LỜI VÀNG CỦA THẦY TÔI

Nguyên Tác: O-rgyan-'jigs-med-chos-kyi-dban-po

(Kunzang Lama'i Shelung)

Bản dịch Anh ngữ: The Words of my Perfect Teacher/Patrul Rinpoche

Của Nhóm Dịch thuật Padmakara

Nhà Xuất bản Shambhala

Bản dịch Việt ngữ: Nhóm Longchenpa 2004

----o0o----

 

PHẦN I

NHỮNG CHUẨN BỊ THÔNG THƯỜNG HAY BÊN NGOÀI

-------------------

 

CHƯƠNG HAI 

SỰ VÔ THƯỜNG CỦA CUỘC ĐỜI

 

Nhìn ba cõi này như một ảo ảnh phù du,

Ngài bỏ lại đàng sau những mối quan tâm của đời này như bãi nước bọt trong bụi đất.

Chấp nhận mọi gian khó, Ngài đi theo những vết chân của các bậc thầy trong quá khứ.

Đạo sư Vô song, con đãnh lễ dưới chân Ngài.

 

Cách thức để lắng nghe giáo pháp đã được mô tả trong Chương Một.  Chủ đề chính bao gồm bảy loại thiền định: sự vô thường của thế giới bên ngaòi trong đó chúng sinh đang sống, sự vô thường của chúng sinh sống trong đó, sự vô thường của những bậc linh thánh, sự vô thường của những người ở các địa vị có thế lực, các ví dụ khác về sự vô thường, sự bất định của các tình huống của cái chết, và sự tỉnh gác mãnh liệt về sự vô thường.

 

I.        SỰ VÔ THƯỜNG CỦA THẾ GIỚI BÊN NGOÀI TRONG ĐÓ CHÚNG SINH SINH SỐNG.

 

Thế giới của chúng ta, môi trường bên ngoài này được hình thành bởi cộng nghiệp tốt lành của chúng sinh, với cấu trúc kiên cố và rắn chắc của nó bao gồm bốn đại lục, Núi Tu Di và các cõi trời, tồn tại trọn một kiếp. Tuy nhiên nó thì vô thường và sẽ không thoát khỏi sự huỷ diệt sau cùng bởi bảy giai đoạn của lửa và một giai đoạn của nước.

 

Bởi đại kiếp hiện tại lùi dần đến thời điểm của sự huỷ diệt, chúng sinh cư ngụ trong mỗi cõi ở dưới cõi trời của trạng thái thiền định đầu tiên sẽ từng cõi một dần dần biến mất cho tới lúc không còn sót một chúng sinh nào.

Rồi, cái này sau cái kia, bảy mặt trời sẽ mọc trong bầu trời. Mặt trời thứ nhất sẽ thiêu sạch tất cả các cây ăn trái và rừng rậm.  Mặt trời thứ hai sẽ làm bốc hơi mọi giòng suối, vũng lạch, và ao hồ; mặt trời thứ ba sẽ làm khô cạn mọi con song; và mặt trời thứ tư làm khô cạn các hồ lớn, ngay cả hồ Manasarovar.  Khi mặt trời thứ năm xuất hiện, các đại dương cũng sẽ dần dần bốc hơi, trước tiên tới bề sâu một trăm lý (một lý =4,8km), rồi hai trăm, bảy trăm, một ngàn, mười ngàn, và cuối cùng là tám mươi ngàn lý.  Nước biển còn sót lại sẽ rút từ một lý xuống một tầm nghe, cho tới khi còn lại thậm chí không đầy một vết chân.  Vào lúc cả sáu mặt trời cùng bốc cháy, toàn thể trái đất và các ngọn núi phủ tuyết của nó sẽ bốc cháy thành những ngọn lửa.  Và khi mặt trời thứ bảy xuất hiện, chính Núi Tu di sẽ bốc cháy đồng thời với bốn đại lục, tám tiểu lục địa, bảy ngọn núi vàng, và vòng tường gồm các ngọn núi ngay nơi bờ mép trái đất. Mọi sự sẽ chảy ra thành một đống lửa khổng lồ. Khi lửa cháy xuống phiá dưới, nó sẽ thiêu đốt mọi cảnh giới địa ngục. Khi nó cháy lên trên, lửa sẽ nhận chìm thiên cung của Brahma, đã bị phế bỏ từ lâu.  Trên thiên đường, các vị trời trẻ tuổi trong cảnh giới Tịnh Quang sẽ hoảng sợ thét lên: “Đám cháy lớn khủng khiếp!” Nhưng các vị trời lớn tuổi hơn sẽ trấn an họ và nói: “Đừng sợ! Khi lửa cháy đến thế giới của Brahma, nó sẽ tàn. Điều này đã từng xảy ra trước đây.”*

Sau bảy sự huỷ diệt bởi lửa như thế, các đám mây mưa sẽ hình thành trong cảnh giới của các vị trời thuộc sự thiền định thứ hai, và một trận mưa như thác có độ dầy bằng một cái ách sẽ đổ xuống, theo sau là một trận mưa dày bằng một cái cày.  Giốn như muối hoà tan trong nước, mọi sư cho tới và kể cả cõi trời Tịnh Quang sẽ tan hoại.

Sau khi sự huỷ hoại thứ bảy bởi nước như thế qua đi, chày kim cang kép của gió ở đáy của thế giới sẽ nổi lên.  Giống như bụi đất bị gió tung rải, mọi sự cho tới và kể cả cảnh giới cuả các vị trời của sự thiền định thứ ba sẽ hoàn toàn bị cuốn đi.

Hãy quán chiếu sâu xa và chân thành - nếu mỗi một trong hàng tỉ thế giới cấu tạo nên các vũ trụ - mỗi thế giới với Núi Tu di, bốn đại lục và các cõi trời của riêng nó - phải bị huỷ diệt đồng thời theo cách này, chỉ còn để lại không gian ở phiá sau, thì làm thế nào những thân người như chúng ta, giống như những con ruồi lúc cuối muà, có thể có được chút vĩnh cửu hay bền vững nào?

 

II. SỰ VÔ THƯỜNG CỦA CHÚNG SINH SỐNG TRONG THẾ GIỚI.

 

Từ tột đỉnh của các cõi Trời cao nhất cho tới tận cùng của địa ngục, không có duy nhất một chúng sinh nào có thể thoát khỏi cái chết.

Như Lá thư An ủi nói:

 

Bạn có từng thấy, trên mặt đất hay trong các cõi trời,

Một chúng sinh được sinh ra mà không chết?

Hoặc nghe rằng một chuyện như thế từng xảy ra?

Hay ngay cả hoài nghi rằng điều đó có thể?

 

Mọi sự được sinh ra bị buộc phải chết đi. Không ai từng thấy hay nghe nói về người nào đó trong bất kỳ cảnh giới nào – ngay cả trong thế giới của các vị trời – được sinh ra nhưng không bao giờ chết.  Thật vậy, thậm chí chưa bao giờ có chuyện chúng ta tự hỏi một người sẽ chết hay không. Cái chết là một điều chắc chắn. Đặc biệt là đối với chúng ta, là những người được sinh ra vào cuối một kỷ nguyên** trong một thế giới nơi mà độ dài của cuộc đời thì không thể tiên đoán được, chẳng mấy chốc cái chết sẽ tới.  Nó tới càng lúc càng gần từ giây phút chúng ta được sinh ra.  Cuộc đời chỉ có thể ngắn đi chứ không bao giờ dài ra.  Không hề động tâm, Thần Chết tới gần, không hề ngơi nghỉ một chốc lát, giống như cái bong của một ngọn núi lúc hoàng hôn.

Bạn có biết chắc chắn khi nào mình chết, hoặc chết ở đâu? Nó có thể xảy ra ngày

mai, hay đêm nay? Bạn có thể quả quyết rằng bạn sắp không chết ngay bây giờ, giữa hơi thở này và hơi kế tiếp? Như có nói trong Tuyển tập Các Tục ngữ Thâm trầm:

 

Ai quả quyết được rằng họ sẽ sống đến ngày mai?

Bây giờ là lúc phải sẵn sàng,

Bởi đạo quân của Thần Chết

Không là bằng hữu của chúng ta.

 

Và Ngài Nagajuna (Long Thọ) cũng nói:

 

Đời sống lập lòe trong những cơn going gió của một ngàn điều bất hạnh,

Còn mong manh hơn một bọt nước trong giòng suối.

Trong giấc ngủ, mỗi hơi thở bắt đầu và lại được hít vào;

Kỳ diệu biết bao khi ta thức dậy mà vẫn còn sống!

 

Khi hít thở nhẹ nhàng, người ta vui hưởng giấc ngủ của mình.  Nhưng không có gì bảo đảm là cái chết sẽ không lẻn vào giữa một hơi thở và hơi kế tiếp. Thức dậy trong sự khỏe mạnh là một sự kiện rất đáng được coi là kỳ diệu, song chúng ta lại cho đó là hoàn toàn tất nhiên.

Mặc dù biết rằng ta sẽ chết một ngày nào đó, nhưng chúng ta không thực sự để cho thái độ sống của mình bị đe dọa bởi triển vọng một cái chết luôn-luôn-thường-trực. Chúng ta vẫn tiêu phí tất cả thời giờ của mình khi hy vọng và âu lo về sinh kế trong tương lai của mình, như thể chúng ta sẽ sống mãi.  Chúng ta hoàn toàn bị cuốn hút vào cuộc chiến đấu cho sự hạnh phúc, sung sướng và địa vị cho tới khi, thật bất ngờ, chúng ta đối diện với Thần Chết tay cầm sợi dây thòng lọng đen, cắn chặt môi dưới và nhe những chiếc răng nanh trông thật dữ tợn.

Khi ấy không điều gì có thể giúp đỡ chúng ta. Không đạo quân nào, không sắc lệnh nào của nhà cầm quyền, không tài sản nào của người giàu có, không sự sang chói nào của học giả, không vẻ duyên dáng nào của sắc đẹp, không sự lanh lẹn nào của lực sĩ - chẳng điều gì còn ích lợi nữa.  Chúng ta có thể tự nhốt mình trong một cái tủ bọc sắt không thể bị đâm thủng, được hàng trăm ngàn lực sĩ tua tủa cung tên giáo mác bảo vệ; nhưng những thứ đó không đem lại cho ta sự che dấu hay che chở nào dù chỉ bằng bề dày của một sợi tóc. Một khi Thần Chết tròng sợi thòng lọng đen quanh cổ ta, khuôn mặt ta bắt đầu nhợt nhạt, đôi mắt đờ đẫn đẫm lệ, đầu và tứ chi xuôi xụi, và dù muốn hay không, chúng ta bị lôi xuống xa lộ để đi qua đời sau.

Cái Chết không thể bị đánh bại bởi bất kỳ chiến sĩ nào, không thể bị sai sử bởi quyền lực, hoặc được hối lộ bởi người giàu có.  Cái Chết không từ đâu tới, không nơi ẩn nấp, không chỗ nương tựa, không người bảo vệ hay dẫn dắt. Cái Chết kháng cự bất kỳ sự trông cậy nào nơi tài khéo léo và lòng bi mẫn. Một khi cuộc đời ta cạn kiệt, thì cho dù đích than Đức Phật Dược Sư xuất hiện, Ngài cũng không thể trì hoãn cái chết của chúng ta.

Vì thế, hãy quán chiếu và thiền định thật chân thành về sự quan trọng biết bao của việc ngay từ giây phút này trở về sau ta chẳng bao giờ còn lẻn trốn sự lười biếng và trì hoãn, mà luôn thực hành Chân Pháp, là điều duy nhất bạn có thể tin chắc là sẽ giúp đỡ bạn vào lúc chết.

 

III. SỰ VÔ THƯỜNG CỦA NHỮNG BẬC LINH THÁNH.

 

Trong Kiếp Tốt đẹp (Hiền Kiếp) hiện tại, Đức Vipasyin, Sikhin và năm vị Phật khác đã xuất hiện, mỗi vị với tập hội riêng gồm vô số các Thanh Văn và A la hán. Mỗi Đức Phật làm việc để đem lại lợi lạc cho vô lượng chúng sinh nhờ các giáo lý của Ba Thừa.  Ngay cả mọi giáo lý mà ngày nay chúng ta có được cũng là những gì còn sót lại của giáo lý của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni.  Tuy nhiên, tất cả những vị Phật đó đã nhập Niết Bàn và mọi Giáo Pháp thuần tịnh các ngài ban cho đã dần dần biến mất.

Từng vị một, nhiều đại Thanh văn của hệ thống tôn giáo hiện tại, mỗi vị với hội chúng năm trăm vị A La Hán của mình, cũng đã siêu vượt đau khổ đi vào trạng thái nơi không còn các uẩn.

Ở Ấn Độ, có một thời Năm Trăm bậc A La Hán đã kiết tập Pháp ngữ của Đức Phật. Có Sáu Báu vật và Hai Đấng Siêu Việt, Tám mươi Thành tựu giả, và nhiều vị khác nữa, là những bậc tinh thong mọi thuộc tính của các con đường và các cấp bậc, và có sự thấu thị vô hạn cùng các năng lực kỳ diệu. Nhưng ngày nay những gì còn lại của các ngài chỉ là những câu chuyện kể các ngài đã sống ra sao.

Ở đây, nơi xứ Tuyết Tây Tạng thì cũng vậy. Khi Đức Phật Thứ Hai xứ Oddiỹana* chuyển Pháp Luân để làm chin mùi và giải thoát chúng sinh, thì tất cả những tín đồ của ngài còn đang sống, như hai mươi lăm đệ tử được gọi là Đức Vua và các Thần dân cùng Tám mươi thành tựu giả ở Yarpa.  Sau đó là các đạo sư Cổ Phái thuộc các bộ tộc So, Zur và Nub; ngài Marpa, Milarepa và Dagpo của Tân Phái; cùng vô số các bậc học giả và thành tựu giả khác.  Hầu hết các Ngài đã đạt được những cấp bậc thành tựu cao cấp và điều phục được bốn yếu tố (tứ đại). Các ngài có thể tạo nên mọi thứ biến hoá kỳ diệu. Các ngài có thể làm cho các sự vật cụ thể xuất hiện không tự đâu tới và biến mất không về nơi đâu. Các ngài không thể bị lửa đốt cháy, không bị nước cuốn trôi, không bị đất đè bẹp hoặc từ các vách núi rơi vào không gian – các ngài đã hoàn toàn thoát khỏi bất kỳ tác hại nào mà tứ đại có thể gây nên.

Ví dụ như, có một lần, ngài Jetsun Milarepa đang thiền định tĩnh lặng trong động Nyeshangkatya ở Nepal thì có một nhóm thợ săn đi qua. Nhìn thấy Ngài ngồi ở đó, họ hỏi Ngài là người hay ma. Milarepa vẫn bất động, Ngài nhìn chăm chú phía trước và không trả lời. Những người thợ săn bắn một loạt mũi tên tẩm độc vào Ngài, nhưng không mũi tên nào chọc thủng được da Ngài. Họ ném Ngài xuống dòng song rồi xuống bờ vực – nhưng mỗi lần như thế Ngài lại ngồi ngay nơi đã ngồi trước đó. Cuối cùng, họ chất củi quanh Ngài và đốt, nhưng lửa không thiêu cháy Ngài. Đã từng có nhiều bậc đã đạt các năng lực như thế.  Nhưng cuối cùng, tất cả các ngài đều chọn lựa để hiển lộ rằng mọi sự thì vô thường,** và ngày nay tất cả những gì còn lại của các ngài là những tiểu sử.

Đối với chúng ta, các hành vi tiêu cực của ta được ngọn gió những điều kiện (duyên) tiêu cực mang đi theo chiều hướng thông thường của những khuynh hướng xấu của ta. Chúng đưa dẫn ta đến đây, trong bộ máy dơ bẩn này được tạo nên bởi bốn yếu tố vật chất, nơi đó chúng ta bị sập bẫu và đời sống hữu tình bị lệ thuộc - bởi chúng ta không bao giờ có thể quyết chắc lúc nào và ở đâu kẻ bù nhìn là than xác huyễn hoá này sắp tan rã, nên điều hết sức quan trọng là ngay từ giây phút này trở về sau, bản thân chúng ta tự cảm kích để tư tưởng, hành vi, và ngôn ngữ của ta luôn luôn tích cực. Với điều này trong tâm, hãy thiền định về lẽ vô thường.

 

IV.  SỰ VÔ THƯỜNG CỦA NHỮNG NGƯỜI CÓ ĐỊA VỊ THẾ LỰC.

Có những vị trời và risi uy nghi và lừng lẫy có thể sống lâu cả một kiếp. Nhưng ngay cả họ cũng không thể thoát khỏi cái chết. Những vị cai trị chúng sinh, như Brahma, Indra, Visnu, Isvara và chư Thiên vĩ đại khác sống thọ cả một kiếp, với dáng vóc được đo tới hàng nhiều lý (1lý = 4,8km) hay nhiều tầm nghe và có một năng lực và vẻ lộng lẫy chiếu sáng mặt trời, mặt trăng, tuy thế cũng không tránh khỏi cái chết đến. Như Kho tàng các Phẩm tính nói:

 

Ngay cả Brahma, Indra, Mahesara và các vị đại đế

Không có cách nào lẩn tránh Thần Chết.

 

Cuối cùng, ngay cả các risi siêu phàm hay risi trong loài người với năm loại thấu thị và khả năng bay qua bầu trời cũng không thể trốn thoát cái chết.

Lá Thư An ủi  nói:

 

Các risi vĩ đại với năm loại năng lực

Có thể bay xa và rộng trong bầu trời

Song họ sẽ chẳng bao giờ tới được xứ sở

Nơi sự bất tử thống trị.

 

Ở đây, trong thế giới loài người của chúng ta, có nhiều vị đại đế đã đạt đến cực điểm của quyền lực và của cải vật chất. Trong thánh địa Ấn Độ, bắt đầu với Mahasammata, vô số hoàng đế đã cai trị toàn thể đại lục. Về sau Pala, ba mươi bảy Candra và nhiều vị vua giàu có và uy quyền khác đã trị vì cả phía đông và tây Ấn Độ.

Ở xứ Tuyết Tây Tạng, vị vua đầu tiên là Nyatri Tsenpo, thuộc dòng dõi siêu phàm, là một hoá thân của Bồ Tát, Nivaranaviskambhin.  Sau đó bảy vua trời trị vì được gọi là Tri, sáu vua đất được gọi là Lek, tám vua ở giữa được gọi là De, năm vị vua liên kết được gọi là Tsem, mười hai và một nửa[38] vị vua của Triều đại May Mắn bao gồm năm vị của Triều Đại Cực Kỳ May Mắn, và ngoài ra còn nhiều vị khác người. Trong triều đại của vị vua Pháp Songtsem Gampo, một đạo quân thần diệu chế ngự mọi lãnh thổ từ Nepal tới Trung Hoa. Vua Trisong Detsen đặt hai phần ba châu Jambudvipa* (Diêm Phù Đề) dưới quyền lực của ngài, và trong triều đại Ralpachen, một cột sắt được trồng bên bờ sông Hằng, đánh dấu biên giới giữa Ấn Độ và Tây Tạng. Tây Tạng đã sử dụng nhiều quyền lực trong nhiều miền đất ở Ấn Độ, Trung Hoa, Gesar, Tajikistan và các quốc gia khác. Tại lễ hội mừng Năm Mới, các xứ giả của tất cả các nước này được yêu cầu trải qua một ngày ở Lhassa. Quyền lực của Tây Tạng là như thế trong quá khứ. Nhưng nó không kéo dài, và ngày nay, ngoài những tường thuật lịch sử ra, không điều gì còn sót lại.

Hãy quán chiếu về những huy hoàng trong quá khứ đó. Nếu so sánh với chúng thì hết thảy những nhà cửa, quyến thuộc, tôi tới, địa vị và bất cứ điều gì khác mà ta quý trọng dường như không đáng giá hơn một tổ ong. Hãy thiền định sâu xa, và tự hỏi làm sao bạn có thể nghĩ rằng những điều này sẽ tồn tại mãi mãi và không bao giờ biến đổi.

 

V.     CÁC VÍ DỤ KHÁC VỀ VÔ THƯỜNG

 

Như một ví dụ của sự vô thường, hãy khảo xét chu kỳ sinh trưởng và suy tàn xảy ra trong một kiếp. Thời xa xưa, trong thời kỳ đầu tiên của kiếp này, trên bầu trời không có mặt trời và mặt trăng và tất cả con người được chiếu sáng bởi sự chói ngời nội tại của họ. Họ có thể di chuyển thật kỳ diệu qua không gian. Họ cao lớn đến vài lý. Họ sống bằng chất cam lồ linh thiên và thụ hưởng niềm vui và hạnh phúc hoàn hảo, sánh được với đời sống của chư thiên. Tuy nhiên, dần dần dưới ảnh hưởng của những cảm xúc tiêu cực và tà hạnh, loài người suy hoại dần tới tình trạng hiện nay. Ngay cả ngày nay, bởi những xúc cảm đó còn trở nên to lớn hơn nữa, nên thọ mạng và sự thịnh vượng của con người vẫn còn suy giảm. Tiến trình này sẽ tiếp tục cho đến khi con người sống không quá mười năm. Hầu hết chúng sinh sống trong thế giới sẽ biến mất trải qua những thời kỳ của dịch bệnh, chiến tranh, và nạn đói. Sau đó đối với những người sống sót, một hoá thân của Đức Phật Di Lạt, sẽ tiếp giảng pháp tiết chế sát sinh. Vào lúc này, loài người sẽ chỉ còn cao một cubit (=45,72cm). Từ đó trở đi thọ mạng của họ sẽ tăng lên tới hai mươi năm và sau đó từ từ trở nên dài hơn cho đến khi đạt tới tám mươi ngàn năm. Vào thời điểm đó, Đức Di Lạt sẽ xuất hiện trong thân người, thành Phật và chuyển Pháp Luân. Khi mười tám chu kỳ sinh trưởng và suy hoại như thế đã xảy ra và nhân loại sống vô số năm, Đức Phật Ước Nguyện Vô Hạn sẽ xuất hiện và trường thọ lâu bằng một ngàn Đức Phật khác của Hiền Kiếp cộng lại. Các hoạt động của ngài vì hạnh phúc của chúng sinh thì cũng thế, sẽ sánh được với tất cả các hoạt động của ngàn Đức Phật đó cộng lại. Cuối cùng, kiếp này sẽ chấm dứt trong sự suy hoại. Khi suy xét các "sự chuyển dịch như thế, bạn có thể thấy rằng ngay cả trên phạm vi rộng lớn này, không có gì nằm ngoài tầm với của sự vô thường.

Cũng thế, khi nhìn bốn mùa thay đổi, bạn có thể thấy được mọi sự thì vô thường như thế nào. Vào mùa hè, đồng cỏ xanh tươi và khát khao những trận mưa hè như chất cam lồ, và mọi sinh linh tắm mình trong sự hừng hực của hạnh phúc và niềm vui. Muôn hoa đang trổ nụ và toàn thể cảnh vật cùng nhau khoe sắc thành một thiên đường của những sắc màu trắng, vàng, đỏ thắm và xanh. Rồi khi mùa thu đến, gió nhẹ mát hơn, đồng cỏ xanh đổi màu. Hoa và trái từng cái một, khô đi và héo úa. Chẳng mấy chốc mùa đông bắt đầu và toàn thể vạn vật trở nên khô cứng và dễ vỡ như đá. Những chiếc cầu và các con sông đóng băng, các cơn gió lạnh giá lướt qua cảnh vật. Bạn có thể mất liên tục nhiều ngày để tìm kiếm tất cả những đoá hoa mùa hè đó và chẳng còn thấy được đoá hoa nào. Và như thế mỗi mùa luân phiên nhau tới, mùa hạ nhượng bộ mùa thu, mùa thu nhường bước mùa đông và mùa đông nhường chổ cho mùa xuân, mỗi mùa khác biệt với mùa trước nó, và mỗi mùa hoàn toàn là một sự phù du. Hãy nhìn xem hôm qua và hôm nay chóng vánh thế nào, buổi sáng và tối hôm nay, năm nay và năm tới, mọi sự trôi đi cái này sau cái kia. Chẳng có gì tồn tại mãi, không điều gì đáng tin cậy.

Hãy nghĩ tưởng về ngôi làng hay cộng đồng tu viện của bạn hoặc bất kỳ nơi nào bạn sống. Những người mới trước đây không lạu thành công và an toàn thì nay bất thần đối mặt với sự suy sụp; những người khác, xưa kia nghèo khổ và bơ vơ thì nay nói năng đầy uy quyền, thế lực và giàu có. Không có gì cứ như thế mãi mãi. Trong gia đình của riêng bạn, từng thế hệ kế tục của cha mẹ, ông bà và các cụ cố, tất cả đều đã chết, từng người một.  Giờ đây họ chỉ còn các tên gọi đối với bạn. Và khi tới lúc thì nhiều anh em, chị em và những người thân khác cũng đã chết, và không ai biết được họ đi về đâu hoặc giờ đây họ đang ở đâu. Với những người đầy quyền thế, giàu có và thịnh vượng mà mới chỉ năm ngoái đây thôi còn là người lỗi lạc nhất trong xứ sở, thì nhiều người năm nay chỉ còn là cái tên. Ai biết được những người mà giờ đây sự giàu có và tầm quan trọng của họ làm mọi người phải thèm muốn sẽ vẫn còn ở vị trí tương tự vào thời điểm này trong năm tới, hoặc ngay cả trong tháng tới? Đối với các gia súc của riêng bạn - cừu, dê, chó – bao nhiêu con đã chết trong quá khứ và bao nhiêu con vẫn còn sống? Khi bạn suy tưởng về điều gì xảy ra trong tất cả những trường hợp này, bạn có thể thấy rằng không sự gì cứ yên vị như thế mãi mãi. Với tất cả những người sống hơn một trăm năm về trước, không có lấy một người thoát khỏi cái chết. Và trong hàng trăm năm khác từ bây giờ, mỗi một người hiện đang sống khắp thế giới sẽ chết. Không ai trong số họ sẽ còn xót lại.

Như thế tuyệt đối không có gì trong thế giới, dù hữu tình hay vô tri, có bất kỳ sự bền chắc hay thường hằng nào.

 

Bất kỳ điều gì được sinh ra đều vô thường và buộc phải chết đi.

Bất kỳ điều gì được tích luỹ đều vô thường và buộc phải cạn kiệt.

Bất kỳ điều gì tựu hội đều vô thường và buộc phải chia ly.  

Bất kỳ điều gì được xây dừng đều vô thường và buộc phải sụp đổ

Bất kỳ điều gì hưng thịnh đều vô thường và buộc phải suy tàn.

Cũng thế, tình bằng hữu và sự thù địch, vận may và nỗi buồn phiền, điều tốt và xấu, mọi tư tưởng lướt qua tâm bạn – mọi sự luôn luôn biến đổi.

 

Bạn có thể cao quý như những cõi trời, mạnh mẽ như sấm sét, giàu có như một naga (rồng), đẹp đẽ như một vị trời hay dễ thương như một cầu vồng – nhưng dù bạn là ai hoặc là gì chăng nữa, khi cái chết bất thần đến bạn không thể làm bất cứ điều gì dù chỉ trong chốc lát. Bạn phải ra đi không được lựa chọn, trần trụi và lạnh lẽo, đôi bàn tay không của bạn bị cột cứng dưới nách. Mặc dù không thể chịu đựng nổi khi phải lìa bỏ tiền của, những tài sản yêu quý, bằng hữu, những người thân yêu, người hầu, đệ tử, quốc gia, xứ sở, thần dân, của cải, đồ ăn, thức uống và tài sản, bạn phải hoàn toàn để lại mọi sự sau lưng, giống như một sợi tóc bị kéo ra  một miếng bơ.* Bạn có thể là vị lạt ma lãnh đạo hàng ngàn nhà sư, nhưng bạn không thể mang theo mình dù chỉ một người trong số họ. Bạn có thể là thủ lãnh của hàng mười ngàn người, nhưng bạn không thể mang theo thậm chí chỉ một người làm người hầu của bạn. Mỗi tài sản trong thế giới vẫn không đem lại cho bạn nhiều năng lực sử dụng bằng cây kim và sợi chỉ.

Cũng thế, thân thể yêu quý của bạn sắp bị bỏ lại đằng sau. Chính thân thể này đã được quấn bọc suốt đời trong lụa là và gấm thiêu, được nuôi dưỡng kỹ lưỡng bằng trà và bia ê hề, và đã có một thời trong đẹp đẽ và xuất sắc như một vị trời, thì nay được gọi là một tử thi, và đang bị bỏ mặt nằm đó xám xịt, nặng nề và dúm dó thật khủng khiếp. Đức Jetsun Mila nói:

 

Vật mà ta gọi là một tử thi này, trông thật khiếp hãi,

Thì đã sẵn ở đây – là thân thể của chính bạn.

 

Xác bạn bị cột chặt bằng một sợi dây và được phủ bằng một tấm màn, được giữ ở một nơi đất và đá. Cái tô của bạn bị lật úp xuống gối. Dù bạn quí giá và được yêu mến đến đâu chăng nữa, giờ đây đây bạn khơi gợi sự khiếp hãi và buồn nôn. Khi một người sống nằm xuống ngủ, ngay cả trên đống lông thú và thảm lông cừu mềm mại, chỉ một lát sau họ đã bắt đầu cảm thấy khó chịu và phải trở mình. Nhưng một khi bạn đã chết, bạn nằm yên đó, gò má dựa vào một hòn đá hay bụi cỏ, tóc bạn bê bết đất.

Một số trong các bạn là những gia trưởng hay trưởng bộ tộc, có thể lo lắng về những người đang nằm dưới sự chăm sóc của bạn. Một khi bạn không còn ở đó để chăm sóc họ, liệu họ có dễ dàng chết vì đói hay lạnh, bị kẻ thù giết, hoặc chết đuối trong dòng sông? Tất cả tài sản, tiện nghi và hạnh phúc của họ không tuỳ thuộc vào bạn sao? Tuy nhiên, thực tế là sau khi bạn chết họ sẽ chẳng cảm thấy điều gì trừ sự nhẹ nhõm khi tìm được cách tống khứ tử thi của bạn bằng cách hoả táng, ném xuống song hoặc quăng nó vào nghĩa địa.

Khi bạn chết, bạn không có sự chọn lựa nào khác nào việc lang thang hoàn toàn cô độc trong trạng thái trung ấm mà không có lấy một người đồng hành. Vào lúc đó nơi nương tựa duy nhất của bạn sẽ là Pháp. Vì thế hãy tự nhắc đi nhắc lại với mình rằng từ nay trở về sau bạn phải nỗ lực để thành tựu ít nhất một thực hành Giáo Pháp chân chính.

Bất kỳ cái gì được tích luỹ bắt buộc phải cạn kiết. Một vị vua có thể cai trị toàn thể thế giới mà vẫn kết thúc như một kẻ lang thang. Nhiều người bắt đầu cuộc đời với tài sản vây quanh và chấm dứt nó bằng sự chết đói, mất sạch tất cả. Những người có đàn súc vật hàng trăm con trong một năm có thể bị sa sút đến độ trở nên bần cùng vào năm sau bởi các bệnh dịch hoặc tuyết ngập dầy, và một số người mới chỉ một ngày trước đó còn giàu có và đầy quyền lực, thình lình có thể thấy chính mình phải xin bố thí vì bị kẻ thù thiêu huỷ mọi thứ họ sở hữu. Tất cả những điều này xảy ra là những gì bạn có thể nhìn thấy cho chính bạn; đó là không thể mãi mãi bám chặt vào tài sản và của cải của bạn. Đừng bao giờ rằng sự rộng lượng “ bố thí” là vốn luyến quan trọng nhất để tích tấp.*

Không có sự tựu hội nào có thể kéo dài mãi. Nó sẽ luôn luôn chấm dứt trong sự phân ly. Chúng ta giống như những cư dân ở những nơi chốn khác nhau tập hợp lại hàng ngàn và thậm chí hàng vạn người trong một hội chợ vĩ đại hay trong một lễ hội tôn giáo quan trọng, chỉ để rời nhau khi ai nấy trở về nhà. Bất kỳ mối tương quan thấm thiết nào chúng ta đang thụ hưởng hiện nay – các bậc thầy và đệ tử, chủ và tớ, những người bảo trợ và người được che chở, các bằng hữu tâm lý, các anh em và chị em, chồng và vợ - ta không thể nào tránh khỏi sự phân ly vào lúc kết thúc. Thậm chí ta không thể quả quyết rằng cái chết hay một vài biến cố khủng khiếp khác không bất thần chia lìa chúng ta ngay bây giờ. Bởi những bằng hữu tâm lý, những cặp vợ chồng v.v..có thể bị chia cắt thình lình bất kỳ lúc nào, vì thế tốt hơn, chúng ta nên tránh những sự giận dữ và cãi vã, những lời nói ác và sự tranh đấu. Không bao giờ ta biết được chúng ta có thể sống với nhau bao lâu, vì thế ta nên lập quyết định là sẽ quan tâm và thương mến nhau trong quản thời gian ngắn ngủi còn lại. Như Ngài Padampa Sangye nói:

 

Gia đình thì phù du như một đám đông trong ngày phiên chợ;

Dân chúng xứ Tingri, đừng tranh cãi hay chiến đấu!

 

Bất kỳ kiến trúc nào được xây dựng cũng buộc phải sụp đổ. Các làng mạt và tu viện mà một thời từng thành công và thịnh vượng, giờ đây nằm hoang vắng và bị bỏ phế, và nơi mà một thời các chủ nhân cận trọng của chúng đã từng sống, thì nay chỉ còn những chú chim làm tổ. Ngay cả tu viện trung ương Samye ba tầng, được những người thợ hoá thân kỳ diệu xây dựng trong triều đại Đức Vua Trisong Detsen và được Đức Phật Thứ Hai xứ Oddiyana hiến cúng, đã bị lửa thiêu huỷ trong một đêm. Cung điện Núi Đỏ có trong thời Đức Vua Songtsen Gampo được so sánh với cung điện của chính vị Trời Indra, nhưng giờ đây ngay cả những tảng đá nền móng cũng không còn. So sánh với những công trình đó thì các thành phố, nhà cửa và tu viện của chúng ta hiện nay chỉ là những tổ côn trùng. Vì thế tại sao chúng ta lại quá coi trọng chúng đến thế? Tốt hơn, hãy triệt để noi theo gương mẫu các hành giả Kagyupa ngày xưa, là những bậc bỏ lại quê hương phía sau và tiến thẳng vào nơi hoang dã. Các ngài đã sống dưới những vách đá, chỉ có thú hoang làm bầu bạn và không chút bận tâm tới thực phẩm, quần áo hay thanh danh, ôm chặt bốn mục đích căn bản của bốn hành giả Kadampa:

 

Hãy đặt tâm bạn trên Pháp,

Hãy đặt Pháp của bạn trên một cuộc đời khiêm tốn tầm thường

Hãy đặt cuộc đời khiêm tốn của bạn trên niệm tưởng về cái chết,

Hãy đặt cái chết của bạn trên một lỗ hang trống không, trơ trụi.*

 

Đẳng cấp cao và quân đội hùng mạnh không bao giờ tồn tại lâu. Đại Đế Mandhatri đã quay bánh xe vàng cho ông quyền lực trên bốn châu lục; ông đã trị vì các cõi trời của các vị trời thứ ba mươi ba; thậm chí ông còn chia ngai toà với Indra, vua của các vị trời và có thể đánh bại các Asura (A tu la) trong trận chiến. Tuy thế cuối cùng ông rơi xuống trái đất và chết mà chưa thoả mãn các tham vọng. Bạn có thể thấy cho chính bạn rằng tất cả những người nắm giữ quyền uy và thế lực đó – dù thân cận các vị vua, đạo sư, chúa tể hay chính phủ - không một ai có thể duy trì địa vị của họ mãi mãi; và nhiều người đầy quyền lực đã từng áp đặt luật lệ lên những người khác một năm sau đó, năm sau thấy chính mình đang sống mòn mõi trong ngục tù. Cách sử dụng quyền lực nhất thời như thế có thể được dành cho bạn là gì? Trái lại, trạng thái Phật quả toàn hảo không bao giờ có thể xuất giảm hay hư hoại, và xứng đáng với những sự cúng dường của trời và người. Đó là điều bạn cần quyết định đạt tới.

Tình bằng hữu và sự thù địch thì cũng thật khó bền vững. Một ngày kia khi A La Hán Katyayana đi ra ngoài để khất thực, ngài tình cờ gặp một người đàn ông ôm một đứa bé trong lòng. Người đàn ông đang ăn một con cá với vẻ thật thích thú, và ném những hòn đá vào con chó cái đang cố vồ những miếng xương. Tuy nhiên, bằng sự thấu thị, vị đạo sư nhìn thấy như sau. Con cá đã từng là cha của người đàn ông ngay trong đời đó và con chó cái đã là mẹ của ông ta một kẻ thù mà ông đã từng giết trong một đời quá khứ đã tái sinh làm con trai ông ta như sự vây trả nghiệp báo mà người đàn ông phải chịu trong đời. Ngài Katyayana kêu thét lên:

 

Hắn ăn thịt cha, đánh đập mẹ,

Hắn nâng niu trong lòng kẻ thù mà hắn giết;

Vợ đang gặm xương chồng mình.

Ta phá lên cười khi thấy những gì xảy ra trong hiển bày của sinh tử!

 

Ngay cả trong một đời, thường xảy ra việc những kẻ thù không đội trời chung về sau lại giảng hoà và làm bạn với nhau. Thậm chí họ có thể trở thành một thành phần trong gia đình của lẫn nhau, và sau cùng còn gần gũi nhau hơn bất kỳ ai khác. Trái lại, những người được liên kết mật thiết bởi huyết thống hoặc hôn nhân thường tranh cãi và làm hại nhau càng nhiều càng tốt chỉ vì một ít của cải tầm thường hay gia tài nhỏ mọn. Các cặp vợ chồng hay bạn bè thân thiết có thể chia ly vì những lý do vô nhất, thậm chí có khi kết thúc trong sự chém giết. Khi nhận ra mọi tình bằng hữu và sự thù địch thì hết sức phù du, bạn hãy tự nhắc đi nhắc lại là mình phải đối xử với mọi người với lòng từ và bi.

Vận may và sự mất mát không bao giờ tồn tại mãi mãi. Có nhiều người bắt đầu cuộc đời trong sự an nhàn và sung túc, đã kết thúc trong sự bần cùng và đau khổ. Những người khác bắt đầu trong cảnh cùng cực mà về sau hạnh phúc và may mắn. Thậm chí có những người bắt đầu như kẻ hành khất và kết thúc như những vì vua. Có vô số ví dụ về những sự đảo lộn vận mệnh như thế. Chẳng hạn như một buổi sáng chú của ngài Milarepa đã tặng cho cô con gái riêng một bữa tiệc vui vẻ, nhưng đến tối căn nhà của ông sụp đổ và ông đã kêu khóc lóc tiếc thương. Khi Pháp đem lại cho bạn những gian khó, cho dù khi ấy bạn phải gánh chịu nhiều loại đau khổ khác nhau, như Jetsun Mila và Các Đấng Chiến Thắng trong quá khứ nhưng cuối cùng hạnh phúc của bạn sẽ không gì so sánh được. Nhưng khi bạn làm giàu bằng một tà hạnh thì dù trong nhất thời bạn có thể có được bất kỳ sự vui thú nào, nỗi khổ của bạn sẽ mênh mông vô hạn vào lúc kết thúc.

Vận may và nỗi buồn thì rất khó tiên đoán. Thuở xa xưa trong vương quốc Aparantaka có một trận mưa thóc kéo dài bảy ngày, theo sau là một trận mưa quần áo trong bảy ngày kế và một trận mưa châu báu trong bảy ngày nữa – và cuối cùng một trận mưa đất chon vùi toàn thể dân chúng, tất cả đều chết và tái sinh trong các cõi thấp. Thật vô ích khi ta cố gắng làm chủ hạnh phúc và đau khổ luôn luôn biến đổi như thế với sự tràn đầy hy vọng va sợ hãi. Thay vào đó, hãy hoàn bỏ lại đằng sau mọi tiện nghi, tài sản và những thú vui của đời này, giống như quá nhiều nước bọt trong bụi đất. Hãy quyết định đi theo bước chân của các Đấng Chiến Thắng trong quá khứ, can đảm chấp nhận bất kỳ gian khổ nào bạn phải chịu đựng vì Pháp.

Sự tuyệt hảo và tầm thường cũng vô thường. Trong đời sống thế gian, dù bạn có thể đầy quyền thế và hung biện đến đâu, dù bạn uyên bác và tài giỏi, mạnh mẽ và thiện xảo thế nào chăng nữa, sẽ đến lúc các phẩm tính đó phải suy tàn. Một khi công đức bạn tích tập trong quá khứ bị cạn kiệt, thì mọi sự bạn suy nghĩ sẽ lôi thôi và không điều gì bạn làm có kết quả. Bạn sẽ bị phê pháp từ mọi phía. Bạn trở nên cùng khốn và mọi người xem thường bạn. Một số người mất đi bất kỳ thuận lợi nhỏ bé nào mà họ từng có và kết thúc trong sự cạn kiệt. Những người khác, một thời đã bị coi như những kẻ lừa đảo và dối láo, bất tài và không có lương tri, về sau tự thấy mình giàu có, phong lưu, được mọi người tin cậy và quý mến như những người tốt và đáng tin. Như tục ngữ nói: “Những lọc lừa của tuổi già tự phụ về địa vị.”

Trong đời sống tôn giáo thì cũng thế, như tục ngữ có câu: “Lúc về già, các hiền nhân trở thành học trò, người từ bỏ tích lũy của cải, thầy giáo trở thành gia chủ.” Những người trước đây từ bỏ mọi hoạt động thế tục thì cuối cùng ta có thể thấy họ bận rộn tích luỹ của cải và lương thực. Những người khác khởi đầy bằng việc giảng dạy Giáo Pháp nhưng kết thúc là những người thợ săn, những kẻ trộm cướp. Những thầy giáo thông thái trong tu viện lúc còn trẻ tuân giữ mọi Giới Luật, về già có thể sinh nhiều con cái. Trái lại, cũng có nhiều người tiêu phí những năm đầu của đời họ chỉ để làm những việc xấu nhưng vào cuối đời, hoàn toàn hiến mình cho việc thực hành Thánh Pháp và đạt được sự thành tựu, hoặc nếu không thì ít nhất khi chết cũng ở trên con đường tiếp tục đi tới các tái sinh cao hơn nữa.

Một vài người dù trong hiện tại xuất hiện là tốt hay xấu, nhưng do chỉ là một ấn tượng nhất thời không có sự thường hằng hay vững chắc nào. Bạn có thể cảm thấy hơi tỉnh mộng sinh tử, phát triển một quyết tâm mơ hồ để thoát khỏi nó, và làm ra vẻ một học trò nghiêm cẩn của Pháp tới nỗi những người bình thường hết sức cảm kích và muốn được làm người bảo trợ và đệ tử của bạn. Nhưng ở điểm đó, trừ phi bạn có cái nhìn nghiêm khắc về chính mình, còn không bạn có thể dễ dàng bắt đầu cho rằng bạn thực sự là cái mà người khác nhìn bạn. Dương dương tự đắc, bạn hoàn toàn bị các hình tướng cuốn hút và bắt đầu cho rằng bạn có thể làm bất kỳ điều gì mình muốn. Bạn hoàn toàn bị đánh lừa bởi các thế lực tiêu cực. Vì thế, hãy đẩy lùi mọi tin tưởng tự-quy và khơi dậy trí huệ vô ngã.*

Cho tới khi bạn đạt được các cấp độ Bồ Tát cao cả, sẽ không có hình tướng nào, dù tốt hay xấu, có thể tồn tại mãi mãi. Hãy thiền định miên mật về cái chết và sự vô thường. Hãy phân tích các lỗi lầm của riêng bạn và luôn giữ vị trí thấp nhất. Hãy nuôi dưỡng nỗi bất mãn với sinh tử và ước muốn được giải thoát. Hãy tu tập bản thân để trở nên bình an, kỷ luật và tận tâm. Hãy liên tục phát triển một cảm thức buồn rầu chua sót và sâu sắc khi nghĩ tưởng về tính chất nhất thời của mọi sự duyên hợp và về những nỗi khổ của vòng sinh tử, giống như ngài Jetsun Milarepa:

 

Trong một hang đá ở chốn hoang vu

Nỗi buồn của con không nguôi.

Con hằng khát khao Ngài.

Hỡi Đạo sư của con, Đức Phật của ba thời.

 

Trừ phi bạn thường xuyên duy trì kinh nghiệm này, sẽ không có sự hiểu biết nào, là nơi xuất hiện mọi niệm tưởng luôn luôn biến đổi, có thể đóng vai trò dẫn đạo. Xưa kia, một người đàn ông, sau khi có một mối thù hận với các thân quyến, đã áp dụng Giáo Pháp và được gọi là Hành giả Gelong Thangpa. Ông ta học tập để kiểm soát năng lực và tâm,[39] và có thể bay lên bầu trời. Một hôm, khi nhìn một bày chim bồ câu thật lớn đang xúm lại ăn thực phẩm cúng dường mà ông đã cúng xong, ông nảy ra tư tưởng là với đội quân đông người, ông ta có thể tiêu diệt những kẻ thù của mình. Ông đã không đưa được tà niệm này vào con đường,[40] và kết quả là sau khi trở về quê hương, ông trở thành người chỉ huy một đội quân.

Tạm thời lúc này, nhờ Đạo sư và các bằng hữu tâm linh của bạn, bạn có thể có được một cảm nhận sơ sài về Pháp. Nhưng khi ghi khắc trong tâm về sự tồn tại ngắn ngủi biết bao của tình cảm con người, bạn hãy tự giải thoát bằng Pháp khi có thể, và quyết tâm thực hành bao lâu bạn còn sống.

Nếu quán chiếu về nhiều ví dụ được đưa ra ở đây, bạn sẽ không còn chút nghi ngờ gì rằng không có gì từ các trạng thái hiện hữu cao nhất xuống tới các địa ngục thấp nhất có mảy may sự thường hằng hay bền vững nào. Mọi sự bị lệ thuộc vào lẽ biến dịch, mọi sự thịnh rồi suy.

 

VI.  SỰ BẤT ĐỊNH CỦA CÁC TÌNH HUỐNG[41] CỦA CÁI CHẾT

 

Một khi đã sinh ra, chắc chắn mọi người trong thế giới đều phải chết. Nhưng việc chúng ta sắp chết như thế nào, tại sao, khi nào và ở đâu thì không thể tiên đoán được. Không ai trong chúng ta có thể quyết chắc cái chết của mình xảy ra vào một thời điểm hay nơi chốn đặc biệt nào, trong một cách thức nào đó, hoặc là một kết quả của nguyên nhân này hay nguyên nhân nọ.

 

Hỡi nguyên nhân của cái chết thì nhiều;

Những nguyên nhân của đời sống thì ít,

Và ngay cả chúng cũng có thể trở thành những nguyên nhân của cái chết.

 

Lửa, nước, các chất độc, vách đứng, những kẻ man rợ, những dã thú – có rất nhiều kiểu nguy hiểm chết người, nhưng những gì có thể kéo dài đời sống thì thật ít ỏi. Ngay cả thực phẩm, quần áo và các sự vật khác thường được xem như để duy trì đời sống thì đôi khi có thể biến thành các nguyên nhân của cái chết. Nhiều rủi ro xảy ra là hậu quả của việc ăn uống - thực phẩm có thể bị ô nhiễm; hoặc có thể một vài thực phẩm được dung bởi các tính lợi lạc của nó nhưng trong một vài trường hợp[42] lại trở thành độc hai; hoặc nó có thể là thực phẩm không tốt đối với một cá nhân đặc biệt. Nhất là ngày nay, hầu hết mọi người tham ăn thịt và dùng thịt và máu mà không suy xét, hoàn toàn không biết gì về mọi bệnh tật gây nên bởi thịt ôi[43] hoặc các tinh linh ác hại trong thịt. Các chế độ ăn uống và cách sống thiếu lành mạnh cũng có thể gây ra các khối u, các sự rối loạn của đàm, bệnh phù và các bệnh tật khác, gây nên vô số cái chết. Tương tự, việc tìm kiếm tiền của, thanh danh và các vinh quang khác kích động người ta chiến đấu, đương đầu với các thú hoang, vượt song một cách táo bạo và liều lĩnh trong vô số tình huống khác có thể đem lại cái chết cho họ.

Hơn nữa, giây phút mà bất kỳ nguyên nhân nào trong nhiều nguyên nhân khác nhau của cái chết có thể can thiệp vào thì hoàn toàn không tiên đoán được. Một số người chết trong bụng mẹ, một số chết khi sanh ra, một số trước khi học bò. Một số người chết trẻ; những người khác chết già và chết khi già yếu lụ khụ. Một số chết trước khi có thể dùng thuốc hay sự trợ giúp. Những người khác có thể lây lất, dán chặt trên giường bệnh nhiều năm, nhìn cuộc đời bằng đôi mắt của người đã chết; khi họ chết, họ chỉ còn da bọc xương. Nhiều người chết bất thần hoặc do tai nạn, chết trong khi ăn, nói chuyện hay làm việc. Thậm chí một số người còn tự tử.

Bị vây khốn bởi nhiều nguyên nhân của cái chết nên giống như một ngọn lửa-nến trong gió, cuộc đời bạn ít có cơ hội kéo dài. Không có gì bảo đảm rằng cái chết sẽ không bất thần tấn công ngay bây giờ, và ngày mai bạn sẽ không bị tái sanh làm một con thú với cặp sừng trên đầu và răng nanh trong miệng. Bạn nên hoàn toàn tin chắc rằng không thể tiên đoán khi nào bạn chết và không biết được bạn sẽ sanh ra ở đâu trong đời sau.

 

VII.SỰ TỈNH GIÁC MÃNH LIỆT VỀ LẼ VÔ THƯỜNG.

 

Hãy thiền định nhất tâm về cái chết, trong mọi lúc và mọi tình huống. Khi đứng lên, khi ngồi hoặc nằm xuống, hãy tự nhủ: “Đây là hành động cuối cùng của tôi trong thế giới này,” và hãy thiền định về điều đó với sự hoàn toàn xác tín. Trên đường đi tới bất kỳ nơi đâu, hãy tự nói: “Có thể tôi sẽ chết ở đây. Không có gì chắc chắn là tôi sẽ trở về.” Khi bạn sắp đặt một cuộc hành trình

và tạm dừng để nghĩ ngơi, hãy tự hỏi: “Tôi sẽ chết ở đây chăng?” Bất kỳ bạn ở đâu, bạn nên tự hỏi phải chăng bạn sẽ chết nơi đây. Ban đêm, khi nằm xuống, hãy tự hỏi liệu bạn có thể chết trong giường đêm nay hay có thể quả quyết được rằng sáng mai bạn sẽ thức dậy hay không. Khi nhỏm dậy hãy tự hỏi liệu bạn có thể chết vào lúc nào đó trong ngày, hoặc quán chiếu rằng chẳng có gì chắc chắn là bạn sẽ đi ngủ vào buổi tối.

Hãy chỉ thiền định về cái chết một cách nhiệt thành và tận sâu thẳm của trái tim bạn. Hãy thực hành giống như các Geshe phái Kadampa ngày xưa, các ngài đã luôn luôn nghĩ tưởng về cái chết trong từng giây phút. Ban đêm, các ngài lật úp cái tô của mình xuống;* và khi nghĩ tưởng rằng biết đâu ngày mai có thể không cần đốt lửa, các ngài đã không bao giờ vùi than hồng ban đêm.

Tuy nhiên, chỉ thiền định về cái chết thôi thì sẽ không đủ. Điều ích lợi duy nhất vào lúc chết là Pháp, vì thế bạn cũng cần tự khuyến khích mình thực hành trong một cách thế chân thực, không bao giờ lẻn trốn vào sự quên lãng hay mất cảnh giác, luôn luôn ghi nhớ rằng các hoạt động của sinh tử thì thoáng qua và không có chút ý nghĩa nào. Tự bản chất, sự nối kết này của thân và tâm thì vô thường, vì thế đừng trông cậy vào nó như cái gì của riêng bạn; nó hoàn toàn là một sự vay mượn.

Mọi con đường và lối đi đều vô thường, vì thế dù bạn đang đi đâu, hãy hướng bước chân bạn về Pháp. Như có nói trong Trí Huệ Súc tích Siêu việt: 

Nếu bạn vừa đi vừa nhìn phía trước một khoảng cách bằng bề dài một cái ách trong sự chánh niệm, tâm bạn sẽ không bị mê mờ. 

Bất kỳ bạn ở đâu, mọi nơi chốn đều vô thường, vì thế hãy giữ các cõi Phật thanh tịnh trong tâm. Đồ ăn, thức uống và bất cứ sự gì bạn vui hưởng đều vô thường, vì thế hãy nuôi sống bằng sự thiền định sâu xa. Giấc ngủ thì vô thường, vì thế khi bạn ngủ, hãy tịnh hoá các lọc lừa của giấc ngủ thành tịnh quang.[44] Tài sản, nếu bạn có nó, thì vô thường, vì thế hãy nỗ lực để sở hữu bảy tài sản cao quý.** Những người thân yêu, bạn hữu và gia đình thì vô thường, vì thế ở một nơi cô tịch hãy khơi dây khát khao giải thoát.

Địa vị cao và danh tiếng thì vô thường, vì thế luôn luôn giữ một vị trí thấp. Ngôn ngữ thì vô thường, vì thế hãy tự hưng phấn để trì tụng các thần chú và những bài cầu nguyện. Đức tin và ước muốn giải thoát thì vô thường, vì thế hãy nỗ lực thực hiện những thệ nguyện không thể lây chuyển của bạn. Những ý niệm và tư tưởng thì vô thường, vì thế hãy tiếp tục phát triển một bản tánh tốt đẹp. Các kinh nghiệm và chứng ngộ thiền định thì vô thường, vì thế hãy tiếp tục cho tới khi bạn đạt tới chỗ mà mọi sự tan lẫn trong bản tánh của thực tại. Khi ấy, mối nối kết giữa cái chết và sự tái sinh[45] biến mất và bạn đạt được một sự xác tín đến nỗi bạn hoàn toàn sẵn sàng đối với cái chết. Bạn đã đoạt được thành trì bất tử; bạn giống như con chim đại bang tự tại vút lên đỉnh cao của những cõi trời. Sau đó không còn cần đến bất kỳ sự thiền định buồn thảm nào về cái chết đang tới gần của bạn.

Như Ngài Jetsun Mila đã hát:

Bởi sợ chết, tôi đi vào núi.

Tôi thiền định liên tục về sự xảy đến của của cái chết không thể đoán trước

Và xây thành luỹ của bản tánh bất tử bất biến.

Giờ đây tôi không còn và đã vượt qua mọi nỗi sợ về cái chết!

 

Và Đức Dagpo Rinpoche vô song nói:

 

Lúc đầu, bạn phải bị nỗi sợ sinh và tử rượt đuổi như một con hươu đực trốn thoát cái bẫy. Vào lúc giữa, bạn cần không có gì để hối tiếc cho dù bạn phải chết, như một chủ trại đã thận trọng canh tác các cánh đồng của mình. Vào lúc cuối, bạn nên thấy an ổn và sung sướng, như một người vừa hoàn tất một công việc khủng khiếp.

Lúc đầu, bạn phải biết rằng không có thời giờ để phí phạm, giống như người bị một vết thương chí mạng vì trúng tên độc. Vào lúc giữa, bạn phải thiền định về cái chết mà không nghĩ tưởng về điều gì khác, giống như người mẹ mất đứa con duy nhất. Vào lúc cuối, bạn phải hiểu rằng không còn gì để làm, giống như một người chăn cừu mà đàn thú của anh ta đã bị kẻ thù lùa đi mất.

 

Hãy nhất tâm thiền định về cái chết và sự vô thường cho tới khi bạn đạt tới cấp độ đól

Đức Phật đã nói:

 

Thiền định bền bỉ về vô thường là cúng dường tất cả chư Phật.

Thiền định bền bỉ về vô thường là được tất cả chư Phật cứu thoát khỏi đau khổ.

Thiền định bền bỉ về vô thường là được tất cả chư Phật dẫn dắt.

Thiền định bền bỉ về vô thường là được tất cả chư Phật ban phước.

Trong tất cả các dấu chân, dâu chân voi thì to lớn nhất; cũng thế,

trong các chủ đề thiền định đối với một Phật tử, sự suy niệm về vô thường thì không gì sánh được.

 

Và Đức Phật đã nói trong Vinaya (Luật Tạng):

 

Nhớ tưởng trong giây lát về lẽ vô thường của mọi sự duyên hợp thì còn vĩ đại hơn việc hiến tặng thực phẩm và vật cúng dường cho các đệ tử của ta là những bình chứa toàn hảo,* như các tuỳ khưu Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên.

 

Một đệ tử cư sĩ hỏi Geshe Potowa rằng nếu phải chọn một pháp duy nhất thì thực hành nào là quan trọng nhất. Vị Geshe đã trả lời:

 

Nếu con muốn sử dụng một thực hành Pháp duy nhất, thiền định về vô thường là thiền định quan trọng nhất.

Lúc đầu, sự thiền định về cái chết và vô thường khiến con nắm lấy Pháp; vào lúc giữa nó dẫn đến sự thực hành tích cực; vào lúc cuối nó giúp con chứng ngộ tánh nhất như của mọi hiện tượng.

Lúc đầu, sự thiền định về vô thường khiến con cắt đứt những rang buộc với các sự việc của đời này; vào lúc giữa nó dẫn đến sự từ bỏ mọi bám luyến vào sinh tử; vào lúc cuối nó giúp con bước lên con đường đi tới Niết bàn.

Lúc đầu, sự thiền định về vô thường khiến con phát triển đức tin, vào lúc giữa nó dẫn đến sự tinh tấn trong thực hành; vào lúc cuối nó giúp con phát sanh trí huệ.

Lúc đầu cho tới khi con hoàn toàn xác quyết, sự thiền định về vô thường khiến con tìm cầu Pháp; vào lúc giữa nó dẫn đến sự thực hành; vào lúc cuối nó trợ giúp con đạt tới mục đích tối hậu.

Lúc đầu, cho tới khi con hoàn toàn xác quyết, sự thiền định về vô thường khiến con thực hành với một sự tinh tấn là thứ che chở con như chiếc áo giáp; vào lúc giữa, nó dẫn đến sự thực hành với một sự tinh tấn trong hành động; vào lúc cuối nó trợ giúp con thực hành với một sự tinh tấn vô bờ.[46]

 

Và ngài Padampa Sangye nói:

 

Lúc đầu, sự hoàn toàn xác quyết về lẽ vô thường khiến bạn nắm lấy Pháp; vào lúc giữa, nó thúc giục sự tinh tấn của bạn; và vào lúc cuối nó đem lại cho bạn Pháp Thân chói lọi.

 

Trừ phi bạn cảm nhận sự xác quyết chân thành này trong nguyên lý vô thường,

bất kỳ giáo lý nào bạn có thể cho rằng mình đã thọ nhận và đưa vào thực hành sẽ chỉ

khiến bạn càng thêm trơ lì[47] đối với Pháp. Ngài Padampa Sangye cũng nói:

 

Tôi chưa bao giờ thấy duy nhất người Tây Tạng nào nghĩ tưỡng về sự chết.

Cũng chưa bao giờ thấy ai sống mãi!

Nhìn họ thích thú góp nhặt của cải một khi đã khoác chiếc y vàng, tôi tự hỏi –

Phải chăng họ sắp hối lộ Thần Chất bằng thực phẩm và tiền?

Nhìn cách họ tích luỹ các vật giá trị nhất, tôi tự hỏi –

Phải chăng họ sắp đút lót trong địa ngục?

Ha, ha! Nhìn thấy các hành giả Tây Tạng đó khiến tôi phì cười!

Người thông thái nhất là kẻ tự phụ nhất,

Những thiền giả xuất sắc nhất chất đống thực phẩm và của cải,

Các ẩn sĩ cô tịch mê mãi trong những theo đuổi tầm thường,

Những kẻ từ bỏ nhà cửa và quê hương không biết xấu hổ.

Những người đó được miễn trừ đối với Pháp!

Họ miệt mài trong tà hạnh.

Họ có thể thấy người khác chết nhưng không hiểu rằng bản thân họ cũng sắp chết.

Đó là lỗi lầm đầu tiên của họ.

 

Như vậy, sự thiền định về vô thường là khúc dạo đầu mở ra con đường cho mọi thực hành Pháp. Khi được thỉnh cầu ban giáo huấn về cách giải trừ nghịch cảnh. Geshe Potowa đã trả lời bằng những lời sau đây:

 

Hãy suy tưởng dài lâu về cái chết và sự vô thường. Một khi bạn quyết chắc rằng bạn sắp chết, bạn sẽ không còn thấy khó khăn khi gạt sang một bên các tà hạnh, cũng không khó khăn khi làm điều đúng đắn.

Sau đó, hãy thiền định lâu dài về lòng từ và bi. Một khi lòng bi tràn ngập trái tim bạn, bạn sẽ không thấy khó khăn khi hành động vì lợi lạc của người khác.

Rồi hãy thiền định lâu dài về tánh Không, trạng thái tự nhiên của mọi hiện tượng. Một khi bạn hoàn toàn thấu suốt tánh Không, bạn sẽ không còn thấy khó khăn khi loại trừ các mê lầm của bạn.

 

Một khi chúng ta có được sự xác quyết như thế về lẽ vô thường, mọi hoạt động tầm thường của đời này dường như trở nên thật ghê tởm như một miếng thịt mỡ làm người ta khốn khổ vì sự ói mửa. Đao sư tôn kính của tôi thường nói:

 

Bất kỳ quyền cao chức trọng, của cải hay sắc đẹp nào ta thấy trong thế giới này, chúng không khơi dậy long tham muốn trong ta. Đó là bởi khi thấy các bậc cao quý ngày xưa đã sống cuộc đời minh ra sao, ta mới chỉ có được chút hiểu biết ít ỏi về lẽ vô thường. Ta không còn giáo huấn nào sâu xa hơn điều này để ban cho con.

 

Vì thế, bạn đã trở nên thâm nhập sâu xa ra sao với suy nhiềm về lẽ vô thường này? Bạn nên giống như Geshe Kharak Gomchung, Ngài đi vào những vùng núi non cô tịch ở Jomo Kharak trong tỉnh Tsang để thiền định. Trước hang của Ngài có một bụi gai, nó vướng vào quần áo Ngài.

Lúc đầu Ngài nghĩ: “Có lẽ ta nên chặt nó đi,” nhưng rồi Ngài tự bảo: “Nhưng xét cho cùng, ta có thể chết trong cái hang này. Ta thực sự không nói được là liệu mình còn sống để trở ra nữa không. Hiển nhiên rằng đối với ta điều ấy còn quan trọng hơn nữa để tiến bộ trong thực hành.”

Khi ra ngoài, Ngài lại bị những chiếc gai móc vào quần áo. Lúc này Ngài nghĩ: “Ta không dám chắc là sẽ còn trở vào hang nữa hay không” và sự việc này tiếp diễn như thế trong nhiều năm cho tới khi Ngài là một đạo sư thành tựu. Khi Ngài rời khỏi hang, bụi gai vẫn chưa được cắt.

Vào mùa thu, trong thời gian chòm sao Risi xuất hiện, Ngài Rigdzin Jigme Lingpa luôn luôn ở tại một con suối nóng nào đó. Các sườn vực không có bậc thang khiến việc Ngài xuống tới mặt nước và ngồi trong suối rất khó khăn. Các đệ tử của Ngài tỏ ý muốn làm vài bậc thang, nhưng Ngài trả lời: “Tại sao phải quá bận tâm khi chúng ta không biết sẽ còn ở đây năm tới không:” Đạo sư của tôi đã kể cho tôi rằng Ngài luôn luôn nói về sự vô thường như thế.

Chúng ta cũng thế, chừng nào mà ta không hoàn toàn tiêu hoá được một thái độ như thế, hãy nên thiền định về nó. Hãy bắt đầu bằng việc phát khởi Bồ Đề tâm, và như sự thực hành chính, hãy tu tập tâm bạn bằng tất cả những phương tiện khác nhau này cho tới khi sự vô thường thực sự thấm nhập vào từng tư tưởng của bạn. Cuối cùng, hãy kết thúc bằng cách niêm phong thực hành với sự hồi hướng công đức. Khi thực hành theo cách này, hãy nỗ lực với khả năng tốt nhất của bạn để thi đua với các bậc vĩ đại trong quá khứ.

 

Sự vô thường thì có mặt khắp nơi, tuy thế con vẫn cho rằng những sự việc sẽ còn tồn tại.

Con đã đi tới cánh cổng của tuổi già, tuy thếmà con vẫn giả đò là mình còn trẻ.

Xin ban phước cho con và những chúng sinh lạc lối,

để chúng con có thể thực sự thấu hiểu lẽ vô thường.

     


 

* Những giai đoạn huỷ diệt này hoàn toàn xảy ra trong một kiếp, nhưng ngay cả những vị trời trường thọ này cũng có thể già đi giữa sự huỷ diệt đầu tiên bởi lửa và sự huỷ diệt thứ bảy, sau đó cõi của họ - một phần của nó thuộc về thiền định thứ hai - sẽ bị nước huỷ diệt.

** Lúc cuối của một kỷ nguyên là thời kỳ suy tàn trong đó đời sống còn mỏng manh hơn nữa.

* Đức Liên Hoa Sanh thường được nói tới như Đức Phật thứ hai của thời đại chúng ta, đang phát triển công hạnh của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni.

** Các bậc như thế được coi như đã vượt lên sinh tử. Tuy nhiên, giống như Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, các ngài đã chọn cái chết để nhắc nhở chúng sinh về lẽ vô thường.

[38] “Một nửa” ám chỉ triều đại của vua Mune Tsenpo, ông mất sau khi mới trị vì một năm chín tháng.

* đây thuật ngữ này dường như ám chỉ miền Nam Châu Á, Mông Cổ và Trung Hoa.

* Bơ không dính vào sợi tóc. Chỉ có dấu vết trống rỗng của sợi tóc là còn lại.

* nói cách khác, một vốn liếng công đức. Quan niệm này đã được giảng ở phần Hai, Chương 4.

* nói cách khác, chết đơn độc ở một nơi hẻo lánh không có các sự quấy rầy náo động.

* Trí huệ nhận ra tánh Không của bãn ngã và các hiện tượng.

[39] Ông ta có thể kiểm soát tâm mình trong ý nghĩa của việc phát triển sự tập trung (thiền định) nhưng không có nghĩa là điều phục được các cảm xúc tiêu cực hay chứng ngộ bản tánh của tâm.Từ quan điểm của Pháp, thiền định mà không có định hướng đúng đắn thì vô ích.

[40] Lam du ‘khyer ba: nghĩa đen là đưa vào con đường. Điều này có nghĩa là sử dụng mọi tình huống trong đời sống hàng ngày như  bộ phận của sự thực hành. Nếu Gelong Thangpa đưa những tư tưởng tiêu cục của ông vào con đường, ví dụ dùng lòng từ như pháp đối trị thái độ thù nghịch, hoặc bằng cách nhận ra bản tánh trống không của niệm tưởng ngay khi nó sinh khởi, thì điều ấy không dẫn tới bất kỳ tai hại nào.

[41] - rkyen:các hoàn cảnh. Trợ nhân cho phép nguyên nhân sâu xa (rggy)sinh ra kết quả của nó. Ví dụ, nếu người nào đó chết trong một tai nạn, thì bản thân tai nạn, hoàn cảnh của cái chết đó, là rkyen, và nguyên nhân sâu xa (rggy) là hành động tiêu cực đã thực hiện trong quá khứ, và cái chết là nghiệp quả của nó.

[42] Ggur dug: tron y khoa Tây Tạng, thành ngữ này ám chỉ các lương thực có bản chất tốt lành, nhưng nó trở nên độc hại hay khó tiêu khi được dùng chung với những thực phẩm nào đó.

[43] Sha sgren có nghĩa là thịt quá ôi thiu nhưng không hẳn là bị thối rữa. Ở Tây Tạng, thực phẩm có thể được tích trữ trong thời gian dài nhờ điều kiện khí hậu hết sức đặc biệt.

* Đối với người Tây Tạng, lật úp cái tô của ai xuống là một dấu hiệu người đó đã chết.

[44] Nếu như trong giấc ngủ, người ta vẫn có thể chú tâm vào thanh tịnh quang là sự hiển lộ tự nhiên của giác tánh nguyên sơ, thì mọi kinh nghiệm tâm linh của người ấy sẽ hoà trộn với giác tánh và sẽ không bị tri giác trong một cách thế mê lầm.

** ‘phags pa’I nor bdun: Đức tin, giới luật, sự học hỏi, sự rộng lượng (bố thí), sự tận tâm, khiêm tốn và trí huệ.

[45] Một sự tái sanh bình thường và tự động sẽ không tiếp theo sau cái chết do những hành động trong quá khứ gây ra.

* nghĩa là hoàn toàn có khả năng thọ nhận giáo lý một cách đúng đắn và vận dụng chúng.

[46] Đây là ba loại tinh tấn đã được giải thích chi tiết ở Phần Hai, Chương Hai. Pema Wangyal Rinpoche viết thêm: Khi bạn có sự tinh tấn như-áo giáp thì không gì có thể ngăn cản bạn bắt đầu. Khi bạn tinh tấn trong hành động, không gì có thể làm gián đoạn điều bạn đang làm. Khi bạn có sự tinh tấn không thể bị ngừng dứt, không gì có thể ngăn bạn đạt được mục đích.

[47] Thuật ngữ Tây Tạng là chos dred, nghĩa đen là “Con Gấu Pháp”. Theo Đại Tự Điển Tây Tạng – Trung Quốc: “người không bị điều phục bởi Pháp. Anh ta hiểu Pháp nhưng không thực hành nó, tâm anh ta trở nên khô cứng..” Nếu tiếp cận Pháp với thái độ sai lạc, ta có thể có một sự nguy tín, nó khiến ta không nhạy cảm đối với vị Thầy và giáo lý.

 

 

 

----o0o---

 

Mục Lục > 1-1 > 1-2 > 1-3 > 1-4> 1-5 >1-6

 2-1 > 2-2 > 2-3 > 2-4 > 2-5 > 2-6 > 3-1

 

----o0o----

Vi tính: Tường Tâm

Trình bày: Diệu Tường

Cập nhật: 01-2008

Nguồn: www.quangduc.com

Về danh mục

binh di cua ht thich tri tinh Húy kỵ Hòa thượng khai sơn chùa Phước chong linh cảm ứng quán thế Âm gi廕 Hy 大谷派 願力的故事 phat mau nhiem cua tam dinh tue ban chat cua tinh vẻ ngôn ngữ của tâm rá ng chua hoang phap tp ho chi minh Linh bất linh tại ngã Màu Gi Hoa quý vườn nhà cành Người giảm cân cần lưu ý gì trong chế Ăn chay î ï giïa 放下凡夫心 故事 白骨观 危险性 佛教中华文化 Đồng Nai Hàng vạn người dự lễ tang tam binh the gioi binh 11 nang luc cua tap trung khi tịnh tài sinh bất tịnh nhật ký các neu mùng thần luật tạng 45 năm nhìn lại ngọn lữa Bồ Tát Thích mùa báo hiếu của người con phật bí ẩn tài sản thiêng liêng của hoc theo hanh ngai hien tang nang luc khong so hai PHÁP HÒA thêm 9 lợi ích khi cho tinh dầu bơ vào thức vÛi บวช băng m០Cụ bà 114 tuổi Có tình yêu thì con Trị bệnh sỏi mật Tại khoa cấp cứu