng phạm hạnh như tôn giả, pháp mà tôi tự tri, tự chứng, tự đạt và tuyên bố, chính pháp ấy Hiền giả cũng tự chi, tự chứng, tự đạt và an trú. Pháp mà tôi biết Hiền giả cũng biết. Tôi được như thế nào, Hiền giả được như thế ấy. Nay hãy đến đây, Hiền giả, hai chúng ta hãy chăm sóc hội chúng này!”

 

Uddaka Ramaputta là Đạo sư của Cù-đàm. lại đặt Cù-đàm ngang hàng với mình, và tôn sùng Cù-đàm với sự tôn sùng tối thượng.

Sa-môn Cù-đàm nghĩ:-“ Pháp này không hướng đến yểm ly, không hướng đến ly tham, không hướng đến đoạn diệt, không hướng đến an tịnh, không hướng đến thượng trí, không hướng đến giác ngộ, không hướng đến Niết-bàn, mà chỉ đưa đến sự chứng đạt “ Phi tưởng phi phi tưởng xứ”.

Sa-môn Cù-đàm vì thế không tôn kính pháp ấy và từ bỏ pháp này. Sa-môn Cù-đàm lại rời Uddaka Ramaputta mà ra đi.

(Phỏng theo Kinh Thánh Cầu 26 – Kinh Trung Bộ 1)

4. Năm anh em Kiều-Trần-Như (Ajanta Kaudinya).

Sa-môn Cù-đàm đi về phía Bắc sông Hằng trong cánh rừng già bên núi. Nơi đây cảnh vật êm ả hiền hoà, không thú dữ là chỗ mà lũ nai thường hay trú ngụ, được gọi là vườn Nai hoang dã. Cũng nơi này có một nhóm người ẩn tu. Đó là năm anh em ông Kiều Trần Như (Ajnata Kaudinya), A-tư-đà-xá-bệ-thệ (Asvajit) Ma-ha-bạt-đề (Bhadrica). Thập-lực-ca-diếp (Dacadaha – Casyaba) và Ma-ha-cây-ly (Mahanama- Kuluka).

Sa-môn Cù-đàm dừng chân tại đây và cùng với năm người bạn này. Ở đây nhóm này cũng thực hiện đời sống khổ hạnh. Cù-đàm sống cùng họ, tu cùng họ nhưng Cù-đàm thấy rằng tu theo họ không đi tới đâu. Cù-đàm ngỏ ý từ giã họ và ra đi. Họ cho rằng Cù-đàm chịu khổ cực như họ không nổi nên tìm cách né đi để kiếm sống tốt hơn. Họ cho rằng Sa-môn Cù-đàm bị tham dục kéo lôi, nhớ lại nếp sống cung đình.

Khi chia tay, hai bên Sa-môn Cù-đàm và năm anh em Kiều-Trần-Như cùng ước với nhau: Rằng sau này ai thành đạo trước thì tìm độ cho nhau. (Nhóm Kiều-trần-như cho mình khổ hạnh vững chắc hơn nên sẽ thành đạo sớm hơn).

Sa-môn Cù-đàm lặng lẽ ra đi. Lũ nai theo chân ngài buồn tiễn đưa. Ngài đã trải qua hơn bốn năm dài lăn lội, khổ nhọc kiếm tìm. Giờ lại tiếp tục kiếm tìm.

5. Tự Tìm Tu

a. Tu khổ hạnh:

Sa-môn Cù-đàm tìm đến một nơi xa xôi hơn, tìm cái gì thiện hơn. Sa-môn Cù-đàm đến nước Ma-kiệt-đà ( Magadha) ở trong rừng sâu không bóng người. Nơi đây Sa-môn Cù-đàm quyết không thua sút năm anh em Kiều Trần Như, và cũng không chịu để cho năm anh em ông này đúng khi cho rằng Ngài chịu không nổi nếp sống tu khổ hạnh như họ. Cù-đàm tìm nơi thích hợp và chuyên tu khổ hạnh như họ. Cù-đàm tìm nơi thích hợp và chuyên tu khổ hạnh theo đường lối riêng của mình.

Sa-môn Cù-đàm khi tu khổ hạnh, Ngài rất chuyên cần hơn hẳn nhóm ông Kiều Trần Như.

Sa-môn Cù-đàm lúc đầu giảm thiểu tối đa sự ăn uống, ăn ít từng giọt một, như húp nước đậu xanh, đậu đen v.v…ăn uống ít như vậy khiến thân xác Ngài gầy yếu khô kiệt. Tay chân Ngài tong teo như lóng dây héo khô. Bàn chân Ngài thành móng chân con Lạc đà. Xương sống lòi ra như mắt tre, cái xương sườn gầy mòn như rui sườn nhà hư nát. Mắt ngài sâu hun hút như cái giếng, con ngươi long lanh giống như ánh nước lóng lánh. Da đầu Ngài trở nên nhăn nhiu khô cằn, chỉ còn như cái đầu lâu xương xẩu. Bụng lưng ngài sát nhau nếu sờ thì đụng lưng, nếu sờ lưng thì đụng bụng, da bụng sát xương sống, chúng gần như bám chặt vào nhau. Nếu phải đi đại tiểu tiện thì bị ngã quỵ úp mặt xuống đất. Nếu phải xoa tay chân đầu mặt, thì long tóc rơi rụng, da ngoài tróc rã. Da dẻ trở nên xám xịt đen đúa, làn da mất hết vẻ sáng đẹp, xấu xí vô cùng.

Sa-môn Cù-đàm tuy khổ hạnh khốc liệt như thế, vẫn không chứng được pháp thượng nhân, tri kiên thù thắng xứng đáng bậc thánh.

(phỏng theo Kinh Saccaka-Trung bộ 1)

Sa-môn Cù-đàm rồi chỉ còn là một bộ xương khô, cuối cùng ngài ngất lịm, gục người bên thảm cỏ khô.

Thân xác trần gian được trả lại cho đời,

Thân Ngài không còn là của Ngài nữa,

Ngài đã xả thân đến tận kỳ cùng.

Đối thân Ngài không còn gì để chấp để đeo mang,

Ngài thoát khỏi tấm thân nghiệp chướng này.

Ngài giải thoát khỏi thân.

Tuy nhiên, duyên đời, duyên chúng sanh ở Ngài chưa mãn, khiến cho một cô gái chăn bò xuất hiện. Nàng Su-già-ta (Sajata) khi thấy Ngài đói lả mê man liền vắt sữa bò cho Ngài. Nhờ vào chén sữa và sự tân tình của cô gái chăn bò đã giúp Ngài tỉnh dậy.

Sa-môn Cù-đàm uống sữa dần lại sức, Ngài sống bằng duyên đời. Ngài cảm tạ nàng Su-già-ta.

Cù-đàm ý thức rõ ràng: Dầu mình đã nhẹ đi cái chấp về thân, mà vốn “chấp thân” kà một nguyên nhân khổ rõ ràng nhất, tuy không chấp thân nữa, nhưng phải nhờ vào cái thân mà giải quyết cái khổ cội gốc, vốn là cái chấp “tâm” Ngài thấu rõ được điều này nên Ngài ăn uống lại để có sức mà giải quyết cái khổ từ nơi tâm ý mình, phải làm sao thấu đạt nguồn cội khổ đau. Phải tìm ra chỗ “chí thiện”!

b. Tu Giải Nghiệp –Sáng Đạo

Sa-môn Cù-đàm khi còn sức khoẻ hồi phục, Ngài lần bước đến bờ sông Ni Liên Thuyền ( Nairanjana) tắm rửa cho sạch cáu bẩn bao nhiêu ngày qua.

Cs khoác mảnh áo tả tơi qua năm tháng ngày sương pha gió táp nắng mưa, Ngài đi về hướng xóm làng Ưu-lâu-tần-loa (Uruvela). Nơi đây là một địa điểm khả ái, một nhóm rừng thoải mái, bên cạnh một con sông lặng êm ấm. Nơi đây gần làng mạc có thể đi khất thực dễ dàng. Đây là một chỗ thuận tiện cho việc hành đạo. Sa-môn Cù-đàm dừng lại nơi đây, Ngài đi khất thực và huân tu. Rồi một hôm ngài hạ quyết tâm tích cực, tinh tấn tối đa. Ngài lót cỏ bên một gốc cây rừng có tên pip-pa-la. Đây là một loại cây có sức sống mãnh liệt, chiếc lá tự khua tự lắc mà không cần đến gió. Từ cây này năng lượng toả khắp ngày đêm. Dù là ban đêm cây lá vẫn nhả khí lành, khiến người thêm sức sống thơ thới tâm thần. Sa-môn Cù-đàm chọn gốc cây làm đạo tràng làm chỗ huân tu. Ngài bằng lòng đại tinh tấn mà hành đạo. Ngồi vào gốc cây trên nệm cỏ Sa-môn Cù-đàm đã phát thệ rằng:

“ Ta ngồi đây, nếu không thành chánh giác để thành chánh giác thì dù thịt nát sương tan cũng không đứng lên khỏi chỗ này”.

Lời phát nguyện vừa xong cành lá pip-pa-la chuyển động khua vang như vỗ tay reo ca tán thưởng cho một người đại ý chí, có tâm nguyện vì đời một cách cao thượng tuyệt vời.

TRÍCH KINH:

(Kinh thánh cầu 26, trang 373- trung Bộ 1 - Đại Tạng Kinh Việt Nam)

“ Này các Tỳ-kheo, kẻ đi tìm cái gì chí thiện, tìm cầu vô thượng tối thắng an tịnh đạo lộ, tuần tự du hành tại nước Magadha ( Ma Kiệt Đà) và đến tại tu lạc Uruvela (Ưu-lâu-tần-loa). Tại đây, ta thấy một địa điểm khả ái, và xung quanh có làng mạc, bao bọc dễ dàng đi khất thực. Này các Tỳ-kheo, rồi ta tự nghĩ:” Thật là một địa điểm khả ái, một nhóm rừng thoải mái, có con sông trong sáng chảy gần, với một chỗ lội qua dễ dàng khả ái, và xung quanh có làng mạc bao bọc dễ dàng đi khất thực. Thật là một chỗ vừa đủ cho một thiện nam tử tha thiết tinh cần có thể tinh tấn”. Và này các Tỳ-kheo, Ta ngồi xuống tại chỗ ấy và nghĩ:” Thật là vừa đủ để tinh tấn”.

*TIẾN TRÌNH HUÂN TU:

Sa-môn Cù-đàm sau thời gian huân tu có kinh nghiệm: Có niệm, có tâm ý nên có khổ đau. Ngài quyết diệt niệm, diệt tâm ý. Để diệt niệm, trừ khổ đau, Ngài cũng dùng những pháp quán:

B1:Quán hơi thở (Tu thấy thiệt)

( Phỏng theo bài kinh Saccaka – Trung Bộ 1- Trang 531)

* Theo hơi thở diệt Niệm

Sau khi ngồi vào gốc cây Pip-pa-la, Sa-môn Cù-đàm tự nghĩ :” Ta hãy ngậm miệng cong lưỡi lên nóc họng, lấy tâm chế ngự tâm, nhiếp phục tâm, đánh bại tâm ý lăng xăng, hãy diệt sạch niệm”.

Sa-môn Cù-đàm dụng công bằng hơi thở bằng tâm chế ngự tâm lăng xăng một cách tích cực khiến mồ hôi vất vả ra ướt cả nách.

Như một người lực sĩ nắm lấy đầu một người ốm yếu hay nắm lấy vai có thể chế ngự, nhiếp phục đánh bại người ấy, Sa-môn Cù-đàm rất tinh tấn, chuyên cần rất tận lực, dầu cho niệm được an trú không dao động, nhưng thân Ngài vẫn bị kích động, không được khinh an. Ngài bị chi phối bởi sự tinh tấn. (Do tinh tấn cố gắng để chống lại cảm giác khổ). Tuy vậy rồi cảm giác khổ có khởi lên vẫn bị Ngài hóa giải, không chi phối được tâm Ngài.

* Nín thở diệt Niệm.

Sa-môn Cù-đàm lại nghĩ như sau: “Ta hãy tu thiền nín thở “ Ngài nín thở vô, thở ngang qua miệng và ngang qua mũi. Ngài lại nín thở vô, thở ngang qua miệng và ngang qua mũi thì một tiếng gió động kinh khủng thổi lên ngang qua lỗ tai. Ngài có cảm giác tiếng này kinh khủng như tiếng phát ra từ bể thổi của người thợ rèn. Ngài chí tâm tinh cần, tinh tấn, tận lực, dầu cho niệm được an trú không dao động, nhưng thân ngài vẫn bị kích động, không được khinh an, vì Ngài bị chi phối bởi sự tinh tấn (do cố gắng để chống lại cảm giác khổ) Tuy vậy rồi cảm giác khổ có khơi lên vẫn bị Ngài hoá giải không chi phối được tâm Ngài.

Sa-môn Cù-đàm lại suy nghĩ như sau:” Ta hãy tu thiền nín thở” Cù-đàm nín thở vô, thở ra ngang qua miệng, ngang qua mũi và ngang qua lỗ tai thì có ngọn gió kinh khủng thổi lên đau nhói trong đầu Ngài. Cù-đàm dù cho có chí tâm tinh cần, tinh tấn tận lực, và dầu có niệm được an trú không giao động, nhưng thân của Ngài vẫn bị khích động, không được khinh an, vì Ngài bị chi phối bởi sự tinh tấn ( do tinh tấn cố gắng để chống lại cảm giác khổ). Tuy vậy rồi cảm giác khổ có khởi lên vẫn bị Ngài hoá giải, không chi phối được tâm Ngài.

Sa-môn Cù-đàm quán hơi thở như vậy, khiến cho sự đau nhức khắp mình, đau như dao cắt, kiếm đâm, hay như dây nịt siết chặt. Rồi đến lúc khắp cả bụng vì nóng cháy cực kỳ đau đớn. Đau đớn độ tưởng chừng như chết lịm.

B2-­Quán Thân Tướng Sanh Già-Bệnh-Chết .

(Tu thấy giả)

(Phỏng theo Kinh Thánh cầu- Trung Bộ 1- Trang 367)

Sa-môn Cù-đàm đã như chết lịm vì hơi thở đã cắt xé, đốt cháy đầu, xé ruột gan, Ngài chợt tỉnh và điều chỉnh lại hơi thở. Ngài thở lại điều hoà. Với hơi thở đều ra nhẹ nhàng thư thả, Ngài xét lại bốn việc thấy con người phải đau khổ. Quán về bốn thứ: sanh Già-Bệnh-Chết .

SANH:

Khởi đầu Ngài xét về cái duyên sanh, Từ cái sanh Ngài xét phăng dần về cái gốc của nó, xét đến tận cùng Ngài thấy rõ nó vốn là” không sanh”

GIÀ:

 Và đến cái duyên già, Ngài cũng xét phăng dần về cái gốc của nó, xét đến tận cùng Ngài thấy rõ vốn nó là “không già”.

BỆNH:

Rồi đến cái duyên bệnh, Ngài cũng xét phăng dần về cái gốc của nó, xét đến tận cùng Ngài thấy rõ vốn nó là “ không bênh”

CHẾT:

Cuối cùng Ngài xét đến cái duyên chết, Ngài cũng xét phăng dần về cái gốc của nó, xét đến tận cùng Ngài thấy rõ vốn nó là “ không chết”.

Rốt cuộc Ngài thấy rõ cái thật của sanh Già-Bệnh-Chết  lại là không sanh, không già, không bệnh, không chết. Như thế bốn thứ khiến khổ lại là bốn thứ không thật. Ngài đã thấy rõ cái nền chân thật của bốn thứ đó.

“Nền chân thật” vốn không có bốn thứ sanh Già-Bệnh-Chết . Ngài thấy rõ cái thật “vô sanh, vô tử” ở mình. Thế là cái” vô sanh tử “ấy mới là cái chân thật không sanh, Già-Bệnh-Chết .

Ngài ra rõ điều này thì cái u sầu tan biến, cái ô nhiễm cũng mất đi. Ngài rõ được chỗ không o nhiễm, chỗ vô thượng an ổn khỏi các khổ ách, Ngài” rõ ràng” cõi Niết-bàn.

Sa-môn Cù-đàm đã thấy rõ ràng bốn thứ sanh, già, bệnh, chết trên mặt hiện tượng của thân xác, và cả trong tâm hồn. Trong khi có niệm là sanh khi niệm kéo dài là già, khi niệm chuyển biến là bệnh, khi niệm bị mất là chết. Rõ ràng bốn niệm sanh, già, bệnh, chết tuy có diễn ra trong lòng, nhưng chúng đều không thật. Có rồi mất nên giả có thôi.

Sa-môn Cù-đàm rõ ràng cái “nền” niệm sanh, già, bệnh, chết đó lại không già không bệnh,không chết . Chỗ không khổ sầu. Là chỗ vui chọn vẹn ( Niết-bàn). Chỗ vắng lặng hoàn toàn không bóng dáng niệm.

B3-Quán Niết-bàn

Khi rõ ra sự thật về sanh, già, bệnh, chết Sa-môn Cù-đàm lại lìa bốn thứ này mà nhìn sâu vào cõi Không. Cái không già , không bệnh, không chết, càng lúc càng rõ ràng hơn và lan toả hơn. Ngài nhận ra Niết-bàn quả thật là bạc mênh mông vô tận, không một bóng dáng khổ đau. Vì không một vật, không một niệm có thể được. Nó chính là thể của niệm, do niệm không có thật có và vì thế niệm tan biến. Cõi này tràn đầy khắp cả hư không, rỗng lặng rộng trùm, bất động mênh mông. Cõi Niết-bàn rõ ràng đây là “ cái chí thiện”. Ngài đã tìm ra “ Cái gì chí thiện vô thượng an ổn, an tịnh đạo lộ đó chính là Niết-bàn”.

B4-Quán Nhân Duyên

Từ sức sống Niết-bàn, Sa-môn Cù-đàm nhìn lại từ tâm đến thân đến cảnh sắc, thấy rõ tất cả đều là nhân duyên sinh mà có. Ngài chứng lý nhân duyên sinh (Nhân duyên sinh, tức nhiều nhân duyên hợp lại mà thành ra cái gì đó. Vì “họp” mà thành, nên cái thành đó nó không thật. Như năm ngón tay hợp lại thành một nắm tay, nên nắm tay tuy có mà không thật, năm ngón bung ra thì nắm tay mất..)

* PHÁ TÂM LÝ

Trước hết Cù-đàm rà soát được từ ưu bi khổ não trở lui chết, già, sanh, hữu, thủ, ái, thọ, xúc, lập nhục, danh sắc, thức, hành cho đến đầu mối sinh ra si ám đó chính là vô minh. Rõ ràng 12 thứ này chỉ là giả ảo, chúng có khi người mê giống như 12 cảnh chiêm bao trong lúc người say ngủ. Thức dậy mở mắt ra tất cả chỉ là không. Ngài giác ngộ rồi, mười hai nhân duyên này tiêu tan mất. Khác nào đèn điện sáng rọi vào bóng đêm, rọi tới đâu bóng liền sáng tới đó. Mười hai nhân duyên biến mất trong ánh nhìn từ Niết-bàn. Thế là sự ưu bi khổ đau từ gốc vô minh đen tối của tâm hồn thực sự biến mất.

Sự u tối ở tâm hồn tan ( vô minh diệt đi) chỉ còn là cõi Niết-bàn ròng rặc.

Sa-môn Cù-đàm được chánh trí sanh, huệ nhãn sanh, trí huệ sanh và chứng ngộ sanh.

Rồi từ chánh trí chứng ngộ Cù-đàm soi rọi lại một lượt vào cõi tâm lý thì vô minh thực sự không còn nữa, hành mất, thức tan, danh sắc diệt, lục nhập rã, xúc tiêu, thọ mất, ái sạch, thủ hoại, hữu hông, sạch bặt, lão tử thật sự không còn bóng dáng. Tâm Ngài thực sự bằng bằng sáng làu làu. Niệm chấp tâm ý thực sự tiêu tan, tâm không còn là Ta là mình nữa. Tức cái “ Ta” nghiệp chướng, tội lỗi tiêu tan, chỉ còn là một cõi lòng sáng suốt thuần tịnh. Cái Ta (ngã) tan biến – Ngài đạt được “vô ngã” chứng nhập cõi Niết-bàn.

(Phỏng theo Kinh Sơ Đại Bổn Duyên – Kinh Trường A-hàm 1)

*PHÁ CHẤP THÂN XÁC:

Kế đó Sa-môn Cù-đàm lại từ chánh trí với huệ nhãn soi rọi thân xác thì cái chấp về thân không còn nữa. Thân xác chừng như cũng tan biến. Rõ ràng thân cũng chỉ là do nhân duyên sinh mà có ra. Thân không còn là một vấn đề nữa, thân xác không còn là cái “của mình” “của ta” nữa. (Thân xác không còn cái sở hữu của tâm ý nữa). Tức cái “của ta” không còn. Cái” ngã sở”tiêu. Và như vậy sự ràng buộc giữa thân và tâm ý tiêu tan.

Và Cù-đàm lại soi tiếp đến cái thọ, thì năm thứ chấp về cảm giác cũng tiêu tan, cái chấp cảm giác ở mắt, tai, mũi, lưỡi, thân đều thực sự không, vì chúng cũng chỉ là nhân duyên sinh mà tạm có. Thế là cái chấp về thân thọ thực sự tan ( Thọ chỉ là chi tiết của thân thôi). Cái ngã sở của tâm ý là thân, thọ cũng tiêu vong.

*PHÁ CHẤP CẢNH SẮC

Sau cùng Cù-đàm lại bằng chánh trí với huệ nhãn soi rọi đến các cảnh sắc, thì rõ ràng cái chấp, cái dính mắc ở nơi cảnh sắc cũng tan biến, không còn thấy cái nào là thiệt cả. Tất cả cảnh sắc, thứ nào cũng đều do nhân duyên sinh mà có ra thôi. Từ đất, nước, gió, lửa…tất cả thảy đều là nhân duyên sinh. (Cảnh sắc được gọi chung là Pháp, muôn sự muôn vật).

Ngài rõ ràng bằng ánh nhìn trí huệ rõ các Pháp giữa này nguyên thể vốn nó là không, do nhân duyên hợp lại mà thành nên không thiệt có. Dù ngay khi có thì cũng vẫn là không thôi, như bóng trong gương, như trăng trong nước, như mây trên trời, như bọt trong nước biển, như nắm tay ở bàn tay ( nắm tay do năm ngón hợp lại nào có thiệt gì). Đến đây cái chấp về “Pháp” thực sự tan biến. Cả trời đất chừng như biến mất, tan loãng trong hư không mênh mông. Bốn thứ niệm “ chấp” về thân, thọ , tâm , pháp đến đây hoàn toàn tan biến. “Niệm” hoàn toàn biến mất trong cõi lặng trong mầu sáng. Ngã và ngã, sở hay ngã – nhân- chúng sanh - thọ giả thật sự cáo chung.

Giờ đây chỉ có cõi Niết-bàn là chơn thật thường hằng hiện hữu mà thôi.

Niết-bàn đó là tự tánh là bản tâm ấy vậy. Là tâm chơn thật xưa nay, có trước khi cha mẹ chưa sanh. Là cái tâm tuyệt vời không khổ đau, không sanh tử, chẳng luân hồi.

Sa-môn Cù-đàm khi sống được bằng tự tánh, bản tâm mình, an trụ Niết-bàn thì:

Nghiệp xưa rũ sạch làu làu.

Thân tâm Thái tử tan vào tánh KHÔNG.

 

VII. THÀNH ĐẠO

* BỪNG SÁNG, ÁNH ĐẠO HUY HOÀNG

(Phỏng theo Kinh Sợ Hãi và Khiếp Đảm – Kinh Trung Bộ 1)

Sa-môn Cù-đàm ngồi dưới gốc Pip-pa-la hành thiền suốt 49 ngày đêm, Ngài không ăn, không uống, tinh tấn, chuyên cần, không lười biếng, vào đêm 49 Ngài thực sự an trú trọn vẹn tự tánh KHÔNG, chánh niệm, không có loạn động, thân được khinh an, tâm được định tĩnh, chuyên nhất.

Sa-môn Cù-đàm lần lượt vượt qua các cảnh giới biến hiện trong tâm từ thô đến tế. Ngài một bề an trụ tự tánh KHÔNG tiêu dung tất cả những “ nghiệp thức chủng tử” từ xa xưa, từ tiền kiếp cho đến hiện kiếp, từ những biến hiện do công phu sinh khởi. Ngài xả bỏ trọn vẹn những cảnh giới thiền: Sơ thiền, nhị thiền, tam thiền, tứ thiền).

Trong đêm, vào canh đầu, với tâm định tĩnh, thuần tịnh không cấu nhiễm, không phiền não, nhu nhuyến, dễ sử dụng linh hoạt vững chắc, bình thản, Sa-môn Cù-đàm toả sáng nguồn tâm, TÁNH KHÔNG rạng ngời bật dậy túc mạng trí. Ngài có sự sáng suốt xuyên suốt thời gian đã qua từ xa xưa thuở tiền kiếp cho đến bấy giờ đều tỏ tường không bị hạn chế. Ngài chứng được “ túc mạng minh” vô minh diệt, minh sanh. Như bóng tối đã diệt, và ánh sáng sanh ra. Phiền não tan biến, nghiệp chướng tiêu trừ.

Đến giữ đêm Ngài lại bằng tâm định tĩnh, thuần tịnh, không cấu nhiễm, không phiền não, nhu nhuyến, dễ sử dụng, vững chắc, bình thản. Ngài toả sáng nguồn tâm, TÁNH KHÔNG rạng ngời, bật dậy, ”thiên nhãn” thuần tịnh siêu việt. Ngài rõ ràng “tất cả không gian, những hiện tượng trong trời đất, những sinh hoạt từ chúng sinh hữu tình đến vô tình tất cả đều không ngoài nguồn sáng trong ngần của một tâm thuần tịnh sáng ngời, chẳng khác nào vạn vật không ngoài hư không, chúng đều mang tánh hư không, đều thuần chất rỗng không trong suốt. Trí Ngài suốt trong thuần tịnh bao hàm vạn vật muôn loại.

Sa-môn Cù-đàm chứng được “ thiên nhãn minh”. Trí sáng Ngài toả rạng suốt “ không gian” không có gì ngăn che được. Vô minh diệt, minh sanh như bóng tối đã diệt, và ánh sáng sanh ra.

Đến canh ba, Ngài cũng bằng tâm định tĩnh, thuần tịnh, không cấu nhiễm, không phiền não nhu nhuyến, dễ sử dụng, vững chắc, bình thản. Ngài toả sáng nguồn tâm, TÁNH KHÔNG rạng ngời, bật dậy, “ lậu tận trí”. Ngài toàn triệt tỏ rõ hoàn toàn về cái khổ, nguyên nhân gây khổ, cảnh giới khổ diệt (tự tánh Niết-bàn) và con đường để đưa đến diệt khổ. (Ngài chứng được Pháp Tứ đế) Các lậu hoặc các sai lầm xưa nay đối với tâm thể, tự tánh KHÔNG đều thực sự được giải trừ. Các lậu hoặc thực sự được đoạn tận, cáo chung. Lòng ngài thực sự thoát khỏi dục lậu, thoát khỏi hữu lậu, thoát khỏi vô minh lậu.

Đối với tự thân, Sa-môn Cù-đàm đã giải thoát như vậy, Ngài biến mình : Đã giải thoát.

Ngài thắng tri :” Sanh đã tận, phạm hạnh đã thành, việc cần làm đã làm, không còn trở lui trạng thái này nữa”.

Sa-môn Cù-đàm chứng được “lậu tận minh”. Trí sáng Ngài toả khắp cõi tâm. Như mặt trời lên giữa hư không, ánh sáng toả khắp. Tâm Ngài hoàn toàn là tâm trí huệ trọn vẹn bao trùm cả trời đất vạn loại. Ngài thành tựu tâm trí siêu việt qua tất cả khổ đau. Vô minh diệt, minh sanh. Như bóng tối và ánh sáng sinh ra.

Phiền não hoàn toàn tan biến, nghiệp lực tiêu trừ, si mê đoạn hẳn, khổ triệt tiêu. Giải thoát khỏi khổ vì sanh, già, bệnh, chết. Trí huệ sanh, chánh trí sanh, chơn giác sanh, minh liễu sanh, thần thông sanh, huệ nhãn sanh, chứng ngộ sanh.

Sa-môn Cù-đàm đến đây thực sự giác ngộ. Ngài hết khổ đau. Được giải thoát. An vui thực sự.

Ngài đã tìm được “cái gì chí thiện tối thắng an tịnh đạo lộ”.

Ngài thực sự thành đạo, và được gọi là Phật hay Phật Thích-ca-mâu-ni. ( Người dòng Thích-ca giác ngộ vắng lặng).

Đức Phật sau thời gian tìm đạo và hành đạo đến lúc thành đạo là mười năm tròn. Năm nay ngài 30 tuổi. Là năm 594 trước dương lịch.

Đức Phật có mặt trên hành tinh trái đất này từ lúc đó . (594 trước D.L)

Cây rừng Pip-pa-la sau đó được gọi là cây Bồ-đề (Cây giác ngộ)

Kể từ đây đức Phật có đủ 80 vẻ đẹp với 32 tướng tốt

Nam Mô Phật Bổn Sư Thích-ca-mâu-ni

* QUANG CẢNH ĐẠO TRÀNG BỒ ĐỀ

Sa-môn Cù-đàm sau khi thành đạo, Ngài là một vị Phật. Trí Huệ Ngài viên minh tỏ suốt sáng soi từ trong thân đến ngoài thân. Hào quang đã bao phủ tấm thân vàng óng của Ngài. Dù rằng trải qua 49 ngày đêm không ăn, không uống Ngài vẫn sáng ngời khi tinh tấn Ngài hoàn toàn sáng suốt, nguồn năng lượng đã sáng toả toàn thân, Ngài trang nghiêm thanh thoát.

Thân xác Ngài thanh tịnh, tâm hồn Ngài cũng hoàn toàn thanh tịnh. Từ ánh sáng thanh tịnh đã ngời sáng cả gốc cây Bồ-đề, tạo thành một đạo tràng trang nghiêm tốt đẹp. Cây Bồ-đề trở nên to lớn cành lá xum xuê, hoa trái nở đầy. Cả một bầu trời đầy hoa vô vàn tươi đẹp. Không gian chừng như reo ca nhảy nhót, ca tán, chúc tụng một vị Phật vừa thành.

Quanh Ngài là loài chim, loài thú đã bao ngày qua dâng hoa trái cúng dường, nay chúng cũng hân hoan chào đón mừng vị Phật viên thành Đại đạo.

Ánh sáng đạo vàng nhuộm thắm cả núi rừng làm cho rừng núi xanh thêm tươi đẹp hơn lên.

Tâm lực Ngài toả rộng khiến trời người rung động phát sanh niềm an lạc vi diệu mà xưa nay chưa từng có. Trái đất cũng chuyển mình theo giai điệu mới: Nhân gian hôm nay đã có con đường thoát khổ.

Ngài thoát khổ và sẽ giúp bao chúng sanh thoát khổ.

Trời đất hôm nay, ôi đẹp lạ

Đạo tràng vang dội pháp thắm sâu

Pháp nhiệm mầu lan toả trời người

Trùng trùng biến hiện khắp ta Ta bà

Đạo vàng sáng chói soi trời đất

Mở nẽo cho đời thoát khổ đau

Ngài thành đạo! Ôi đạo nhiệm mầu

Đạo từ tâm toả rạng trăng sao

Đạo từ tánh, thể suốt xưa nay

Nguồn đạo thậm thâm và vi diệu

Chói rạng tâm người tâm chúng sanh

Tâm Tất-đạt – Cù-đàm – Tâm Phật

Cũng là Tâm – Tâm đạo ấy thôi.

Người trời vạn loại sinh linh

Cũng là tâm Phật cũng là Tâm

Mười năm tầm đạo tu tâm Phật

Giác ngộ đạo rồi, đạo tức Tâm

Bồ-đề cội giác trùm pháp giới

Rợp bóng hoa đàm toả ngát hương

Ngài ngồi đó trang nghiêm uy dũng

Chiến thắng lòng mình dứt khổ đau

Đại hùng đại đại lực đại từ bi

Toả khắp sơn hà khắp thế gian

Ai hay ánh đạo huy hoàng

Ngàn năm sương khói mộng vàng vỡ tan

Bước lên trời đất thênh thang

Cứu độ thế trần hoàng hết mê

 

VIII. CHUYỂN PHÁP LUÂN ( HOẰNG HOÁ LỢI SANH):

Đức Phật là vị hữu tình không có si ám, sinh ra ở đời vì hạnh phúc cho muôn loài. Vì an lạc cho muôn loài, vì lòng thương tưởng cho đời, vì lợi ích, vì hạnh phúc, vì an lạc cho loài Trời và loài Người”

(Kinh Sợ Hãi và Khiếp Đảm – Trung Bộ 1)

a. Cơ duyên thuyết pháp:

Đức Phật sau khi thành đạo , Ngài biết rõ Ngài không còn dính mắc vào cái thân này nữa, không còn sanh thân nữa. ( Nay là đời sống cuối cùng của ta, không còn sự tái sanh nữa – kinh Thánh Cầu trang 374 – Trung bộ 1), tuy vậy Ngài vẫn dùng tấm thân Ngài làm phương tiện giáo hoá chúng sanh.

Ngài biết rõ điều như sau:

“ Pháp này do ta chứng được, thật là sâu kín khó thấy, khó chứng, tịch tịnh cao thượng, siêu lý luận, vi diệu, chỉ người trí mới hiểu thấu. Còn quần chúng này thì ưa ái dục, ham thích ái dục, thật khó mà thấy được định lý “ y tánh duyên khởi pháp”. Sự kiện này thật khó thấy, tức là sự tịnh chỉ tất cả hành, sự trừ bỏ tất cả sanh, ái diệt, ly tham, đoạn diệt, Niết-bàn. Nếu ta thay thuyết pháp mà các người khác không hiểu ta, thời như vậy thật khổ não cho ta, như vậy thật bực mình cho ta”.

(Kinh thánh Cầu trang 374 -375- Trung Bộ 1)

Bằng biết theo cái biết thông thường trong cuộc sống thì quả là như vậy. Người đời vì tham dục nên rất khó đón nhận Pháp Ngài chứng được. Vì đây là pháp quả thâm sâu áo diệu, là Pháp vô tướng rất khó mà diễn tả, khó hình dung, khó mà nắm bắt. Pháp này là “Cõi Niết-bàn Tự Tánh”, chính ngài đã vất vả suốt mười năm mới chứng đạt, thì hỏi người đời sao có thể đón nhận được. Làm sao mà chỉ thẳng cho người đời chỗ pháp chứng thâm sâu này.

Thế nên đức Phật lúc này Ngài “không muốn thuyết pháp, Ngài hướng về vô vi thụ động”( Với những suy tư như vậy, tâm ta hướng về vô vi thụ động, không muốn thuyết pháp – kinh Thánh Cầu trang 375).

 Nhưng rồi sau đó bằng trí huệ chứng ngộ nảy trí phương tiện, một thứ trí vượt hơn trí biết thông thường của người đời mà vốn chỉ biết theo tập quán, thói quen. Bằng chí phương tiện khéo léo, diệu dụng linh hoạt, đức Phật quán sát “ căn cơ trình độ người đương thời mà thấy có thể được”. Có thể đem Pháp đến cho người, dùng với một phân lượng thích hợp, tuỳ người tuỳ cơ mà nói, và nói với nhiều tháng nhiều năm, sẽ có tác dụng cho người.

Bằng trí huệ phương tiện với lòng từ bi đức Phật Ngài quyết định: Nói Pháp độ đời, với quyết định nói Pháp, trong bài kinh Thánh Cầu trang 376 đã diễn bày:

Này các Tỳ-kheo, lúc bấy giờ Phạm Thiên Sahampati khi biết được tâm tư của ta, với tâm tư của mình, liền suy nghĩ:” Than ôi, thế giới tiêu diệt, thế giới sẽ bị hoại vong, nếu tâm của Như Lai, bậc A-la-hán, chánh đẳng giác hướng về vô vi thụ động, không muốn thuyết pháp. Rồi này các Tỳ-kheo, Phạm Thiên Sahampati như một nhà lực sĩ duỗi cánh tay đang co, hay co cánh tay đang duỗi, cũng vậy, vị ấy biến mất từ thế giới phạm thiên và hiện ra truớc mắt ta. Này các Tỳ-kheo rồi Phạm Thiên Sahampati đắp thượng y một bên vai chắp tay hướng vái ta và bạch với ta: Bạch Thế Tôn, hãy thuyết pháp. Có những chúng sanh ít nhiều bụi trần sẽ bị nguy hại nếu không được nghe chánh pháp(Nếu được nghe) những vị này có thể thâm hiểu chánh Pháp. Này các Tỳ-kheo, Phạm Thiên Sahampati nói như vậy…

Này các Tỳ-kheo, sau khi biết được lời Phạm Thiên yêu cầu, vì lòng từ bi đối với chúng sanh, với Phật nhãn, ta nhìn quanh thế giới. Này các Tỳ-kheo, với Phật nhãn, ta thấy có hạng chúng sanh ít nhiễm bụi đời, nhiều nhiễm bụi đời, có hạng lợi căn, có hạng độn căn, có hạng thiện tánh, ác tánh, có hạng dễ dạy, khó dạy, và một số ít thấy sự nguy hiểm phải tái sanh thế giới khác và sự nguy hiểm làm những hành động lỗi lầm. Như trong hồ sen xanh, sen hồng hay sen trắng sanh ra dưới nước, lớn lên dưới nước sống vượt lên được mặt nước. Có một số hoa sen xanh, sen hồng hay sen trắng sanh ra dưới nước, lớn lên dưới nước, vươn lên khỏi mặt nước, không bị nước đẫm ướt. Cũng vậy này các Tỳ-kheo, với Phật nhãn, ta thấy có hạng chúng sanh ít nhiễm bụi đời, nhiều nhiễm bụi đời, có hạng lợi căn, độn căn, có hạng thiện tánh, ác tánh, có hạng dễ dạy, khó dạy và một số ít thấy sự nguy hiểm phải tái sanh thế giới khác và sự nguy hiểm làm những hành động lỗi lầm. Và này các Tỳ-kheo, ta nói lên bài kệ sau đây với Phạm Thiên Sahampati,

Cửa bất tử rộng mở

Cho những ai chịu nghe

Hãy từ bỏ tín tâm

Không chính xác của mình

Tự nghĩ đến phiền toái

Ta đã không muốn giảng

Tối thượng vị diệu pháp

Giữa chúng sanh loài người

(Ôi Phạm Thiên)

Này các Tỳ-kheo, rồi Phạm Thiên Sahampati tự nghĩ: “ Ta đã tạo cơ hội cho thế tôn thuyết pháp” đảnh lễ ta, thân phía hữu hướng (về ta) rồi biến mất tại chỗ.

Đức Phật khởi phương tiện nói Pháp độ người. Ngài từ trí huệ dậy từ bi khởi phương tiện.

b. Đối tượng thuyết pháp:

1. Buổi đầu:

Đức Phật sau khi quyết định thuyết pháp Ngài quán cơ duyên xem phải thuyết pháp cho ai? Bằng tính “ơn đền nghĩa trả” Ngài hướng về các bậc thầy đã một lần dìu dẫn Ngài lúc ban sơ tìm đạo, và những người bạn đồng tu trước đó. Ngài muốn đáp trả ơn nghĩa cho đời bằng Pháp mầu mà Ngài đã có được. Dầu giác ngộ giải thoát mà “ tình đời”, tình cuộc sống Ngài vẫn không quên. Chẳng những không quên mà Ngài còn muốn đền trả đem lợi ích thật nhiều đến cho người. ngài muốn tặng người ơn ánh đạo vàng. Đây là vật quí nhất thế gian. Ngài sinh ra từ cuộc sống, vì cuộc đời mà tìm đạo, hành đạo và thành đạo để rồi Ngài hoà nhập vào cuộc sống khởi từ tâm, phương tiện độ thoát chúng sanh.

Theo kinh “ Thánh Cầu” trang 379. Ngài đã nói cùng các Tỳ-kheo:” Này các Tỳ-kheo, rồi ta tự suy nghĩ:” Ta sẽ thuyết pháp  cho ai đầu tiên, ai sẽ mau hiểu chánh pháp này?!” Này các Tỳ-kheo, rồi ta tự suy nghĩ:” Nay có ALara KaLaMa là bậc trí thức, đa văn, sáng suốt, đã từ lâu sống ít nhiễm bụi đời. Ta hãy thuyết pháp đầu tiên cho ALara KaLaMa vị này sẽ mau hiểu chánh pháp này”. Này các Tỳ-kheo, rồi chư thiên đến ta và nói như sau:” Bạch Thế Tôn , ALara KaLaMa đã mệnh chung bảy ngày rồi”. Rồi tri Kiến Khởi lên nơi ta “ ALara KaLaMa đã mệnh chung bảy ngày rồi”. Này các Tỳ-kheo, ta nghĩ:” Thật là một thiệt hại lớn cho ALara KaLaMa:Nếu nghe pháp này. ALara KaLaMa sẽ mau thâm hiểu”.

Rồi này các Tỳ-kheo , ta lại nghĩ “Ta sẽ thuyết pháp cho ai đầu tiên? Ai sẽ mau hiểu chánh Pháp này?” Rồi này các Tỳ-kheo , ta lại nghĩ:” Nay có Uddaka Ramaputta là bậc trí thức, đa văn, sáng suốt, đã từ lâu sống ít nhiễm bụi đời. Ta hãy thuyết pháp lần đầu tiên cho Uddaka Ramaputta vị này sẽ mau hiểu chánh Pháp này” Rồi Chư thiên đến và ta nói như sau:” Bạch Thế Tôn, Uddaka Ramaputta đã mệnh chung hôm qua”. Này các Tỳ-kheo, ta nghĩ:” Thật là một thiệt hại lớn cho Uddaka Ramaputta. Nếu nghe pháp này Uddaka Ramaputta sẽ mau thâm hiểu”.

Này các Tỳ-kheo rồi ta suy nghĩ:” Ta sẽ thuyết pháp cho ai đầu tiên? Ai sẽ mau hiểu chánh pháp này?” Rồi này các Tỳ-kheo, ta lại nghĩ:” Nhóm năm Tỳ-kheo ở tại đâu?”. Này các Tỳ-kheo, với thiên nhãn thanh tịnh siêu nhân, ta thấy nhóm năm Tỳ-kheo hiện ở Baranasi (Balavac), tại Isipatana, vườn Lộc Uyển. Rồi này các Tỳ-kheo, sau khi ở tại Uruvela lâu cho đến khi mãn ý, ta lên đường đi đến Baranasi.

2. Độ năm anh em Kiều Trần Như:

Theo lời ước:” Ai thành đạo trước thì đi tìm độ cho nhau”, Ngài tìm đến, năm anh em Kiều Trần Như .

Đức Phật trên đường đến vườn Nai bằng bước chân thanh thoát xuất trần, bằng dáng vẻ ngời ngời trí hụê, bằng ánh nhìn trong sáng từ bi qua chiếc áo rách nhiều năm tháng phất phơ trong gió sớm, Ngài thong dong bước với bình bát trong đôi tay vàng óng ả, với mái đầu tóc xoắn điểm phong sương, Ngài nhẹ bước.

Trên đường, bao đôi mắt để tâm nhìn Ngài không mỏi, họ trông ngài thành thoát như một vị thần tiên, một vị trời nào đó. Một ngoại đạo tên Upaka đã đón Ngài và hỏi:

“Các căn của Hiền giả thật sáng suốt. Da sắc của Hiền giả thật thanh tịnh, thật thanh khiết. Này hiền giả vì mục đích gì, Hiền giả xuất gia? Ai là bậc đạo sư của Hiền giả? Hiền giả thọ trì Pháp của ai?

Đức Phật  bằng ánh mắt nhìn cảm thông đáp lại:

“Tôi, bậc thánh tất cả

Tôi, bậc nhất thiên trí

Hết thảy pháp, không nhiễm,

Hết thảy pháp, xả ly

Tôi sống chân giải thoát,

Đoạn tận mọi khát ái.

Như vậy tôi tự giác

Còn phải y chỉ ai?

Tôi không có Đạo sư.”

(Kinh Thánh Cầu)

Đức Phật bằng đôi chân trần đạp đất liên tiếp tục hướng về vườn Lộc Uyển nơi năm anh em Kiều Trần Như ở.

Năm anh em Kiều Trần Như khi thấy dáng Phật từ xa, họ đoán biết đó là bóng dáng Phật từ xa, họ đoán biết đó là bóng dáng Sa-môn Cù-đàm. Họ bàn luận:”Này các Hiền giả, nay Sa-môn Cù-đàm đang đi đến, vị này sống trong sự sung túc, đã từ bỏ tinh cần, đã trở lui đời sống đầy đủ vật chất. Chúng ta chớ có đảnh lễ, chớ có đứng dậy, chớ có lấy y bát. Hãy đặt một chỗ ngồi, và nếu vị ấy muốn, vị ấy sẽ ngồi.”

(Kinh Thánh Cầu)

Năm anh em này không muốn tiếp đức Phật. Đức Phật vẫn đi đến chỗ họ để thực hiện lời giao ước trước kia, rằng:” Ai thành đạo trước thì tìm độ cho nhau”. Qua vẻ né tránh của họ, đức Phật vẫn an nhiên, vẫn khoan thai đi từng bước giải thoát trên mảnh đất vườn Nai để đến với họ bằng tấm lòng bạn bè thân ái:

Rừng cây thưa mặt trời du ngoạn

Bờ cỏ non mơn mởn sương hồng

Bên dòng suối nhỏ rì rào đổ

Trong ngần suối ngọt hiện trời xanh

Chú rắn nhỏ lưỡi dài liếm nước

Hòn đá chim con chíu chít kêu.

Gió thoảng mây bay mát khung trời

Thong dong nhẹ gót nai vàng hiện

Nai gạt nai tơ ngơ ngác trông

Đây vườn Nai đây Lộc dã Uyển

Đây thiên đường của chốn rừng hoang

Đây đạo tràng năm vị Trần Na

Kiều Trần Như năm kẻ xuất gia

Năm người chuyên tu tâm chăm chỉ

Qua bao năm tháng đạo còn xa

Chưa hay ra được nguồn đạo cả

Khắc khoải hành trì dạ chẳng yên

Hôm nay trời đẹp lòng thư thả

Nhấc thấy bóng vàng thoáng xa xa

Dáng người trông giống như Thích Ca

Ấy quả là Sa-môn Cù-đàm

Năm anh em định lánh xa người

Nhưng không được ánh vàng thu hút

Đức Thích Ca hiển hiện uy nghi

Hào quang chói sáng quyện chân người

Ngài thanh tú 30 tuổi ngọc

Manh áo bạc màu tơi tả bay

Phất phơ gió nắng buổi mai hồng

Đạo vàng rực sáng chiếu vườn Nai

Nai, tơ, chim, rắn đều long mắt

Ngơ ngác êm đềm mây vương vương

Rừng thiêng toả ngát hương đồng nội

“Lộc dã Uyển” thành pháp hội đầu

Vườn Nai mầu nhiệm vườn Nai lớn.

(Đức Cù-đàm sau khi thành đạo

Nhớ lời nguyền ước thuở xa xưa

Cùng năm người bạn lúc chia tay

Rằng: ai Thành Đạo tìm nhau độ

Thực hiện ước nguyền Phật đến đây).

Không gian sáng lạng huy hoàng toả

Chào đón Cha lành của thế gian

Nai vàng ngơ ngác trông người lạ

Không lạ đâu nào, Đức Thế Tôn

Phật đà đỉnh đạt từng tấc bước

Thong dong ôm bát thoát trần ai

Đầu trần chân đất lòng không rỗng

Ánh sáng chan hoà khắp thế gian

Vườn nai toả rạng Kiều Trần Như

Năm người kính cẩn cần cầu đón

Thỉnh Phật vào ngồi dưới gốc cây

Là chỗ tôn nghiêm vào đệ nhất

Qua dung nghi đức Phật Cồ Đàm

Kiều Trần Như biết Ngài thành đạo

Trần Như kính cẩn cúi đầu thưa:

Cù-đàm hãy vì chúng tôi nói

 

Vì bạn Thế Tôn nói đạo mầu:

- Mở đầu Ngài chỉ đời người khổ

Khổ sanh, già, bệnh, chết v.v…

- Thứ hai Ngài dạy nguyên nhân khổ

Tham-sân-si-mạn-nghi…các não

-Thứ ba Ngài khai nguồn tịch diệt

Chỉ chỗ không nhân không cảnh khổ

Cái chỗ Lặng trong- Trong lặng -Rỗng

Chỗ mà không một niệm dấy sanh

Cái chỗ xưa nay không một vật

Chỗ vắng bặt tuyệt cùng trong tâm

Cái thật xưa nay chưa từng diệt

Sanh diệt hoàn toàn vắng mất tiêu

-Cái chỗ không sanh, già, bệnh, chết

Cái chỗ không nhơ sạch não phiền

Không Thiên Đường Địa ngục Trời Người

Không ba cõi sáu nẻo luân hồi

Không ta, không Người, không chúng sanh

Không thương, không ghét không vui buồn

Không và không không lặng hoàn toàn

Cõi bất động mênh mông chùm khắp

Rộng tợ hư không, không mé bờ

Là chơn không, rỗng sáng vô biên

Là cõi tâm vắng lặng dịu huyền

Là cõi tuyệt đối dứt khổ đau

Là cõi an vui, vui trọn vẹn

Cõi Niết-bàn, tịnh mặc – Mâu ni

Ấy là cõi Phật, là Đạo cả.

Anh em Kiều Trần Như lắng lặng

Lời Như Lại lọt đến óc tim

Gây xúc chạm tận cùng lòng dạ

Tâm xưa bùng vỡ, tánh tỏ thông

Hoát nhiên bật dậy cõi Chơn Không

Năm tôn giả nhận ra cõi mầu

Liền giác ngộ chỗ mà Phật chỉ:

“Quả đúng như lời Phật dạy bày

Cõi Tịnh diệt thật là tịnh diệt

Vắng, lặng, bằn bặt, mất khổ đau

An vui thật sự, an vui lắm!”

Khắc khoải bao ngày tan biến bay

Năm Tôn giả mừng vui lễ Phật

-Phật cười nhẹ nhõm: việc mình xong.

 

Phật đà tiếp dạy bước thứ tư

Bước bốn đạo, ấy pháp hành trì

Là bước bảo nhậm, hộ trì, tu

Là Tứ Niệm Xứ, gìn bốn chỗ

Quán tâm, Thân, Thọ, Pháp suốt xuyên

Và sáu nhóm nữa cùng phụ gia:

Tứ Chánh Cần, Tứ Như Ý Túc

Ngũ Căn, Ngũ Lực, Thất Giác Chi

Bát Chánh Đạo phần là Thánh Đạo

-Nghe qua Pháp Phật dạy đà xong

Các vì thông giả lòng thông suốt

Niệm niệm tiêu tan mà không diệt

Chứng vào cõi thánh, thành Tăng Bảo,

Bao nhiêu phiền não xưa nay mất

Mới biết Pháp mầu của Như Lai

Là Pháp hay! Pháp thật hay thay

Là Tứ Đế là Tứ Diệu Đế

Pháp đưa thành Thánh - Tứ Thánh Đế

Pháp hay chỉ có một thời thôi

Năm vì tôn giả khai Chánh Trí

Trở thành bậc Thánh trong Phật đạo

 

Vườn nai thơm ngát Pháp Như Lai

Từ đây thành tựu ba ngôi báu

Là Phật, là Pháp là Tăng bảo

Là ba quí báu nhất trần gian.

Đức Phật đã băng trí huệ và từ bi phương tiện khởi lên Pháp Tứ Đế mà dìu dẫn năm anh em Kiều Trần Như. Ngài đã khai thị cho họ chỗ bí áo thâm sâu phá được cái chấp bấy lâu nay khiến họ bừng sáng, tỏ rõ đạo thâm hết mê lầm được giải thoát. Năm anh em Kiều Trần Như cúi đầu trước đức Phật nhận đức Phật là đạo sư và giữ phận là đệ tử. Các vị được đức Phật gọi là Tăng-già (Sangha) và mỗi người được gọi là Tỳ-kheo (Bhiksu). Từ đây ba lên ngôi: Phật, Pháp, Tăng được chính thức xác lập trên thế gian. Và đạo Phật cũng chính thức có mặt trên trái đất này từ đây. Từ năm 594 trước dương lịch, đến nay là 2004 là năm 2598 năm.

 

IX. THÂU NẠP ĐỆ TỬ - BƯỚC ĐƯỜNG HOẰNG HOÁ:

Đức Phật sau khi độ năm anh em Kiều Trần Như, thì đạo của Ngài được thành lập, Ngài là giáo chủ và năm anh em Kiều Trần Như là đệ tử.

a.Thành phần giáo hóa:

Đức Phật cùng nhóm đệ tử đầu tiên lần bước trải qua nhiều miền từ thôn quê đến thành thị để độ cho người có duyên. Ngài đã thâu nhận nhiều hàng đệ tử từ giới xuất gia đến hàng tại gia. Trong số này có đủ thành phần, đủ giai cấp trong xã hội. Từ giai cấp giáo sĩ (Bà-la-môn), giai cấp quí tộc (Sát-đế-lợi) cho đến thương gia…cùng hạ tiện…đều được độ. Nghèo giàu, chủ tớ đều được độ, người tốt kẻ xấu,, người lương thiện, kẻ hung ác đêu được độ, kể cả ngoại đạo. Tất cả đều được độ. Không phân biệt già , trẻ, lớn bé, nam nữ…

Việc giáo hoá độ người như vậy chính là cuộc cách mạng giai cấp ở đức Phật. Ngài đã bình đẳng độ người, khiến cho người được bình đẳng trong sinh hoạt tư tưởng, hành đạo và cả đời sống cũng được tổ chức bình đẳng.

Đặc biệt hơn trong giáo hoá, đức Phật độ cả người nữ - Từ trước người nữ không được tham dự sinh hoạt tu hành, việc tu hành trước đó đặc quyền của người nam. Đức Phật đã khai phóng giới tính nữ, phụ nữ được bình đẳng như nam giới trong sinh hoạt tư tưởng, tu hành. Đây là cách mạng giới tính, xoá đi định kiến “ trọng nam khinh nữ” của xã hội giai cấp Ấn Độ xưa. Đây là một đặc biệt khai phóng phụ nữ, phụ nữ được bình đẳng trên tư duy, tư tưởng, đời sống tinh thần được nâng cao ngang bằng nam giới.

Việc hoằng hoá của đức Phật vì vậy được coi là một tiến bộ tư tưởng rất sớm của nhân loại, một cuộc sống văn hoá thật tốt đẹp.

Ngoài ra, theo kinh điển còn ghi đức Phật ngoài độ loài người, Ngài còn độ cả trời, thần, ma quỉ và loài vật.

Nói chung đức Phật đã giáo hoá và độ khắp chúng sanh.

* GIÁO HOÁ ĐẶC BIỆT

Trong giáo hoá đức Phật còn thể hiện “ân đền nghĩa trả”. Ngài đã báo đáp ân tình trong cuộc sống. Ngài cũng đã như bao người trong cuộc sống vẫn có cha mẹ, vợ con, thân bằng quyến thuộc. Đức Phật đã độ những người này về với Phật đạo.

+ Với cha:

Đức Phật  sau khi thành đạo, Vua cha đã cho xứ giả đi thỉnh Ngài về cung để được thăm viếng. Sứ giả đi trước sau có chín người, nhưng không một ai báo tin Ngài trở về. Họ đến gặp Ngài, bị thu hút vẻ trang nghiêm và Pháp âm ở Ngài mà ở lại xin xuất gia làm đệ tử mà tu hành, rồi đắc quả A-la-hán. Sau cùng đức Vua cho người tôi trung là Ca-lưu-đà-di(Kàludàyi) vốn là bạn thân với Thái tử Tất-đạt-đa đi thỉnh. Ca-lưu-đà-di phụng mệnh nhưng xin trước với nhà Vua là được xuất gia theo Phật.

Ca-lưu-đà-di được xuất gia nghe pháp, nhưng không quên xứ mạng, Ngài thiết tha thỉnh Phật về Vương Cung để thăm phụ hoàng. Đức Phật hoan hỷ. Nhân mùa nắng việc đi lại dễ dàng, đức Phật cùng một số đông đệ tử từ Ràjagaha trở về Kapilavatthu (Ca-tỳ-la-vệ), Ngài vừa đi vừa hoằng hoá, hai tháng mới đến nơi.

Đức Phật thăm hỏi phụ hoàng và hoàng thân quốc thích, rồi phụ hoàng mà thuyết pháp. Đức Vua nhơn đây rõ được chánh pháp được nhiều an ổn.

+Với mẹ ruột: Bà Ma-da(Maya).

Bà Ma-da (Maya) sau khi từ trần được sanh về cõi trời Đao Lợi. Đức Phật biết được và đã truyền pháp độ mẹ giác ngộ chánh pháp được giải thoát thật sự an vui

+Với mẹ nuôi: Bà Ma-ha Ba-xà-ba-đề (Pajapatigotami)

Sau khi Vua cha qua đời, di mẫu Ngài là Ma-ha Ba-xà-ba-đề đã bỏ cung điện cùng một số thế nữ xin xuất gia theo Phật. Đức Phật đã hoan hỷ xin cho bà xuất gia làm Tỳ-kheo-ni ( Bhikkhuni) mở ra một bộ phái tu sĩ nữ. Sau bà chứng được quả A-la-hán hết khổ đau.

+Với Da-du-đà-la (Yasodhara) - Vợ Thái tử, Tất-đạt-đa

Với người vợ khi Ngài còn là Thái tử, Ngài cũng độ cho xuất gia cùng với di mẫu ma-ha Ba-xà-ba-đề trở thành Tỳ-kheo-ni. SauTỳ-kheo-ni Da-du-đà-la cũng đắc thánh quả A-la-hán. Bà sống được 78 tuổi.

+Với La-hầu-la (Rahula): Con của Thái tử Tất-đạt-đa :

La-hầu-la là con của Phật khi Ngài còn là Thái tử. Lần về thăm phụ hoàng mẹ của La-hầu-la là Da-du-đà-la đã dạy hãy đến Sa-môn Cù-đàm mà xin gia tài không phải là thất bảo mà là thất Bồ-đề. Ngài bảo Xá-lợi-phất xuất gia cho La-hầu-la. Lúc ấy La-hầu-la mới hơn mười tuổi. La-hầu-la mở đầu cho chúng Sa di. Đến sau 14 năm đức Phật thành đạo, La-hầu-la mới thọ cụ túc giới, chính thức là Tỳ-kheo. La-hầu-la rồi cũng chứng quả A-la-hán. La-hầu-la viên tịch trước đức Phật và ngài Xá-lợi-phất

b/ Thành quả giáo hoá:

Đức Phật Ngài đã giáo hoá từ nơi này đến nơi khác-vân du hoá độ. Ngài đã trải qua thời gian dài kể từ sau khi thành đạo 30 tuổi cho đến năm viên mãn cuộc đời lúc 80 tuổi là 49 năm tròn. Ngài có được số đệ tử chính thức sống đời xuất gia, sống không gia đình, không vợ chồng con cái, không nghề nghiệp, chỉ đi xin ăn. Số này người nam (Tỳ-kheo) có đến 1250 vị, và người nữ (Tỳ-kheo-ni) có trên 500 vị. Đệ tử nam nữ xuất gia như vậy trên dưới 2000 vị.

Ngoài ra còn một số lớn nữa là cư sĩ tại gia, có chồng vợ con cái làm ăn bình thường như người trong xã hội, số này rất đông không có số liệu rõ ràng ( Số này đông hơn số liệu xuất gia gấp nhiều lần)

Bước hành trình du hoá của đức Phật thuở xưa ở Ấn Độ có thể là ¼ đất nước Ấn Độ hôm nay (2004).

Trong giáo hoá đặc biệt đức Phật không dùng quyền thế triều đình, hay những quyền lực khác, mà chỉ bằng năng lực trí huệ và từ bi ở chính mình.

 

X. TỔ CHỨC TĂNG ĐOÀN:

Đệ tử xuất gia của đức Phật được tổ chức thành tăng đoàn (sanga). Tăng đoàn được chia ra bốn chúng ( nhóm). Mỗi Tăng là 4 người:

Nam: 1- Sadi: tuổi đời dưới 20

          2- Tỳ-kheo: tuổi đời trên 20

Nữ: Chia ra làm 2 chúng chính

1-     Sadi ni: tuổi đời dưới 20

2-     Tỳ-kheo-ni: tuổi đời trên 20.

 

Về Nứ(ni), Từ Sadi ni đến Tỳ-kheo ni còn một hạng chuyển tiếp nữa là Thức-xoa-ma-na-ni.

Nam Nữ có sinh hoạt riêng, Mỗi bên có lãnh chúng riêng. Đức Phật trực tiếp lãnh đạo và giáo huấn chúng tăng tu hành.

Việc tổ chức trong Tăng đoàn thật đơn giản.

 

XI. ĐỜI SỐNG:

a/ Tinh Thần:

Tăng đồ sống lấy Pháp làm chủ yếu, sống theo pháp, hành theo Pháp để giải trừ si ám mà giác ngộ giải thoát khổ đau. Pháp chính là yếu là Tứ đế ( bốn chân lý chắc thật). Tăng chúng còn phải giữ giới luật để đời sống có nề nếp hoà hợp giới hạn điều xấu ác cho cá nhân và tập thể Tăng.

b/ Thân xác:

Để thân xác sống còn mà thực hành Pháp, Tăng đồ đi xin thức ăn của người để nuôi sống, chỉ được ba bộ áo rách và một bình bát để đựng thức ăn, một mảnh vải ( toạ cụ) để nằm ngồi và một vợt lược nước.

Buổi đầu Phật và chúng Tăng sống đời không nhà, ngủ dưới gốc cây. Nhưng về sau tăng chúng đông, trong số tín đồ có Vua Tần-bà-sa-la. Ông Cấp-cô-độc thấy đời sống vô gia cư như vậy thật bất tiện khi gió mưa, thật vất vả cho Phật và chư Tăng ở. Tinh xá nổi tiếng thời bấy giờ là Tinh Xá Trúc Lâm, tinh xá Kỳ Viên. Dù có Tinh Xá, nhưng vẫn còn một số tăng chúng sống độc cư và lang thang để hành Đạo.

Tuy Tăng (nam), Ni(nữ) có sinh hoạt riêng nhưng ni khi cư trú phải ở gần Tinh Xá Tăng để được an tâm hơn

Đời sống của chúng Tăng rất đơn giản. Hình thức thì đầu cạo trọc mặc áo vá quanh năm. Đầu trần đi chân đất không giày dép.

 

XII. PHÁT TRIỂN TĂNG ĐOÀN:

Đức Phật và nhóm năm anh em Kiều Trần Như du hoá lần hồi thu nhận thêm nhiều Tăng chúng và nhiều tín đồ. Số tăng chúng này phần đông từ ngoại đạo gia nhập.

1. Ba anh em Ca-diếp (Kassapa):

Đức Phật đến Ueruvela, nơi đây có ba anh em tu sĩ khổ hạnh tóc dài tên là Ueruvela Kassapa, Nadi Kassapa và Gaya Kassapa, ba anh em này mỗi người sống một nơi, anh cả có 500 đệ tử, em giữa có 300 đệ tử và em út có 200 đệ tử. Người anh lớn tự cho mình là đắc quả A-la-hán. Đạo này thờ lửa. Đức Phật đến ngủ đêm trong phòng thờ lửa này,trong phòng ấy có một con rắn chúa dữ tợn. Đức Phật đãn hàng phục được con rắn chúa này. Ueruvela Kassapa thấy vậy lấy làm mừng lắm, ông thỉnh Phật ở lâu thêm nữa và đối đãi như một vị thượng khách. Lúc đầu ông cho rằng đức Phật chưa đắc quả A-la-hán như ông, ông chưa qui phục. Nhưng sau đó được đức Phật cho thấy rằng ông chưa được quả A-la-hán  ấy và chính Đức Phật mới thật sự là đạt đạo quả A-la-hán. Khi biết rõ sự thật này ông xin quy y và xuất gia theo Phật cùng với tất cả các đệ tử của ông.

Noi theo anh, hai người em cùng với các đệ tử cũng xin xuất gia theo Phật. Như vậy cả nhóm tính chung được tất cả là 1.000 vị trở thành Tỳ-kheo. Chẳng bao lâu cả anh em ông Ca-diếp (Kassapa) đều đắc quả A-la-hán.

2. Ngài Xá Lợi Phất (Sariputta) và Mục-kiền-liên ( Mogggallana):

            Ngài A-tư-đà-xá-kỳ-bà (Assaji), một trong năm vị đệ tử đầu tiên của Đức Phật ( nhóm Kiều Trần Như ), đi về hướng Rayadaha dưới sự phân bổ của Đức Phật. Ở đây Xá-lợi-phất gặp khi Ngài đang trên đường khất thực. Xá-lợi-phất nhìn qua dung nghi của Ngài thán phục cho rằng Ngài đã đắc quả A-la-hán , hay ít ra cũng hướng đến quả vị A-la-hán ngài Xá-lợi-phất hỏi: Xin Ngài hoan hỷ cho biết mục đích nào Ngài thoát ly thế tục? Vị Tôn Sư của Ngài là ai? Vị Tôn Sư đã truyền dạy giáo lý như thế nào?

Ngài A-xá-kỳ-bà (Assaji) liền đọc bốn câu kệ của Phật đà.

Ngài A-xá-kỳ-bà (Assaji) cho biết vị Tôn Sư là Phật Thích-ca Mâu-ni và Ngài đọc lên bài kệ về đạo lý nhân duyên sinh của Phật.

Cội gốc của muôn vật,

Ấy là nhân Duyên Sinh

Không ai là chủ cả

Nếu người hiểu pháp này

Thì được đạo chân thật

Xá-lợi-phất nghe qua bài kệ thấu lý, tỏ ngộ liền xa lìa trần cấu. Biết đức Phật là vị Đạo sự chân chánh. Lúc trở về Ngài tìm gặp người bạn thân nhất là Mục-kiền-liên và nói lại bài kệ cho bạn nghe. Đây cũng là thực hiện lời giao ước giữa nhau:” Nếu ai gặp được vị đạo sư chân chánh thì nói cho nhau biết”. Sau đó hai vị liền dẫn đồ chúng cả 200 người đến Đức Phật xin được xuất gia, vào tăng đoàn.

Nửa tháng sau Xá-lợi-phất đắc quả A-la-hán ngay vào chiều hôm ấy, đức Phật tập chúng tấn phong ngài Xá-lợi-phất vào hàng đệ tử lớn cùng với Ngài Mục-kiền-liên để lãnh đạo tăng già. (Đức Mục-kiền-liên đã đắc quả A-la-hán trước đó một tuần.)

Kể từ khi Ngài Xá-lợi-phất và Mục-kiền-liên hợp sức lãnh đạo chúng và tiếp tay với đức Phật giáo hoá, tăng đoàn ngày càng phát triển tốt đẹp hơn và Pháp Phật Đà cũng lan rộng hơn lên.

Sự phát triển tăng đoàn về đời sống còn có sự đóng góp của các hàng tín thí cư sĩ Phật tử. trong đó có vị thí chủ quan trọng nhất là ông Cấp-cô-độc (Anathapindica). Đây là một vị trưởng giả đầy thiện tâm. Ông Cấp-cô-độc đã kiến tạo ngôi tinh xá Kỳ Viên ( Yetavana). Đất tinh xá này được mua bằng cách trải vàng trên khắp mặt đất, nơi đây đức Phật đã nhập hạ qua mười chín lần.

 

XIII. NGHỊCH DUYÊN

Cuộc đời hành hoá của đức Phật không phải chỉ có thuận duyên mà vẫn có nghịch duyên gây khó cho sự giáo hoá của Ngài. Những nghịch duyên này đã xảy ra từ bên ngoài Tăng đoàn cho đến cả bên trong Tăng đoàn từ những nhà ngoại đạo cho đến cả đệ tử.

Trong những hàng đệ tử có Đề-bà-đạt-đa là người thường hay gây khó khăn cho đức Phật nhất. Ông vừa là đệ tử ở trong tăng đoàn vừa là thân quyến của đức Phật. Ông là em con chú của đức Phật khi còn là thái tử. Ông xuất gia cùng với Ngài A-nan-đà và các hoàng thân dòng Thích-ca. Tỳ-kheo Đề-bà-đạt-đa không chứng thánh quả nào nhưng có nhiều phép thần thông. Ông được Vua A-xà-thế ủng hộ và đã cất cho ông một tu viện riêng. Những ngày đầu xuất gia ông là một Tỳ-kheo gương mẫu chính ngài Xá-lợi-phất đã ca ngợi tài đức của ông. Nhưng về sau vì lợi danh làm mù quáng ông lại ganh tỵ tự đặt mình là kẻ đối nghịch với đức Phật. Thần thông của ông bị mất hết khi lòng sân hận phát sinh.

Đề-bà-đạt-đa dù vậy cũng có rất đông đệ tử, có người đã sùng bái ông hơn cả Ngài Xá-lợi-phất. Ông đã dành quyền lãnh đạo giáo hội Tăng già trước khi đức Phật tuổi đã cao. Đức Phật không thuận, Đề-bà-đạt-đa lấy làm tức giận và quyết trả hận. Sau đó Đề-bà-đạt-đa cùng với Thái tử A-tư-đà-xa-thế âm mưu sát hại Phật. Ông A-xà-thế giết cha đoạt ngai vàng, còn ông thì giết đức Phật để nắm quyền lãnh đạo giáo hội Tăng già. A-xà thế đã thành công giết cha trong khi vua cha là người có tâm đạo. Riêng Đề-bà-đạt-đa thì mướn người đi giết Phật. Nhưng Đề-bà-đạt-đa không thực hiện được ý đồ vì ở trước Phật họ bị từ lực của Phật cảm hoá nên đã quy y với Ngài. Đề-bà-đạt-đa quyết tâm ra tay giết hại Phật. khi Phật di bên sườn núi, ông từ trên cao lăn đá xuống ngay đức Phật để đè ngài chết. Nhưng không, tảng đá bị va chạm bể ra nhiều mảnh, đức Phật chỉ bị một miếng vụn rơi nhẹ vào chân chảy máu chút ít.

Một lần khác Đề-bà-đạt-đa mưu hại Phật bằng cách cho voi uống rượu mạnh thật say rồi thả nó chạy đến đức Phật. Ngài A-nan hoảng sợ hy sinh đứng chắn trước Phật để cứu Ngài, nhưng bằng từ lực của Phật đã cảm hoá được con voi say.

Đề-bà-đạt-đa giết phật nhiều lần không được, lòng ghen hờn ngã mạn của ông cộng với tính xảo trá đã mưu toan gây chia rẽ tăng đoàn. Những hành động của ông quá lộ liễu, xấu xa đầy tội lỗi, khiến cho vua A-xà -thế cũng phải chán bỏ. Với sự khôn ngoan khéo léo của ông cũng đã dần dụ được một số Tỳ-kheo thấp kém thiếu hiểu và những vị mới xuất gia không rành giáo pháp bỏ Phật đi theo ông đến Gayaxixa. Ngài Xá-lợi-phất và Mục-kiền-liên phải đến đó để giải thích làm sáng tỏ giáo Pháp của Phật Đà và dẫn các vị ấy về lại với Phật.

Đề-bà-đạt-đa tội lỗi ngập tràn tâm tham sân bất định nên lâm trọng bệnh. trước khi lìa đời ông mới thật sự ăn năn hối lỗi và mong muốn ý kiến đức Phật, nhưng ông không được gặp Phật, Tuy vậy đến giây phút cuối cùng ông cũng đọc được câu qui y Phật.

 

XIV. CÁC ĐỆ TỬ TIÊU BIỂU

Đức Phật giáo hoá khắp xứ Ấn Độ thời ấy trải qua 49 năm có được một số chúng chứng thành quả A-la-hán gồm 1250 vị. Trong số này nhóm năm anh em Kiều Trần Như là hàng đệ tử đầu tiên đã có sự tiếp tay trong buổi đầu với đức Phật thật đáng kể. Tuy nhiên trong tăng đoàn nổi bật nhất gồm 10 vị được gọi là thập đại đệ tử. Đây là 10 vị tiêu biểu trong số 1250 vị.

1.            Xá-lợi-phất (Sariputta), trí huệ đệ nhất.

2.            Mục-kiền-liên (Moggallana), thần thông đệ nhất

3.            Phú-lâu-la (Purna), thuyết pháp đệ nhất

4.            Tu-bồ-đề (Subhuti), giải không đệ nhất

5.            Ca-chiên-diên (Katyăyna), luận nghị đệ nhất

6.            Đại Ca-diếp (Kassapa), đầu đà đệ nhất

7.            A-na-luật (Anỉudiha), thiên văn đệ nhất

8.            Ưu-ba-ly (Upali), trì giới đệ nhất

9.            A-nan-đà (Ananđà), đa văn đệ nhất

10.        La-hầu-la (Rahula), mật hạnh đệ nhất

Ngoài mười vị tiêu biểu còn có nhiều vị cũng có hạnh đặc biệt riêng. Các vị này gồm -đào cả chúng Tỳ-kheo và Tỳ-kheo-ni.

            A, Chúng Tỳ-kheo :

 

   1. Kiều-Trần-Như: Hạnh pháp lạc

   2. Ca-ly-hào -tử-bạt-đề: Hạnh tánh quí

   3. La-cưu-sất-ca-bạt-đề: Hạnh mỹ Ngôn.

   4. Tân-đầu-lô: hạnh sư tử hống

   5. Chu-lỵ-bạt-đà-già: Hạnh giải thoát.

   6. Ma ha Bàn-đề: Hạnh vô tưởng

7. Ly-bà-đa: Hạnh thiền định

8. Tô-na-khảo-ly-tỳ-sa: Hạnh tinh tấn

9. Văn-nhị-bách-ức: Hạnh mỹ âm

10. Tư-ba-ly: Hạnh sở đắc

11. Bà-ca-ly: Hạnh tín tâm

12. Câu-hy-la: Hạnh đắc giải

13. Cưu-sất-đà-na: Hạnh vận

14. Bà-kỳ-sa: Hạnh thi tài

15. Ưu-lâu-tần-loa Ca-diếp: Hạnh lãnh chúng

20. Kiếp-tân-na : Hạnh giáo giới Tỳ-kheo.

 

b. Chúng Tỳ-kheo-ni

1. Ma-ha Ba-xà-ba-đề: Hạnh pháp lạc

2. Kế -ma: Hạnh trí huệ

3. Liên-hoa-sắc: Hạnh thần thông

4. Ba-sất-già-la: Hạnh trì luật

5. Pháp Dữ: Hạnh thuyết pháp

6. Nan-đà: Hạnh thiền định

7. Tô-na: Hạnh tinh tấn

8. Cổ-câu-la: Hạnh thiên nhãn

9. Bạt-đà-nhã-đà-la: Hạnh tiếp huệ

10. Chi-già-la-ma-da: Hạnh tín tâm

Ngoài chúng xuất gia Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni ra còn có chúng ưu bà tắc, ưu bà di có những người nổi bật như sau:

C, Chúng ưu Bà Tắc (Cư sĩ nam):

1. Tu-đạt: Hạnh bố thí

2. Chất-đa: Hạnh thuyết pháp

3. Úc-ca: Hạnh cúng dường

4. Kỳ-bà: Hạnh hộ y

5. Na-cưu-la: Hạnh tín thật

6. Tu-la-am-bà-đa: Hạnh bất loạn tín tâm

D, Chúng Ưu Bà Di (cư sĩ Nữ)

1. Tỳ-xá-khư: Hạnh bố thí

2. Uất-đa-la: Hạnh đa văn

3. Tu-bỉ-da: Hạnh khán bệnh

4. Ca-đế-nhị: Hạnh tín ngưỡng kiên cố

5. Ca-ly: Hạnh truyền tam bảo

E, Các ông Vua:

Trong thời đức Phật còn tại thế đã có những ông Vua quy y Phật:

1.      Vua Bình Sa Vương (bimbisara)

Vua Bình Sa Vương trị vì vương quốc Ma-kiệt-đà (Magadha) là vị vua quy y Phật đầu tiên trong các vua. Ông lên ngôi lúc 15 tuổi trị vì được 52 năm. Nhà vua đã dâng cúng khu rừng Trúc Lâm đến Đức Phật để xây cất tinh xá. Đức Phật hoan hỷ hứa nhận. Nơi khu rừng trúc lâm là nơi ẩn trú của loài sóc đã trở thành nơi trú ngụ của Phật và chúng tăng. Khu rừng đó có nhiều cây to bóng mát là chỗ ẩn dật kín đáo. Đức Phật đã nhập hạ nơi đây ba năm liên tiếp và ba mùa hạ khác nhau nữa.

2.      Vua Ba Tư Nặc (Pasenadi Kosala):

Vua Ba-tư-nặc trị vì vương quốc xá vệ (Kosala). Ông cùng tuổi với đức Phật. Nhà Vua đủ tài đủ đức quy y Phật lúc còn trẻ tuổi. Nhà vua rất quí kính đức Phật. Mỗi lần lạy Phật xong là ôm hôn chân Phật. Ông có bà chánh hậu là Mạt Lỵ ( Malika) rất sùng đạo, thông minh sáng suốt học rành pháp Phật. Bà đã dẫn dắt đức Vua trên đường đạo đức như một người bạn chân thành.

 

XV. TƯ CÁCH VÀ NẾP SỐNG ĐỜI THƯỜNG.

Trọn cuộc đời thành đạo giáo hoá của đức Phật hiện rõ các đức tính:

-         Giản đơn bình dị

-         Hiền hoà dung dị

-         Trí hụê sáng suốt

-         Từ bi cứu khổ

-         Phương tiện thiện xảo

-         Diệu dụng phi thường

Là một người:

Đại trí huệ, đại từ bi, đại phương tiện, đại hỷ, đại xã, đại dũng, đại hùng, đại lực…

Đức Phật là một con người giác ngộ siêu việt, nhưng Ngài có một đời sống rất bình dị rất gần gũi với con người với chúng sanh. Ngài sống như một con người bình thường, cũng ăn, cũng ngủ, cũng nói nín, đi lại, đại tiểu tiện…Đời sống vì vậy xem ra không có gì khác biệt với người đời.

Theo kinh Kim Cang (Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật Kinh) đã diễn tả đời sống đức Phật như sau:

“ Khi sắp đến bữa ăn trưa, đức Thế Tôn mặc y cầm bát đi vào thành lớn Xá Vệ để xin ăn.

Vào trong thành, chia ra thứ lớp đi xin đã xong, rồi trở về chỗ cũ. Bữa ăn xong, thây dọn y bát rồi, rửa chân xong, đức Phật trải toà ra ngồi nghiêm chỉnh”.

Đời sống hằng ngày của đức Phật được chia ra làm sáu thời: Sáng – trưa-chiều-đầu hôm-giữa đêm-cuối đêm.

Buổi sáng: Đức Phật thuyết pháp độ người hữu duyên. Gần trưa ngài đi khất thưch, hoặc đi chứng trai do người thỉnh. Ngài ăn cơm vào đúng giữa trưa ( giờ ngọ).

Buổi trưa: Đức Phật nghỉ ngơi giây lát. Xong Ngài khai thị điểm hoá chỉ dạy cho các Tỳ-kheo.

Buổi chiều: Đức Phật giảng dạy pháp cho các hàng thiện tín.

Đầu hôm: Dành riêng cho các vị Tỳ-kheo, Đức Phật giải nghi chỉ dạy riêng.

Giữa đêm: Đức Phật toạ thiền nói pháp cho Chư Thiên và Phi Nhơn.

Cuối đêm: Đức Phật hành thiền, ngủ khoảng một canh và Thiền hành.

Sau đêm sáng sơm Đức Phật tắm rửa.

Trong một ngày đức Phật ăn một bữa vào lúc giữa trưa và ngủ một canh vào cuối đêm.

Đức Phật đi chân đất không giầy dép, và đầu trần không mũ nón, mặc áo rách quanh năm.

Những việc lặt vặt trong sinh hoạt có thị giả (đạo hầu) chăm lo. Vị thị giả hầu Phật lâu nhất là Ngài A-nan, đã hầu suốt 35 năm đến khi Phật viên tịch.

Đức Phật có đời thường như bao người, nhưng sống bằng tâm thái hoàn toàn giải thoát qua các căn các cảnh, các tình huống sự kiện.

Như vậy,

Đức Phật là một con người,

Nhưng, là một con người giải thoát.

 

XVI..CUỐI ĐỜI – VIÊN TỊCH - NHẬP ĐẠI NIẾT BÀN - CHẾT

Đức Phật giáo hoá suốt đời, tấm thân xác thịt của Ngài đã mòn mỏi nên cũng có lúc đau bệnh. Đến năm 80 tuổi là năm giáo hoá thứ 49. Ngài đã tận lực vì đời, nên thân tứ đại cũng tiêu hao theo định luật vô thường. Năm nay Ngài có bệnh và sau đó viện tịch. Ngài sống được 80 tuổi. Ngài mất vào năm 544 trước dương lịch đến nay ( 2004) là 2548 năm.

a)Nhân duyên bệnh và sự giáo hoá cuối cùng:

( Theo kinh Đại Niết-bàn – Kinh Trường Bộ)

Trên đường du hoá, đức thế tôn đến Pàrà ở trong vườn xoài của người thợ sắt Thuần Đà (Cunda).

Thuần Đà được thế tôn thuyết pháp, ông lấy làm phấn khởi hoan hỷ, liền bạch Thế Tôn:” Bạch Thế Tôn, mong Thế Tôn nhận lời mời của con, ngày mai đến dùng cơm với chúng Tỳ-kheo” Thế Tôn im lặng nhận lời.

Thợ sắt Thuần Đà, sau khi đêm đã mãn, liền sửa soạn tại nhà các thức ăn ngon đã quí đủ loại cứng loại mềm, với nhiều nấm mộc nhĩ. Giờ thọ trai đến Thuần Đà thỉnh Thế Tôn dùng bữa.

Thế Tôn đắp y mang bát cùng với chúng Tỳ-kheo đến nhà thợ sắt Thuần Đà thọ thức ăn. Ăn xong đức Thế Tôn thuyết pháp, Thuần Đà nghe lòng hoan hỷ.

Sau bữa ăn đó đức Thế Tôn bị trúng độc nấm nhiễm bệnh nặng. Ngài bị bệnh kiết lỵ máu, đau đớn gần như đến chết. Thế Tôn chánh Niệm tỉnh giác, nhẫn nại, chịu đựng cơn bệnh.

Bệnh như vậy, Thế Tôn vẫn bảo tôn giả A-nan-đà:

-Này Anada, chúng ta hãy đi đến Câu Thi Na (Kusinàra).

Hành trình đến Câu Thi Na khoảng chín cây số, thế mà Thế Tôn vẫn cố đến. (Ngài đến Câu Thi na để nhập Đại Niết-bàn, viên tịch).

Thế Tôn dù mỏi mệt trên đường đi phải nghỉ nhiều lần, nhưng Thế Tôn vẫn thuyết pháp độ người. Ngài độ Pukkusa dòng Mallà và nhận cặp áo màu vàng chói của Pukkusa dâng cúng.

Lúc này, nước da của Thế Tôn trở nên sáng chói lạ thường, sáng chói hơn cả chiếc y sáng chói.

A-nan hỏi vì sao màu da của Như Lai hết sức thanh tịnh và sáng chói. Một là đêm Như Lai chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Giác, hai là đêm Như Lai sắp diệt độ, vào cõi Niết-bàn, không còn dư y sanh tử nữa.

Này Ananda, hôm nay khi canh cuối cùng đã mãn, tại Upavattana ở Câu Thi Na, trong rừng Sala của dòng họ Mallà, giữa hai cây Sa-la song thọ, Như Lai sẽ diệt độ.

Này Ananda, giờ đây hãy đi đến con sông Kakutthà, tắm, uống nước và lội qua bờ bên kia để đến vườn xoài.

Ở đây, Thế Tôn nói với các Đại đức Cundaka xếp áo Sanghati làm tư cho Ngài nằm nghĩ vì Ngài mệt mỏi. Trong tư thế nằm sư tử, hông phải dưới, hai chân để lên nhau, chánh niệm, tỉnh giác. Khi được khoẻ một chút, Thế Tôn nói với tôn giả Ananda:

- Này Ananda, rất có thể có người làm cho thợ sắt Thuần Đà hối hận :” Này Hiền Giả Thuần Đà, thật không lợi ích gì cho ngươi thật là tai hại cho ngươi, vì Như Lai dùng bữa ăn cuối cùng từ người cúng dường và nhập diệt”.

Này Ananda, cần phải làm tiêu tan sự hối hận ấy của người thợ sắt Thuần Đà, (hãy nói):

Này Hiền Giả, thật là công đức cho bạn, vì Như Lai dùng bữa ăn cuối cùng từ bạn cúng dường và nhập diệt. Này Hiền Giả Thuần Đà tôi tự thân nghe, tự thân lãnh thọ lời nói của Thế Tôn:

- Có hai sự cúng dường ăn uống đồng một quả báo, đồng một dị thục quả, quả báo lớn hơn, lợi ích hơn các sự cúng dường ăn uống khác. Thế nào là hai?

Một là bữa ăn trước khi Như Lai chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, hai là bữa ăn trước khi Như Lai diệt độ Niết-bàn giới, không còn di hưởng sanh tử. Hai bữa ăn này đồng một quả báo, đồng một dị thục quả, quả báo lớn hơn, lợi ích hơn các sự cúng dường ăn uống khác;” Nhờ hành động này, hiền giả Thuần Đà sẽ được hưởng tuổi thọ, nhờ hành động này, hiền giả Thuần Đà sẽ được hưởng danh tiếng, nhờ hành động này hiền giả Thuần Đà sẽ hưởng cõi trời, nhờ hành động này, hiền giả Thuần Đà sẽ được hưởng uỷ quyền”.

Này Ananda, cần phải làm cho thợ sắt Thuần Đà tiêu tan mối hận.

Đức Thế Tôn đã cư xử với Thuần Đà rất từ bi như vậy, dù Thuần Đà là một nhân duyên chính dẫn đến bệnh và đưa đến tử vong cho đức Thế Tôn.

Đức Thế Tôn lại đi qua bờ bên kia sông Hirannavati, đến Câu Thi Na – Upàvattanna rừng Sala của dòng họ Mallà.

Đến nơi đức Thế Tôn mệt mỏi bảo ananda trải chỗ nằm. Ngài nằm đầu hướng về phía bắc giữa hai cây Sa-la song thọ. Ngài nằm theo dáng nằm con sư tử, hông phải dưới, hai chân để lên nhau, chánh niệm và giác tỉnh. Đức Thế Tôn chuẩn bị vào nửa đêm sẽ nhập Đại Niết-bàn- Viên Tịch.

Tôn giả Ananda thưa với Phật:

-Bạch Thế Tôn, Thấy Thế Tôn bệnh, thân con cảm thấy yếu ớt như lau sậy, mắt con mờ mịt như không cảm thấy phương hướng, dầu cho, Bạch Thế Tôn, con được một chút an ủi rằng, Thế Tôn sẽ không diệt độ, nếu ngài chưa có lời “ di giáo” lại cho chúng Tỳ-kheo.

Đức Phật đáp lời Ananda:

-Này Ananda, chúng Tỳ-kheo còn mong mỏi gì nữa ở ta? Này Ananda, Ta đã giảng chánh Pháp, không có phân biệt trong ngoài, vì này Ananda, đối với các Pháp, Như Lai không bao giờ là vị Đạo sư còn nắm tay.

Này Ananda, những ai nghĩ rằng:” Như Lai là vị cầm đầu chúng Tỳ-kheo” hay” chúng Tỳ-kheo chịu sự giáo huấn của Như Lai”, thời này Ananda, người sẽ có lời “di giáo” cho chúng Tỳ-kheo. Này Ananda, Như Lai không nghĩ rằng:” Ta là vị cầm đầu chúng Tỳ-kheo” hay” chúng Tỳ-kheo chịu sự giáo huấn của ta” thời này Ananda, làm sao Như Lai có lời di giáo cho chúng Tỳ-kheo?

Này ananda, ta đã già, đã trở thành bậc trưởng thượng, đã đến tuổi lâm chung, đã đến 80 tuổi. này Ananda như cỗ xe đã mòn, sở dĩ còn dậy được là nhờ dây thắng chằng chịt, cũng vậy thân Như Lai được duy trì sự sống giống như chính nhờ chống đỡ giây chằng. Này Ananda, chỉ trong khi Như Lai không tác ý đến tất cả tướng, với sự diệt trừ một số cảm thọ, chứng và an trú vô tướng tâm định, chính khi ấy thân Như Lai được thoải mái.

Vậy nên, này Ananda, hãy tự mình làm ngọn đèn cho chính mình, hãy tự mình nương tựa chính mình, chớ nương tựa một gì khác. Dùng chánh pháp làm ngọn đèn, dùng chánh pháp làm chỗ nương tựa, chớ nương tựa một gì khác.

Này Ananda, thế nào là vị Tỳ-kheo hãy tự mình là ngọn đèn cho chính mình, tự mình nương tựa chính mình, không nương tựa một gì khác. Dùng chánh pháp làm ngọn đèn, dùng chánh pháp làm chỗ nương tựa, không nương tựa một gì khác.

Này Ananda, ở đời vị Tỳ-kheo, đối với thân quán thân, tinh tấn, tỉnh giác, Chánh niệm, nhiếp phục mọi tham ái, ưu bi trên đời, đối với các cảm thọ…đối với tâm…đối với Pháp. Quán thọ trên thọ, Quán Tâm trên Tâm, Quán Pháp trên Pháp, tinh tấn , tỉnh giác, chánh niệm, nhiếp phục mọi tham ái, ưu bi trên đời. Này Ananda, như vậy vị Tỳ-kheo tự mình là ngọn đèn cho chính mình, tự mình nương tựa chính mình, không nương tựa một gì khác. Dùng chánh pháp làm ngọn đèn, dùng chánh pháp làm chỗ nương tựa, không nương tựa một gì khác.

Này Ananda, những ai sau khi ta diệt độ tự cho mình là ngọn đèn cho chính mình, tự mình nương tựa chính mình, không nương tựa một gì khác. Dùng chánh pháp làm ngọn đèn, dùng Chánh pháp làm chỗ nương tựa, không nương tựa vào một pháp gì khác, những vị ấy, này Ananda là những vị tối thượng trong hàng Tỳ-kheo của Ta, nếu vị ấy tha thiết học hỏi.

Bệnh tình của đức Phật mỗi lúc một trầm trọng, đức Phật biết rằng mình sẽ vào Đại Niết-bàn trong đêm nay. Không những thế việc này đức Phật đã biết trước ba tháng. Khi ác ma đã hiện đến và thúc hối Ngài phải lìa đời bằng lời lẽ:

-“Bạch Thế Tôn, nay phạm hạnh Thế Tôn giảng đã được thành tựu, thịnh đạt, phổ biến, quảng bá, biến mãn nghĩa là được khéo giảng cho loài người. Như vậy, nay Thế Tôn hãy diệt độ, thiện thệ hãy diệt độ. Bạch Thế Tôn nay đã đến thời Thế Tôn diệt độ”.

Đức Phật đáp lời của ác ma như sau:

-“Này ác ma hãy yên tâm, không bao lâu Như Lai sẽ diệt độ. Sau ba tháng bắt đầu từ hôm nay, Như Lai sẽ diệt độ”.

Thế là đêm nay vừa đủ ba tháng. Đức Phật đã biết trước rằng mình sẽ diệt trước ba tháng. Ngài đã nói với ác ma như vậy, đó chính là lời Ngài nói với ma tử (chết) một trong bốn ma (sanh, già,bệnh,chết).

Thế Tôn đã thốt lên lời cảm khải qua bài kệ:

Mạng sống có hạn hay vô hạn

Tu sĩ từ bỏ, không kéo dài

Nội tâm chuyên nhất trú Thiền Định

Như thoát áo giáp đang mang mặc.

Thế Tôn cũng có lời từ biệt và dạy các Tỳ-kheo:

Ta đã già dư mạng chẳng còn bao

Từ biệt các ngươi, ta đi một mình

Tự mình làm sở y cho chính mình

Hãy tinh tấn, chánh niệm giữ giới luật

Nhiếp phục ý chí, bảo hộ tự tâm

Ai tinh tấn trong pháp luật này

Sẽ diệt sanh tử, chấm dứt khổ đau.

Đức Phật trước khi nhập Niết-bàn lìa đời, tuy Ngài đang mệt, sức yếu nhưng Ngài đã thuyết pháp cho du sĩ ngoại đạo là ông Tu Bạt Đà la( Subhadda), ông Tu Bạt Đà La nghe qua phát tâm quy y Phật, quy y Pháp, Quy y tăng và xin đức Phật được xuất gia, được thọ đại giới. Đức Phật hoan hỷ và bảo tôn giả Ananda làm lễ xuất gia cho Tu Bạt Đà la. Đây là vị đệ tử cuối cùng của Đức Phật.

Đức Phật nói với Ananda:

-Này Ananda, Pháp và Luật, ta đã giảng dạy và trình bày, sau khi ta diệt độ, chính Pháp và Luật ấy chính là những đạo sư của các Ngươi.

-Này Ananda, Như lai biết rằng trong chúng Tỳ-kheo này không có một Tỳ-kheo nào còn nghi ngờ hay phân vân gì đối với Phật, Pháp, chúng Tăng, đạo hay phương pháp.

Và Thế Tôn nói với các Tỳ-kheo:

-Này các Tỳ-kheo, nay ta khuyên dạy các ngươi:

Các pháp hữu vi là vô thường

Hãy tinh tấn chớ có phóng dật”

Đó là lời cuối cùng của Như Lai.

Nói xong Đức Phật vào đại định, tấn nhập Đại Niết-bàn. Ngài diệt độ lìa đời, xã báo thân thể nhập pháp thân Như lai. Vào lúc nửa đêm, ngày 15-2 âm lịch. Năm 544 trước dương lịch.

Tôn giả A-Na-Luật (Anuruddha), thốt lên bài kệ:

Không phải thuở ra vào

Chính tâm trú chánh định

Không tham ái tịch tịnh

Tu sĩ hướng diệt độ

Chính tâm tịnh bất động

Nhẫn chịu mọi cảm thọ

Như đèn sáng bị tắt

Tâm giải thoát hoàn toàn. 

Tôn giả Ananda cũng thốt lên lời rằng:

Thật kinh khủng bàng hoàng

Thật râu tóc dựng ngược

Khi bậc toàn thiện năng

Bậc giác ngộ nhập diệt

Khi Thế Tôn diệt độ, những Tỳ-kheo chưa giải thoát tham ái, có vị thì khóc than với cánh tay duỗi cao, có vị thì khóc than thân nằm nhoài dưới đất, lăn lộn qua lại” Thế Tôn nhập diệt quá sớm, Thiện thệ nhập diệt quá sớm”. Còn những Tỳ-kheo diệt trừ tham ái, những vị này an trú chánh niệm tỉnh giác, nhẫn nại, suy tư:” Các hành là vô thường, làm sao tránh khỏi sự kiện ấy”?

Dân làng Mallà khi hay tin đức Thế Tôn tịch diệt rất đau đớn muộn sầu, tâm tư khổ não, kẻ thì khóc than với đầu bù tóc rối, kẻ thì khoc than với cánh tay duỗi cao, kẻ thì khóc than với thân bổ nhoài dưới đất, lăn qua lộn lại:” Thế Tôn nhập diệt quá sớm, pháp nhãn biến mất ở trên đời quá sớm”.

Lúc Thế Tôn tịch diệt, khắp cả Câu thi Na cho đến đống bụi đống rác, được giải hoa la liệt lên đến đầu gối, tất cả đều là Hoa Mạn Đà La. Thân xác Thế Tôn được di hành qua hướng Bắc thành, rồi qua trung tâm của thành, rồi qua phía đông, đến phía đông thành, tại đền của dân Mallà tên Makuta-bandhana và đặt thân xá lợi của Thế Tôn tại chỗ ấy.

Lễ an táng đức Thế Tôn được thực hiện theo nghi lễ của một vị Chuyển Luân Thánh Vương và được đem thiêu trên giàn hoả đầy hương liệu quí. Lễ tang được để qua bảy ngày.

Khi đến giờ hoả thiêu, bốn vị tộc trưởng ở Mallà châm lửa, nhưng không cháy.

Tôn giả A-la-luật cho biết vì Tôn giả Ma-ha-ca-diếp chưa kịp về. Hãy chờ tôn giả.

Tôn giả Ma-ha-ca-diếp về đến, Ngài và chúng tăng trong đoàn đi nhiễu quanh giản hoả 3 lần, cởi mở chân Thế Tôn và cúi đầu đảnh lễ. Sau khi tôn giả Ma-ha-ca-diếp và 500 vị Tỳ-kheo đảnh lễ Thế Tôn xong, thì lửa phực cháy.

Thân xác đức Thế Tôn được cháy sạch không có tro, không có than, chỉ có xương xá lợi còn lại.

Xá Lợi Phật được người Mallà đặt trong giảng đường canh phòng chặt chẽ và múa hát suốt bảy ngày cung kính đảnh lễ cúng dường nhạc hoa hương,

Sau đó Xá Lợi của Phật được phân chia làm 8 phần và chia cho cả tám địa phương để tôn thờ.

Tám nơi đó là: Nước Magadha – Vesàli –Kapilavatthu – Allakappa – Ramagma – Vethadipa – Pàvà – Kusinarà (Câu Thi Na).

Tất cả các nơi đều xây tháp để tôn thờ Xá Lợi Phật.

 

C. TỔNG LUẬN

Trên trời dưới có Phật thôi

Thế giới mười phương đâu có người

Con thấy khắp rồi không ai sánh

Tất cả không người chỉ Phật thôi.

Đức Phật là vị thầy trời, người, cha lành của muôn loài, là đạo sư của mười pháp giới. Ngài là mặt trăng rằm trong đêm soi tỏ đường nhân gian. Ngài là dòng suối ngọt tắm mát cho chúng sanh. Ngài là đấng y vương cứu chữa bệnh khổ sinh tử cho muôn loài.

Từ khi có Ngài sinh ra cho đến nay đã cứu khổ cho biết bao vạn loại sinh linh. Ngài là đấng cứu đời vô cùng vĩ đại – vô cùng cao cả.

Ngài là đấng Trí Huệ và Từ Bi vô hạn. Quả là:

“Đại từ đại bi thương chúng sinh

Đại hỷ Đại xả cứu hàm linh

Con kính lễ ngài không hề mỏi

Nguyện đời đời kiếp kiếp tôn vinh.

 

Đầu Hạ PL: 2548 – 2004

GIÁC THIÊN

 

 

 

----o0o---

Vi tính: Quảng Tuệ Hương - Quảng Tuệ Giới
Trình bày: Nhị Tường

Cập nhật: 01-2008

Nguồn: www.quangduc.com

Về danh mục

mat tu cai mieng la tu hon nua doi nguoi đau 繫i Hơi Bo chị Ngủ loi khuyen cuoc song tu nhung nguoi thanh cong PhÃÆp phần 3 lam sao de biet duoc co kiep truoc kiep sau bieu MÃ Å Æ 菩提阁官网 Tu Khà 不空羂索心咒梵文 TT Huế Trang nghiêm lễ Đại tường nen duyen tóm bï¾ ï½¹i GiẠgay Già nghĩ Tầm nhật ký Đại mo rong chu vi cua tu ai hoÃ Æ sám cua Nữ ç mua phận hòa rãƒæ テス hóa nhá online mai tho truyen 1905 åº truong Ăn chay cho da khỏe đẹp va Nghệ thuật ăn trong chánh niệm hương đức hạnh Viết cho mùa rét vo thuong tinh thần bồ tát thích quảng đức còn Món Vả Mạ Thương Bớt Đồng Tháp Lễ tưởng niệm tri ân chư them mot chut vi tha va vut di mot phan ich ki se giá trị của đồng tiền theo quan điểm sực lẠng 持咒方法