LỜI VÀNG CỦA THẦY TÔI

Nguyên Tác: O-rgyan-'jigs-med-chos-kyi-dban-po

(Kunzang Lama'i Shelung)

Bản dịch Anh ngữ: The Words of my Perfect Teacher/Patrul Rinpoche

Của Nhóm Dịch thuật Padmakara

Nhà Xuất bản Shambhala

Bản dịch Việt ngữ: Nhóm Longchenpa 2004

----o0o---- 

PHẦN I

NHỮNG CHUẨN BỊ THÔNG THƯỜNG HAY BÊN NGOÀI

-------------------

 

CHƯƠNG BA

NHỮNG KHIẾM KHUYẾT CỦA SINH TỬ 

 

Thấu hiểu rằng những hoạt động sinh tử thì vô nghĩa,

Với lòng đại bi, Ngài nỗ lực chỉ vì lợi lạc của chúng sinh.

Không dính mắc vào sinh tử hay Niết Bàn, Ngài hành động phù hợp với Đại Thừa

Bậc Thầy Vô Song, con đãnh lễ dưới chân Ngài.

 

Hãy lắng nghe chương này với thái độ tương tự như bạn đã làm trong những chương trước.  Nó bao gồm một sự quán chiếu tổng quát về những nỗi khổ trong samsara (sinh tử luân hồi) và những quán chiếu về những nỗi khổ đặc biệt của mỗi một trong sáu cõi hiện hữu.

 

I.  NHỮNG NỖI KHỔ CỦA SINH TỬ LUÂN HỒI NÓI CHUNG

Như tôi đã vạch rõ, giờ đây chúng ta có thể có một cuộc đời được phú bẩm những sự tự do và thuận lợi rất khó tìm được, nhưng cuộc đời đó sẽ không kéo dài.  Chẳng bao lâu, chúng ta sẽ phải chịu ở dưới năng lực của sự vô thường và cái chết. Nếu sau đó chúng ta hoàn toàn biến mất giống như một ngọn lửa đã cháy hết hay nước bốc hơi, thì mọi sự sẽ kết thúc.  Nhưng sau cái chết ta không tan biến chẳng còn lại gì.  Chúng ta bị bắt buộc phải nhận một sự tái sanh mới - điều đó có nghĩa là ta sẽ vẫn ở trong sinh tử, và không có chỗ nào khác ngoài nơi đó.

Thuật ngữ samsara, bánh xe hay vòng quay của sự sống (luân hồi), được dùng ở đây có nghĩa là sự quay tròn từ nơi này sang nơi khác trong một vòng tròn, giống như một bánh xe bằng gốm, hay bánh xe của một máy xay trong nước. Khi một con ruồi bị bẫy trong một cái chai đóng kín thì dù có bay chỗ nào chăng nữa nó cũng không thể thoát ra. Cũng thế, dù ta được sanh trong những cõi cao hay thấp, ta cũng chẳng bao giờ nằm ngoài luân hồi sinh tử. Phần trên cái chai thì giống như những cõi cao của các vị trời hay người, và phần dưới giống như ba cõi bất hạnh. Ta được biết samsara thì giống như một vòng tròn bởi ta cứ xoay vòng mãi, tái sanh nơi này tiếp sau nơi khác trong sáu cõi như hậu quả của những hành vi của chính ta mà dù tích cực hay tiêu cực, những hành vi này bị ô nhiễm bởi sự bám chấp.

Từ vô thuỷ, chúng ta từng lang thang trong những thế giới luân hồi này mà mỗi một chúng sinh trong đó, không loại trừ ai, đều có những mối liên hệ về sự thương mến, thù địch hay dửng dưng đối với mỗi chúng sinh khác.  Mỗi ngường từng la cha và mẹ của mỗi chúng sinh khác.  Trong các Kinh điển có nói rằng nếu bạn muốn tính lùi lại những thế hệ các bà mẹ trong gia đình bạn, nói rằng: “Bà ấy là mẹ của mẹ tôi; mẹ của bà ấy là như vầy như vầy..” và v.v., bạn dùng những viên đất lớn bằng hột cây bách xù để đếm số người đó thì toàn thể đất được dùng sẽ hết sạch trước khi bạn đếm xong số người đó.  Như Ngài Nagarjuna (Long Thọ) nói: 

Chúng ta dùng hết đất khi cố tính đếm những bà mẹ của ta

Bằng những viên đất sét bằng kích thước những hột bách xù. 

Không có duy nhất một hình thức đời sống nào ma ta không từng nhận suốt khắp vòng luân hồi từ vô thuỷ cho tới nay. Đã vô số lần những dục vọng của ta khiến đầu và tứ chi ta đứt rời. Nếu chúng ta cố gắng chất đống ở một nơi tất cả những tứ chi ta đã mất khi ta còn làm những con kiến và những côn trùng khác thì đống tứ chi ấy còn cao hơn Núi Tu Di.  Những giọt nước mắt chưa từng khô cạn mà ta đã khóc bởi cái lạnh, đói và khát khi ta không có thực phẩm và quần áo, làm thành một đại dương còn lớn hơn tất cả những đại dương bao quanh trái đất. Thậm chí tất cả số chất đồng đỏ mà ta từng nuốt trong các địa ngục thì còn lớn hơn bốn đại dương.  Thế nhưng tất cả chúng sinh đều cột chặt vào các cõi sinh tử bởi dục vọng và những bám chấp của họ mà chẳng bao giờ có sự hối hận trong chốc lát, họ sẽ còn phải chịu đựng thêm nữa những đau khổ trong vòng luân hồi vô tận này.

Ngay cả nếu nhờ kết quả may mắn của một vài thiện hạnh, chúng ta có thể được trường thọ, thân thể hoàn hảo, của cải và sự vinh quang của vị trời Indra hay Brahma, thì cuối cùng chúng ta vẫn không thể trì hoãn được cái chết; và sau cái chết chúng ta lại phải chịu đựng những đau khổ của các cõi thấp. Trong đời này những thuận lợi nhỏ bé của quyền lực, của cải, sức khoẻ tốt và những thứ khác mà ta vui hưởng có thể lừa phỉnh ta trong một ít năm, ít tháng hay ít ngày.  Nhưng một kih kết quả của bất kỳ thiện hạnh nào tạo nên những trang thái hạnh phúc này bị cạn kiệt, thì dù có muốn hay không, ta sẽ phải trải qua sự bần cùng và khốn khó hay những đau khổ không thể chịu đựng nổi trong những cõi thấp.

Có ý nghĩa gì trong loại hạnh phúc đó? Nó như một giấc mộng chỉ ngừng lại giữa chừng khi bạn tỉnh giấc. Như kết quả của một vài thiện hạnh không đáng kể, những ai có vẻ sung sướng và thoải mái vào lúc này, sẽ không thể nắm giữ trạng thái đó dài hơn chốc lát một khi kết quả của hành vi đó cạn kiệt. Những vị vua trời, ngồi cao ngất trên những chiếc ngai bằng châu báu trải rộng với những thứ lụa là tuyệt trần, vui hưởng mọi lạc thú của ngủ giác. Nhưng, một khi thọ mạng của họ cạn kiệt thì trong nháy mắt, họ bị đắm chìm trong đau khổ và đâm đầu xuống nền kim khí nóng như thiêu đốt của địa ngục. Ngay cả những vị trời của mặt trời và mặt trăng,[48]  là những vị đã chiếu sáng bốn đại lục, cuối cùng có thể bị tái sanh ở một nơi nào ngay giữa những đại lục đó, trong bong tối sâu dày tới nỗi họ không thể thấy tứ chi của chính họ duỗi ra hay gập lại.

Vì thế chớ đặt sự kỳ vọng của bạn nơi những niềm vui hiển nhiên của sinh tử. Hãy quyết định rằng, ngay trong đời này, bạn sẽ giải thoát chính mình khỏi đại dương những nỗi khổ của nó và đạt được chân lý và hạnh phúc vĩnh cữu của Phật Quả viên mãn. Hãy chuẩn bị tư tưởng này cho sự thực hành của bạn, sử dụng những phương pháp đúng đắn vào lúc bắt đầu, phần chính yếu và lúc kết thúc.

 

II.     NHỮNG NỖI KHỔ ĐẶC BIỆT MÀ CHÚNG SINH TRONG SÁU CÕI PHẢI KINH NGHIỆM.

 

  1. Mười tám địa ngục

Tám địa ngục nóng này cái này nằm trên cái kia giống như các tầng của một toà nhà, từ Địa ngục Sống lại trên đỉnh, xuống tới Địa ngục Đau khổ Tột cùng ở tầng chót.  Trong mỗi mặt nền và vành đai thì giống như sắt trắng nóng của một người thợ rèn – hoàn toàn không có chỗ nào bạn có thể đặt chân an toàn. Mọi sự chìm trong sự thiêu đốt hừng hực của ngọn lửa bùng cháy dữ dội.

 

1.1.1  Địa ngục Sống lại

Ở đây, giữa những than hồng bao phủ mặt nền kim khí nóng hực, vô số chúng sinh như những bong tuyết trong một trận bão tuyết cùng bị gom tụ lại do năng lực các hành vi của họ. Vì những hành vi đưa dẫn họ bị thúc đẩy bởi sự thù ghét, hậu quả tương tự như nguyên nhân khiến họ nhìn nhau như những kẻ tử thù, và họ đánh nhau dữ dội. Vung lên những vũ khí kỳ lạ - một kho vũ khí ma quái được tao nên bởi nghiệp của họ - họ đánh nhau cho tới khi mọi người đều bị giết chết. Vào lúc đó, một giọng nói từ bầu trời cất lên: “Hãy sống lại!” và lập tức họ trở lại cuộc đời và lại bắt đầu đánh nhau y hệt như trước. Và vì thế họ đau khổ, liên tục chết đi và sống lại.

Họ sống ở đó bao lâu? Năm mươi năm trong đời sống con người tương đương với một ngày trong cõi trời của Bốn Đại Đế. Ba mươi ngày đó thành một tháng, và mười hai tháng làm thành một năm; năm trăm năm như thế tương đương một ngày trong Địa ngục Sống lại, và ở đó một lần nữa, mỗi tháng có ba mươi ngày, mười hai tháng làm thành một năm. Họ chịu đau khổ ở đó trong năm trăm như thế.

 

1.1.2  Địa ngục Đường Vạch Đen 

Ở đây những thuộc hạ của Yama (Thần Chết) đặt những nạn nhân của họ trên nền kim loại nóng giống như rất nhiều khúc củi cháy dở và gạch lên thân họ những đường vạch đen - bốn, tám, mười sáu, ba mươi hai và v..v.. – mà các thuộc hạ dùng làm những đường mẫu để cắt các nạn nhân bằng những chiếc cưa nóng đỏ. Vừa bị cắt thành từng mảnh xong là họ lập tức nguyên vẹn trở lại một lần nữa, chỉ để bị chặt thành từng phần và bị băm đi băm lại.

Đối với tuổi thọ của họ ở đó, một trăm năm làm người tương ứng với một ngày của các vị trời trong Cõi Trời thứ Ba mươi ba, và một ngàn năm trong Cõi Trời thứ Ba mươi ba tương đương với một ngày trong địa ngục này. Theo tỉ lệ đó, các chúng sinh sống ở đó một ngàn năm.

 

1.1.3  Địa ngục Vây bắt và Nghiền nát 

Trong địa ngục này, hàng triệu chúng sinh bị ném vào những cối giã khổng lồ bằng sắt có kích thước bằng toàn bộ những thung lũng. Những thuộc hạ của Yama, Thần Chết, xoay tít những chiếc búa khổng lồ bằng kim loại nóng đỏ lớn như Núi Tu Di quanh đầu họ, và giã nát các nạn nhân. Những chúng sinh này bị nghiền nát cho tới chết, đang kêu khóc trong nỗi thống khổ và kinh hoàng không thể tưởng tượng nổi. Khi những chiếc búa được dở lên, họ sống lại, chỉ để chịu đựng liên tục những nỗi khổ tương tự.

Đôi khi, núi non ở cả hai bờ thung lũng biến thành đầu hươu, nai, dê, cừu và những thú vật khác mà những chúng sinh-địa ngục từng giết hại trong những đời quá khứ của họ. Những con vật húc đầu vào nhau bằng những đầu sừng phun lửa của chúng, và vô số chúng sinh-địa ngục, bị lôi kéo ở đó bởi những nghiệp lực của họ, tất cả đều bị nghiến nát cho tới chết. Rồi, một lần nữa, khi nhưng rặng núi tách ra, họ sống lại chỉ để lại bị nghiền nát.

Hai trăm năm làm người tương đương với một ngày của những vị trời trong Cõi Trời Không Chiến đấu. Hai ngàn năm trong cõi đó tương đương với một ngày trong Địa ngục Vây bắt và Nghiền nát, và chúng sinh trong địa ngục đó sống hai ngàn năm.

 

1.1.4  Địa ngục Kêu rú 

đây, chúng sinh đau khổ vì bị quay nướng trong những tòa nhà bằng kim loại nóng đỏ không có lối ra. Họ kêu khóc và có cảm tưởng sẽ không bao giờ trốn thoát được.

Bốn trăm năm làm người tương đương một ngày trong Cõi Hỉ lạc. Bốn ngàn năm trong cõi trời đó tương đương với một ngày trong Địa ngục Kêu rú, ở đó đời sống tiếp tục trong bốn ngàn năm.

 

1.1.5  Địa ngục nóng 

Ở đây, vô số chúng sinh đau khổ vì bị nấu trong những cái vạc sắt khổng lồ có kích thước bằng toàn thể vũ trụ gồm một tỉ thế giới, ở đó họ bị nấu sôi trong chất đồng nấu chảy. Dù nổi lên ở chỗ nào, họ cũng bị những thuộc hạ chộp lấy bằng những móc kim khí và bị đánh vào đầu bằng búa, đôi khi họ mất ý thức; ý niệm về hạnh phúc của họ là những giây lát hiếm hoi này khi họ không còn thấy đau đớn nữa. Ở mặt khác, họ tiếp tục kinh nghiệm nỗi khổ mênh mông.

Một ngàn sáu trăm năm làm người tương đương một ngày giữa những vị trời Vui hưởng những Hoá thân của những Người khác. Mười sáu ngàn năm của những vị trời tương đương một ngày trong Địa ngục Nóng và chúng sinh ở đó mười sáu ngàn năm như thế.

 

1.1.7  Địa ngục Nóng Dữ dội 

Chúng sinh trong địa ngục này bị giam cầm trong những ngôi nhà bằng kim khí nóng hực, và những thuộc hạ của Yama dùng các chĩa ba sắt nóng đỏ đâm họ qua gót chân và hậu môn cho tới khi các nạnh chĩa được đẩy sâu vào tận vai và đỉnh đầu. Trong khi đó thân họ bị bọc trong những miếng kim loại nóng đỏ. Họ phải chịu đau đớn biết bao! Việc này tiếp tục trong nửa trung kiếp, là một thời gian vô tận nếu tính theo năm tháng của con người.

 

1.1.8  Địa ngục Đau khổ Tột cùng 

Đây là một dinh thự bao la bằng kim loại nóng hực, vay quanh nó là mười sáu Địa ngục Lân cận. Trong đó các thuộc hạ của Yama ném vô số chúng sinh vào giữa một ngọn núi gồm những miếng sắt nóng đỏ, rực rỡ như than hồng. Họ làm cho lửa cháy bùng lên bằng những ống thổi làm bằng da cọp và beo cho tới khi thân các nạn nhân và ngọn lửa trở nên không còn phân biệt được nữa. Nỗi khổ của họ thật ghê gớm. Ngoài những tiếng kêu khóc tuyệt vọng thì không còn dấu hiệu nào về sự hiện diện của những thân xác thực sự nữa. Họ không ngớt mong mỏi được trốn thoát, nhưng điều ấy không xảy ra. Thỉnh thoảng có một lỗ hổng nhỏ trong ngọn lửa và họ nghĩ rằng mình có thể thoát ra, các thuộc hạ đánh họ bằng những ngọn giáo, dùi cui, búa và những vũ khí khác và họ phải chịu mọi thống khổ của bảy loại địa ngục đã kể ở trên, chẳng hạn như bị đổ chất đồng nóng chảy vào miệng.

Thọ mạng ở đây thì dài cả một trung kiếp. Nó được gọi là Địa ngục Đau khổ Tột cùng là bởi không đâu có thể có nỗi khổ ghê gớm đến thế. Đây là địa ngục mà những kẻ phạm năm trọng tội bị quả báo lập tức, và những hành giả Kim Cương Thừa phát triển những quan điểm đối nghịch lại Vị Thầy Kim Cương, bị tái sanh. Không có những hành vi nào khác có đầy đủ năng lực để gây nên sự tái sanh ở đó.

 

1.1.9  Những Địa ngục Lân cận 

Chung quanh Địa ngục Đau khổ Tột cùng, ở mỗi một trong bốn hướng chính, có một cái mương đầy than hồng, một đầm lầy đầy những tử thi thối rữa, một cánh đồng vũ khí tua tủa và một rừng cây có lá sắc như lưỡi dao cạo. Trong mỗi phương bắc, nam, đông và tây đều có những cảnh tượng đó, tạo thành tất cả mười sáu loại. Trong mỗi phương trung gian – đông nam, tây nam, tây bắc và đông bắc – là một đồi cây salmali bằng sắt.

Hầm than hồng nóng đỏ. Khi chúng sinh đã gội sạch hầu hết hậu quả của những hành vi được nối kết với Địa ngục Đau khổ Tột cùng và từ nơi đó chui lên, họ thấy ở đằng xa cái gì giống như một cái mương có bóng mát. Họ vui mừng lao xuống đó, chỉ để thấy mình chìm xuống một hầm than nóng đỏ thiêu đốt thịt xương họ.

Đầm chứa tử thi thối rữa. Rồi họ thấy một con sông. Sau khi bị quay nướng trong một lò than cả một kiếp, họ khát tới nỗi nhìn thấy nước tràn ngập họ với niềm vui sướng và họ đã vội vã lao tới đó để làm nguôi cơn khát. Nhưng dĩ nhiên là không có nước. Không có gì ngoài những tử thi - những xác người, ngựa, xác chó - tất cả đang thối rữa và lúc nhúc những côn trùng khi chúng phân huỷ, bốc ra những mùi hôi thối khủng khiếp. Họ chìm vào bãi lầy này cho tới khi đầu họ chìm nghỉm, trong khi những con sâu với những cái mỏ sắt ngấu nghiến họ.

Cánh đồng dao cạo. Khi họ từ đầm lầy này trồi lên, họ run rẩy khi nhìn thấy một cánh đồng xanh tươi. Nhưng khi tới đó họ nhận ra rằng nó lởm chởm những vũ khí. Toàn thể mặt đất được bao phủ bởi những phiến kim loại mỏng nóng đỏ mọc lên nhiều như cỏ, chúng đâm thủng chân mỗi khi họ bước đi. Khi họ nhấc chân lên thì bàn chân lại lành lặn - chỉ để lại bị đâm thật đau đớn ngay khi họ đặt chân xuống.

Rừng gươm. Được tự do một lần nữa, họ sung sướng được nhìn thấy một cánh rừng đẹp và vội vã tới đó. Nhưng khi tới nơi thì chẳng có cánh rừng đẹp nào cả. nó hoá thành một bụi cây mà trên những cành cây bằng kim loại mọc đầy gươm đao thay cho những chiếc lá. Khi cây lay động trong gió, những lưỡi gươm cắt thân họ thành từng miếng nhỏ. Thân họ trở lại như cũ và liên tục bị băm nhỏ.

Đồi cây salmali sắt. Ở đây những tăng ni phóng túng vi phạm giới nguyện trong sạch và những ngườii đắm mình trong sự tà dâm bị tái sanh. Hậu quả của những hành vi như thế đem họ đến chân đồi cây salmali sắt khủng khiếp. Họ có thể thấy trên đỉnh đồi những người tình cũ đang kêu gọi họ. Khi họ hăm hở leo lên để gặp những người ấy thì tất cả những lá của cây sắt chĩa xuống và đâm thủng da thịt họ. Khi lên tới đỉnh họ chỉ thấy những con quạ, kên kên, và những con cùng loại móc mặt họ để hút chất mỡ. Họ lại thấy những người bạn tình đang gọi họ, bây giờ thì từ dưới đồi. Họ leo xuống và những lá cây quay ngược  lên liên tục đâm vào ngực họ. Khi xuống tới mặt đất, những người đàn ông và đàn bà bằng sắt hình thù gớm ghiếc ôm chầm lấy họ, cắn đứt đầu và nhai cho tới khi óc chảy lòng thòng ở khoé miệng. Đó là những đau khổ được kinh nghiệm ở đây.

Hãy thấm nhập mọi chi tiết của những đau khổ của tám địa ngục nóng, mười sáu địa ngục lân cận, những địa ngục phụ và những đồi cây salmali sắt. Hãy lui về một nơi yên tĩnh, nhắm mắt lại và tưởng tượng nỗi kinh hoàng và đau khổ nhiều tới độ như thể bạn thực sự sống ở đó, hãy khởi lên trong tâm tư tưởng sau:

“Tôi cảm nhận được sự khiếp sợ và đau khổ mãnh liệt như thế khi tôi vừa hình dung mọi nỗi khổ đó, mặc dù tôi không thực sự ở đó. Ngay giờ đây có vô số chúng sanh đang sống trong những địa ngục này, và tất cả họ đã từng là cha mẹ của tôi trong những đời quá khứ. Chẳng biết cha mẹ, những người thân yêu và bằng hữu của tôi có bị tái sanh vào đó sau khi chết hay không. Sự tái sanh vào những cõi này chủ yếu là do những hành vi phát xuất từ sự thù ghét, và bản thân tôi cũng đã từng tích lũy vô số hành vi như vậy trong đời này cũng như trong tất cả những đời quá khứ của tôi. Tôi có thể chắc chắn rằng sớm muộn gì chính tôi cũng sẽ phải tái sanh vào những cõi địa ngục đó.

“Vào lúc này, tôi có được một đời người với đầy đủ tự do và thuận lợi. Tôi đã gặp được một vị Thầy tâm linh chân chính và nhận được những hướng dẫn thâm sâu ban tặng khả năng đạt được Phật địa. Do vậy, tôi phải thực hành tốt nhất những phương pháp sẽ cứu tôi không còn bị tái sanh một lần nữa trong những cõi thấp đó.”

Hãy quán chiếu nhiều lần như thế về nỗi khổ trong những địa ngục. Hãy sám hối những hành động bất thiện trong quá khứ của bạn với sự ân hận mãnh liệt và hãy lập một quyết tâm bất thối chuyển rằng, cho dù phải bỏ thân mạng, bạn sẽ không bao giờ còn vi phạm những hành vi dẫn đến tái sanh trong các cõi địa ngục. Với lòng bi mẫn bao la đối với những chúng sinh giờ đây đang ở trong đó, hãy cầu nguyện rằng ngay giây phút này tất cả họ có thể được giải thoát khỏi những cõi thấp. Hãy đưa giáo lý vào thực hanh, hãy hoàn tất những phương pháp cho sự khởi đầu, phần chính và phần kết thúc.

 

 

 

 

1.2TÁM ĐỊA NGỤC LẠNH 

Trong tất cả những địa ngục này, môi trường hoàn toàn được tạo bởi những núi tuyết và băng hà, thường xuyên bị bao phủ trong những trận bão tuyết.

     Những chúng sanh ở đó, hoàn toàn trần truồng, bị hành hạ bởi sợ giá lạnh. Trong Địa Ngục Phồng Giộp, sự giá lạnh làm nổi những vết phồng giộp trên thân họ. Trong Địa Ngục Phồng Giộp Vỡ Bể, những vết phồng giộp này bể ra. Trong Địa Ngục Hàm Răng Nghiến Chặt, cái lạnh buốc nhức thì không thể chịu nổi và hàm răng của chúng sinh ở đó nghiến chặt lại. Trong Địa Ngục Than Khóc, tiếng kêu khóc của họ chẳng bao giờ dứt. Trong Địa Ngục Rên Rỉ, giọng họ bị vỡ bể và những tiếng rên dài thoát ra từ đôi môi họ. Trong Địa Ngục Utpala – như những Vết Nứt, da của họ chuyển thành màu xanh dương và nứt ra thành bốn miếng như-cánh hoa. Trong Địa Ngục Hoa Sen – như những Vết Nứt, có thể nhìn thấy thịt sống màu đỏ của họ, và sự lạnh giá làm nó nứt ra thành tám mảnh. Cuối cùng, trong Địa Ngục Hoa Sen Lớn – như những Vết Nứt, thịt của họ trở thành màu đỏ sậm và nứt ra thành mười sáu, ba mươi hai vàa sau đó thành vô số mảnh. Những con sâu đục thủng mảng thịt vỡ nứt và ngấu nghiến nó bằng những cái mỏ kim khí của chúng. Tên của tám địa ngục này bắt nguồn từ những đau khổ khác nhau mà chúng sinh phải chịu đựng ở đó.

Còn về thọ mạng trong những địa ngục lạnh này, hãy hình dung một cái thùng có thể chứa được hai trăm tiêu chuẩn Kosala,* đựng đầy hột mè. Đời sống trong Địa ngục Phồng Giộp kéo dài chừng nào cái thùng rỗng đó bị trống rỗng bằng cách cứ một trăm năm lại lấy ra một hột mè duy nhất.

Đối với những địa ngục lạnh khác, thọ mạng và các nỗi khổ mỗi thứ tăng gấp hai mươi lần. Do đó đời sống trong Địa Ngục Phồng Giộp Vỡ Bể dài gấp hai mươi lần đời sống trong Địa Ngục Phồng Giộp; dài hơn đời sống trong Địa ngục Hàm Răng Nghiến Chặt hai mươi lần; và v.v..

Bằng tâm thức, hãy nhận vào mình những nỗi khổ này và hãy thiền định về chúng cùng cách thức như đối với các địa ngục nóng. Hãy nghĩ tưởng rằng lạnh lẽo khủng khiếp biết bao khi phải đứng trần truồng dù chỉ trong chốc lát giữa con gió mùa đông lạnh giá trong thế giới con người hiện tại. Làm sao bạn có thể chịu đựng được nếu bị tái sanh vào những địa ngục đó? Hãy sám hối những lỗi lầm của bạn và cam kết không bao giờ tái phạm chúng. Sau đó hãy phát triển lòng bi mẫn đối với chúng sinh đang thật sự sống trong những thế giới đó. Hãy thực hành như trước, sử dụng mỗi một trong những giáo lý cho lúc khởi đầu, thực hành chính và phần kết thúc.

 

1.3CÁC ĐỊA NGỤC PHÙ DU

 

Những địa ngục phù du hiện hữu trong tất cả những loại địa điểm khác nhau và những nỗi khổ được kinh nghiệm trong đó cũng biến đổi rất nhiều. Chúng sanh có thể bị nghiền nát giữa các tảng đá, hoặc bị giam cầm trong một hòn đá, bị cóng lạnh trong băng tuyết, bị nấu hín trong nước sôi hay bị thiêu đốt trong lửa đỏ. Khi có người đang đốn cây thì một số người có cảm tưởng mình là cái cây mà những cành lớn bị chặt đứt. Một số đau khổ bởi đồng hoá thân thể họ với những bộ phận bị liên tục đem sử dụng như các cối giã, cây chổi, xoong chảo, cánh cửa, các cây cột, đinh đầu lớn và dây thừng…

Những ví dụ trong các câu chuyện về những địa ngục này là các tường thuật về con cá mà Ngài Lingje Repa nhìn thấy trong Hồ Yamdrok và con ếch mà thành tựu giả Tangtong Gyalpo tìm thấy bên trong một hòn đá.

Yutso Ngonmo, Hồ lam Ngọc xuất hiện trong lúc dakini Yeshe Tsogyal đang thiền định ở yamdrok, khi một miếng vàng ròng do một Bonpo ném bị biến thành nước.  Nó là một trong bốn cái hồ nổi tiếng ở Tây Tạng, và dài đến nỗi từ đầu hồ Lung Kangchen tới cuối hồ ở Zemaguru phải đi bộ mất một ngày. Một ngày nọ, đại thành tựu giả Lingje Repa đang quan sát cái hồ này thì Ngài bắt đầu bật khóc và than rằng: “Con vật đáng thương! Chớ lạm dụng những vật cúng dường! Chớ lạm dụng những vật cúng dường!”[49]

Khi những người ở cùng với Ngài yêu cầu Ngài giải thích, Ngài nói “Tâm thức của một lạt ma lạm dụng của cúng dường bị tái sanh trong một địa ngục phù du trong cái hồ này, và đang bị đau khổ dữ dội.”

Họ muốn được nhìn thấy, vì thế vị thành tựu giả làm khô cạn nước hồ trong chốc lát một cách kỳ diệu, phơi bày một con cá khổng lồ, nó lớn tới nỗi chiếm trọn bề rộng và bề dài của cái hồ. Nó đang quằn quại trong đau đớn vì hoàn toàn bị phủ kín bởi những sinh vật nhỏ đang ăn sống nó. Những thị giả của Ngài Lingje Repa hỏi Ngài người có nghiệp xấu như thế là ai, và Ngài trả lời đó là Tsangla Tanakchen, một lạt ma Ngựa Đen ở tỉnh Tsang. Ông là một lạt ma mà ngữ có năng lực và sự ban phước thật to lớn.[50] Chỉ một liếc mắt của ông là đủ để chữa lành cho một người nào đó bị những tinh linh quấy nhiễu. Vì lý do này ông rất được kính trọng trong bốn tỉnh của U và Tsang. Nhưng khi ông thực hiện sự chuyển di tâm thức trong những tang lễ, mỗi lần phát ra tiếng “P’et” ông đòi phải được trả công bằng một số lượng lớn gồm ngựa và trâu bò của người chết.

Một ngày nọ, Thành tựu giả Tangtong Gyalpo đang thực hành những bài tập yoga về các kinh mạch và năng lực trên một tảng đá lớn. Tảng đá bể làm hai. Bên trong là một con cóc lớn. Vô số những sinh vật bé nhỏ đang bám vào và ăn sống nó, làm nó mở hoác rồi lại ngậm cái miệng đen của nó lại trong sự đau đớn ghê gớm. Khi những người đồng hành hỏi Ngài tại sao lại xảy ra điều này, Tangtong Gyalpo giải thích rằng người bị tái sinh trong hình tướng đó là một thầy tư tế đã giết những con vật để cúng tế.

Hãy nhìn những lạt ma ngày nay! Mỗi lần một tín chủ giết một con cừu béo tốt và bày ra thịt cổ, những trái cật và những bộ phận khác cùng với thịt và máu, chất đống nó cùng những miếng thịt sườn bò yak còn run rẩy, những lama của chúng ta kéo áo choàng ra khỏi đầu và mút bộ lòng như trẻ em bú mẹ. Sau đó, họ dùng dao lạng miếng thịt và nhai chúng một cách ung dung. Khi ăn xong, cái đầu của họ lại xuất hiện, nóng hổi và bốc hơi. Miệng họ loáng mỡ và râu họ thoảng một màu đỏ nhạt. Nhưng họ sẽ gặp một vấn đề to lớn trong đời sau, ở một trong những địa ngục phù du, khi họ phải trả lại bằng chính thân thể họ tất cả những gì họ đã ăn qua nhiều lần trong đời này.

Có lần, Ngài Palden Chokyong, Tu viện trưởng Tối cao xứ Ngor, có mặt ở Derge. Ngài bố trí nhiều tu sĩ dọc theo bờ sông Ngulda, ra lệnh cho họ không được để bất kỳ thứ gì trôi qua. Tới chiều, họ thấy một thân cây lớn trôi trên mặt nước nên lôi vào bờ và đem lại cho vị Tu viện trưởng, nói rằng ngoài khúc cây này họ không thấy vật gì khác.

“Chắc hẳn là nó,” Ngài nói. “Hãy chẻ nó ra.”

Ở bên trong thân cây họ thấy một con cóc lớn đang bị vô số côn trùng ăn sống. Sau khi thực hiện một nghi lễ tịnh hoá, vị Tu viện trưởng nói rằng con cóc từng là một thủ quỹ tên là Pogye ở vùng Derge. Ngày nay những người có vẻ có mọi quyền lực, nhưng tất cả những thủ lãnh đó và những kẻ quyền cao chức trọng thâm lạm của công nên suy nghĩ về những địa ngục phù du và phải thật cẩn trọng.

Vào thời Đức Phật, có một người đồ tể của làng lập một lời nguyện không giết súc vật vào ban đêm. Ông ta bị tái sanh vào một địa ngục phù du. Vào ban đêm ông ta được trải qua sự hỉ lạc vô hạn. Ông sống trong một lâu đài tuyệt đẹp với bốn phụ nữ quyến rũ ra sức phục vụ các thức ăn đồ uống và những thú vui khác cho ông. Tuy nhiên, vào ban ngày những bức tường của toà nhà biến thành kim khí nóng đỏ và bốn người phụ nữ thành bốn con chó nâu thật khủng khiếp ăn thịt ông ta.

Ngày xưa, Ngài Srona thấy một người đàn ông ngoại tình thề giữ giới không tà dâm vào ban ngày. Ngược với ông đồ tể, ông ta chỉ bị đau khổ vào ban đêm.

Có một tu viện hoan hỷ có khoảng năm trăm tăng sĩ. Khi chuông đổ vào giữa trưa những nhà sư tập hợp để dùng bữa, tu viện biến thành một căn nhà bằng kim khí cháy nóng. Những bình bát, ly tách và v.v..biến thành các vũ khí và những vị tu sĩ đánh nhau. Khi hết giờ ăn trưa, họ tách ra và trở lại vị trí cũ. Vào thời Đức Phật Ca Diếp, nhiều vị tăng đã tranh cãi vào giờ ăn trưa, và đây là hậu quả hoàn toàn chín mùi của việc đó.*

 

Tám địa ngục nóng, tám địa ngục lạnh, những địa ngục lân cận và những địa ngục phù du này cũng được gọi là mười tám cõi địa ngục. Hãy nghiên cứu kỹ càng số lượng của chúng, thời gian trải qua ở đây, những đau khổ của chúng và những nguyên nhân gây nên sự tái sanh vào đó, và hãy thiền định với lòng bi mẫn về những chúng sinh bị tái sanh ở đó. Hãy cố gắng để bảo đảm rằng sẽ không một ai, cả bản thân bạn lẫn bất kỳ người nào khác, còn bị tái sanh vào những cõi đó.

Nếu bạn hoàn toàn bằng lòng với việc lắng nghe và hiểu biết điều này một cách trí thức mà không tạo cho nó một kinh nghiệm sống, thì bạn sẽ trở thành một trong những hành giả ngoan cố và kiêu ngạo bị các bậc siêu phàm phê phán và bị những người minh triết chỉ trích.

Ngày xưa có một tu sĩ có đức hạnh gương mẫu nhưng lại hết sức kiêu ngạo. Ông ta đến thăm Ngài Shang Rinpoche, Ngài hỏi ông ta hiểu biết Pháp gì.

“Tôi đã được nghe nhiều giáo lý,” vị tăng trả lời.

Vậy hãy kể cho ta tên của mười tám địa ngục,” Shang Rinpoche nói.

“Tám địa ngục nóng, tám địa ngục lạnh..tổng cộng là mười sáu …và nếu Ngài thêm vào Mũ Đen và Đỏ của các vị Karmpa thì là mười tám.”

Không phải vì sự thiếu tôn kính đã khiến cho ông ta gộp chung các Lạt ma Karmapa với các địa ngục. Đơn giản là chỉ vì ông ta quên tên của các địa ngục phù du và địa ngục lân cận, và bởi vào lúc đó những Karmapa Mũ Đen và Đỏ rất nổi tiếng, nên ông ta đã hấp tấp kể thêm các Ngài. Bây giờ bạn có thực hành những giáo lý đã nhận được hay không là một chuyện, nhưng nếu tối thiểu không biết tới những ngôn từ và thuật ngữ có liên quan thì thật đáng xấu hổ.

 

2.  Ngạ Quỷ

 

Có hai loại ngả quỷ (quỷ đói): những ngạ quỷ sống tụ tập và những ngạ quỷ du hành khắp không gian.

 

2.1  NHỮNG NGẠ QUỶ SỐNG TỤ TẬP

 

Những ngạ quỷ này bị đau khổ bởi những chướng ngại bên ngoài, bên trong hay

đặt biệt.

 

2.1.1  Ngạ quỷ bị đau khổ vì những chướng ngại bên ngoài

 

Những ngạ quỷ này bị hành hạ bởi sự đói và khát cực độ. Nhiều thế kỷ đã trôi qua mà ngay cả một từ “nước” cũng chẳng được nhắc tới. Thường xuyên bị ám ảnh bởi thực phẩm và nước uống, họ không ngừng tìm kiếm chúng, nhưng không tìm thấy ngay cả một dấu vết nhỏ.  Thỉnh thoảng họ thấy ở xa một dòng nước trong trẻo, thanh tịnh. Nhưng những khớp xương của họ yếu tới nỗi không đỡ nỗi cái bụng nặng nề. Họ tới đó chỉ với nỗi đau khổ to lớn và trở nên hoàn toàn kiệt sức - chỉ để càng khổ sở hơn khi thấy nước hoàn toàn khô cạn, không còn gì ngày đáy sông đầy sỏi đá.

Đôi khi họ thấy xa xa có một vườn trái cây. Như trước, họ tiến lại gần, nhưng khi đến nơi họ nhận ra rằng những cây lớn hoàn toàn khô héo. Đôi lúc họ nhìn thấy nhiều thức ăn và nước uống cùng những thứ vừa ý khác, nhưng khi tới gần họ thấy những thứ này được bảo vệ bởi vô số người trang bị vũ khí, những người này săn đuổi và đánh đập họ bằng các vũ khí khiến họ đau đớn ghê gớm.

Vào mùa hè, ngay cả ánh trăng hình như cũng nóng và thiêu đốt họ; vào mùa đông thì họ có cảm tưởng mặt trời cũng lạnh giá. Những cảm giác này hành hạ họ khủng khiếp.

Có lần, khi Ngài Srona ở trong một xứ của các ngạ quỷ, Ngài thấy sự tham lam của họ độc hại tới nỗi làm Ngài phát sốt và miệng thì trở nên hoàn toàn khô đắng. Ngài đi qua một lâu đài sắt mà đứng ở cửa là một hình dạng ảm đạm khủng khiếp với đôi mắt đỏ ngầu.

“Ở đâu có nước” Ngài Srona hỏi.

Nghe được lời này, một đám ngạ quỷ mà tất cả trông giống như những mẩu gỗ đang cháy xúm lại quanh Ngài, van nài: “Đấng viên mãn vĩ đại, xin cho chúng tôi nước!”

“Chính ta cũng chẳng tìm ra,” Ngài trả lời. “Các người hãy cho ta một ít.”

“Ngài nói gì vậy?” những ngạ quỷ trả lời. “Chúng tôi sinh ở vùng này đã mười hai năm mà tới nay chưa từng được nghe nhắc tới nước.”

 

2.1.2.Ngạ quỷ bị đau khổ vì những chướng ngại bên trong

 

Những ngạ quỷ này có miệng không lớn hơn một lỗ kim. Thậm chí nếu họ uống

hết nước trong các đại dương, thì lúc nước trôi xuống cái cổ họng nhỏ như một sợi lông ngựa, sức nóng của hơi thở họ sẽ làm nước bốc hơi hết. Ngay cả bằng cách nào đó họ nuốt được một chút, thì sẽ chẳng bao giờ làm đầy nổi các bao tử có kích thước bằng cả một quốc gia. Cuối cùng cho dù nước vào được bao tử để làm họ thoả mãn, nó cũng biến thành lửa vào ban đêm và thiêu cháy phổi, tim, và tất cả bộ ruột của họ. Khi muốn đi, với chân tay chỉ như cọng cỏ họ không thể nâng nổi cái bụng khổng lồ, và điều này làm cho họ đau khổ vô hạn.

 

2.1.2  Ngã quỷ bị đau khổ vì những chướng ngại đặc biệt

 

Những ngạ quỷ này chịu tất cả những loại kinh nghiệm khác nhau chúng biến đổi từ kinh nghiệm này sang kinh nghiệm khác và có cường độ mãnh liệt khác nhau: Chẳng hạn, một số ngạ quỷ có nhiều sinh vật sống trong thân thể và ăn thịt họ.

Có lần khi đang du hành trong xứ của ngạ quỷ, Ngài Srona đến một nơi và gặp một phụ nữ đẹp. Nhờ vóc dáng thanh tú và được trang điểm bằng châu báu nên trông bà thật quyến rũ. Ở mỗi chân chiếc ngai bà ngồi có một ngạ quỷ bị trói. Bà cúng dường Ngài Srona thức ăn và báo trước không nên cho các ngạ quỷ khác một mảnh nhỏ nhất cho dù họ van xin. Khi Ngài Srona bắt đầu ăn thì họ xin. Ngài đưa một ít thức ăn cho một trong số họ và nó biến thành vỏ trấu; những gì Ngài cho người thứ hai bị biến thành một cục sắt; người thứ ba bắt đầu ăn thịt của chính mình, và những gì Ngài cho người thứ tư biến thành máu và mủ.

Khi người phụ nữ trở lại, bà la lên, “Tôi đã nói là Ngài không nên cho họ bất cứ thứ gì! Ngài nghĩ rằng ngài có nhiều lòng bi hơn tôi ư?”

“Mối liên hệ giữa bà và bốn ngạ quỷ này là gì?” Ngài Srona hỏi bà ta.

“Đây là chồng tôi; kia là con trai, đó là con dâu, và người thứ tư là người hầu của tôi.”

“Hành động nào trong quá khứ đã đưa họ tới đây?”

“Dân chúng ở cõi Diêm Phù Đề (cõi Ta Bà) rất đa nghi,” người phụ nữ trả lời. “Ngài sẽ không bao giờ tin tôi.”

“Làm sao tôi lại không tin khi chính mắt tôi đang nhìn thấy?”

Vì thế người phụ nữ kể cho Ngài Srona câu chuyện của bà. “Tôi là một phụ nữ Bà la môn trong một ngôi làng. Một chiều nọ, tôi chuẩn bị một số thức ăn ngon vì hôm đó là một ngày tốt lành. Tình cờ Ngài Katyayana vĩ đại và siêu phàm đi khất thực qua đó. Tôi phát khởi niềm tin nơi Ngài và cúng dường Ngài thực phẩm. Rồi tôi tự nghĩ có lẽ chồng tôi muốn chia sẽ công đức. “Hãy hoan hỷ với tôi vì tôi đã cúng dường Ngài Katyayana vĩ đại và siêu phàm, bậc thừa kế của Đức Phật,” tôi nói với chồng. Nhưng ông ta nổi cơn thịnh nộ. “Bà chưa cúng dường thực phẩm cho những người Bà la môn, mà lại dâng phần thức ăn đầu tiên cho tu sĩ trọc đầu này! Tại sao ông ta không thể tọng vỏ trấu vào miệng?”

“Tôi cũng bày tỏ tương tự với con trai mình, nó cũng nổi giận: Tại sao cái ông đầu trọc  của má không ăn những mẩu sắt? nó la lên.

“Tối hôm đó, cha mẹ tôi gởi cho tôi một số thức ăn ngon, nhưng đứa con dâu đã ăn mất và chỉ chừa lại cho tôi những miếng dở nhất. Khi tôi hỏi ‘có phải con đã ăn những miếng ngon và chỉ chừa lại cho mẹ những miếng tệ nhất? nó đã nói dối tôi: ‘Thà con ăn thịt mình còn hơn là chạm vào dĩa thức ăn của mẹ!’  

“Tương tự, khi người hầu đã ăn những thực phẩm mà cô ta có nhiệm vụ mang lại cho gia đình tôi, cô ta nói với tôi thà cô uống máu và mủ còn hơn là ăn cắp thực phẩm của tôi.

“Bản thân tôi trở thành một ngạ quỷ đầy năng lực vì tôi ước nguyện được tái sanh vào nơi mà tôi có thể thấy những gì xảy ra cho họ như kết quả của những hành vi của họ. Tôi đã không ước nguyện được sanh vào Cõi Trời thứ ba mươi ba sau khi đã cúng dường cho một bậc siêu phàm.

“Nếu có bao giờ Ngài tới làng tôi, xin nói với con gái tôi, mà bây giờ là một con điếm, rằng Ngài đã gặp cha mẹ nó, và Ngài được giao phó để bảo với nó rằng những gì nó đang làm sẽ có những hậu quả xấu, đó là một cách sống sai lầm và nó nên từ bỏ những cách sống xấu xa đó.

“Nếu nó không tin Ngài, xin nói với nó rằng trong căn nhà cũ của cha nó có bốn bình sắt chứa đầy vàng, một cây gậy bằng vàng và một bình tẩy tịnh cho tu sĩ. Xin nói với nó đem những thứ này thỉnh thoảng cúng dường cho Ngài Katyayana vĩ đại và siêu phàm, và hãy hồi hướng công đức nhân danh chúng tôi. Điều này sẽ làm suy giảm nghiệp của chúng tôi cho tới khi cuối cùng nó hoàn toàn cạn kiệt.”

Có lần, khi Đạo sư Jetra đang du hành, Ngài gặp một nữ ngạ quỷ có thân hình gớm guốc, là mẹ của năm trăm đứa con.

“Chồng tôi đi Bodh Gaya (Bồ Đề Đạo Tràng) đã mười hai năm để tìm kiếm thực phẩm và vẫn chưa về. Nếu Ngài đến đó, xin nói với ông ấy rằng nếu không về sớm, những đứa con của chúng tôi sẽ chết đói hết.”

“Chồng của ngươi ra sao?” Đạo sư hỏi. “Mọi ngạ quỷ đều giống nhau, làm sao ta có thể nhận ra ông ta?”

“Ngài không thể quên ông ấy được,” bà ta nói. “Ông ta có một miệng lớn, mũi bẹp dí, mù một mắt và có tất cả chín tướng xấu.”

Khi Ngài Jetari đến Bodh Gaya, Ngài thấy một sa di đi ném thực phẩm và nước dùng trong những lễ cúng dường torma ra ngoài. Khi vị sa di bỏ đi, một đám ngạ quỷ xô lấn nhau để tranh dành đồ cúng. Trong đám đó có kẻ mà Ngài đang tìm kiếm, vì thế Ngài trao cho ngạ quỷ này lời nhắn của người vợ.

Ngạ quỷ trả lời: “Tôi đã lang thang mười hai năm nhưng chưa từng tìm được vật gì - ngoại trừ một lần, khi một tu sĩ thanh tịnh làm nhỏ một ít nước mũi, nhưng thậm chí tôi cũng không thể lấy được nhiều vì cả đám chúng tôi đánh nhau để tranh dành nó.” Và Đạo sự nói thêm vào khi Ngài thuật lại câu chuyện là trong lúc đánh nhau vì một ít nước mũi đó, ngạ quỷ đã bị thương.

Bằng tư tưởng, hãy nhận vào mình những nỗi khổ khác nhau đã hành hạ các ngạ quỷ bất kỳ nơi nào họ được tái sinh, nhất là sự đói và khác của họ. Hãy nghĩ xem bạn đau khổ ra sao nếu bạn không ăn hay uống chỉ trong một buổi sáng. Bạn sẽ cảm thấy thế nào nếu bị tái sanh ở một nơi mà trong nhiều năm thậm chí bạn không nghe nhắc tới nước?

Hãy quán chiếu rằng những nguyên nhân gây ra nên sự tái sanh làm một ngạ quỷ là tính keo kiệt bủn xỉn và phản đối sự rộng lượng (bố thí) của những người khác. Chúng ta cũng đã mắc phạm những hành vi như thế vô số lần, vì thế chúng ta phải làm bất kỳ những gì có thể để tránh tái sanh vào nơi đó. Hãy thiền định như vậy tận đáy lòng bạn với ba phương pháp cho sự khởi đầu, phần chính và lúc kết thúc.

 

2.2  NHỮNG NGẠ QUỶ DI CHUYỂN KHẮP KHÔNG GIAN

 

Đó là tsen, gyalpo, shindre, jungpo, mamo, theurang và v.v..tất cả họ phải sống

liên tục trong nỗi khiếp sợ và ảo giác thường xuyên. Không suy nghĩ điều gì ngoài cái xấu, họ luôn luôn làm bất cứ những gì có thể để gây tổn hại cho chúng sinh khác, và nhiều kẻ trong số họ thậm chí còn đoạ vào những cõi thấp như các địa ngục ngay khi chết. Đặc biệt, mỗi tuần họ nhớ lại tất cả những đau khổ của cái chết trước đây do bệnh tật, vũ khí, những thế lực xấu, hay bấ kỳ những gì khác. Điều họ muốn làm là trút bỏ nỗi khổ của họ sang người khác, nên dù đi bất cứ nơi đâu họ cũng không làm gì khác ngoài sự tổn hại. Nhưng bằng cách làm như thế họ vẫn không tự làm được bất kỳ điều tốt đẹp nào. Thậm chí khi vui sướng được viếng thăm những bạn bè cũ và những người thân yêu, họ chỉ đem lại cho những người đó sự đau yếu, điên khùng và những đau khổ không được mong đợi.

Những ngạ quỷ này phải trải qua những đau khổ liên tục. Các pháp sư đầy năng lực chôn vùi, thiêu đốt họ và cử hành những nghi lễ trong đó các pháp sư ném mọi loại vũ khí tưởng tưởng vào họ.[51] Các pháp sư nhốt họ trong bóng tối dưới trái đất trong nhiều kiếp, thiêu đốt họ trong các ngọn lửa cúng dường, nghiền giã họ với những hột mù tạt, bột đá hoặc những thứ tương tự. Các pháp sư chẻ đầu họ ra thành trăm mảnh và thân họ thành một ngàn khúc.

Giống như tất cả các ngạ quỷ, họ cũng có những tri giác lệch lạc: vào mùa đông, đối với họ thì mặt trời có vẻ lạnh; vào mùa hè, mặt trăng lại nóng cháy. Một số mang hình tướng của một con chim, con chó hay con vật khác, trông thật gớm ghiếc. Tóm lại, những đau khổ của các ngạ quỷ thì không thể tưởng tượng được.

Hãy thực hành như trước, thiền định với những phương pháp cho sự bắt đầu, phần thực hành chính và phần kết thúc. Bằng tâm thức hãy nhận những đau khổ của những chúng sanh này và hãy nuôi dưỡng lòng từ và bi đối với họ.

 

3.    Súc sinh

Có hai loại súc sinh: những súc vật sống trong các độ sâu và những súc vật sống

rãi rác trong những nơi khác nhau.

 

3.1    NHỮNG SÚC VẬT SỐNG TRONG CÁC ĐỘ SAU

 

Những đại dương bên ngoài tràn đầy cá, loài bò sát, rùa, cua tôm, sâu bọ và những sinh vật khác nhiều như những hạt mạch nha dưới đáy một thùng bia. Có những con rằn và quái vật lớn tới nỗi thân chúng có thể quấn nhiều vòng quanh Núi Tu Di. Những sinh vật khác lại nhỏ như những hạt bụi hay đầu mũi kim.

Tất cả chúng trải qua những đau khổ vô hạn. Những con lớn nuốt những con bé. Đổi lại cũng có những con bé đục khoét những con lớn và ăn sống chúng. Những con vật lớn có nhiều con nhỏ xíu sống trong chúng và ăn thịt chúng. Một số những sinh vật này bị sinh ra ở giữa những châu lúc, nơi mặt trời không chiếu sáng và nơi thậm chí chúng không thể thấy tứ chi của chúng co hay duỗi. Đần độn và ngu dốt, chúng không biết những gì nên làm và không nên làm. Chúng bị tái sanh vào những nơi mà ta được biết rằng nỗi khổ thì vô hạn.

 

3.2    NHỮNG SÚC VẬT SỐNG RÃI RÁC Ở NHỮNG NƠI KHÁC NHAU

 

Những súc vật sống trong các cõi trời và cõi người chịu đau khổ liên tục vì sự ngu xuẩn của chúng và bởi bị bóc lột, trong khi các naga[52] trải cuộc đời trong sự cùng cực bị hành hạ bởi những chim garuda (kim xí điểu) và những trận mưa các nóng. Thêm vào đó, chúng ngu đần, hung hăng và hiểm độc.

Đặc biệt là những dã thú tham gia với thế giới con người chúng ta thường xuyên phải sống trong sự sợ hãi. Chúng không thể ăn một miếng duy nhất mà không phải đề phòng cảnh giác. Chúng có nhiều kẻ tử thù, là con mồi của lẫn nhau đối với tất cả súc vật, và luôn luôn có những thợ săn, những thú săn mồi và những thứ đe doạ mạng sống khác. Diều hâu giết những chim nhỏ, chim nhỏ giết các côn trùng, và v.v.. liên tục chồng chất những hành động xấu ác trong một vòng tròn vô tận của sự giết và bị giết.

Thợ săn thì lão luyện trong mọi phương pháp hành hạ và giết hại những thú vật này. Họ đe doạ mạng sống của chúng với tất cả loại mưu kế và những sản vật khác của thân thể chúng. Những con trai bị giết lấy ngọc; voi bị giết để lấy ngà và xương; cọp, beo, rái cá và cáo để lấy bộ lông; bò xạ để lấy xạ; con lừa và bò yak để lấy máu và thịt. Thật là một nỗi khổ khủng khiếp khi chính thân chúng được sinh ra chỉ để bị giết hại.

Đối với những thú vật được con người thuần hoá, chúng ngu đần đến nỗi khi những kẻ giết hại chúng tới gần, cầm dao trong tay, chúng chỉ dương đôi mắt mở lớn mà thậm chí còn không nghĩ tới việc chạy trốn. Chúng bị vắt sữa, chở nặng, bị thiến, xỏ mũi và bị thắng vào cái cày. Chẳng có con nào trong chúng trốn thoát khỏi vòng nô lệ liên tục này. Ngựa và bò yak tiếp tục bị chở nặng và bị cưỡi ngay cả khi lưng chúng chẳng còn là gì ngoài một vết thương khổng lồ. Khi không thể đi xa hơn được nữa, chúng bị đánh roi và bị ném đá. Sự kiện có thể chúng bị bệnh tật hay kiệt sức dường như chưa từng nảy ra trong đầu những chủ nhân của chúng.

Trâu bò và trừu bị lợi dụng cho đến chết. Một khi quá già, chúng bị chính những người chủ đem bán hay giết thịt. Bất kẻ trường hợp nào, chúng đều bị định đoạt bởi người đồ tể và một cái chết tự nhiên là điều chúng không biết tới.

Vì thế, loài vật trải qua những đau khổ không thể tưởng. Bất cứ khi nào bạn thấy những thú vật bị hành hạ theo cách này, hãy đặt mình vào vị trí của chúng và hình dung thật chi tiết tất cả những gì chúng phải trải qua. Hãy thiền định với lòng bi mẫn mãnh liệt về tất cả những chúng sinh bị tái sanh làm các thú vật. Đặc biệt, nếu bạn có nuôi súc vật, hãy đối xử tử tế và thương yêu chúng. Bởi lẽ tất cả những súc vật, ngay cả những côn trùng nhỏ bé nhất, đều có cảm giác sung sướng và đau khổ, và vì tất cả chúng đã từng là cha và mẹ của chúng ta, hãy phát triển lòng từ và bi đối với chúng, kết hợp sự thực hành của bạn với những phương pháp cho sự khởi đầu, phần thực hành chính và phần kết thúc.

 

Dù chúng sanh có thể bị tái sanh bất cứ nơi đâu trong ba cõi thấp này, họ phải kinh nghiệm tất cả những loại đau khổ lâu dài và mãnh liệt. Chúng sanh tái sanh vào đó thì ngu đần, khờ dại và không có bất kỳ ý niệm nào về Giáo Pháp, và chỉ có thể tạo ra nhiều hơn nữa những nguyên nhân để còn phải sống trong những cõi thấp. Vì thế một khi bị sinh vào đó thì thật khó mà thoát ra. Trong cuộc sống hiện nay của chúng ta, và trong những kiếp quá khứ khác, chúng ta đã tích luỹ vô số những hành vi chắc chắn sẽ dẫn chúng ta tới sự tái sanh vào những trạng thái này. Do đó chúng ta phải hết lòng hối tiếc những hành động sai lầm của ta trong quá khứ với sự chân thành lớn lao, hãy sám hối những điều đó và từ giờ trở đi thệ nguyện sẽ không tái phạm.

Hãy suy nghĩ với lòng đại bi về những chúng sanh phải sống trong những thế giới đó, hãy hồi hướng cho cho họ những kết quả tốt đẹp của mọi thiện hạnh mà bạn đã tích luỹ khắp ba thời. Hãy cầu nguyện cho họ có thể được giải thoát khỏi những cõi xấu đó: “Giờ đây là lúc tôi đã gặp được Giáo Pháp của Đại Thừa, và có cơ hội thực hành con đường đem lại lợi ích thật sự cho cả tôi lẫn những người khác, tôi sẽ thực hành Giáo Pháp đó với lòng dũng cảm, coi thường mọi khó khăn, và đưa dẫn tất cả chúng sanh trong ba cõi thấp tới những cõi Phật.” Sau khi trau dồi Bồ Đề Tâm với tư tưởng đó, hãy cầu nguyện vị Thầy và các Bổn Tôn của bạn, khẩn cầu các Ngài cứu giúp và nâng đỡ, hãy nghĩ tưởng: “Cầu xin Thầy và Tam Bảo ban phước cho con để con có thể đạt được mục đích này!” Hãy hồi hướng công đức cho lợi ích của chúng sanh, và thực hành ba phương pháp siêu phàm.

 

Mặc dù việc tái sanh vào ba cõi thấp đưa đến đau khổ là lẽ tự nhiên, người ta có thể hy vọng rằng ở ba cõi cao sẽ hạnh phúc và sung sướng. Nhưng trong thực tế, ngay cả những cõi cao cũng không có hạnh phúc.

 

4.    Cõi Người

 

Loài người bị ba loại đau khổ nền tảng, và cũng bị bốn dòng đau khổ lớn: sinh,

lão, bệnh và tử. Những đau khổ khác của con người là sự sợ gặp những kẻ mình ghét và bị mất những người thương yêu, và nỗi khổ vì không được những gì mình muốn hay gặp phải những điều không mong muốn.

 

4.1    BA LOẠI ĐAU KHỔ NỀN TẢNG

 

4.1.1  Đau khổ về sự biến đổi

 

Sự đau khổ về biến đổi là đau khổ mà ta cảm thấy khi trạng thái hạnh phúc đột nhiên chuyển thành đau khổ. Một lúc nào đó chúng ta cảm thấy sung mãn và bằng lòng sau một bữa ăn ngon, rồi đột nhiên đau bụng quằn quại bởi những ký sinh trùng trong dạ dày chúng ta. Có lúc ta hạnh phúc, và chỉ một lát sau một kẻ thù cướp đoạt tài sản hay thú nuôi của ta; hay một ngọn lửa thiêu rụi nhà ta; hoặc đột nhiên chúng ta bị mắc bệnh hay bị ảnh hưởng bởi những thế lực xấu; hoặc ta nhận được những tin khủng khiếp – và lập tức chúng ta bị nhấn chìm trong đau khổ.

Thật ra, bất cứ những biểu hiện hạnh phúc, tiện nghi hoặc quyền thế nào được tìm thấy ở đây trong vòng luân hồi đều không có chút xíu sự thường hằng hay bền vững nào, và trong cuộc hành trình lâu dài chẳng bao giờ có thể kháng cự lại vòng quay của sự đau khổ. Thế nên, hãy trau dồi sự tỉnh giác với tất cả những điều đó.

 

4.1.2  Đau khổ chồng chất đau khổ

 

Chúng ta kinh nghiệm đau khổ chồng lên đau khổ khi, trước lúc một đau khổ

chấm dứt, chúng ta bị chịu thêm một đau khổ khác. Chúng ta bị bệnh cùi, và sau đó cũng lại thình lình bị phỏng; cũng như bị phỏng rồi lại bị thương. Cha chúng ta chết và sau đó không lâu mẹ ta cũng mất đi. Chúng ta bị kẻ thù săn đuổi, và chồng chất lên việc đó, một người thân qua đời; và v.v… Dù chúng ta tái sanh ở đâu trong luân hồi, mọi thời gian của chúng ta đều bị tiêu hao trong đau khổ này chồng chất đau khổ kia, không có bất kỳ may mắn nào để được hạnh phút trong giây lát.

 

4.1.3  Sự đau khổ của mọi thứ phức hợp[53]

 

Bây giờ, một số trong chúng ta có thể nghĩ rằng mọi sự đang diễn tiến hoàn toàn

tốt đẹp với mình vào lúc này, và dường như chúng ta không bị đau khổ nhiều. Thật ra, chúng ta hoàn toàn bị nhấn chìm trong những nguyên nhân của sự đau khổ. Đối với chính thực phẩm, quần áo, nhà cửa của chúng ta, sự trang điểm và những lễ hội là những thứ đem lại cho chúng ta sự vui thích, thì đều hoàn toàn được tạo tác cùng những hành vi tai hại. Bởi mọi sự chúng ta làm chỉ là một sự phơi bày của những hành vi tiêu cực, nó chỉ có thể dẫn đến đau khổ. Hãy lấy trà và tsampa*  làm ví dụ để khảo sát.

Ở Trung Quốc, nơi cây trà mọc lên, số sinh vật nhỏ bé bị giết khi người ta trồng trà, trong khi hái lá, và v.v…thì không thể tính đếm. Sau đó trà được những phu khuân vác đi xa tận Dartsedo. Mỗi phu khuân vác mang 12 túi, mỗi túi có sáu bánh trà, chịu sức nặng bằng một sợi dây buộc quanh trán làm da ông ta bị mòn đi. Nhưng ngay cả khi cái sọ của ông lộ ra hết, hoàn toàn trắng bệch, thì ông ta vẫn tiếp tục. Từ Dotok tor73 đi, dzo, những con bò yak và những con la đảm nhiệm việc chuyển chở, lưng chúng muốn gẫy sụm, bụng chúng bị đục thủng với những vết cắt, bộ lông loang lở từng mảng trầy xát. Chúng bị đau khổ ghê gớm vì sự nô lệ này. Sự trao đổi trà chẳng đòi hỏi gì ngoài một loạt những hứa nguyện, lừa gạt và tranh luận bị vi phạm, cho tới cuối cùng trà được đổi chủ, thường là đổi để lấy những sản phẩm từ súc vật như len và da cừu non. Bây giờ tới len, vào mùa hè trước khi xén lông, nó lúc nhúc những con bọ chét, ve và những sinh vật bé nhỏ khác nhiều vô kể như chính những sợi len. Trong lúc xén lông, những con này bị đứt đầu, bị chặt làm hai hay bị lòi ruột. Số không bị giết vẫn còn kẹt lại trong len và bị chết ngộp. Tất cả những điều này chỉ có thể dẫn tới những cõi thấp. Đối với da cừu non, hãy nhớ rằng những con cừu mới đẻ đều có đầy đủ những giác quan, và chúng cảm thấy sung sướng và đau khổ. Đúng lúc chúng đang vui hưởng những khoảng khắc đầu tiên của cuộc sống, trong khi hoàn toàn mạnh khỏe, thì chúng lại bị giết. Có thể chúng chỉ là những con vật ngu dại, tuy nhiên chúng không muốn chết – chúng ham sống và đau khổ khi bị hành hạ và giết thịt. Đối với những cừu mẹ có những đứa con bị giết thì chúng là một ví dụ sống động về nỗi buồn mà một người mẹ mất đứa con duy nhất của mình phải trải nghiệm. Vì thế, khi chúng ta suy nghĩ về việc sản xuất bà buôn bán những sản phảm như vậy, chúng ta có thể hiểu được rằng ngay cả một ngụm trà tuy không thể nhưng lại góp phần vào việc tái sanh trong những cõi thấp.

Bây giờ hãy xem xét tsampa. Trước khi gieo lúa mạch, những cánh đồng phải được cày xới, công việc đó cưỡng ép lên mặt đất mọi con sâu và côn trùng sống ngầm dưới đất, và chôn vùi mọi sâu trùng sống trên mặt đất. Dù những con bò cày đi tới đâu thì chúng cũng được những con quạ và chim nhỏ bám theo sau không ngừng săn bắt những con côn trùng bé nhỏ. Khi cánh đồng được tưới nước, tất cả loài vật sống trong nước bị mắc cạn trên đất khô, trong khi mọi sinh vật đang sống ở đất khô bị chết đuối. Tương tự, vào mỗi giai đoạn gieo hạt, thu hoạch và đập lúa, số chúng sinh bị giết thì không thể tính đếm. Nếu bạn suy nghĩ về điều đó thì hầu như là chúng ta đang ăn các côn trùng được nghiền thành bột vậy.

Trong cùng cách như thế, bơ, sữa và những thực phẩm khác, “ba thực phẩm trắng” và “ba thực phẩm ngọt” mà chúng ta xem là thanh tịnh và không bị những hành vi ác hại ô nhiễm, thì hoàn toàn không phải như vậy. Phần đông những bò yak con, nhưng con bê và cừu đều bị giết. Những con không bị giết, thì ngay khi được sinh ra và thậm chí trước khi chúng có một dịp may được bú một miếng sữa ngọt của mẹ chúng, đã có một sợi dây thừng quanh cổ và bị cột vào một cái cọc khi dừng lại trên đường, đến nỗi mỗi một miếng sữa - thức ăn và uống chính đáng của chúng – có thể bị đánh cắp để làm bơ và phó mát. Bằng cách rút mất tinh chất của thân bò mẹ là thứ rất cần thiết cho bò con, chúng ta để mặc chúng nửa sống nửa chết. Khi mùa xuân trở lại, những con bò mẹ già nua trở nên suy yếu tới nỗi thậm chí chúng không thể đứng dậy trong chuồng. Những con bê và cừu non hầu như chết đói. Những con sống sót, yếu ớt và như một bộ xương, lảo đảo như sắp chết.

Tất cả những yếu tố mà giờ đây chúng ta thấy như cấu tạo nên sự hạnh phúc - thực phẩm để ăn, quần áo để mặc, và bất cứ những hàng hoá và vật liệu nào chúng ta có thể nghĩ tới - đều được sản xuất tương tự chỉ bằng độc nhất những hành động bất thiện. Hậu quả cuối cùng của tất cả những điều này chỉ có thể là những đau khổ vô tận của những cõi thấp. Do đó, mọi sự mà ngày nay có vẻ như tượng trưng cho sự hạnh phúc thì trong thực tế là sự đau khổ của mọi thứ phức hợp.

 

4.2    NHỮNG ĐAU KHỔ CỦA SINH, LÃO, BỆNH VÀ TỬ

 

4.2.1  Sự đau khổ của việc sinh ra

Với loài người trong thế giới hiện nay, cách chúng ta được sinh ra thuộc loại sinh ra từ thai tạng (thai sanh).[54] Trước tiên, tâm thức của một chúng sinh trong trạng thái trung ấm phải len vào giữa sự hợp nhất của tinh dịch của người cha và máu huyết của người mẹ. Sau đó nó trải qua những kinh nghiệm đau khổ của các giai đoạn thai phát triển: như miếng thạch tròn, hình trái soan lầy nhầy, có hình thuôn dầy, hình bầu dục vững chắc, khối tròn cứng,[55] và v.v…Một khi tứ chi, những phần phụ và các giác quan được hình thành, bào thai bị nhốt bên trong tử cung tối tăm, hôi hám và ngộp thở, đau khổ như người bị ném vào tù. Khi người mẹ ăn thực phẩm nóng, bào thai đau đớn như thể bị lửa đốt. Khi người mẹ ăn đồ ăn lạnh, nó cảm thấy như thể bị ném vào nước đóng băng; khi người mẹ nằm xuống, nó như thể bị chôn vùi dưới sức nặng của một quả đồi; khi mẹ ăn no, nó như thể bị ngạt thở giữa những tảng đá; khi người mẹ đói, như thể nó bị rơi từ một vách núi; khi người mẹ đi hay ngồi xuống, nó cảm thấy như thể bị gió vùi dập.

Tới lúc sinh, năng lực của sự hiện hữu thuộc về nghiệp[56] xoay đầu đứa bé xuống sẵn sàng để được sinh ra. Khi đứa bé bị đẩy xuống cổ tử cung, nó đau đớn như thể bị một người khổng lồ mạnh mẽ nắm lấy hai chân đập thật mạnh vào tường. Khi bị đẩy qua khỏi xương chậu, đứa bé cảm thấy như thể bị kéo qua cái lỗ trong một bàn kéo sợi.[57] Nếu tử cung mở quá hẹp, nó không ra được và phải chết.  Quả thực, cả hai mẹ và con có thể chết trong quá trình sinh đẻ, và cho dù họ sống sót, họ cũng phải kinh nghiệm mọi sự đau đớn của lúc hấp hối. Như Đại Đạo Sư xứ Oddiyana nói:

 

Cả hai mẹ và con đi nửa đường đến xứ sở của Thần Chết,

Và mọi khớp xương của người mẹ, ngoại trừ xương hàm, vị vặn rời ra.

 

Đứa bé phải kinh nghiệm mọi sự đau đớn. Khi rơi xuống tấm niệm lúc sinh ra, nó có cảm giác như bị rơi xuống một cái hố đầy gai. Khi được lau chùi lớp nhờn trên lưng thì nó có cảm giác như bị lột da sống. Lúc được tắm rửa, nó có cảm tưởng như bị đánh bằng gai. Khi được đặt vào lòng mẹ, nó cảm thấy như một con chim nhỏ bị diều hâu tha đi. Khi được thoa bơ trên đỉnh đầu[58] thì nó có cảm giác như bị trói và ném xuống một cái lỗ. Được đặt trong nôi thì giống như bị bỏ vào bùn dơ. Mỗi khi đứa bé bị đói, khát, bệnh tật và v.v…, tất cả những gì nó có thể làm là la khóc.

Từ lúc được sinh ra trở về sau, khi chúng ta trưởng thành vào tuổi thanh niên, ta có cảm tưởng là có sự phát triển và tăng trưởng. Nhưng điều thật sự xảy ra là cuộc đời ta trở nên ngắn đi, càng ngày chúng ta càng tới gần cái chết hơn. Chúng ta bị thu hút trong những công việc tầm thường của đời này, cái này sau cái kia, chẳng có việc nào trong số đó đi đến kết thúc, chúng tiếp nối nhau nhu những cơn sóng trên mặt nước. Khi tất cả những điều đó chỉ được đặt nền trên các hành vi tiêu cực, thì kết quả chắc chắn của chúng ta là sự tái sanh vào những cõi thấp, và nỗi khổ vô cùng tận.

 

4.2.2  Sự đau khổ của tuổi già

 

Khi bản thân chúng ta bận rộn với những điều vụn vặt tầm thường này và những

phận sự thế gian không bao giờ chấm dứt, thì nỗi đau khổ của tuổi già đã đến với ta mà không báo trước. Từng chút một, thân thể mất đi sinh lực của nó. Chúng ta chẳng còn tiêu hoá nổi những thực phẩm mình thích. Thị giác mờ đi, và chúng ta không thể nhận ra rõ ràng những vật nhỏ hay ở xa. Thính giác của ta bắt đầu giảm sút và chúng ta không phân biệt đúng đắn những âm thanh và lời nói. Lưỡi của ta không còn nếm được những gì mình ăn hay uống nữa, cũng không phát âm đúng những gì chúng ta muốn nói. Khi tinh thần suy yếu, trí nhớ suy giảm và chúng ta rơi vào nhầm lẫn và hay quên. Răng bị rụng nên chúng ta chẳng còn nhai được thực phẩm cứng, và bất kỳ những gì ta n1oi đều trở thành những tiếng lầm bầm khó hiểu. Thân thể mất nhiệt nên ta không còn thấy ấm áp trong bộ quần áo mỏng. Sức mạnh của ta sa sút nên không thể mang vác những vật nặng nữa. Mặc dù chúng ta vẫn còn sở thích được sung sướng và hưởng thụ nhưng ta không còn năng lực. Bởi các kinh mạch và năng lực suy giảm, chúng ta trở nên cáu gắt và thiếu kiên nhẫn. Bị mọi người coi thường, ta trở nên trầm uất và buồn chán. Những yếu tố (tứ đại) của thân thể mất quân bình đem lại nhiều tật bệnh và khó khăn. Chúng ta phải vật lộn với mọi sự cử động của mình, như đi và đứng, chúng hầu như trở thành những công việc bất khả. Ngài Jetsun Mila hát:

 

 

Một, bà đứng lên như thể nhổ một cây cọc khỏi mặt đất;

Hai, bà đi rón rén như rình bặt chim;

Ba, bà ngồi như một cái túi bị thả rơi.

Khi ba dấu hiệu này cùng đến, hỡi bà già;

Bà là một bà lão u buồn mà huyễn thân bà đã suy sụp.

 

Một, da dẻ bà hằn những vết nhăn;

Hai, bà gầy giơ xương, máu huyết thu rút;

Ba, bà nửa ngây nửa dại, nửa đui nửa điếc.

Khi ba dấu hiệu này cùng đến, hỡi bà già;

Mặt bà nhăn nhúm với những vết hằn xấu xí.

 

Một, quần áo rách rưới tả tơi và luộm thuộm;

Hai, thức ăn uống sao nhạt nhẽo, lạnh tanh;

Ba, bà ngồi trên chiếu mà dựa dẫm bốn bên.

Khi ba dấu hiệu này cùng đến, hỡi bà già;

Bà giống như một yogi chứng ngộ bị người và chó giẫm đạp.

 

Ở tuổi già, khi muốn đứng lên chúng ta hoàn toàn không thê đứng một cách bình thường. Chúng ta phải đặt cả hai bàn tay lên sàn nhà như thể đang cố nhổ một cây cọc trên nền đất cứng. Khi đi, chúng ta gập người lại và không thể ngước cao đầu; và không thể nhanh chóng nhấc chân, hạ chân, chúng ta rón rén như một đứa trẻ rình bắt chim. Mọi khớp tay, chân bị viêm sưng đến nỗi ta không thể ngồi xuống từ từ. Thay vào đó, ta để toàn bộ sức nặng của mình lập tức đổ sầm xuống như một cái bị cói đứt dây treo.

Khi thịt ta bị tiêu hao, da ta dãn ra, thân thể và mặt chúng ta đầy những vết nhăn. Với ít thịt và máu bao quanh, tất cả các khớp lộ ra hơn. Xương gò má và mọi đầu xương khác nhô lên dưới da. Trí nhớ bị suy giảm, chúng ta trở nên trì trệ, mù và điếc. Chúng ta khổng thể suy nghĩ sáng suốt và cảm thấy choáng váng xây xẩm. Với sinh lực suy yếu, chúng ta chẳng còn muốn ngó ngàng gì tới mình nên quần áo chúng ta mặc luôn luộm thuộm và sờn rách. Khi ăn, ta thường bỏ mứa và không thấy có mùi vị gì; mọi thứ ta ăn đều lạnh lẽo và nhạt nhẽo. Chúng ta cảm thấy nặng nề đến nỗi khó có thể làm được việc gì. Trên giường, chúng ta phải dựa dẫm tứ phía và không thể ngồi dậy. Vì lý do này, sự suy yếu của thân thể chúng ta đem lại nỗi phiền muộn và đau khổ tinh thần ghê gớm. Tất cả vẻ đẹp và sáng sủa trên khuôn mặt ta phải bị phai nhoà, làn da phủ đầy vết nhăn và trán thì hằn những nếp nhăn xấu xí của tâm trạng không sung mãn. Mọi người xem thường chúng ta, và cho dù người ta bước qua đầu ta, ta cũng không thể ngồi dậy nổi. Chúng ta không phản ứng lại nữa. Như thể chúng ta là những yogi chứng ngộ mà đối với các ngài tịnh và bất tịnh không còn hiện hữu.[59] Không thể chịu đựng nỗi khổ của tuổi già, chúng ta muốn chết, nhưng thực ra càng tới gần cái chết chúng ta càng khiếp sợ nó.

Tất cả những điều này tạo nên nỗi khổ mà chúng ta phải trải qua trong tuổi già thì không khác biệt lắm với những nỗi khổ của chúng sanh trong các cõi thấp.

 

 

4.2.3  Sự đau khổ của bệnh tật

 

Khi bốn yếu tố (tứ đại) tạo nên cơ thể chúng ta trở nên mất quân bình, mọi loại

bệnh tật - những bệnh thuộc về gió, mật, đàm thấp và v.v…xuất hiện, và những cảm giác đau đớn, khổ sở làm chúng ta phiền não.

Ngay khi những cơn đau nhức đầu tiên của bệnh tật tấn công – dì thân tâm ta trẻ trung tới đâu, dù ta mạnh mẽ và chói ngời tới đâu, dù ta đang ở trong thời kỳ sung mãn nhất – chúng ta vẫn sụp đổ như con chim nhỏ bị ném đá. Sức mạnh của ta thoát đi mất. Chúng ta lún sâu xuống nệm, và bất cứ chuyển động nào dù nhẹ nhàng cũng rất khó khăn. Thậm chí việc trả lời khi có người hỏi thăm cũng là một cố gắng: giọng nói của ta dường như đến từ một nơi sâu thẳm và khó bật ra thành tiếng. Chúng ta cố nằm nghiêng bên phải, rồi bên trái, nằm ngửa, nằm sấp nhưng chẳng bao giờ có thể thoải mái. Chúng ta mất cảm giác ngon miệng và không thể ngủ được về đêm. Ngày lẫn đêm dường như dài vô tận. Chúng ta phải chịu đựng những viên thuốc đắng, chua, hay nóng, phải kiên nhẫn đối với việc đốt, lấy máu và mọi loại điều trị khó chịu khác. Nghĩ tưởng rằng bệnh tật này có thể làm ta chết đột ngột khiến chúng ta kinh sợ. Dưới sức mạnh của những thế lực bệnh hoạn và sự không toàn vẹn của bản thân, chúng ta có thể mất kiểm soát cả thân lẫn tâm, và khi những tri giác mê lầm thông thường của ta lên tới cực độ thì chúng ta bắt đầu có ảo giác. Thậm chí đôi lúc người bệnh còn tự tử. Những người đau khổ vì những bệnh tật như bệnh cùi, động kinh bị mọi người bỏ rơi và để mặc họ suy ngẫm về số phận của mình; họ vẫn còn sống mà như thể đã chết.

Người bệnh thường không thể tự chăm sóc. Bệnh tật làm cho họ nóng nảy, và luôn tìm kiếm lỗi lầm nơi những gì người khác làm cho họ. Càng ngày họ càng trở nên quan trọng hoá và hay chỉ trích, và nếu bệnh tật của họ tiếp tục kéo dài, người ta sẽ trở nên mệt mỏi khi săn sóc họ và không còn làm những gì họ đòi hỏi nữa. Nỗi bực dọc do bệnh tật của họ gây ra liên tục hành hạ họ.

 

4.2.4  Sự đau khổ của cái chết

 

Khi cái chết tới gần, bạn nằm liệt giường và không còn sức để đứng dậy. Thậm

chí khi nhìn thấy đồ ăn và thức uống, bạn chẳng còn cảm giác thấy thèm muốn chúng. Bị hành hạ bởi những cảm giác của người sắp chết, bạn cảm thấy càng lúc càng tuyệt vọng và tất cả lòng can đảm cùng niềm tin của bạn đều tan biến. Bạn kinh nghiệm những điềm báo và những ảo giác về những gì chờ đợi bạn. Đã đến lúc cho cuộc ra đi lớn lao này của bạn. Gia đình và bạn bè tụ tập xung quanh bạn, nhưng họ không thể làm gì để trì hoãn cuộc khởi hành của bạn - bản thân bạn đang kinh qua nỗi khổ của cái chết – hoàn toàn đơn độc. Bạn cũng chẳng có cách nào để đem theo những vật sở hữu, dù chúng có thể nhiều tới đâu chăng nữa. Bạn không thể tự mình buông bỏ những thứ đó, nhưng bạn biết mình cũng không thể giữ được chúng. Sự hối hận tràn ngập tâm bạn khi bạn nhớ lại những hành vi bất thiện đã làm.  Bạn khiếp sợ khi nghĩ về những đau khổ của các cõi thấp. Ngay đây cái chết xảy đến đột ngột. Nỗi sợ hãi phủ chụp lấy bạn. Những tri giác về cuộc đời biến mất và thân bạn lạnh dần.

Khi một người làm ác chết, ông ta lấy ngực mình khiến trên da đầy những dấu móng tay. Khi nhớ lại mọi hành vi xấu ác của mình, ông ta run sợ vì bị tái sanh trong những cõi thấp. Ông ta tràn đầy hối hận vì đã không thực hành Pháp trong khi có được sự tự do để làm điều đó, bởi nó là điều ích lợi duy nhất vào lúc chết. Khi nhận ra điều đó, ông ta cảm thấy đau khổ ghê gớm. Đó là lý do tại sao ông ta đấm ngực và để lại đầy những dấu móng tay ở đó khi chết. Có câu nói rằng:

Hãy xem một người ác hấp hối;

Ông ta là một vị thầy minh hoạ cho chúng ta hậu quả của những hành vi.

 

Thậm chí trước khi chết, những cõi thấp bắt đầu cận kề ông ta. Bất kỳ điều gì ông ta nhận thức đều trở thành mối đe doạ. Mọi cảm giác của ông đều khiến cho ông ta đau khổ. Các đại trong thân ông ta tan biến, hơi thở trở khò khè và chân tay rũ liệt. Ông ta bắt đầu có các ảo giác. Đôi mắt trợn trừng, và khi ông ta từ giã đời này Thần Chết đến gặp ông. Những ma quỷ trong trạng thái trung ấm xuất hiện, mà ông ta không có người bảo hộ hay nơi nương tựa nào.

Chẳng có gì bảo đảm rằng giây phút ta rời bỏ cuộc đời này, hoàn toàn trần trụi và trắng tay, sẽ không đến vào ngày hôm nay. Khi điều này xảy ra, điều duy nhất sẽ thực sự giúp đỡ chúng ta là Pháp. Không có nơi nào nương tựa nào khác. Có nói rằng:

 

Trong thai tạng của mẹ bạn, hãy xoay chuyển tâm bạn về Pháp;

Ngay khi bạn sinh ra, hãy nhớ Giáo Pháp về cái chết

 

Bởi cái chết đến thật đột ngột, đối với người trẻ trung cũng như già nên chúng ta phải bắt đầu thực hành Pháp ngày từ lúc sinh ra. Duy chỉ một mình Pháp sẽ giúp đỡ chúng ta vào lúc chết. Nhưng cho đến bây giờ chúng ta đã lãng quên cái chết, quá bận rộn trong việc đánh bại kẻ thù và giúp đỡ bạn bè, chăm sóc của cải và nhà cửa của mình, hoàn toàn bị chiếm lĩnh bởi gia đình và bằng hữu. Nhưng nếu bạn suy ngẫm về điều đó, thì việc để thời gian trôi qua như thế và chìm sâu trong tham, sân và si vì lợi ích của bạn bè và những người thân yêu của bạn, sẽ là một sai lầm khủng khiếp

 

4.3    NHỮNG ĐAU KHỔ KHÁC CỦA CON NGƯỜI

 

4.3.1  Nỗi sợ gặp kẻ thù địch

 

Chúng ta tiêu phí tất cả thời gian của mình để tìm kiếm sự giàu có và thịnh vượng,

và canh chừng nó cả ngày lẫn đêm. Nhưng cuối cùng thì ngay cả điều đó cũng không giúp cho ta khỏi phải chia sẽ nó với kẻ thù. Những kẻ cướp ngày trộm đêm, chó hoang, chó sói, và những thú dữ khác hoàn toàn có thể bất ngờ tấn công ta mà không báo trước. Rõ ràng là càng có nhiều của cải và tài sản thì ta lại càng thêm phiền não để thâu đạt nó, để bảo vệ và cố gắng tăng trưởng nó.

Ngài Long Thọ viết:

 

Việc tích luỹ của cải, canh chừng và làm nó tăng trưởng sẽ làm bạn kiệt sức.

Hãy hiểu rằng của cải trù phú đem lại sự suy tàn và huỷ hoại.

 

Ngài Jetsun Milarepa nói:

 

Lúc bắt đầu, của cải làm bạn hạnh phúc và ham muốn;

Nhưng dù có nhiều đến đâu, dường như chẳng bao giờ bạn thấy đủ.

Vào lúc giữa, sự bủn xỉn cột những nút thắt quanh bạn:

Bạn không thể chịu đựng được khi dùng nó vào việc cúng dường hay từ thiện.

Sự giàu có của bạn hấp dẫn kẻ thù và những thế lực xấu,

Và tất cả những gì bạn tích góp lại bị người khác tận dụng.

Vào lúc cuối, con quỷ giàu có đặt cuộc đời bạn vào nỗi hiểm nghèo.

Nản lòng biết bao khi đấy chỉ là việc trông nom tài sản cho kẻ thù!

Ta đã vức bỏ khối nặng này là kẻ kéo lôi ta vào luân hồi sinh tử.

Ta chẳng còn mong muốn nữa thứ cám dỗ quỷ quái này.

 

Những đau khổ của chúng ta thì tương quan trực tiếp với quy mô của những gì ta sở hữu. Chẳng hạn bạn sở hữu một căn nhà bạn sẽ lo nghĩ nó có thể bị kẻ thù chiếm đoạt hay bị ăn trộm; bạn sẽ tự hỏi nó có đủ cỏ khô để dùng hay không. Chỉ một con ngựa cũng đủ mang lại bao nhiêu phiền toái. Nếu bạn có một con cừu, bạn sẽ có nỗi phiền toái tương xứng với một con cừu. Nếu bạn có một túi trà,* bạn vẫn có thể đoán chắc rằng bạn sẽ có nỗi phiền não đáng giá một túi trà.

Vì thế hãy quán chiếu và thiền định về cuộc sống trong sự an bình thì cần thiết biết bao, hãy sống theo câu ngạn ngữ cổ xưa “không của cải, thì không có kẻ thù.” Hãy tự gây hứng khởi bằng những câu chuyện của chư Phật trong quá khứ và hãy nhổ bật gốc mọi sự vướng mắc vào tiền bạc và của cải của bạn. Hãy sống bằng những gì mình nhận được như những con chim, và hoàn toàn hiến mình cho việc thực hành Pháp.

 

4.3.2  Nỗi sợ mất người thân yêu

 

Chúng ta sống trong thế giới luân hồi này và cảm thấy ràng buộc với những người mà ta đồng cảm và thù địch đối với những người. Vì lợi ích của gia đình, tính đồ, đồng bào, bạn bè và những người thân yêu của ta, chúng ta sẵn sàng trải qua mọi thứ đau khổ. Không một ai trong số đó mà với họ chúng ta có những ràng buộc họ hàng hay bằng hữu có thể sống với nhau mãi mãi, và không sớm thì muộn chúng ta buộc phải lìa xa họ. Họ chết hay xuất ngoại, hay bị kẻ thù hoặc bị những nguy hiểm khác đe dọa – và nỗi khổ họ phải trải qua ảnh hưởng chúng ta còn sâu xa nỗi khổ của chính chúng ta. Đặc biệt là các bậc cha mẹ, quan tâm quá nhiều đến con cái và thường xuyên lo lắng chúng có thể bị lạnh, đói hay khát, hay chúng có thể bị đau ốm hay chết. Trong thực tế, họ thương con tới nỗi thà họ chết còn hơn là để chúng phải đau khổ, và vì lợi ích của chúng họ phải trải qua rất nhiều khổ não.

Nhưng dù chúng ta đau khổ quá nhiều vì nỗi sợ bị chia cách với bạn bè và người thân yêu này, chúng ta nên suy nghĩ về nó thật cẩn thận. Liệu ta có thể quả quyết rằng những người thân yêu của ta thì đáng yêu như ta nghĩ? Chẳng hạn cha mẹ ta nói thương chúng ta như con cái họ, nhưng cách họ thương yêu chúng ta bị lầm lạc và có hậu quả vô cùng tai hại. Bằng cách cho chúng ta của cải, tài sản và lập gia đình cho ta, họ đang cột chặt chúng ta vào luân hồi. Họ dạy mọi thứ chúng ta để biết cách đối xử tốt hơn với các đối thủ của ta, cách quan tâm đến bạn bè, cách làm giàu, và mọi kế hoạch tai hại khác mà sẽ chỉ để chắc chắn rằng chúng ta bị mắc bẫy không thoát ra được ra những cõi thấp. Họ chẳng thể làm điều gì tệ hại thế nữa.

Về phần con cái chúng ta, cả trai lẫn gái, lúc đầu chúng bú tinh chất từ thân ta, lúc giữa chúng lấy thực phẩm khỏi miệng ta, và vào lúc cuối chúng lấy tài sản khỏi tay ta. Để đáp lại tình thương của ta, chúng nổi loạn chống lại chúng ta.

Chúng ta cho con trai tất cả tài sản mà chúng ta kiếm được suốt đời mình, không tính toán giá trị và chẳng quan tâm đến mọi hoạt động bất thiện, nỗi khổ và sự phê bình chỉ trích mà ta đã phải trải qua – nhưng chúng vẫn không có lòng biết ơn tối thiểu. Cho dù ta cho chúng nhiều đồng tiền bạc Trung Hoa, chúng ít biết ơn hơn bất kỳ người bình thường nào nếu như ta cho họ một nhúm lá trà. Chúng chỉ nghĩ rằng bất kỳ những gì của cha mẹ đều tự động thuộc về chúng.

Những chị em và con gái chúng ta cũng ngốn tài sản của ta mà không một chút biết ơn. Chúng ta càng cho họ, thì họ càng muốn thêm. Nếu chúng ta có rất nhiều như một miếng lam ngọc giả dùng làm vật để đếm trong chuỗi hạt của ta, họ sẽ nịnh bợ khiến ta cũng phải buông nó ra. Tối hảo nhất là họ góp phần vào sự thịnh vượng của người khác, nhưng chẳng mang lại điều gì cho ta. Nhưng nếu sự việc trở nên tồi tệ, họ trở về nhà đem theo sự ô danh và buồn tủi cho gia đình mình.*

Về phần những thân quyến và bạn bè khác của ta, họ đối xử với ta như những vị trời - chừng nào chúng ta còn giàu có, hạnh phúc và mọi việc đang tiến triển hết sức tốt đẹp. Họ làm bất kỳ những gì có thể để giúp ta, và cho ta tất cả những thứ mà ta không cần. Nhưng nếu ta rơi vào những thời điểm khó khăn, thì mặc dù chẳng làm gì tổn hại tới họ, họ đối xử với chúng ta như kẻ thù và đáp trả lại lòng tốt của ta bằng ác ý.

Tất cả đều này cho thấy rằng con trai, con gái, gia đình và bằng hữu chẳng có chút giá trị nào, như Ngài Jetsun Milarepa diễn tả trong bài hát của Ngài:

 

Lúc ban đầu, con trai của bạn là một thiên thần nhỏ duyên dáng;

Bạn thương nó nhiều đến mức không thể chịu nổi.

Vào lúc giữa, nó đòi hỏi quyền lợi thật hung tợn;

Bạn cho nó mọi thứ, nhưng chẳng bao giờ nó thoả mãn.

Nó đem về nhà con gái của người khác,

Xô đẩy cha mẹ tốt lành của nó ra ngoài.

Khi cha gọi, nó chẳng thèm trả lời.

Khi mẹ gọi, thậm chí nó chẳng buồn nghe.

Vào lúc cuối, nó giống như một người hàng xóm ở xa.

Bạn tự huỷ hoại chính mình khi nuôi dưỡng một đứa lừa đảo như thế.

Nản lòng biết bao khi sinh ra kẻ thù của chính bạn!

Ta đã ném đi bộ yên cương này là thứ trói buộc ta vào luân hồi.

Ta không cần bất kỳ ai trong những đứa con trai thế tục này.

 

Ngài tiếp tục:

 

Vào lúc đầu đứa con gái là một thiên nữ bé nhỏ xinh tươi,

Hống hách độc chiếm mọi tài sản tốt nhất của bạn.

Vào lúc giữa, nó không ngừng đòi hỏi quyền lực:

Công khai yêu sách cha đủ mọi điều,

Và kín đáo lấy trộm của mẹ.

Không bao giờ thoả mãn với những gì được cho.

Nó là nguồn thất vọng của bậc cha mẹ tốt lành.

Vào lúc cuối, nó là con yêu tinh mặt đỏ:

Trong trường hợp tốt nhất, nó là một vật quý cho người khác,

Trong trường hợp xấu nhất, nó sẽ đem tại hoạ tới cho bạn.

Nản lòng biết bao, con quỷ phá hoại này!

Ta đã ném đi nỗi buồn khôn nguôi này.

Ta không muốn một đứa con gái sẽ dẫn ta tới chỗ huỷ diệt.

 

Cuối cùng:

 

Vào lúc đầu, bạn bè tươi cười khi gặp bạn,

Và cả thung lũng âm vang “Hãy vào đây!” và “Mời ngồi!”

Vào lúc giữa, họ đáp lại lòng hiếu khách của bạn bằng thịt và bia,

Món đổi món, đáp trả chính xác từng cái một.

Vào lúc cuối, họ gây tranh chấp trên sự thù ghét hay tham luyến.

Nản lòng biết bao, những người bạn xấu này với mọi tranh cãi của họ!

Ta đã từ bỏ những bạn bè ăn nhậu lúc thảnh thơi.

Ta không muốn bất kỳ bằng hữu thế tục nào.

 

4.3.3  Nỗi khổ của việc muốn mà không được

 

Trong thế gian, không ai trong chúng ta không muốn được hạnh phúc và cảm thấy

tốt đẹp; nhưng chẳng ai đạt được những gì mình muốn. Ví dụ, một gia đình cố xây ngôi nhà để được sống thoải mái, nhưng nó sụp đổ và giết chết họ. Một người có thể ăn để thoả mãn cơn đói, nhưng thực phẩm làm họ bệnh và gây nguy hại cho cuộc sống họ. Những người lính chiến đấu hy vọng chiến thắng, và lập tức bị giết. Một nhóm thương nhân tiến hành một cuộc hành trình mua bán trong sự hy vọng tràn trề kiếm được lợi nhuận, nhưng bị tấn công và trở nên nghèo khổ. Dù chúng ta có hao tốn bao nhiêu cố gắng và năng lực trong hy vọng trở nên giàu có và hạnh phúc trong cuộc đời này, trừ phi những hành vi trong những đời quá khứ của chúng ta đã tạo ra tiềm năng đó, còn không chúng ta sẽ không thể thoả mãn ngay cả cơn đói trước mắt mình. Mọi điều chúng ta sẽ làm đều gây nên những phiền não cho mình và người khác. Chúng ta có thể quả quyết rằng kết quả duy nhất được thành tựu là ta sẽ không thoát khỏi những đáy sâu của các cõi thấp. Đó là lý do tại sao một tia lửa nhỏ công đức duy nhất thì đáng giá hơn một núi nổ lực.

Những hoạt động luân hồi chưa bao giờ chấm dứt thì có lợi ích gì? Mọi nỗ lực chúng ta từng thực hiện trong vòng luân hồi từ vô thủy khi cố gắng đạt được những gì mình muốn không đem lại cho ta điều gì ngoài sự đau khổ. Trong quá khứ, nếu chúng ta dùng mọi năng lực mà ta đã dành cho những mục đích thế tục trong phần đầu hay cuối của một đời duy nhất thay vào đó, ta hiến dâng năng lực đó cho Pháp, thì giờ đây chúng ta đã thành các vị Phật. Và nếu không thể được như thế, thì ít nhất, dứt khoát là chúng ta sẽ không bao giờ chịu đau khổ trong những cõi thấp một lần nữa.

Chúng ta nên thiền định như sau: giờ đây là lúc ta hiểu rõ sự khác biệt giữa những gì ta nên làm và không nên làm, hãy ngừng đặt các hy vọng lớn lao nơi những công trình của luân hồi là những thứ sẽ chẳng bao giờ hoàn tất – thay vào đó hãy thực hành Giáo Pháp chân chính, nơi đó sự thành tựu là điều chắc chắn.

 

4.3.4  Nỗi khổ vì gặp những gì không mong muốn

 

Không ai trong chúng ta ở thế gian này ước muốn bất kỳ loại đau khổ nào đã được

mô tả ở đây, tuy nhiên chúng ta điều ta phải trải nghiệm trong mọi lúc, dù chúng ta có ưa thích chúng hay không. Chẳng hạn, có những người mà do những hành vi trong quá khứ của họ, trở thành những đối tượng của một nhà cai trị đặc biệt hay thành những nô lệ của một vài người giàu có. Trái với ước muốn của mình, họ hoàn toàn phụ thuộc vào ý muốn của chủ, không có được một giây phút tự do.  Họ có thể bị trừng phạt dữ dội vì những lỗi nhỏ, mà vẫn không thể làm được gì. Cho dù ngay bây giờ họ bị dẫn đến nơi hành hình, họ biết rằng mình không thể trốn thoát.

Chúng ta luôn luôn phải gặp những gì mình không mong muốn. Như Đấng Toàn Giác Longchenpa nói:

 

Bạn thích sống với gia đình và những người thương yêu.

Mãi mãi, nhưng chắc chắn là bạn phải bỏ lại họ.

Bạn thích được giữ căn nhà đẹp của mình

Mãi mãi, nhưng chắc chắn là bạn phải để nó lại phía sau.

Bạn thích được hưởng thụ hạnh phúc, giàu sang và an nhàn

Mãi mãi, nhưng chắc chắn là bạn phải đánh mất chúng.

Bạn thích giữ đời người tuyệt hảo này với những tự do và thuận lợi của nó

Mãi mãi, nhưng chắc chắn là bạn phải chết.

Bạn thích được học Giáo Pháp với vị Thầy phi thường của bạn

Mãi mãi, nhưng chắc chắn rằng bạn sẽ phải chia ly.

Bạn thích được ở bên những thiện tri thức tốt lành,

Mãi mãi, nhưng chắc chắn là bạn sẽ phải rời xa.

 

Ô những người bạn của ta, những người ta vỡ ảo tưởng luân hồi

Ta, kẻ ăn mày vô-Pháp*, thúc đẩy các bạn:

Từ hôm nay hãy mặc áo giáp của nỗ lực, bởi đã tới lúc

Băng qua xứ sở của đại lạc nơi không có sự cách ngăn.

 

Của cải, tài sản, sức khoẻ, hạnh phúc và sự được mến mộ, tất cả đều là những kết quả của những thiện hạnh trong quá khứ. Nếu bạn từng tích luỹ những hành động tích cực trong quá khứ, thì kết quả là tất cả những điều này sẽ đến với bạn một cách tự nhiên dù bạn có muốn hay không. Nhưng nếu không có những hành vi tích cực đó thì chẳng có khối lượng nỗ lực nào sẽ đem lại cho bạn những gì bạn muốn. Tất cả những gì bạn sẽ thâu hoạch được là những thứ bạn ít mong muốn nhất. Vì thế, khi bạn thực hành Pháp, hãy nương tựa trên tài sản vô tận là sự hài lòng với bất kỳ những gì xảy đến. Nếu không, một khi bạn bắt đầu thực hành, chắc chắn là những tham vọng thế gian của bạn trong đời này sẽ làm bạn phiền não và khiến cho các bậc linh thánh phật lòng. Ngài Jetsun Mila hát:

 

Những gì mà Chúa Công của Nhân loại, Đấng Chiến Thắng, đã đặc biệt giảng dạy

Làm thế nào thoát khỏi tám mối quan tâm thế gian.

Nhưng những người tự cho là uyên bác thời nay –

Thậm chí những mối quan hệ tầm thường của họ lại không phát triển lớn hơn trước hay sao?


Đấng Chiến Thắng đã giảng dạy những giới luật để tuân theo

Nhờ đó người ta có thể rút lui khỏi mọi công việc thế gian.

Nhưng những vị sư thời nay là những kẻ tuân theo giới luật này –

Giờ đây những nghĩa vụ thế gian của họ lại không nhiều hơn trước hay sao?

Ngài dạy làm thế nào để sống như những bậc thánh ngày xưa

Nhờ đó người ta có thể cắt đứt những ràng buộc với bạn bè và thân quyến.

Nhưng những kẻ sống như những bậc thánh thời nay –

Chẳng quan tâm rằng làm thế nào người ta tới thăm họ thậm chí còn nhiều hơn trước?

 

Tóm lại, thực hành mà không nhớ tới cái chết.

Thì bất cứ Giáo Pháp nào cũng vô ích.

 

Nhân loại sống trong thời buổi suy thoái ngày nay ở bốn châu lục của thế giới này, nhưng đặc biệt là ở đây trong cõi Jambudvipa (Diêm Phù Đề) này, bị tước đi ngay cả những cơ hội hạnh phúc nhỏ bé nhất. Cuộc sống của họ tràn ngập đau khổ. Ngày nay, sự suy thoái gia tốc cùng mỗi năm trôi qua, rảo bước cùng mỗi tháng, mỗi ngày, mỗi bữa ăn, mỗi sáng và mỗi tối lướt vội. Thời kiếp đang đi từ chỗ xấu tới tệ hại hơn.  Giáo lý của Đức Phật và hạnh phúc của chúng sinh đang suy tàn càng lúc càng nhiều hơn. Hãy suy tưởng về tất cả những điều này và hãy phát triển một cảm thức tan vỡ ảo tưởng. Hơn nữa, châu Diêm Phù Đề này ban tặng một năng lực đặc biệt về các hậu quả của những hành vi[60] là điều làm cho mọi sự - tốt hay xấu, dễ chịu hay khó chịu, cao và thấp, Pháp hay phi-Pháp - đều rất khó tiên đoán. Bạn nên tự mình thấu hiểu sự vật ra sao, và hãy hoàn toàn minh bạch trong tâm thức về những gì nên làm và những gì nên tránh. Hãy đưa lời khuyên của Đấng Toàn Giác Longchenpa vào thực hành:

 

Đôi khi hãy nhìn vào những gì bạn thấy là thuận lợi;

Nếu bạn biết nó chỉ là sự tri giác, mọi sự bạn kinh nghiệm của bạn sẽ trở nên lợi lạc.[61]

Đôi khi hãy nhìn vào những gì bạn thấy là bất lợi và tai hại;

Điều này thì tối yếu, nó khiến bạn kinh sợ việc bạn nhìn mọi sự theo cách thức mê lầm.

Đôi khi hãy nhìn vào bạn bè của mình và các bậc Thầy của những người khác;

Việc phân biệt người tốt với người xấu sẽ khiến bạn hứng khởi trong sự thực hành.[62]

Đôi khi hãy nhìn vào sự phô diễn kỳ diệu của tứ đại trong không gian;

Bạn sẽ thấy làm thế nào nỗ lực lắng xuống trong thật tánh của tâm.[63]

Đôi khi hãy nhìn vào xứ sở, nhà cửa và tài sản của bạn;

Khi thấu hiểu chúng là mộng huyễn, bạn sẽ cảm thấy ghê sợ trước việc bạn đã tri giác chúng trong cách thức lầm lạc.

Đôi khi hãy nhìn vào của cải và tài sản của người khác;

Khi thấy họ đáng thương ra sao, bạn sẽ bỏ đi tham vọng luân hồi.

Tóm lại, khi khảo sát bản tánh của mọi sự trong tất cả vẻ đa dạng của nó,

Bạn sẽ tiêu diệt được mê lầm của việc bám chấp bất kỳ điều gì là thật có.

 

 

5.    A Tu La

 

Những khoái lạc và sự ê hề dư dật cũng được các a tu la, các bán thần – là những địch thủ của chư thiên - hưởng thụ. Tuy nhiên, từ những kiếp trước họ có một khuynh hướng về sự ganh tị thù hận, gây hấn và tranh đấu. Kết quả của những hành vi bất thiện đó trong quá khứ là ngay sau khi mang thân tướng hiện tại này là họ bắt đầu kinh nghiệm những cảm giác thù hận dữ dội.

Thậm chí ngay trong cõi của họ, cũng có những cuộc tranh cãi giữa các lãnh thổ và địa phận, và họ tiêu phí toàn bộ thời gian của mình để chiến đấu và gây hấn giữa họ với nhau về những bất đồng như vậy.

Nhưng tệ hại hơn, khi nhìn lên cõi trời, họ có thể thấy chư thiên giàu có tột bậc. Họ cũng thấy rằng mọi ước muốn và nhu cầu của chư thiên được cung cấp bởi một cây như ý – tuy nhiên rễ cây lại nằm trong cõi của họ. Nhìn thấy những điều đó, tâm họ tràn ngập một mối oán giận không thể chịu nổi. Khoác áo giáp và chộp lấy các vũ khí, họ lên đường gây chiến với chư thiên. Ngay khi chư thiên nhìn thấy những gì xảy ra, họ đi tới Khu Rừng Gây Gổ,[64] và đến lượt họ mặc áo giáp và nhặt vũ khí lên. Chư thiên giữ một con voi ba mươi ba đầu gọi là Kiên Định Siêu Phàm. Vua Trời Thích Đế (Indra) của họ ngự trên đầu giữa, cùng với tất cả các bộ trưởng bao quanh vua trên ba mươi hai đầu kia. Vô số các vị trời với vẻ tráng lệ quyến rũ không thể cưỡng lại được bao quanh, cất cao tiếng la hét đằng đằng sát khí. Khi trận chiến bắt đầu, họ thả xuống một trận mưa vũ khí – chày, giáo, bánh xe, những mũi tên khổng lồ v.v.. Năng lực huyền diệu của họ khiến họ có sức mạnh lôi những ngọn núi lớn vào lòng và ném chúng xuống như hoả tiễn. Vì những hành động trong quá khứ của họ, chư thiên cao hơn con người bảy lần, nhưng các bán thần thì nhỏ hơn chư thiên nhiều. Chư thiên chỉ có thể bị giết khi bị đứt đầu; nhờ chất cam lồ linh thiêng của họ mà bất kỳ vết thương nào khác trên thân họ cũng sẽ lập tức lành lặn. Nhưng bán thần lại chết như con người kh bị đánh trúng bộ phận quan trọng. Do đó họ bị thua nhiều trận. Trong những chiến lược khác của họ, khi chư thiên phái một con voi được gọi là Kẻ Bảo Vệ Tất Cả, điên cuồng vì hơi men, một bánh xe có các lưỡi kiếm được cột vào thân nó, khiến hàng trăm ngàn bán thần bỏ chạy. Thi thể họ đổ nhào xuống những sườn Núi Tu Di rơi xuống những Hồ Đại Hoa Mỹ phía dưới làm hồ loang đầy màu máu.

Trong cõi a tu la này, cùng những cuộc chiến đấu và gây hấn thường xuyên, họ không thoát khỏi đau khổ. Hãy thiền định về số phận của họ từ đáy lòng bạn.

 

6.    Chư Thiên (Các vị Trời)

 

Chư Thiên vui hưởng sức khoẻ, sự tiện nghi, của cải và hạnh phúc toàn hảo suốt

mọi cuộc đời họ. Tuy nhiên, họ tiêu phí thời gian trong những thú tiêu khiển và ý tưởng thực hành Pháp không bao giờ xảy ra với họ. Suốt trong những cuộc đời có thể kéo dài cả mộ kiếp của họ, chẳng bao giờ niệm tưởng đó khởi lên trong tâm họ dù chỉ trong chốc lát. Rồi thì khi đã lãng phí cả cuộc đời trong sự phóng dật, đột nhiên họ đối diện với cái chết. Tất cả các Vị Thiên trong sáu cõi trời Dục Giới, từ cõi trời của Bốn Đại Vương cho tới cõi được gọi là Vui hưởng các Hoá Thân của những Vị khác, đều phải chịu đựng nỗi khổ của sự chết và luân hồi.

Có năm dấu hiệu báo trước cái chết của một vị trời. Thân ông ta vốn chói sáng, mà thường cách một lý (khoảng 4,8km) hay vài dặm vẫn có thể nhìn thấy, mờ dần đi. Chiếc ngai toà mà trước đây ông không bao giờ cảm thấy mệt mỏi khi ngự trên đó thì giờ đây không còn làm ông vừa lòng; ông cảm thấy thiếu tiện nghi và thoải mái. Vòng hoa của ông, trước đây chẳng bao giờ tàn, nhưng trải qua bao thời gian, giờ đây đã khô héo. Y phục của ông luôn luôn sạch sẽ tinh tươm nhưng bởi dùng lâu, nay đã cũ, dơ bẩn và bắt đầu bốc mùi. Thân ông, bắt đầu đổ mồ hôi dù trước đây không hề có. Khi năm dấu hiệu đang gần tới gần cái chết này xuất hiện. Vị trời rất đau khổ vì biết chẳng bao lâu nữa mình cũng sẽ chết. Bầu bạn và những người thân yêu của ông cũng biết những gì sắp xảy ra cho ông; họ không thể tới gần nữa, mà chỉ đứng ở xa ném hoa và nói những lời chúc tốt lành: “Khi ngài chết và từ giã nơi đây, cầu xin ngài được tái sanh vào cõi trời.” Với những lời đó, họ từ bỏ ông ta. Hoàn toàn cô độc, vị trời sắp chết chìm đắm trong nỗi buồn sầu. Bằng đôi mắt thiên thần ông ta nhìn nơi mình sắp tái sanh. Nếu nó ở trong một cõi đau khổ, thì thậm chí những dày vò của việc bị đoạ lạc làm ông ta choáng váng trước khi những đau khổ của việc chuyển kiếp của ông chấm dứt. Khi những đau khổ này trở nên mãnh liệt gấp hai rồi gấp ba lần, ông ta tuyệt vọng và bị buộc phải trải qua nỗi buồn khổ trong bảy ngày của cõi trời. Bảy ngày của cõi Trời Ba Mươi Ba bằng bảy trăm năm của cõi người. Trong thời gian đó, khi nhìn lại và hồi tưởng mọi sự phúc lạc và sung sướng mà ông ta từng vui hưởng và nhận ra là mình không thể ở lại vì đã mất hết quyền năng, ông ta trải qua nỗi khổ của sự chuyển kiếp; và nhìn về phía trước, khi đã bị dày vò bởi thị kiến về nơi tái sanh trong tương lai, ông ta kinh nghiệm nỗi đau khổ của sự đoạ lạc. Nỗi đau đớn của thống khổ nhân đôi này thì còn tệ hại hơn cả nỗi khổ trong các địa ngục.

Trong hai cõi trời cao nhất,[65] không có những đau khổ rõ ràng của cái chết và sự chuyển kiếp. Tuy nhiên, khi kết quả của những hành vi đã đưa họ đến đây bị cạn kiệt, những vị trời này rơi vào những cõi thấp như thể thức dậy sau giấc ngủ. Sự đau khổ của họ là vậy. Như Ngài Long Thọ nói:

 

Hãy biết rằng ngay cả bản thân Trời Brahma (Phạm Thiên),

Sau khi có được hạnh phúc thoát khỏi vướng mắc

Đến lượt ông ta phải chịu đau khổ không ngường dứt

Như dầu đốt lửa của Địa ngục Đau Khổ Tột Cùng.

 

Do đó, dù chúng ta sinh bất cứ nơi đâu trong sáu cõi, mọi sự đều có bản chất là đau khổ, mọi sự đều chồng chất đau khổ, mọi sự đều là cỗ máy của đau khổ - và không là gì khác hơn nỗi đau khổ. Nó giống như một hầm lửa, một hòn đảo của lũ quỷ cái ăn thịt người, một vực sâu trong đại dương, đầu lưỡi dao hay một hầm phân. Ta không thể tìm ra chút xíu an bình nào. Theo Kinh Giáo Pháp Siêu Việt về Hồi Ức Trong Sáng:

 

Chúng sanh trong địa ngục đau khổ vì lửa-địa ngục,

Ngạ quỷ đau khổ vì đói và khát,

Súc sanh đau khổ bởi việc ăn thịt lẫn nhau,

Loài người đau khổ vì cuộc đời ngắn ngủi,

A tu la đau khổ vì chiến tranh và tranh chấp,

Và chư thiên đau khổ vì thiếu tỉnh giác của họ.

Chẳng bao giờ có hạnh phúc trong sinh tử luân hồi dù chỉ bằng đầu đinh ghim.

Cũng như không có mùi thơm trong một hố phân.

Không có hạnh phúc trong năm loại chúng sanh.[66]

 

Đạo sư Vĩ đại xứ Oddiayana nói:

 

Có nói rằng không tìm ra trong vòng luân hồi này

Hạnh phúc nhỏ như đầu mũi kim.

Nhưng nếu ngẫu nhiên ta tìm được chỉ một ít,

Nó sẽ chứa đựng nỗi khổ của sự biến dịch.

 

Càng quán chiếu về những điều này và những đoạn tương tự khác, bạn sẽ càng nhận ra rằng cho dù bạn sinh ra ở đâu; từ đỉnh cao của sự sống xuống tới địa ngục sâu thẳm nhất, đều không có ngay cả một giây lát an nhàn hay hạnh phúc thật sự. Mọi sự chẳng có chút ý nghĩa nào. Hãy suy ngẫm về luân hồi sinh tử và những đau khổ của nó cho đến khi bạn không tham muốn nó nữa, giống như người đau gan được cho thức ăn nhiều mỡ.

Đừng nên bằng lòng với việc chỉ đơn thuần nghe nói về những đau khổ này và hiểu chúng theo tri kiến. Hãy thấu hiểu những điều đó và kinh nghiệm chúng với toàn bộ sự tưởng tượng của bạn cho tới khi bạn thực sự tin tưởng chúng. Khi được vũ trang bằng mức độ xác quyết này, thì việc tránh không làm những hành vi tieu cực và ưa thích làm những hành vi tích cực sẽ đến với bạn một cách tự nhiên không cần ép buộc.

Nanda, anh em họ với Đức Phật, rất luyến ái với người vợ và không muốn từ bỏ thế gian. Bằng những phương tiện thiện xảo, mặc dù Đức Phật đã thuyết phục ông đi vào Giáo Pháp và trở thành một tăng sĩ, ông ta không tuân theo giới luật. Ông sắp bỏ trốn thì Đức Phật dùng thần lực đem ông lên một đỉnh núi tuyết và cho ông ta thấy một con khỉ cái một mắt.

Đức Phật hỏi Nanda: “Ông thấy Pundarika vợ của ông và con khỉ này ai đẹp hơn?”

Nanda trả lời: “Vợ con, nàng đẹp gấp trăm, gấp ngàn lần!”

“Được rồi,” Đức Phật trả lời. “Bây giờ chúng ta hãy lên cõi Trời.”

Khi đến nơi, Đức Phật ngồi xuống và bảo Nanda đi một vòng xem xét. Mỗi một vị trời sống trong cung điện riêng, chung quanh có nhiều thiên nữ trẻ, và hưởng thụ những khoái lạc, hạnh phúc và sự dư dật không thể nghĩ bàn. Tuy nhiên, có một cung điện có nhiều thiên nữ nhưng không có vị trời nào. Nanda hỏi tại sao, và được trả lời: “Trong cõi người, có một người đàn ông tên Nanda, anh em họ của Đức Phật, đang tuân giữ giới luật tu viện. Hành động này sẽ dẫn ông ta tái sanh vào cõi thiên, và khi đó cung điện này sẽ là của ông ta.”

Nanda vui mừng khôn xiết. Khi trở lại với Đức Phật, Phật hỏi, “Ông có thấy cõi trời chưa?”

“Tất nhiên là con thấy rồi!”

“Tốt. Ông thấy vợ ông hay những thiên nữ trẻ ai đẹp hơn?”

“Những con gái của các vị trời đẹp hơn nhiều,” Nanda trả lời: “quả thực, sắc đẹp của họ vượt xa sắc đẹp của Pundarika cũng như sắc đẹp của Phundarika vượt xa con khỉ một mắt mà chúng ta thấy trước đó.”

Khi trở về thế gian, Nanda giữ gìn giới luật tu viện thật hoàn hảo.

Sau đó Đức Phật nói với những tu sĩ: “Nanda đã từ bỏ cuộc sống thế gian để được sinh vào những cõi trời,” Ngài nói, “nhưng tất cả các ông trở thành tu sĩ để vượt thoát đau khổ. Các ông và ông ta không cùng một con đường. Đừng nói chuyện với ông ta nữa. Không nên thân mật với ông ta. Thậm chí không nên ngồi cùng chỗ với ông ta!”

Tất cả tu sĩ vâng lời, và Nanda rất bối rối. Ông nghĩ: “Ananda là em trai ta; tối thiểu nó vẫn còn chút tình cảm với ta.” Nhưng khi ông ta đi gặp em, Ananda đứng dậy và bỏ đi. Nanda hỏi tại sao, và Ananda thuật lại những điều Đức Phật đã nói. Nanda rất đau khổ.

Cuối cùng Đức Phật đến với ông và nói, “Nanda, ông có muốn đi thăm các địa ngục không?” Nanda đồng ý, và Đức Phật đưa cả hai xuống đó bằng thần lực. “Hãy đi và quan sát chung quanh,” Ngài nói.

Vì vậy, Nanda bắt đầu thám hiểm, thăm tất cả cảnh giới của địa ngục, cho tới khi ở một nơi ông đi qua một chậu trống không trong đó có một ngọn lửa cháy kêu tanh tách và rất đông thuộc hạ của Thần Chết vây quanh. Ông hỏi họ tại sao trong chậu không có ai.

“Có một người em họ trẻ tuổi của Đức Phạt tên là Nanda,” họ trả lời “anh ta đang thực hành giới luật tu viện với ý định được tái sinh làm một vị trời. Sau khi hưởng thụ hạnh phúc của cõi trời, khi công đức của anh ta cạn kiệt, anh ta sẽ tái sanh vào đây.”

Nanda hoảng sợ. Khi trở về ông ta suy nghĩ kỹ về các sự việc. Trong tương lai được sinh vào cõi trời và sau đó kết thúc ở các cõi địa ngục thì chẳng có ý nghĩa gì hết, vì thế ông phát triển một quyết tâm thực sự để tìm cách thoát khỏi luân hồi. Khi đã được nhìn tận mắt các cõi địa ngục, ông không bao giờ làm bất kỳ điều gì vi phạm giới luật dù nhỏ nhặt nhất, và Đức Phật tán thán ông là đệ tử tuyệt hảo nhất trong việc thu thúc các căn.*

Chúng ta không cần phải đi quá xa để tận mắt thấy các địa ngục. Một hình ảnh đơn giản cũng đủ làm chúng ta kinh sợ và củng cố ý muốn giải thoát mình. Chính vì lý do này mà Đức Phật yêu cầu bánh xe năm nhánh tượng trưng cho vòng luân hồi được vẽ tại cửa phòng họp** của Tăng đoàn. Như Đức Long Thọ đã nói:

 

Nếu chỉ nhìn những hình ảnh của các địa ngục, tai nghe những điều mô tả,

Hoặc đọc và suy nghĩ về chúng đã khiến bạn kinh sơ như vậy,

Thì bạn sẽ làm gì khi trải nghiệm ở đó

Toàn bộ nhữn kết quả không thể ngăn cản được của những hành vi của bạn?

 

Vì thế, hãy quán chiếu về những loại đau khổ khác nhau trong luân hồi. Từ tận đáy lòng bạn, hãy vất bỏ mọi mục đích tầm thường của cuộc đời này. Trừ phi bạn hoàn toàn có thể tuyên bố là đang thực hành sẽ không phải là điều chân thực.

Khi Ngài Atisa sắp viên tịch, một yogi đến hỏi Ngài: “Sau khi Ngài viên tịch, con có nên thiền định?”

“Cho dù ông thiền định, nó sẽ thực sự là Giáo Pháp không?” Ngài Atisa hỏi ông ta.

“Vậy thì, con có nên giảng dạy hay không?”

Vị đạo sư trả lời như trước.

“Vậy, con nên làm gì?”

“Tất cả những gì ông nên làm là hoàn toàn nương tựa vào Tonpa và thành thật từ bỏ cuộc đời này,” Ngài Atisa trả lời.

Một câu truyện khác kể về một vị sư đang đi nhiễu quanh Tu Viện Radreng thì gặp Geshe Tonpa. Vị Geshe nói: “Tu sĩ đáng kính, đi nhiễu là một việc tốt, nhưng việc thực hành Giáo Pháp thật sự không tốt hơn hay sao?”

Vị tăng tự nghĩ: “Có lẽ việc đọc kinh điển Đại Thừa thì cần thiết hơn là đi nhiễu.” Vì thế ông ta đọc kinh điển trên ban công nhìn ra sân giảng ngoài trời.

Sau một lát, Ngài Geshe Tonpa nói với ông ta: “Đọc giáo lý cũng là một việc tốt, nhưng thực hành Giáo Pháp chân thực lại không tốt hơn hay sao?”

Một lần nữa, nhà sư suy nghĩ kỹ về điều đó: “Điều này hẳn có nghĩa là thực hành thiền định thì tốt hơn đọc kinh điển.” Do đó ông ta hoãn việc đọc kinh và bắt đầu dùng thời gian để ngồi trên giường với đôi mắt nhắm hờ.

Một lần nữa, Ngài Tonpa nói với ông ta: “ Thiền định là một việc tốt, nhưng thực hành Giáo Pháp chân chính không tốt hơn hay sao?”

Bị bí lối, nhà sư kêu lên: “Ngài Geshe tôn kính, vậy con nên làm gì để thực hành Giáo Pháp?”

“Tu sĩ đáng kính,” Ngài Geshe trả lời, “hãy từ bỏ đời này! Hãy từ bỏ đời này!”

Chính mọi hoạt động tầm thường và những lo toan bị giới hạn vào các mối quan tâm của cuộc đời này đã ngăn trở chúng ta không thoát khỏi những cảnh giới đau khổ của luân hồi, bây giờ và mãi mãi. Nếu xa rời một vị Thầy chân chính, thì không ai khác có thể thực sự chỉ dạy cho ta điều gì phải làm để chặt đứt sợi dây neo cột chặt chúng ta vào cuộc đời này để đạt được giác ngộ trong những đời tương lai của ta. Hãy bỏ lại đằng sau tất cả những mối bận tâm của cuộc đời này – thân quyến và bạn bè, bầu bạn và những người thân yêu, thực phẩm, của cải và tài sản - giống như nhổ nước bọt.* Hãy bằng lòng với bất kỳ thực phẩm và quần áo nào có thể đến với bạn, và hoàn toàn hiến mình cho Giáo Pháp. Ngài Padampa Sangye nói:

 

Vật chất thì giống như mây mù; đừng bao giờ nghĩ rằng chúng có thể kéo dài.

Sự mến mộ giống như một tiếng vang; chớ có đeo đuổi sự kính trọng, hãy đi theo thật tánh của nó.

Quần áo đẹp giống như những màu sắc trong một cầu vồng; hãy ăn mặc đơn giản và chuyên tâm thực hành.

Thân thể này của ta là một cái bao chứa máu; mủ và dịch chất; đừng yêu quý nó.

Ngay cả những bữa ăn ngon lành cũng biến thành chất phẩn; đừng quá coi trọng miếng ăn.

Các hiện tượng xuất hiện trong những kẻ thù; hãy sống trong ẩn thất hay núi non.

Những cay gai tri giác hư huyễn xé rách tâm thức; hãy kinh nghiệm chúng có bản tánh bình đẳng.**

Mọi tham dục và mong cầu đều phát xuất từ chính bạn; hãy gìn giữ bản tánh đích thực của tâm.

Viên ngọc quý báu nhất ở ngay trong bạn; đừng mong mỏi thực phẩm và của cải.

Nói nhiều chỉ đem lại những tranh cãi; hãy hành động như thể bạn bị câm.

Tâm có năng lực tự nhiên của nó,[67] đừng chạy theo tiếng gọi của bao tử bạn.

Những ân phước xuất hiện từ tâm; hãy cầu nguyện tới lạt ma và bổn tôn của bạn.

Nếu bạn ở một nơi nào quá lâu; bạn sẽ phê phán ngay cả Đức Phật, chớ ở lâu bất kỳ nơi đâu.

Bạn phải hành động khiêm tốn; hãy từ bỏ trạng thái kiêu căng.

Bạn sẽ không ở đây lâu; giờ đây hãy thực hành đừng chậm trễ.

Bạn giống như một lữ khách trong cuộc đời này; đừng xây một toà lâu đài ở nơi bạn chỉ lưu lại một lát.

Chẳng hành động nào đem lại ích lợi; hãy đặt thành tựu nơi sự thực hành.

Bạn chẳng thể nào biết được khi nào thân bạn trở thành mồi cho dòi bọ hay hoàn toàn biến mất; chớ bị phóng tâm bởi những hiện tượng của cuộc đời này.

Bạn bè và thân quyến giống như những con chim nhỏ trên cành; đừng vướng mắc với họ.

Niềm tin chắc chắn giống như một nền tảng tuyệt vời; đừng bỏ lại nó trong đống rác cảm xúc bất thiện.

Thân người này thì như một viên ngọc như ý quý giá, chớ trao nó cho kẻ thù của bạn, là sự thù hận.

Samaya giống như một tháp canh;[68] đừng làm nhiễm ô nó với những lỗi lầm.

Trong lúc vị Đạo Sư Kim Cương vẫn ở trong bạn; đừng để Giáo Pháp bị cuốn trôi vào sự biếng lười.

 

Để thực sự sự thực hành và kinh nghiệm Giáo Pháp, điều quan trọng là bạn phải nhận ra rằng mọi sự trong luân hồi thì hoàn toàn vô nghĩa biết bao. Cách duy nhất để phát triển nhận thức đó là sự thiền định về những khiếm khuyết của luân hồi này. Hãy quán chiếu về nó cho đến khi bạn xác tín sâu xa rằng vòng luân hồi thì ngập tràn đau khổ.

Dấu hiệu cho thấy sự thiền định đã thật sự bén rễ trong bạn là cảm thấy giống như Geshe Langri Thangpa. Một ngày nọ, một trong những thị giả thân cận với Ngài: “Người ta gọi Ngài là Langri Thangpa Mặt Sầu Não” (Langri Thangpa Tang-diện).

“Làm sao mặt ta có thể tươi sáng và vui vẻ khi ta nghĩ về mọi nỗi khổ trong ba cõi luân hồi được?” vị Geshe trả lời.

Người ta nói rằng Ngài Langri Thangpa chỉ từng cười có một lần. Ngài thấy một con chuột đang cố di chuyển một viên lam ngọc trên mandala (mạn đà la) của Ngài. Nhưng một mình nó không thể nhấc nổi viên ngọc, nên nó gọi: “Tsik!tsik!” và con chuộc khác chạy đến. Một con đẩy viên ngọc trong khi con kia kéo. Điều này khiến Ngài Langri Thangpa mỉm cười.

Sự thiền định về những đau khổ của luân hồi là nền tảng và vật hổ trợ cho mọi phẩm tính tốt của con đường. Nó xoay chuyển tâm trạng bạn hướng về Pháp. Nó cho bạn sự xác tín vào luật nhân quả trong tất cả những hành vi của bạn. Nó khiến bạn quay lưng lại với những mục đích của cuộc đời này. Và nó khiến bạn cảm nhận lòng từ và bi đối với tất cả chúng sanh.

Chính Đức Phật trong những giáo lý thuộc ba lần chuyển Pháp luân, khi chỉ rõ tầm quan trọng của việc nhận diện sự đau khổ, đã bắt đầu bằng những lời sau: “Hỡi các tu sĩ, cuộc đời này là đau khổ.”

Hãy đưa nó vào thực hành cho tới khi bạn hoàn toàn tin tưởng và xác quyết về nó.

 

Nhìn thấy luân hồi đau khổ, nhưng con vẫn còn khao khát nó.

Sợ hãi vực thẳm của những cõi thấp, nhưng con tiếp tục làm điều sai trái.

Xin ban phước cho con và những kẻ lạc lối như con

Để chúng con có thể thành thật từ bỏ những đa đoan của cuộc đời này.


 

[48] Theo truyền thống th2i những thân tướng thuộc thiên giới này được xem là nơi an trú của những hiện thể thuộc các cõi trời nào đó mà người thường không thể thấy được.

* Một đơn vị đo lường xưa được đặt tên sau thành phố Kosala của Ấn Độ (gần Ayodhya hiện tại).

[49] Dkor za ba thường có nghĩa là sự sử dụng nguồn tài chính được hiến cúng bởi niềm tin, với ý nghĩa đặc biệt là sử dụng chúng không đúng đắn. Đôi khi nó ám chỉ việc những người đang ở một địa vị quyền thế lạm dụng của cải của chung như tài sản một quốc gia.

[50] Ở đây ngữ (ngag) ám chỉ năng lực vi tế của ngữ. Nó là phương tiện để biểu lộ âm thanh của các thần chú và có thể có năng lực chữa lành, làm an bình (tức tai), hàng phục…khi được thực hiện bởi một người có sự tu tập tâm linh nào đó hoặc một loại nghiệp đặc biệt.

* Điều này được giải thích trong chương theo sau.

[51] Pháp sư ném mạnh những vật tượng trưng khác nhau vào họ, chẳng hạn như những torma, hạt mù tạt, hay bột, là những thứ mà các ngạ quỷ nhận thức là các vũ khí tiêu diệt thân thể họ.

[52] Các naga là một loạit chúng sanh sống dưới mặt đất và có năng lực phi thường. Mặc dù giống như những tinh linh, chúng vẫn được xếp loại cùng các súc sanh vì thân chúng giống như rắn. Xin xem Thuật ngữ: “garuda”

[53] Thành gnữ ‘du byed kyi sdug sngal mà chúng tôi đã dịch là  “nỗi khổ của mọi sự phức hợp” được giải thích như sau: rggu rkyen ‘du byed nas sdug sngal ‘byyung, “khi nguyên nhân và những hoàn cảnh cùng tụ hội thì sự đau khổ xuất hiện.” Nó được coi là nguồn gốc của hai loại đau khổ căn bản khác và được mô tả là khyab pa, có mặt khắp nơi hay toàn khắp, trong vòng sinh tử luân hồi.

* Trà và tsampa, lúa mạch nướng được xay mịn thành bột, là những thực phẩm chính khắp xứ Tây Tạng. Trà Tây Tạng được khuấy với sữa và bơ và được dùng thường xuyên suốt ngày. Tsampa được hoà trộn với trà để làm thành một món ăn lập tức.

[54] Những kiểu sinh ra chính yếu khác xảy ra một cách khác biệt trong sáu cõi là sinh ra từ trứng (noãn sanh), sinh ra từ hơi nóng và sự ẩm ướt (thấp sanh), và sự sanh ra kỳ diệu (hoá sanh).

[55] Đây là những cách dịch gần đúng với những thuật ngữ kỹ thuật được dùng trong y khoa Tây Tạng đối với những giai đoạn trong năm tuần đầu của sự phát triển bào thai thời kỳ trứng nước.

[56] Las kyi rlung: sức mạnh của những hành vi trước đây, chúng thúc đẩy toàn bộ tiến trình của luân hồi.

[57] Một tấm kim loại có đục một lỗ qua đó kim loại được kéo thành dây.

[58]Ở Tây Tạng, bơ được thoa trên đỉnh đầu trẻ sơ sinh để làm cái thóp mau đóng lại. Mặc dù việc này được coi như có lợi cho sức khoẻ của nó, nhưng trẻ sơ sinh nhạy cảm tới nỗi những năng lực vi tế của thân nó bị kích động.

[59] Giống như trong những nền văn hoá đông phương khác, đối với người Tây Tạng thì việc bước qua đầu (hay thân) một người nào là điều hết sức sỉ nhục và là một nguồn nhiễm ô. Đối với những hành giả Kim Cương thừa thì đó là sự thiếu tôn kính mạn đà la của thân, là cái tì thiêng liêng. Tuy nhiên, với một yogi đã chứng ngộ sự thanh tịnh tối hậu của mọi hiện tượng trong lẽ tuyệt đối thì tất cả những loại kinh nghiệm có cùng mùi vị của tánh Không.

* Đây là một cách dịch thoát từ Ja’khor, một cách đo lường tương đương với bốn bánh trà Tây Tạng được ép chặt

* Trong các nền văn hoá truyền thống Á Châu, cô dâu về nhà chồng cùng với của hồi môn của mình, nối kết với gia đình chồng. Nếu cuộc hôn nhân đổ vỡ, cô sẽ trở về nhà cha mẹ mình.

* Các tác giả Tây Tạng thường tự ám chỉ mình với sự cực kỳ khiêm tốn trong các nói này.

[60] Las kyi sa ba, một nơi mà sức mạnh của nghiệp mãnh liệt hơn và những hậu quả của nó được cảm nhận mạnh mẽ hơn, và trong một vài trường hợp, sẽ xảy ra sớm hơn. Trong bốn châu lục trong thế giới thuộc vũ trụ học truyền thống, thì đặc biệt là trong châu Jambudvipa (Diêm Phù Đề), các hành vi sinh ra những hậu quả mạnh mẽ, và trong đó những kinh nghiệm cá nhân có thể thay đổi nhiều hơn. Cư dân của những châu lục khác thì thường kinh nghiệm kết quả của những hành vi trong quá khứ hơn là tạo ra những nguyên nhân mới. Những kinh nghiệm và thọ mạng của họ thì cố định hơn.

[61] Nếu chúng ta không bị những thuận cảnh đánh lừa, mà nhận ra rằng chúng chỉ có tính xác thực theo mức độ ta chấp nhận chúng, những hoàn cảnh này có thể thành một trợ lực giúp cho việc thiền định của chúng ta tiến bộ thay vì tạo nên những tham luyến sẽ gây chướng ngại cho ta.

[62] Chính nhờ quan sát những vị Thầy cả tốt lẫn xấu mà ta có thể nhận chân được những vị Thầy tốt. Việc quan sát những hành giả tốt và xấu giúp ta học được cách thức tự mình hành xử.

[63]Cũng như cách các hiện tượng bên ngoài xuất hiện và biến mất vào không gian, những hiện tượng của tâm khởi lên từ bản tánh tâm (sems nyid) và tan hoà lại trong nó. Chúng không có thực tại độc lập.

[64]Cõi Thiên được mô tả một phần bởi các đặc tính là không có sự giận dữ và thù ghét. Vì thế ở đây, để có thể chiến đấu, chư Thiên trong cõi Trời Ba Mươi Ba đi đến một khu rừng huyền bí, ở đó họ trở nên hung hăng, thích gây hấn.

[65] Cõi sắc và vô sắc. Xem thuật ngữ “tam giới.”

[66] Nghĩa đen: “năm cõi:” một cách phân biệt khác của sáu cõi với chư thiên và a tu la nhập làm một.

* Kiểm soát các căn có nghĩa là không cho phép mình bị cám dỗ bởi những đối tượng của các giác quan.

** Hình vẽ này thường được thấy ở cổng vào các ngôi chùa Tây Tạng.

* Điều muốn nói ở đây (được nói rõ trong những chương khác) không phải là một sự chối bỏ các trách nhiệm của ta đối với cha me, con cái v.v.. nhưng là một sự chuyển hoá sự tham luyến và định kiến bị giới hạn đặt nền trên bản ngã thành một lòng từ ái chân thực cũng trải rộng cho mọi chúng sinh.

** Đứng về mặt tuyệt đối thì mọi tri giác đều có cùng một bản tánh, đó là tánh Không.

[67] Las su ‘char ba. Chúng tôi nhận được nhiều giải thích khác nhau của thành ngữ này. Chúng tôi đã dịch nó theo cách giải thích của Ngài Dilgo Khyentse Rinpoche là tương đương với las su rung ba, thích hợp hay có thể thực hiện được.

[68] giống như một tháp canh giữ một vai trò hết sức quan trọng yếu trong một trận chiến để quan sát kẻ địch và dành chiến thắng, samaya (xem Thuật ngữ) là điều cốt yếu trong Mật Chú Thừa để tránh các chướng ngại và đạt được Phật Quả.

 

 

----o0o---

 

Mục Lục > 1-1 > 1-2 > 1-3 > 1-4> 1-5 >1-6

 2-1 > 2-2 > 2-3 > 2-4 > 2-5 > 2-6 > 3-1

 

----o0o---

Vi tính: Tường Tâm

Trình bày: Diệu Tường

Cập nhật: 01-2008

Nguồn: www.quangduc.com

Về danh mục

chùa sơn thủy hay nhin sau vao cuoc song nhu no dang la ly Âm hÓi ngôi chùa quan trọng bậc nhất thái lan co tinh yeu nao hon tinh yeu cua cha va me Mất hay danh lua trai tim cua ban Phật giáo ngay song Nhiều 不空羂索心咒梵文 phap vuong mong co ve tham thoi hau cong san phan chủ quan và lạc quan chùa sắc tứ tịnh quang ky Tổ ト妥 LÃ di tích lịch sử tỉnh khánh hòa chum tho bong xa muon phien cua thay nghiem 五痛五燒意思 thực tập thiền mang lại lợi ích như Hương cốm ngày xuân mười điều chớ vội tin theo lời phật tai san theo quan he nhan qua tu tap the nao de tranh tau hoa nhap ma den Hai Ngôi cẩn vô minh trong cõi ta cáo Đổi Tăng cường sức khỏe hằng ngày trong giả tat 真言宗金毘羅権現法要 Gỏi cuốn chùa châu quang Phiền Ông Bụt khóc Má i 泰卦 thuy sam Ä Ã Con triết tien trinh tao nen dau kho dầu Thạch dưa hấu đỏ đón Tết cùng mạ Nằm à Ăn chay để làm giảm sự nóng lên toàn G i gioi phat giao trong thoi dai khoa hoc cành テ ngài Suy nhược tinh thần Suy nhược tinh thần làm tăng nguy cơ van phat nguyen sam hoi Thoát