LỜI VÀNG CỦA THẦY TÔI

Nguyên Tác: O-rgyan-'jigs-med-chos-kyi-dban-po

(Kunzang Lama'i Shelung)

Bản dịch Anh ngữ: The Words of my Perfect Teacher/Patrul Rinpoche

Của Nhóm Dịch thuật Padmakara

Nhà Xuất bản Shambhala

Bản dịch Việt ngữ: Nhóm Longchenpa 2004

----o0o---- 

PHẦN I

NHỮNG CHUẨN BỊ THÔNG THƯỜNG HAY BÊN NGOÀI

-------------------

 

CHƯƠNG BỐN

CÁC HÀNH VI:* LUẬT NHÂN QUẢ

 

Ngài từ bỏ việc xấu và làm việc thiện, như trong giáo lý về nhân quả.

Hành động của Ngài đi theo sự phát triển của các Thừa.[69]

Nhờ cái thấy viên mãn, Ngài thoát khỏi mọi bám chấp.

Bậc Thầy Vô song, con đảnh lễ dưới chân Ngài. 

Thái độ giảng giải và nghiên cứu chương này thì tương tự như đối với những chương khác. Chủ đề được giải thích dưới ba mục: hành động tiêu cực là những điều nên tuân theo; và sự hoàn toàn-quyết định tính chất của các hành vi.

 

  1. NHỮNG HÀNH ĐỘNG TIÊU CỰC PHẢI TỪ BỎ

Điều khiến cho chúng ta phải tái sanh trong những cõi cao hay thấp của sự luân hồi làhành vi thiện hay ác mà bản thân chúng ta đã tích tập. Bản thân của luân hồi được sinh ra bởi các hành vi, và bao gồm tất cả những kết quả của hành vi – và không có điều gì khác đưa chúng ta vào những cảnh giới cao hay thấp. Nó cũng chẳng phải hoàn toàn là sự ngẫu nhiên. Vì thế, vào mọi lúc, chúng ta nên luôn luôn khảo sát những hậu quả của hành động tích cực và tiêu cực; và cố tránh mọi điều xấu và làm những điều tốt.

 

  1. Mười hành vi bất thiện nên tránh

Ba hành vi (trong số mười hành vi bất thiện) là những hành vi thuộc về thân: sát sanh, lấy những gì không được cho, và tà dâm (quan hệ tình dục bất chánh); bốn hành vi thuộc về khẩu: nói dối, gieo mối bất hoà, nói cay nghiệt, và nói chuyện phiếm vô ích; ba hành vi thuộc về ý; tham muốn, muốn làm tổn hại người khác, và quan điểm sai lạc (tà kiến). 

1.1  SÁT SANH

Sát sanh có nghĩa là cố ý làm bất cứ điều gì để kết thúc cuộc đời của chúng sanh khác, dù là người , súc vật hoặc bất kỳ sinh linh nào khác.

Người lính giết kẻ địch trong chiến trận là một ví dụ của việc sát sanh vì thù hận (sân). Việc giết một con thú hoang để ăn thịt hay lấy da của chúng làm y phục là sát sanh bởi lòng tham. Giết mà không biết hậu quả là đúng hay sai – hay như những tirhika tin rằng đó là một việc đức hạnh – là sát sanh bởi sự vô minh (si).

Có ba trường hợp sát sanh được gọi là những hành vi có quả báo tức thời, vì chúng dẫn đến sự tái sanh lập tức trong địa ngục Đau Khổ Tột Cùng mà không kinh qua trạng thái trung ấm, đó là giết cha, giết mẹ, và giết một vị A La Hán.[70]

Một số trong chúng ta, nghĩ rằng chỉ phạm tội sát sanh khi có hành vi giết hại cụ thể bằng chính đôi bàn tay mình nên có thể tưởng rằng mình vô tội mỗi khi sát sanh. Nhưng ngay tự khởi đầu thì không một ai, dù cao hay thấy, mạnh mẽ hay yếu đuối lại chưa từng phạm lỗi đạp chết vô số côn trùng dưới chân khi dạo bước.

Đặc biệt hơn, những lạt ma và tu sĩ tới thăm nhà các tín chủ được dâng cúng máu và thịt của thú vật bị giết và nấu nướng cho họ, và vì mùi vị của thịt hấp dẫn họ tới nỗi họ ngấu nghiến món ăn với sự khoái trá mà không có chút xíu ân hận hay thương xót nào đối với những con vật bị giết. Trong những trường hợp như vậy, hậu quả ác nghiệp của người sát sanh sẽ đổ xuống cả chủ lẫn khách không hề có sự khác biệt.

Khi những nhân vật quan trọng và viên chức chính quyền đi du hành, dù họ đi tới đâu thì cũng có vô số súc vật bị giết để tổ chức những buổi tiệc-trà và tiệc chiêu đãi của họ. Những người giàu có theo thói quen giết vô số súc vật. trong tất cả gia súc, ngoại trừ con vật dư ra ở đây đó, họ không để chúng chết tự nhiên mà giết thịt từng con theo tuổi. Hơn nữa, trong mùa hè, chính những trâu bò và cừu này khi ăn cỏ lại giết hại vô số côn trùng, ruồi, kiến và thậm chí cả cá con và ếch nhái khi nuốt cỏ, nghiền nát dưới bộ móng hay làm chúng bị tràn ngập trong phân. Hậu quả của ác nghiệp của tất cả hành động này sẽ xảy ra tới với chủ nhân con vật. Nếu so sánh với ngựa, trâu bò và những loại gia súc khác thì cùu là một nguồn đặc biệt gây nhiều tổn hại. Khi chúng ăn cỏ, chúng nuốt tất cả sinh vật nhỏ - ếch, rắn, chim con, v.v.. Khi xén lông vào mùa hè, hàng trăm ngàn sinh vật sống trên mỗi bộ lông cừu đều bị chết. Lúc sanh đẻ vào mùa đông, không tới phân nữa cừu con được giữ lại, còn bao nhiêu đều bị giết khi vừa sanh ra. Cừu mẹ được dùng để lấy sữa và sinh sản cho tới khi chúng quá già và suy kiệt, lúc đó chúng bị giết để lấy thịt và da. Và không một con cừu đực nào, dù có bị thiến hay không, tới lúc trưởng thànhmà không bị giết ngay lập tức. Nếu cừu có rận thì hàng triệu chấy rận trên mỗi con cừu sẽ bị chết đồng loạt. Bất cứ ai sở hữu một bầy cừu một trăm con hay nhiều hơn nữa có thể được bảo đảm sẽ tái sanh ít nhất một lần trong địa ngục.

Trong mỗi đám cưới, vô số cừu bị giết khi của hồi môn được gửi đi, lúc tiễn cô dâu về nhà chồng, và khi cô dâu được cha mẹ chồng đón nhận. Sau đó mỗi khi cô dâu trẻ về thăm gia đình, chắc chắn những súc vật khác sẽ bị đem giết . Nếu bạn bè và thân quyến mời cô ra và phục vụ cô bất cứ thứ gì trừ món thị thì cô sẽ làm ra vẻ lúng túng ăn không ngon miệng và ăn với vẻ khinh khỉnh như thể cô đã quên cách nhai.[71] Nhưng nếu giết một con cừu mập và đặt phần thịt vú và bộ lòng trước mặt cô, thì cô sẽ ngồi xuống thật trịnh trọng như một con quỷ mặt đỏ, lôi con dao nhỏ ra, cô nuốt chửng cả miếng thịt kèm theo những cái chắp môi. Ngày hôm sau cô lên đường, và như thể một người thợ săn trở về nhà buông phịch xác thú đầy máu me xuống – nhưng còn tệ hơn, mỗi khi ra đi, chắc chắn chẳng khi nào cô về với tay không.

Trẻ con cũng gây ra vô số cái chết cho súc vật trong lúc, chơi đùa, dù chúng có biết điều đó hay không. Chẳng hạn trong mùa hè, chúng giết nhiều côn trùng chỉ bằng cách dùng một cành liễu hay một cái roi da đập xuống mặt đất kh chúng đi dọc theo đường.

Như vậy trong thực tế, tất cả loài người chúng ta dùng toàn bộ thời gian của mình để sát sanh, giống như những yêu quái. Thực thế - hãy xem làm cách nào chúng ta giết trâu bò của mình để thưởng thức thịt và máu của chúng trong khi chúng đã dành toàn bộ cuộc đời để phục vụ và nuôi dưỡng chúng ta bằng sữa như thể chúng là mẹ của chúng ta – chúng ta còn tệ hơn bất kỳ thứ quỷ ma nào.

Hành vi lấy đi mạng sống được hoàn tất khi nó bao gồm bốn yếu tố của một hành vi tiêu cực. Hãy lấy ví dụ về một người thợ săn giết một con dã thú. Trước hết, ông ta thấy một con nai thực sự, hay hươu xạ, hoặc bất kể con vật nào, và nhận rõ chúng không chút nghi ngờ: việc nhận biết nó là một sinh vật chính là căn bản cho sự hành động. Kế đó, ước muốn giết con thú phát khởi; ý tưởng giết con thú là ý định để thực hiện hành vi. Sau đó ông ta bắn vào điểm nhược của con vật bằng một khẩu súng, bằng cung tên hay bất kỳ vũ khí nào khác: hành động giết hại của thân là sự ngừng dứt, sự nối kết giữa thân và tâm của nó bị tách lìa: đó là sự hoàn tất cuối cùng của hành vi sát sanh.

Một ví dụ khác: theo yêu cầu của chủ, người đồ tể giết một con cừu được nuôi để lấy thịt. Trước tiên, chủ nhà bảo người hầu hay người hàng thịt giết một con cừu. Căn bản là ông ta biết rằng có một sinh vật bị liên quan - một con cừu. Ý định, ý tưởng giết con vật, thì hiện diện ngay khi ông ta quyết định con cừu này hay con cừu kia sẽ bị giết. Sự thực hiện của hành vi sát sanh thực sự xảy ra khi người đồ tể sắp sửa giết, vật nó ngã ngửa, cột bốn chân lại với nhau bằng những sợi dây da và buộc một sợi thừng quanh mõm cho tới khi nó chết ngạt. Con vật ngừng thở trong sự đau đớn dữ dội của sự dãy chết, đôi mắt trợn trừng của nó ngả màu hơi xanh, kéo mây và trào lệ. Thân nó bị kéo ra khỏi nhà và giai đoạn cuối cùng, sự chấm dứt đời sống của nó, đi tới sự hoàn tất. Không để phí chút thời gian nào, con vật bị lột da bằng một con dao, thịt nó vẫn đang rung động vì “năng lực toả-khắp”* chưa đủ thời gian để lìa khỏi xác; như thể con vật vẫn còn sống. Ngay lập tức nó được nướng trên một ngọn lửa và nấu trên bếp lò, rồi được mang ra ăn. Khi bạn nghĩ về nó, những con vật như vậy bị ăn thịt trong thực tế vẫn còn tiếp tục, và loài người chúng ta thì không khác gì những con thú săn mồi.

Giả sử hôm nay bạn có ý định giết một con vật, hoặc bạn nói rằng sẽ giết, nhưng không thực sự làm điều đó. Như thế là đã có căn bản, sự hiểu biết rằng đó là một chúng sanh, và ý định, ý tưởng giết hai con vật. Do đó, hai trong các yếu tố của hành động tiêu cực đã được thực hiện, và mặc dù sự tác hại ít nặng nề hơn so với việc bạn hoàn thành hành vi sát sanh trong thực tế, nhưng giống như sự phản chiếu trong một tấm gương, dấu vết của một hành động tiêu cực vẫn tồn tại.

Một số người tưởng rằng chỉ có những ai sử dụng thân thể để thực hiện việc sát sanh mới tạo ra hậu quả của ác nghiệp, còn người chỉ ra lệnh thì không – hay nếu có tạo thì cũng chỉ tạo ra một ít hậu quả mà thôi. Nhưng bạn nên biết rằng nghiệp quả xảy đến với mọi người có liên quan đều như nhau, ngay cả với những người chỉ cảm thấy vui thích về điều đó – do đó chẳng cần phải bàn tới người thực sự ra lệnh việc sát sanh được thực hiện. Mỗi người nhận toàn bộ nghiệp quả của việc giết một con vật. Không thể có việc một hành động sát sanh có thể được chia cho nhiều người.

 

1.2 LẤY NHỮNG GÌ KHÔNG ĐƯỢC CHO 

Việc lấy những gì không được cho có ba loại: lấy bằng võ lực, lấy bằng ăn trộm lén lút và lấy bằng thủ đoạn gian trá.

Lấy bằng võ lực. Cũng gọi là lấy bằng sự áp chế, điều này có nghĩa là sự chiếm đoạt mạnh bạo của cải hay tài sản bởi một cá nhân có quyền lực như một vị vua không có lợi hợp pháp với những tài sản này. Nó cũng bao gồm sự cưỡng đoạt bởi sức mạnh của một số người ví dụ như quân đội.

Lấy bằng sự trộm cắp. Điều này có nghĩa là lấy của cải vật chất một cách bí mật, giống như một kẻ trộm ban đêm không bị chủ nhân bắt gặp.

Lấy bằng thủ đoạn gian trá. Là lấy tài sản của người khác, ví dụ trong giao dịch mua bán, bằng cách nói dối người khác, dùng cân và những dụng cụ đo lường sai lạch hay dùng thủ đoạn lừa bịp khác.

Ngày nay, chúng ta nghĩ rằng trong lãnh vực kinh doanh và những phạm vi khác, việc lừa lọc hay dùng thủ đoạn để lấy những thứ gì đó của người khác thì không có bất kỳ sai trái nào miễn chúng ta không có công khai trộm cắp. Nhưng trong thực tế, bất kỳ lợi nhuận nào chúng ta có thể tạo ra bằng cách lừa gạt người khác đều không khác với sự ăn cắp công khai.

Đặc biệt là ngày nay, các Lạt ma và Tu sĩ thấy rằng không có tổn hại hay sai lầm nào trong việc làm kinh doanh; quả thực họ tiêu tốn toàn bộ cuộc đời vào công việc đó, và cảm thấy hơi tự hào về năng lực thành thạo của họ. Tuy nhiên, không có gì làm suy yếu tâm lực của một Lạt ma hay Tu sĩ hơn việc kinh doanh. Bị choáng ngợp trong những việc giao dịch, ông ta ít cảm thấy có khuynh hướng theo đuổi sự nghiên cứu hay làm việc để tịnh hoá những che chướng của mình – và dù sao chăng nữa thì cũng chẳng còn sót chút thời giờ nào cho những công việc như vậy. Tất cả thời gian từ lúc thức cho đến khi ngủ của họ bị tiêu tốn mất trong sự mải mê tính toán. Bất cứ ý niệm nào về lòng sùng kính, sự từ bỏ hay lòng bi mẫn đều bị tiệt trừ và sự thường xuyên lầm lạc luôn chế ngự ông ta.

Ngài Jetsun Milarepa đến một tu viện và ngủ đêm trước cửa một căn phòng. Vị Tu sĩ sống trong phòng đang nằm trên giường suy nghĩ về việc làm thế nào để bán thịt con bò mà ông ta dự định sẽ làm thịt vào ngày mai: “Ta sẽ được ngần ấy tiền cho cái đầu, xương vai đáng giá ngần ấy, và thịt vai được chừng ấy, chừng ấy cho giò và cẳng chân.” Ông ta tiếp tục tính toán giá trị của mỗi thứ và từng phần của con bò, bên trong và bên ngoài. Tới rạng sáng, ông ta không chợp mắt được chút nào nhưng đã tiến hành được mọi sự ngoại trừ việc phải hỏi giá cái đuôi. Ông ta lập tức ngồi dậy, hoàn tất những lời sùng mộ và thực hiện những sự cúng dường torma.

Khi đi ra ngoài, ông ta bước ngang qua chỗ Ngài Jetsun vẫn còn ngủ, và mắng nhiếc Ngài một cách khinh bỉ: “Ông xưng là hành giả của Giáo Pháp, mà cho tới giờ này vẫn còn ngủ ở đây! Ông không thực hành hay tụng niệm chút nào hay sao?”

“Tôi luôn mất ngủ như vầy,” Ngài Jetsun Mila trả lời. “tôi vừa thức suốt đêm để nghĩ về cách bán con bò mà tôi sắp giết. Tôi chỉ mới chợp mắt được một chút.” Và như thế Ngài phơi bày những khuyết điểm che dấu của vị tăng, rồi bỏ đi.

Giống như vị Tu sĩ trong truyện này, ngày nay những người mà cả đời chỉ chí thú việc kinh doanh đã dùng cả ngày lẫn đêm hoàn toàn mê đắm trong việc tính toán. Họ bị choáng ngợp trong ảo tưởng, ngay cả khi cái chết đến, họ cũng sẽ chết mà vẫn mê lầm như thế. Ngoài ra, thương mại liên quan đến tất cả những lại hành vi tiêu cực. Người ta có hàng hoá để bán, dù kém tệ trong thực tế, nhưng lại đề cao chất lượng của nó bằng bất kỳ cách nào họ có thể nghĩ ra. Họ nói dối công khai, chẳng hạn như khách hàng này người mua nọ đã trả tới giá nào ra sao, nhưng họ đã từ chối không bán; hoặc lúc ban đầu họ đã mua vào với số tiền lớn như thế nào. Khi cố gắng mua những thứ đang được hai người khác thương lượng, họ dùng đến sự vu khống nhằm kích động sự bất hoà giữa hai bên. Họ dùng những lời lẽ nặng nề để nói xấu hàng hoá của đối thủ cạnh tranh, nhằm dành được những sự hàm ơn hay các thứ tương tự. Họ say mê trong những cuộc trò chuyện vô nghĩa bằng cách đòi hỏi giá cả kỳ cục hoặc mặc cả những thứ mà họ chẳng có ý định mua. Họ ghen tỵ và thèm muốn những thứ thuộc sở hữu của người khác, nỗ lực hết mình để được họ cho những món đó. Họ luôn mong đối thủ của mình bị tổn hại, luôn mong muốn dành được phần tốt hơn của họ.  Nếu họ buôn bán gia súc, họ bị dính mắc trong việc sát sanh. Vì thế trong thực tế việc kinh doanh bao gồm tất cả mười hành động bất thiện, chỉ có thể loại trừ sự tà kiến và tà dâm. Sau đó, khi những việc thương lượng của họ tiến hành không tốt thì cả hai bên đều lãnh phí tài sản, mọi người đều khốn khổ, các thương nhân có thể kết thúc bằng sự thiếu thốn, đem lại tổn thất cho bản thân họ và cả những đối tác. Nhưng nếu họ gặt hái chút ít thành công, thì dù có kiếm lời nhiều đến đâu chăng nữa họ chẳng bao giờ thấy đủ. Ngay cả những người giàu có như Vaisravana vẫn cảm thấy thích thú trong những việc kinh doanh bất chính. Cuối cùng khi cái chết tới gần với họ, họ sẽ đấm ngực trong đau khổ, bởi toàn bộ đời người của họ đã tiêu phí trong những sự mê ám như vậy, là những thứ giờ đây đang trở thành gánh nặng lôi họ xuống các cõi thấp.

Để tích luỹ những ác hạnh vô tận và hoàn toàn làm cho bạn trở nên đồi bại, hư hỏng thì không có gì hữu hiệu hơn việc buôn bán và thương mại. Bạn sẽ thấy bản thân mình luôn luôn nghĩ đến các phương thức đánh lừa người khác, và những hành động nguy hại của bản sinh sôi nảy nở vô tận.

Việc lấy những gì không được cho cũng bao gồm bốn yếu tố làm cho hành động tiêu cực được hoàn tất, chúng đã được giảng rõ. Tuy nhiên, bất cứ sự tham dự nào, dù chỉ là tặng những kẻ đi săn hoặc những tên trộm chút ít thực phẩm giúp cho cuộc hành trình của chúng thì cũng đủ để đem lại cho bạn một phần tương đương với hậu quả của hành vi bất thiện của tội sát sanh và trộm cướp của họ.

 

1.3 TÀ DÂM

Những quy luật sau đây dành cho cư sĩ. Ở Tây Tạng, trong triều đại của vị Vua Pháp Songtsen Gampo, luật pháp đặt nền tảng trên mười hành động tích cực (thập thiện), được lập nên bao gồm những luật lệ cho người thế gian và những giới luật cho cộng đồng tôn giáo. Ở đây, chúng ta đang đề cập tới những sự hạn chế đó trên cách cư xử dành cho người thế gian, là những chủ gia đình, họ nên tuân theo một đạo lý thích hợp. Đối với vai trò Tăng và Ni, họ được đòi hỏi phải tránh những hành vi tính dục nói chung.

Sự tà dâm nghiêm trọng nhất là việc dẫn dắt người khác phá những giới nguyện của họ. Tà dâm cũng bao gồm những hành vi được liên kết với những cá nhân, nơi chốn và hoàn cảnh đặc biệt: sự thủ dâm; những quan hệ tình dục với người đã có gia đình, hay vi phạm với người nào khác; hoặc với người còn độc thân nhưng công khai giữa ban ngày, trong khi đang giữ giới nguyện trai giới một ngày, trong khi bệnh, trong lúc kiệt sức, lúc có thai, trong khi mất một người thân, có kinh nguyệt, đang hồi phục sau khi sanh; ở nơi có sự hiện diện của các biểu tượng vật chất của Tam Bảo; với cha mẹ mình, hay những thành viên khác bị ngăn cấm trong gia đình (họ hàng), trẻ em chưa tới tuổi dậy thì; quan hệ tính dục ở miệng hay hậu môn..

 

1.4 NÓI DỐI 

Sự nói dối có ba loại: những sự nói dối thông thường, sự nói dối nghiêm trọng và những sự nói dối giả làm lạt ma.

Những lời nói dối thông thường. Đó là bất kỳ những phát biểu không chân thật nào, được thực hiện với ý định lừa gạt người khác.

Những lời nói dối nghiêm trọng. Đó là những phát biểu chẳng hạn như: các thiện hạnh thì không đem lại lợi ích và không có hại khi làm các hành động bất thiện, không có hạnh phúc trong các cõi Phật và không có đau khổ trong những cõi thấp, hoặc những lời phát biểu rằng Đức Phật không có các phẩm tính tốt đẹp. Chúng được gọi là những sự nói dối nghiêm trọng bởi không có những lời nói dối nào khác có thể đem lại các hậu quả gây lầm lạc nghiêm trọng hơn.

Những lời nói dối của Lạt ma giả mạo. Đây là tất cả những tuyên bố không thật rằng mình có những phẩm tính và năng lực ví dụ như đã được những Bồ Tát địa, hay có năng lực thấu thị. Ngày nay những kẻ mạo danh lại thành công hơn những vị Thầy chân thực, và tư tưởng cùng những hành vi của mọi người dễ dàng gây ảnh hưởng. Do đó một số người tự xưng là những đạo sư hay thành tựu giả trong nỗ lực lừa gạt người khác. Họ tuyên bố là mình có một linh kiến về một Bổn Tôn nào đó và tổ chức các lễ cúng dường tạ ơn Ngài, hoặc họ thấy một tinh linh và đã trừng trị nó. Thường thì đây chỉ là những lời dối gạt của lạt ma giả mạo, nên hãy thận trọng đừng tin tưởng một cách mù quáng vào những kẻ lừa gạt và bất tài như thế. Bởi có thể nói rằng việc tìm ra được vị thầy chân chính làm ảnh hưởng tới đời này lẫn đời sau, nên tối quan trọng là hãy đặt niềm tin của bạn vào một hành giả của Giáo Pháp mà bạn biết rõ, ngài luôn luôn khiêm tốn, và bản tánh bên trong cùng cách hành sử bên ngoài của Ngài thì tương ứng với nhau.

Nói chung, có những người bình thường có mức độ thấu-thị-giới-hạn-trong-ý-niệm nào đó, nhưng nó không thường hằng, và chỉ có hiệu lực trong một thời gian. Sự thấu suốt thanh tịnh chỉ xảy ra với những bậc đã đạt tới cấp độ siêu việt, vì thế nó cực kỳ khó đạt được.[72]

 

1.5 GIEO MỐI BẤT HOÀ 

Việc gieo mối bất hoà có thể công khai hay bí mật.

Gieo mối bất hoà công khai. Đây là một chiến lược thường dùng của những người nắm quyền. Nó bao gồm việc tạo ra mối bất hoà giữa hai người cùng hiện diện bằng cách công khai kể với một người rằng người kia nói xấu sau lưng anh ta, và tiếp tục diễn tả lại những gì người thứ nhất đã nói hay làm hại người thứ hai – và sau đó có thể hỏi cả hai tại sao hiện giờ vẫn đối xử nhau như thể không có chuyện gì xảy ra giữa họ.

Gieo mối bất hoà bí mật. Điều này có nghĩa là chia rẽ hai người đang rất hoà thuận với nhau bằng cách kể lại cho người thứ nhất sau lưng người thứ hai những điều kinh khủng mà người thứ hai, là người mà người thứ nhất hết sức quan tâm, được cho là đã nói về người thứ nhất.

Trong trường hợp tệ nhất trong việc gieo mối bất hoà là gây mâu thuẫn giữa những thành viên trong Tăng Đoàn. Việc gây nên sự rạn nứt giữa vị Thầy của Mật Thừa và đệ tử của Ngài, hoặc trong nhóm huynh đệ hay tỉ muội tâm linh thì đặc biệt nghiêm trọng.

 

1.6 NÓI CAY NGHIỆT 

Lời nói cay nghiệt là, chẳng hạn như phê bình một cách thô bạo về những khuyết điểm trên thân thể của người khác, công khai gọi người ta là chột, điếc, mù v.v.. Nó bao gồm sự phơi bày những khiếm khuyết che dấu của người khác, lời nói xúc phạm về tất cả mọi thứ và, trong thực tế, bất kỳ những lời nào làm người khác không vui hay không thoải mái, cho dù nói ngọt ngào chứ không cay nghiệt.

Đặc biệt, nói xúc phạm một người trước mặt vị Thầy, một huynh đệ tâm linh, hay một bậc linh thánh làm một lỗi lầm rất nghiêm trọng.

 

1.7 NÓI CHUYỆN PHIẾM VÔ ÍCH 

Nói chuyện phiếm vô ích là nói nhiều mà không có bất cứ mục đích nào: ví dụ, kể lại những gì ta tưởng là Giáo Pháp nhưng thật ra không phải – như nghi lễ của những Bà la môn (Brahmin);[73] hay nói bâng quơ về những chủ đề làm khuấy động sự tham muốn hay sân hận, như kể những chuyện của gái điếm, hát những bài ca dâm dật, hoặc bàn luận về chuyện cướp bóc và chiến tranh. Đặc biệt, làm quấy nhiễu việc cầu nguyện hay trì tụng của người khác bằng cách tuôn ra những lời lẽ vô dụng làm xao lãng họ thì đặc biệt tai hại, bởi nó ngăn cản họ tích tập công đức.

Những mẩu chuyện ngồi lê đôi mách mà thoạt nhìn dường như phát sinh hoàn toàn tự nhiên và tự phát, nhưng khi bạn xem xét kỹ lưỡng hơn, thì được thúc đẩy bởi sự tham dục hay thù hận, và sức nặng của những lỗi lầm sẽ tương xứng với số lượng tham muốn hay sân hận được tạo nên trong tâm bạn hay tâm người khác.

Trong khi bạn đang đọc những lời cầu nguyện hay trì tụng các mantra mà lại trộn lẫn chúng với sự trò chuyện không thích đáng thì sẽ ngăn chặn sự kết trái của chúng, cho dù bạn tụng niệm nhiều tới đâu chăng nữa. Điều này đặc biệt áp dụng cho những loại chuyện tầm phào khác nhau lan truyền trong hàng ngũ Tăng Đoàn. Chỉ một người duy nhất nói chuyện tầm phào là đã có thể làm cho công đức của toàn thể hội chúng bị tiêu huỷ và những hành động đáng khen của các tín chủ và người bảo trợ của hội chúng bị uổng phí.

Trong xứ Ấn Độ cao quý, như một thông lệ, chỉ có những bậc đã đạt được những thành tựu cao nhất và đã giải thoát khỏi tất cả mọi khiếm khuyết gây tổn hại mới có quyền xử dụng quỹ cúng dường cho tăng đoàn và Đức Phật không cho phép một ai khác được làm điều đó. Nhưng ngày nay, người ta chỉ học một hay hai nghi thức Mật Thừa và ngay khi có thể trì tụng chúng là họ bắt đầu sử dụng bất kỳ những vật cúng dường nguy hiểm nào[74] mà họ có thể nhận được. Không nhận những lễ quán đảnh, không trì giữ tất cả các samaya, không tinh thông các giai đoạn phát triển và hoàn thiện, và không hoàn tất những yêu cầu của việc tụng niệm mantra, lại nhận cúng dường bằng cách cử hành những nghi lễ mật thừa - chỉ tụng hát những mantra bí mật một cách qua loa giống như những phù thuỷ đạo Bon – là một vi phạm nặng nề. Sử dụng những của cúng dường nguy hiểm này được so sánh với việc ăn những viên sắc nóng: nếu người bình thường cùng dự phần mà không có quai hàm bằng gan thép của sự hợp nhất hai giai đoạn phát triển và hoàn thiện, thì họ sẽ tự đốt cháy mình và bị huỷ hoại. Như có nói:

Những vật cúng dường nguy hiểm là những lưỡi dao bén chết người;

Tiêu xài chúng đi và chúng sẽ cắt đứt huyết mạch của sự giải thoát. 

Chẳng những không tinh thông hai giai đoạn của sự thiền định, những người như vậy, có thể họ biết chút ít về những ngôn từ của nghi thức, thậm chí cũng không lo tụng niệm chúng một cách đúng đắn. Tệ hơn nữa, vào lúc họ trì tụng thần chú – là phần quan trọng nhất - họ bắt đầu tán gẫu, và thả lỏng một dòng chảy vô tận toàn những chuyện tầm phào ngập đầy những tham vọng và sự kích động trong suốt thời gian được ấn định. Điều này thật tai hại cho chính bản thân họ và cho cả những người khác. Điều tối quan trọng là các tu sĩ và các lạt ma phải từ bỏ loại chuyện phiếm này và tập trung vào việc tụng niệm chú mà không được trò chuyện.

 

1.8       THAM MUỐN 

Sự tham muốn bao gồm tất cả những tư tưởng thèm muốn hay hám lợi, thậm chí những niệm tưởng vi tế nhất, mà chúng ta có thể có đối với tài sản của người khác. Khi suy tưởng rằng sẽ dễ chịu biết bao nếu như những thứ kỳ diệu đó của họ lại thành của mình, chúng ta cứ mơ tưởng được sở hữu chúng, vạch ra những kế hoạch để chiếm được chúng, v.v…

 

1.9       MUỐN LÀM TỔN HẠI NGƯỜI KHÁC 

Điều này ám chỉ tất cả những tư tưởng hiểm độc mà ta có thể có về những người khác. Ví dụ như suy nghĩ với lòng oán ghét hay giận dữ về cách chúng ta có thể làm hại họ; cảm thấy thất vọng khi họ thành công hay phát đạt; mong muốn họ bớt sung túc, bớt hạnh phúc hay bớt tài giỏi; hoặc cảm thấy vui mừng khi những điều khó chịu xảy ra cho họ.

 

1.10     TÀ KIẾN. 

Tà kiến bao gồm quan điểm cho rằng hành vi không tạo ra nghiệp quả, và quan điểm của thuyết hư vô và thuyết vĩnh cửu.

Theo quan điểm hành vi không tạo nghiệp quả, thiện hạnh không đem lợi ích và ác hạnh không gây tổn hại. Quan điểm của chủ nghĩa vĩnh cửu và hư vô bao gồm tất cả những quan điểm khác của những tirthika, mặc dù chúng có thể chia thành ba trăm sáu mươi quan điểm sai lầm hay sáu mươi hai tà kiến, nhưng có thể được tóm tắt thành hai phạm trù của chủ nghĩa vĩnh cửu và hư vô.

Những người theo chủ nghĩa vĩnh cửu tin là có một cái ngã thường hằng và một đấng sáng tạo hiện hữu vĩnh cửu bên ngoài thế giới, chẳng hạn như Isvara hay Vishnu. Những người theo thuyết hư vô tin rằng tất cả sự vật hoàn toàn tự nó xuất hiện và không có những đời quá khứ hay tương lại, không có nghiệp, không có giải thoát và không có sự tự do.[75] Như có nói trong học thuyết của Isvara Đen: 

Sự mặt trời mọc; sự nước chảy xuống,

Sự hạt đậu trò, sự dài dựng đứng và bén nhọn của gai,

Vẻ đẹp của những con mắt ngũ sắc của đuôi công;

Không ai tạo ra chúng, chúng hoàn toàn hiện diện tự nhiên. 

Họ biện luận rằng khi mặc trời mọc ở phương Đông, không ai ở đó làm cho nó mọc. Khi một dòng sông chảy xuống, không ai lái nó đi xuống. Không ai lăn những hạt đậu để làm tất cả chúng thật tròn, hay làm sắc nhọn mọi mũi gai dài và dựng đứng. Không ai vẽ những con mắt đẹp đẽ nhiều màu trên một đuôi công. Tất cả những sự việc này hoàn toàn là như thế bởi bổn tánh của chúng, và vì thế mọi sự trong thế gian này dù thoải mái hay khó chịu, xấu hay tốt - mọi hiện tượng xuất hiện hoàn toàn tự nhiên. Không có nghiệp quả quá khứ, không có những đời trước, không có những đời sau.[76]

Cho rằng những bản văn của những học thuyết như vậy là chân thực và tuân theo chúng, hoặc ngay cả không theo, suy tưởng rằng những lời của Đức Phật, những giáo huấn của vị Thầy của bạn hay những bản văn của những nhà luận giảng uyên bác là sai lạc, và hoài nghi, chỉ trích chúng, tất cả đều được bao gồm trong điều gọi là tà kiến. 

Điều tệ hại nhất trong mười hành động bất thiện là sát sanh và tà kiến. Như có nói:

Không hành vi nào tệ hơn khi lấy mạng sống của người khác;

Trong mười hành vi vô đạo đức, tà kiến là nặng nhất. 

Ngoại trừ chúng sinh trong các địa ngục, không ai không chùn bước trước cái chết hay không ai không coi trọng cuộc đời mình hơn bất kỳ điều gì khác. Thế nên, huỷ diệt một cuộc đời là một hành động bất thiện đặc biệt. Kinh Giáo Pháp Tối Thượng của Hồi Ức Trong Sáng nói rằng ta sẽ phải trả lại bất kỳ mạng sống nào ta đã cướp đi bằng năm trăm đời của riêng ta, và nếu giết một chúng sinh duy nhất ta sẽ phải trải qua một kalpa (kiếp) trung gian trong các địa ngục.

Còn tệ hại hơn nữa nếu trong khi thực hiện một việc công đức mà bạn có thể quan tâm chẳng hạn xây dựng một biểu tượng của Tam Bảo, mà bạn lại làm như một lý do để phạm những ác hạnh như sát sanh. Ngài Padampa Sangye nói:

Xây dựng một vật hộ trì cho Tam Bảo trong lúc gây ra tổn hại và đau khổ

Là ném đời sau của bạn vào trong gió. 

Cũng sai lầm, tà vạy nếu nghĩ rằng bạn đang làm điều đáng ca ngợi khi giết súc vật và dâng cúng thịt và máu chúng cho các lạt ma được mời tới nhà bạn hay dâng cúng những món này cho một hội chúng các tu sĩ. Hậu quả của ác nghiệp xảy tới với cả người cho lẫn người nhận. Người cho, mặt dù cung cấp thực phẩm, đang tạo ra một vật cúng dường bất tịnh; người nhận đang chấp thuận thực phẩm không thích hợp. Bất kỳ kết quả tốt nào cũng đều bị lấn át bởi hậu quả tiêu cực (lợi bất cập hại). Quả thực trừ khi bạn có năng lực hồi sinh lập tức các nạn nhân của bạn, còn thì không có tình huống nào mà hành vi sát sanh không làm ô uế bạn như một hành vi bất thiện. Bạn cũng có thể được đoan chắc rằng nó sẽ làm tổn hại cuộc đời và những hoạt động của vị Thầy.78 Nếu bạn không có khả năng chuyển đi tâm thức chúng sanh đến trạng thái cực lạc, bạn nên thực hiện mọi nỗ lực để tránh lấy đi mạng sống của họ.

Nếu bạn có tà kiến, cho dù chỉ trong một khoảng khắc, điều ấy sẽ phá vỡ tất cả các giới nguyện của bạn và bạn tự loại mình ra khỏi cộng đồng Phật tử. Nó cũng phủ nhận sự tự do trong cuộc sống làm người để thực hành Giáo Pháp. Từ giây phút tâm thức bạn bị những tà kiến làm nhiễm ô, thì ngay cả những việc tốt mà bạn làm cũng không dẫn tới giải thoát được và những việc xấu bạn phạm cũng chẳng thể sám hối được nữa.79

 

2.  Những hậu quả của mười hành động bất thiện 

Mỗi hành vi tiêu cực sinh ra bốn loại nghiệp quả: kết quả hoàn toàn chín mùi, kết quả tương tự với nguyên nhân, kết quả được quy định, kết quả phát sinh nhanh chóng.

 

2.1 KẾT QUẢ HOÀN TOÀN CHÍN MÙI80 

Sự vi phạm bất kỳ một trong mười ác hạnh trong khi bị thúc đẩy bởi sự sân hận sẽ gây nên sự tái sanh trong các địa ngục. Sự vi phạm bởi tham dục sẽ đoạ vào cõi ngạ quỷ, vi phạm vì vô minh sẽ đoạ vào cõi súc sinh. Một khi bị tái sanh trong những cõi thấp này, chúng ta phải trải qua những đau khổ đặc biệt ở đó.

Ngoài ra, một thôi thúc rất mạnh mẽ - tham, sân hay si cực kỳ dữ dội – thúc đẩy cho một sự tích tập dài lâu và liên tục những hành động, sẽ gây ra sự tái sanh trong các địa ngục. Nếu sự thôi thúc bớt mạnh và các hành động giảm thiểu đi, nó gây ra tái sanh làm một ngạ quỷ; nếu còn ít hơn nữa sẽ tái sanh làm một súc vật.

 

2.2 KẾT QUẢ TƯƠNG TỰ VỚI NGUYÊN NHÂN 

Ngay cả cuối cùng khi chúng ta thoát khỏi cõi thấp mà ở đó kết quả hoàn toàn chín mùi đã khiến cho chúng ta được sanh vào và có được một thân người, nhưng chúng ta vẫn tiếp tục kinh nghiệm kết quả tương tự với nguyên nhân. Thật vậy, trong các cõi thấp cũng có nhiều loại đau khổ khác nhau tương tự với những nguyên nhân đặc biệt. Những kết quả tương tự với nguyên nhân này có hai loại: những hành vi tương tự với nguyên nhân và những kinh nghiệm tương tự với nguyên nhân.

 

2.2.1 Những hành vi tương tự với nguyên nhân 

Kết quả này là một xu hướng cho những hành vi cùng loại là nguyên nhân lúc ban đầu. Nếu trước đó chúng ta từng sát sanh thì chúng ta vẫn còn thích giết hại; nếu chúng ta từng ăn trộm, chúng ta vẫn thích thú khi lấy những gì không được cho; và v.v…điều này giải thích lý do tại sao, chẳng hạn như những người nào đó ngay từ lúc còn rất nhỏ đã giết mọi côn trùng và ruồi muỗi mà họ nhìn thấy. Một thiên đường sát sanh như thế tương ứng với những hành vi tương tự đã được thực hiện trong các đời trước của họ. Từ khi mới lọt lòng, mọi người chúng ta hành động hoàn toàn khác biệt nhau, bị dẫn dắt bởi những thôi thúc nghiệp lực khác nhau. Một số thích giết hại, một số thích ăn trộm, trong khi những người khác lại không cảm thấy ham thích những hành vi như thế và thay vào đó họ thích làm việc thiện.

Tất cả những khuynh hướng như vậy là những gì còn lại của những hành động trước kia, hay nói khác đi là kết quả tương tự với nguyên nhân. Đó là điều tại sao người ta nói: 

Muốn biết những gì bạn làm trước kia, hãy nhìn bạn bây giờ.

Muốn biết nơi bạn sắp sinh vào, hãy nhìn những gì bây giờ bạn đang làm.81 

Đối với loài vật thì cũng thế.  Bản năng của những thú vật như chim ưng và chó sói là giết hại, bản năng của chuột là ăn trộm, trong mỗi trường hợp là một kết quả tương tự với, và được tạo nên bởi hành vi trước đây của chúng.

 

2.2    Những kinh nghiệm tương tự với nguyên nhân 

Mỗi một trong mười hành vi bất thiện đều dẫn tới một cặp hậu quả trên những kinh nghiệm theo sau của ta.

Sát sanh. Việc sát sanh ở một kiếp trước không chỉ làm cho cuộc đời hiện tại của chúng ta ngắn đi mà còn thường xuyên bị bịnh tật. Đôi khi có những đứa bé mới sinh ra đã chết như một hậu quả tương tự với nguyên nhân của việc đã từng sát sanh trong một đời quá khứ; trong nhiều đời chúng có thể tiếp tục chết ngay khi vừa sanh và cứ lập đi lập lại như vậy. Cũng có nhiều người sống tới tuổi trưởng thành nhưng từ thuở ấu thơ đã bị bịnh tật hành hạ, hết bịnh này tới bệnh kia không ngưng chỉ cho tới khi chết, một lần nữa đó là kết quả của việc giết và hành hung những người khác trong một đời trước. Đối mặt với những tình huống như vậy, điều quan trọng là sám hối với sự ân hận những hành động đã làm trong quá khứ hơn là tìm cách làm dịu những khó khăn trước mắt. Chúng ta nên sám hối với sự hối hận và nguyện từ bỏ những hành vi như vậy; và như một cách đối trị với những hậu quả của chúng, hãy nỗ lực làm các thiện hạnh và từ bỏ những ác hạnh. 

Lấy những gì không được cho. Việc trộm cắp không chỉ làm chúng ta nghèo mà còn có thể chịu sự cướp bóc, mất trộm hay những tai hoạ khác là những gì gieo rắc giữa những kẻ thù và đối thủ bất kỳ thứ gì trong số tài sản ít ỏi mà chúng ta kiếm được. Vì lý do này, bất cứ ai hiện thiếu thốn tiền bạc hay của cải thì tốt hơn nên tạo ra thậm chí một tia lửa nhỏ công đức hơn là lên núi làm giàu. Nếu số phận bạn không giàu là vì bạn ít bố thí trong những đời trước, thì không nỗ lực nào có thể giúp bạn được. Hãy xem của cải mà hầu hết những kẻ trộm cướp có được từ mỗi chuyến cướp bóc của họ - thường thì hầu như nhiều hơn những gì bản thân mặt đất có thể giữ được. Tuy nhiên những người sống bằng trộm cướp luôn luôn kết thúc đời mình trong sự đói khát. Cũng hãy chú ý những thương nhân hay những kẻ chiếm đoạt tài sản của Tăng Đoàn thất thu trong việc kiếm tiền ra sao, cho dù tài sản có lớn tới đâu chăng nữa, những người hiện nay đang được hưởng kết quả của việc bố thí trong quá khứ của họ thì trọn đời chẳng bao giờ thiếu thốn của cải, và đối với nhiều người trong số họ việc này xảy tới mà không cần chút xíu nổ lực nào. Vậy, nếu bạn hy vọng trở nên giàu có, hãy giành hết mọi nỗ lực của bạn để làm việc từ thiện và cúng dường!

Lục địa Jambudvipa (châu Diêm Phù Đề) này đang tặng một năng lực đặc biệt cho những hậu quả của các hànhđộng, khiến những gì chúng ta làm sớm trong đời thì về sau có khả năng kết thành quả cũng trong đời này – hay thậm chí ngay lập tức nếu được làm trong những hoàn cảnh đặc thù nào đó. Vì thế dùng tới cách trộm cướp lừa gạt hay những phương cách khác để lấy những gì không được cho trong hy vọng làm giàu là hoàn toàn làm ngược với những gì chúng ta dự định. Nghiệp quả sẽ giam giữ chúng ta trong thế giới ngạ quỷ trong nhiều kiếp (kalpa). Thậm chí cho đến cuối đời này, nó sẽ bắt đầu ảnh hưởng và sẽ làm chúng ta ngày càng nghèo khổ, càng ngày càng khó khăn. Chúng ta sẽ bị tước mất sự kiểm soát trên một số ít của cải còn sót lại của mình. Cho dù chúng ta giàu có tới đâu, tính tham lam sẽ làm chúng ta càng ngày càng cảm thấy thiếu thốn và mất mát. Của cải của chúng ta sẽ trở thành nguyên nhân của những ác hạnh. Ta sẽ giống như những ngạ quỷ canh giữ kho tàng nhưng không thể sử dụng những gì họ sở hữu. Hãy để ý kỹ những người bên ngoài có vẻ giàu có. Nếu họ không sử dụng rộng rãi tài sản của họ cho Giáo Pháp, mà đó là nguồn gốc của hạnh phúc và an lành trong đời này và trong những đời kế tiếp, hoặc ngay cả để mua thực phẩm và quần áo, thì họ thực sự còn nghèo hơn cả những người nghèo khó. Kinh nghiệm giống - ngạ quỷ của họ ngay bây giờ là nghiệp quả tương tự với nguyên nhân, xảy ra do sự bố thí bất tịnh của họ trong quá khứ.82

Tà dâm. Ta được biết rằng việc thả mình trong sự tà dâm sẽ làm chúng ta có một người vợ (hay chồng) chẳng những không duyên dáng mà còn có lối cư xử phóng đãng hay thù địch nữa. Khi những cặp vợ chồng không thể ngưng tranh cãi hoặc đánh nhau, mỗi người thường đổ lỗi cho những tánh xấu của người kia. Trong thực tế, mỗi người trong những cặp vợ chồng đó đang kinh nghiệm hậu quả tương tự với nguyên nhân, là hậu quả của sự tà dâm của họ trong quá khứ. Thay vì thù ghét nhau, họ nên nhận ra rằng đó là kết quả của những hành vi bất thiện trong quá khứ của họ và nên nhẫn nhịn lẫn nhau. Ngài Padampa Sangye nói:

Gia đình thì thoáng qua như đám đông trong phiên chợ;

Dân chúng xứ Tingri, đừng nên cãi vã hay đánh nhau! 

Nói dối. Kinh nghiệm tương tự với nguyên nhân gây ra từ sự nói dối trong những đời quá khứ là chúng ta không chỉ thường bị chỉ trích hay xem thường mà còn hay bị người khác nói dối. Nếu bây giờ bạn bị kết tội và chỉ trích không đúng thì đó là kết quả của việc bạn đã từng nói dối trong quá khứ. Thay vì nổi giận và lăng mạ những người đã nói những điều như thế về bạn, hãy biết ơn họ vì họ đã giúp bạn làm cạn kiệt những hậu quả của nhiều hành động bất thiện. Bạn nên cảm thấy hạnh phúc. Ngài Ringdzin Jagme Lingpa nói:

Một kẻ thù đáp trả việc tốt của bạn bằng việc xấu làm bạn tiến bộ trong thực hành.

Sự buộc tội không đúng của họ là một ngọn roi dẫn bạn tới đức hạnh.

Anh ta là vị thầy tiêu diệt tất cả bám chắc và tham dục của bạn.

Hãy xem xét sự tử tế to lớn của anh ta mà bạn không bao giờ có thể đền đáp! 

Gieo mối bất hoà. Kết quả tương tự với nguyên nhân của việc gieo mối bất hoà là không chỉ những người cộng sự và kẻ phục vụ của ta không thể thuận thảo với nhau mà họ còn hay tranh cãi và chống đối chúng ta. Phần nhiều các tu sĩ đi theo những lạt ma, những tuỳ viên của các vị lãnh đạo hay những người phục vụ cho chủ nhà, giữa họ lại không hoà thuận với nhau, và tuy nhiều lần được yêu cầu làm việc gì đó, họ từ chối không nghe lời và còn bướng bỉnh tranh cãi. Những người phục vụ được thuê mướn của người bình thường giả vờ không nghe khi được yêu cầu làm những việc vặt, ngay cả những việc dễ làm. Chủ nhà phải lập lại mệnh lệnh hai, ba lần; và sau cùng chỉ khi ông ta nổi giận và nói nặng với họ thì họ mới chịu làm những gì đã được yêu cầu một cách chậm chạm và miễn cưỡng. Ngay cả khi làm xong việc họ cũng chẳng nghĩ tới chuyện quay trở lại báo cho chủ biết. Họ thường ở trong một tâm trạng không tốt. Nhưng người chủ chỉ đang gặt hái kết quả của sự bất hoà mà chính ông đã gieo trong quá khứ. Do đó, ông ta nên hối tiếc những hành vi bất thiện của chính mình, và giải hoà những mối bất đồng của riêng ông và những người khác.

Nói cay nghiệt. Việc nói cay nghiệt trong những đời quá khứ sẽ không chỉ khiến mọi điều người khác nói với chúng ta là sự công kích và sỉ nhục, mà còn có kết quả là mọi điều ta nói ra đều gây ra những sự tranh cãi.

Lời nói cay nghiệt thì tệ hại nhất trong bốn hành vi bất thiện của khẩu. Như tục ngữ có nói:

Lời nói không có cung tên cũng không đao kiếm, nhưng chúng xé tâm người ta thành từng mảnh.

Việc đột ngột kích động sự hận thù nơi người khác, hay – còn tệ hơn nữa - thậm chí chỉ nói một lời công kích một bậc linh thánh sẽ khiến phải trải qua nhiều đời trong những cõi thấp mà không có bất kỳ cơ hội nào để giải thoát. Có lần một người Bà la môn tên là Kapila lăng mạ những tu sĩ của Đức Phật Kasyapa (Ca Diếp), gọi họ là “Đầu ngựa,” “đầu bò” và nhiều tên khác giống như vậy. Ông ta bị tái sanh thành yêu quái biển giống-như-cá với mười tám cái đầu. Ông không thoát khỏi trạng thái đó trong suốt một kiếp và thậm chí sau đó còn bị tái sinh trong địa ngục. Một ni cô gọi một vị ni khác là chó cái, bản thân cô bị tái sanh làm chó cái năm trăm đời. Có nhiều câu chuyện tương tự như thế. Vậy hãy học cách luôn nói năng dịu dàng. Ngoài ra, vì bạn không bao giờ biết được ai là một bậc Thánh hay Bồ Tát, hãy tu tập bản thân để thấy tất cả chúng sanh đều thanh tịnh. Hãy học tán thán họ và ca tụng những thành tựu và phẩm tánh tốt của họ. Người ta nói rằng chỉ trích hay nói công kích một vị Bồ Tát thì còn tệ hại việc giết hại tất cả chúng sanh trong tam giới:

Phỉ báng một Bồ Tát là một trọng tội.

Nặng hơn cả việc giết hại tất cả chúng sanh trong tam giới;

Con xin sám hối tất cả những lỗi lầm lớn nhỏ như thế mà con từng tích tập,

Nói chuyện tầm phào vô ích. Kết quả tương tự với nguyên nhân của việc nói chuyện tầm phào vô ích không chỉ làm cho những gì ta nói không có giá trị, mà còn làm chúng ta thiếu cương quyết và tự tin. Không ai tin chúng ta ngay cả khi ta nói sự thật, và chúng ta sẽ thiếu tự tin khi nói trước đám đông. 

Tham lam. Hậu quả của sự tham lam không chỉ ngăn trở không cho ta đạt được những gì t among muốn nhất mà còn gây nên mọi tình huống ta ít ưa thích nhất. 

Mong ước làm tổn hại người khác. Như kết quả của ước muốn làm hại người khác, chúng ta sẽ không chỉ sống trong nỗi sợ hãi liên tục mà sẽ còn phải chịu đựng sự tổn hại thường xuyên.

Tà kiến. Hậu quả của việc nuôi dưỡng tà kiến là chúng ta sẽ không chỉ khăng khăng cố chấp trong những tin tưởng có hại như vậy, mà tâm ta cũng sẽ bị rối loạn bởi sự lừa phỉnh và những nhận thức sai lầm.

 

2.3    KẾT QUẢ ĐƯỢC QUY ĐỊNH 

Kết quả được quy định tác động trên môi trường của chúng ta. Việc sát sanh gây nên sự tái sanh vào những nơi hiểm trở, phiền não gồm toàn những khe núi và vách đá đầy sự nguy hiểm rình rập. Việc lấy những gì không được cho gây nên sự tái sanh vào những miền bị ảnh hưởng mạnh bởi sự nghèo đói, ở đó sương muối và mưa đá huỷ diệt các vụ mùa và cây cối không sanh trái quả. Sự tà dâm buộc chúng ta phải sống ở những nơi kinh tởm đầy phân và những chất thải, những đầm lầy, v.v.. Việc nói dối sẽ đem tới cho chúng ta vật chất bấp bênh, sự thường xuyên hoảng loạn thần kinh và hay gặp những sự việc và hoàn cảnh khủng khiếp. Việc nói gây bất hoà khiến chúng ta phải cư trú ở những vùng khó đi lại, bị cắt xẻ với những hẻm núi sâu, những ngọn đèo lởm chởm đá và những nơi tương tự. Việc nói lời cay nghiệt gây nên sự tái sanh trong một miền đất ảm đảm, toàn đá và gai góc. Việc nói chuyện tầm phào vô ích sẽ khiến ta không sản xuất được gì; thời tiết không thích hợp và không dự đoán được. Sự tham lam sẽ gây nên những mùa màng nghèo nàn và mọi thứ bệnh tật khác trong những nơi chốn và thời đại khó sống. Việc mong muốn làm tổn hại người khác dẫn tới việc tái sinh vào những nơi thường xuyên ghê sợ khủng khiếp với nhiều nỗi khổ khác nhau. Tà kiến khiến tái sanh vào những hoàn cảnh bần cùng không nơi nương tựa hay che chở.

 

2.4    HẬU QUẢ PHÁT SINH NHANH CHÓNG 

Hậu quả phát sinh nhanh chóng là bất kỳ hành động nào ta đã làm trước đó, chúng ta sẽ có khuynh hướng lập đi lập lại nhiều lần. Điều này đem lại một chuỗi đau khổ vô tận suốt tất cả những đời sau này của chúng ta. Khi đó những hành vi bất thiện của chúng ta sinh sôi nẩy nở nhiều hơn nữa và khiến chúng ta phải lang thang vô tận trong luân hồi.

 

II    NHỮNG HÀNH ĐỘNG TÍCH CỰC NÊN LÀM 

Trong một ý nghĩ tổng quát thì mười hành động tích cực bao gồm sự hứa nguyện dứt khoát không bao giờ vi phạm bất cứ hành động bất thiện nào, chẳng hạn như sát sinh, lấy những gì không được cho và v.v…khi đã hiểu rõ những hậu quả tai hại của nó.

Thọ một giới nguyện như vậy trước một vị Thầy hay thầy trợ giáo thì không nhất thiết phải quá nghiêm nhặt; mặc dù bản thân bạn quyết định từ nay tránh tất cả những việc sát sanh, chẳng hạn thế - hoặc tránh sát sanh ở một nơi đặc biệt hoặc vào những thời điểm đặc biệt, hay tránh giết những súc vật nào đó - tự thân điều này là một hành vi tích cực. Tuy nhiên, nếu thực hiện lời hứa đó trong sự hiện diện của một vị Thầy, một bằng hữu tâm linh hay một biểu tượng của Tam Bảo sẽ khiến cho việc hứa nguyện đó có một năng lực đặc biệt.

Việc bạn ngẫu nhiên chấm dứt việc sát sanh hay ngừng làm những hành động bất thiện khác thì chưa đủ. Hãy đếm thử đã bao nhiêu lần bản thân bạn mắc phạm vào một giới nguyện tránh làm những ác hạnh, dù có điều gì xảy ra chăng nữa. Do đó, ngay cả người thường không thể hoàn toàn kiêng cữ việc sát sanh vẫn có thể rút ra được lợi ích to lớn từ việc thọ giới không sát sanh tron một thời kỳ nào đó mỗi năm, hoặc là trong tháng giêng là Tháng của những sự Huyền Nhiệm; hoặc trong tháng tư, được gọi là Vaisakha; hoặc vào mỗi ngày rằm hay mồng một, hay trong một năm, tháng hay ngày đặc biệt nào đó.

Ngày xưa, một người đồ tể trong làng lập một lời nguyện trước sự hiện diện của Ngài Katyayana tôn quý rằng ông sẽ không sát sanh vào ban đêm. Ông ta bị tái sanh vào một trong những địa ngục phù du, ở đó mỗi ngày ông ta bị hành hạ suốt ngày trong một căn nhà bằng kim loại nóng chảy. Nhưng mỗi đêm ông ta lại được nghĩ ngơi hạnh phúc và thoải mái trong một cung điện cùng với bốn thiếu nữ.

Như vậy, mười hành động tích cực bao gồm việc từ bỏ mười hành động bất thiện và việc thực hành các sự đối trị tích cực của chúng.

Ba hành vi tích cực của thân là: (1) từ bỏ sát sanh, thay vào đó là bảo vệ mạng sống của chúng sanh; (2) từ bỏ việc lấy những gì không được cho, và thực hành sự bố thí (rộng lượng); và (3) từ bỏ sự tà dâm, và thay vào đó là sự tuân theo những giới luật.

Bốn hành động tích cực của khẩu là: (1) từ bỏ việc nói dối, thay vào đó là nói sự thật, (2) từ bỏ việc gieo mối bất hoà;; thay vào đó là giải hoà các cuộc tranh luận; (3) từ bỏ việc nói những lời cay nghiệt, thay vào đó nói những lời dễ nghe; và (4) chấm dứt nói chuyện tầm phào vô ích, thay vào đó là trì tụng những lời cầu nguyện.

Ba hành động tích cực của ý là: (1) từ bỏ lòng tham, thay vào đó là học cách bố thí; (2) từ bỏ việc mong muốn làm hại người khác, thay vào đó là nuôi dưỡng ước muốn giúp đỡ họ; và (3) chấm dứt những tà kiến, thay vào đó củng cố cho mình quan điểm chân chính và xác thực.

Kết quả hoàn toàn chín mùi của những hành vi này là bạn sẽ được tái sanh vào một trong ba cảnh giới cao.

Kết quả tương tự với nguyên nhân như hành vi là bạn vui thích trong khi làm những thiện hạnh trong tất cả những đời sau này của bạn, nhờ đó công đức của bạn càng ngày càng tăng trưởng.

Những kết quả tương tự với nguyên nhân như kinh nghiệm đối với mỗi một trong mười hành vi tích cực như sau: đối với việc từ bỏ sự sát sanh là có một cuộc đời trường thọ ít bệnh tật; đối với việc từ bỏ sự trộm cướp là không bị những kẻ thù hay kẻ cướp lấy mất sự thịnh vượng và tự do; đối với việc từ bỏ sự tà dâm là có một người phối ngẫu duyên dáng và ít có các địch thủ; đối với việc từ bỏ sự nói dối là được mọi người tán thán và thương yêu; đối với việc từ bỏ sự gieo mối bất hoà là bạn được bạn bè và những người hầu tôn kính; đối với việc từ bỏ những lời nói cay nghiệt là sẽ chỉ nghe những lời dễ chịu; đối với việc từ bỏ nói chuyện tầm phào vô ích là sẽ được lắng nghe một cách nghiêm trang; đối với việc từ bỏ lòng tham muốn là được thoả mãn những mong ước; đối với việc từ bỏ những tư tưởng ác hại là không bị những hoạ hại; và đối với việc từ bỏ các tà kiến là chánh kiến trong tâm bạn được tăng trưởng.

Kết quả được quy định là, trong mỗi trường hợp, sự đối nghịch của những hậu quả bất thiện tương ứng; bạn được sanh vào những nơi có tất cả những hoàn cảnh hoàn hảo nhất.

Kết quả phát sinh nhanh chóng là bất kỳ những thiện hạnh nào bạn làm sẽ được nhân bội lên, đem tới cho bạn sự may mắn không bao giờ dứt..

 

III  PHẨM TÍNH CỦA SỰ HOÀN TOÀN-QUYẾT TÂM CỦA CÁC HÀNH VI. 

Trong sự muôn màu muôn vẻ không thể nghĩ bà, những niềm vui và nỗi khổ mà mỗi chúng sanh kinh nghiệm - từ những cõi giới cao nhất xuống địa ngục sâu thẳm nhất - chỉ phát sinh từ những hành vi thiện và bất thiện mà mỗi cá nhân đã tích luỹ trong quá khứ. Điều này đã được nói đến trong Kinh Một Trăm Hành Vi: 

Mọi hoan hỷ và phiền não của chúng sanh

Đều đến từ những hành vị của họ, Đức Phật đã dạy như thế.

Vẻ đa dạng của các hành vi

Tạo nên sự đa dạng của chúng sanh

Và thúc đẩy những cuộc lang thang vô tận đủ loại của họ.

Quả thực mạng lưới của những hành vi thì bao la biết bao! 

Bất kỳ sức mạnh, quyền lực, của cải hay tài sản nào mà giờ đây có thể chúng ta đang tận hưởng, chẳng có thứ gì trong số đó đi theo chúng ta khi ta chết. Chúng ta chỉ mang theo những hành vi thiện và ác mà chúng ta đã tạo ra trong đời mình, là những thứ sẽ đẩy chúng ta tới những cảnh giới luân hồi cao hay thấp. Trong Kinh Những Giáo Huấn Cho Nhà Vua, chúng ta đọc được: 

Khi tới lúc phải ra đi, Ô Nhà Vua,

Chẳng có bạn bè, của cải, hay gia đình đi theo được.

Nhưng cho dù chúng sinh từ đâu đến, và dù họ đi tới đâu,

Hành vi của họ sẽ theo họ như hình với bong. 

Kết quả của những hành vi thiện và bất thiện của chúng ta có thể không biểu hiện ra ngay lập tức và dễ dàng nhận thấy được, nhưng chúng cũng không hoàn toàn biến mất. Chúng ta sẽ kinh nghiệm từng hành vi một khi hội đủ những điều kiện thích hợp. 

Ngay cả một trăm kiếp

Hành vi của chúng sinh sẽ không bao giờ mất đi.

Khi hội đủ các điều kiện

Kết quả của chúng sẽ hoàn toàn chín muồi. 

Như Kinh Một Trăm Hành Vi đã nói. Và trong bản Kho tang của Những Phẩm Tính Quý Báu, chúng ta thấy như sau: 

Khi chim đại bang cất cánh bay cao vút,

Chẳng thể thấy bong nó trong một thời gian;

Nhưng chim và cái bong vẫn còn nối kết. Những hành vi của ta thì cũng thế:

Khi hội đủ các điều kiện, kết quả của chúng sẽ thấy được rõ ràng.

 Khi một con chim cất cánh và bay cao lên bầu trời, cái bóng của nó dường như biến mất. Nhưng điều này không có nghĩa là cái bóng không còn hiện hữu. Sau cùng bất cứ nơi nào con chim đáp xuống thì ở đó lại có bóng của nó, hoàn toàn sẫm màu và rõ ràng như trước. Tương tự như vậy, cho dù trong chốc lát không thể thấy được những hành vi thiện hay ác của ta trong quá khứ nhưng không phải là chúng không thể trở lại với ta vào cuối đời.

Quả thực, làm sao những điều này lại không xảy ra đối với những người bình thường như chúng ta, khi ngay cả chư Phật và A La Hán, là những bậc đã thoát khỏi mọi che chướng của nghiệp và cảm xúc, vẫn còn phải nhận những hậu quả của các hành vi trong quá khứ.

Một ngày nọ, quân đội của Virudhaka, quốc vương xứ Sravasti, tấn công thành phố của bộ tộc Sakya (Thích Ca)* và tàn sát 80.000 người. Vào lúc đó, Đức Phật bị nhức đầu. Khi các đệ tử của Ngài hỏi tại sao có chuyện như thế thì Ngài trả lời:

“Nhiều kiếp trước, những người Sakya đó là ngư phủ sống bằng nghề đánh bắt và ăn nhiều cá. Một hôm nọ bắt được hai con cá lớn, và thay vì giết ngay thì họ lại cột chúng vào một cái cọc. Khi hai con cá bị mắc cạn quằn quại vì đau đớn, chúng nghĩ: “Những người này đang giết chúng ta, mặc dù ta chẳng làm điều gì hại họ. Để báo thù, cầu mong có ngày chúng ta giết được họ, dù họ không làm gì hại ta.” Kết quả ý nghĩ của hai con cá lớn là tái sanh làm vua Virudhaka và tể tướng Matropakara, trong khi tất cả những con các khác bị ngư phủ giết trở thành quân đội của họ. Ngày nay họ đã tàn sát những người của bộ tộc Sakya.

“Vào lúc đó, ta là con của một trong những ngư phủ đó và ta đã cười khi thấy hai con cá bị cột đang quằn quại đau đớn. Hậu quả của hành vi đó là ngày nay ta bị nhức đầu. Nếu ta không thành tựu được những phẩm tính83 ta hiện có, thì ta cũng đã bị quân đội của vau Virudhaka giết.”

Trong một dịp khác, chân của Đức Phật bị thương vì mảnh cây keo84-là hậu quả của việc Ngày giết Chiến sĩ Giáo Đen trong một đời trước khi Ngài là một Bồ Tát.

Trong tất cả các đệ tử Thanh Văn của Đức Phật thì Ngài Maudgalyayana (Mục Kiền Liên) là bậc có năng lực thần thông đệ nhất. Tuy nhiên, Ngài vẫn bị Parivrajikas giết, bởi năng lực của những hành vi trong quá khứ của Ngài. Chuyện xảy ra như sau:

Ngài Sariputra (Xá Lợi Phất) siêu phàm và Đại Mục Kiền Liên thường du hành đến những thế giới khác như các cõi địa ngục hay ngạ quỷ để làm lợi ích cho chúng sanh ở đó. Một ngày kia, trong lúc ở địa ngục, các Ngài đi ngang một vị thầy tirthika tên là Purnakasyapa bị tái sanh ở đó và phải chịu vô số nỗi đau khổ khác nhau.

Ông ta nói với các Ngài: “Các bậc Tôn Quý, khi các Ngài trở về cõi người, làm ơn nói với những đệ tử trước đây của tôi là đạo sư Purnakasyap của họ đã bị đoạ địa ngục. Hãy nói với họ dùm tôi là con đường của các Parivrajika không phải là con đường đạo đức. Con đường đạo đức nằm trong giáo lý của Đức Phật Thích Ca. Con đường của chúng tôi thì sai lầm; họ nên từ bỏ nó, hãy học hỏi để đi theo Đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Và đặc biệt, xin nói với họ là bất cứ khi nào họ cúng dường trước lăng mộ mà họ xây để chứa xương cốt của tôi thì một cơn mưa kim loại nóng chảy lại đổ xuống người tôi. Tôi van các Ngài, xin nói với họ đừng làm các cuộc cúng dường như vậy nữa.”

Hai Ngài trở về cõi người. Xá Lợi Phất tới trước tiên và đưa cho các tirthika thông điệp của vị thầy của họ nhưng vì thiếu những điều kiện thuộc nghiệp tất yếu nên họ không nghe Ngài. Khi Mục Kiền Liên tới, Ngài hỏi Xá Lợi Phất đã trao cho các tirthika thông điệp của Purnakasyapa chưa.

“Rồi,” Xá Lợi Phất trả lời, “nhưng họ không nói một lời nào.”

Mục Kiền Liên nói: “Vì họ không hiểu được những gì ông nói, tự tôi sẽ nói với họ.” Và Ngài ra đi để thuật lại với họ những điều Purnakasyapa đã nói.

Nhưng những người tirthika nổi giận: “Không chấp nhận được kẻ sỉ nhục chúng ta, hắn đang chỉ trích Guru của chúng ta! họ nói. “Đánh hắn! Họ tấn công Ngài, đánh Ngài mềm người và bỏ Ngài nằm đó.

Cho đến lúc đó, ngay cả một sự phối hợp tấn công của cả tam giới cũng không thể làm tổn hại tới một sợi tóc trên đầu Ngài Mục Kiền Liên huống chi là sự đánh đập của những người tirthika. Nhưng vào lúc đó, bị đè bẹp bởi sức nặng của những hành vi trong quá khứ của mình, Ngài không chịu nổi như bất kỳ một người bình thường nào.

Ngài nói: “Ngay cả việc suy nghĩ làm sao sử dụng thần thông tôi còn không làm được, thì nói chi tới chuyện làm điều đó.” Ngài Xá Lợi Phất bọc Ngài trong chiếc y và vác Ngài đi.

Khi họ đi tới Rừng Jeta (Rừng Kỳ Thọ), Ngài Xá Lợi Phất la lên, “Tôi không thể chịu nổi ngay cả việc nghe tả lại cái chết của bạn tôi! Làm sao tôi có thể nhìn chuyện đó xảy ra?” và Ngài nhập niết bàn cùng với nhiều vị A La Hán khác. Lập tức sau đó, Ngài Mục Kiền Liên cũng siêu vượt nỗi đau khổ.

Có lần, có một vị tăng sống ở Kashmir tên Ravati, là người có nhiều đệ tử. Ông ta là một nhà thấu thị và có thần thông. Một ngày nọ, ông đang nhuộm màu vàng nghệ chiếc y tu sĩ của mình trong một khu rừng rậm. Cùng lúc đó, một người thế tục sống gần đó đang tìm con bò đi lạc. Anh ta thấy khói bốc lên từ cánh rừng già bèn đi tới xem chuyện gì xảy ra.

Thấy vị tăng đang đun lửa, anh ta hỏi: “Ông đang làm gì vậy?”

“Tôi đang nhuộm y,” vị tu sĩ trả lời.

Người đàn ông nhấc nắp vạc nhuộm lên và nhìn vào trong.

“Đó là thịt! anh ta la lên, và quả thực khi vị tăng nhìn vào trong vạc thì cũng thấy là thịt.

Người đàn ông bèn dẫn vị tu sĩ giao cho nhà vua, và nói: “Thưa Ngài, vị sư này ăn trộm con bê của tôi. Hãy trừng phạt ông ta.” Nhà vua đem Ravati quăng vào hầm.

Tuy nhiên vài ngày sau, con bò của người đàn ông tự tìm thấy con bê đi lạc của nó. Anh ta trở lại gặp nhà vua và nói: “Thưa Ngài, nhà sư này hoàn toàn không ăn trộm bò của tôi; làm ơn thả ông ta ra.”

Nhưng nhà vua đãng trí quên thả Ravati. Suốt trong sáu tháng nhà vua không nhớ gì về việc đó.

Sau đó, một ngày nọ, một nhóm nhiều đệ tử của vị tu dĩ mà bản thân họ đã đạt được thần thông đang bay trên không gian và hạ xuống trước mặt nhà vua.

“Ravati là nhà sư thanh tịnh và vô tội,” họ nói với nhà vua. “Xin thả Ngài ra.”

Nhà vua đi thả vị sư, và khi thấy tình trạng suy yếu của Ravati, nhà vua tràn đầy sự hối hận.

“Tôi định đến sớm hơn, nhưng đã để lâu quá,” nhà vua kêu lên, “Tôi đã phạm một tội khủng khiếp.”

“Ngài chẳng làm gì ác cả,” vị sư nói. “Nó hoàn toàn là kết quả những hành vi của riêng tôi.”

“Đó là hành động?”, nhà vua hỏi.

“Trong một đời quá khứ, tôi là kẻ trộm, và có lần tôi ăn trộm một con bê. Khi người chủ đuổi theo, tôi bỏ chạy, để lại con bê kế bên một vị Độc Giác Phật đang ngẫu nhiên thiền định trong một bụi cây. Người chủ bắt vị Độc Giác Phật ném vào hố trong sáu ngày. Khi hậu quả hành vi của tôi đã hoàn toàn chín, tôi phải trải qua nhiều đau khổ trong những cõi thấp. Những đau khổ mà giờ đây tôi vừa chịu đựng trong đời này là đau khổ cuối cùng trong số đó.”

Một ví dụ khác là câu chuyện người con trai của Surabhibhadra,85 một vị vua Ấn Độ. Một ngày nọ, hoàng tử được mẫu hậu đưa cho một áo lụa không có đường nối. Hoàng tử không muốn mặc ngay và nói: “Con sẽ mặc vào ngày thừa kế vương quốc.”

“Con sẽ không bao giờ được thừa kế vương quốc,” mẫu hậu nói. “Điều đó chỉ có thể xảy ra khi nào phụ vương con chết. Nhưng phụ vương của con và vị thầy Nagarjuna (Long Thọ) có cùng một loại sinh lực,86 như vậy không có khả năng phụ vương con chết trong khi Ngài Nagarjuna vẫn còn sống. Và vì Ngài Nagarjuna có năng lực kéo dài thọ mạng của Ngài nên phụ vương của con sẽ không bao giờ chết. Đó là điều tại sao những người anh của con đã chết mà không thừa kế được vương quốc.”

“Vậy con có thể làm được gì? Hoàng tử hỏi.

“Hãy đến gặp Thầy Nagarjuna hỏi xin cái đầu của Ngài. Ngài sẽ đồng ý vì Ngài là một Bồ Tát. Ta thấy không còn giải pháp nào khác.”

Hoàng tử tới gặp Nagarjuna và hỏi xin cái đầu của Ngài. “Hãy cắt và lấy đi,” Đạo sư nói. Hoàng tử dùng kiếm chặt vào cổ Ngài Nagarjuna. Nhưng không có chuyện gì xảy ra. Như thể lưỡi kiếm của Hoàng tử chặt vào không khí.

“Vũ khí không thể làm tổn thương ta,” Đạo sư giải thích, “vì năm trăm đời trước ta đã hoàn toàn tự tịnh hoá mọi kết quả hoàn toàn chín mùi của việc sử dụng vũ khí. Tuy nhiên, có một ngày ta đã giết một côn trùng khi cắt cỏ kusa. Hậu quả chín muồi của hành động đó chưa cắt được đầu ta, vậy nếu ngươi dùng cỏ kusa làm kiếm thì ngươi có thể cắt được đầu ta.”

Vì vậy, hoàng tử nhổ một lá cỏ kusa và cắt đầu Ngài Nagarjuna. Đầu liền rơi xuống đất. Ngài Nagarjuna nhập Niết Bàn và hát:

Bây giờ ta rời bỏ thế gian để đến cõi Cực Lạc;

Sau này, ta sẽ quay lại chính thân này.87 

Nếu ngay cả những cá nhân phi thường như những vị này vẫn còn phải kinh nghiệm hậu quả của những hành vi trong quá khứ của các Ngài thì làm thế nào chúng ta – là những kẻ mà những hành động bất thiện đã được tích luỹ từ vô thuỷ trong những cuộc lang thang của chúng ta qua các cõi của luân hồi thì hoàn toàn không thể tính đếm – có thể hy vọng giải thoát khỏi luân hồi trong khi chúng ta vẫn còn tích luỹ chúng? Ngay cả việc thoát ra khỏi những cõi thấp cũng thật khó khăn. Vậy bằng mọi giá, chúng ta hãy tránh làm những hành động xấu nhỏ bé nhất dù chỉ trong phút giây, và chuyên chú làm bất kỳ điều gì tốt mà chúng ta có thể, cho dù chúng có vẻ tầm thường vô nghĩa. Chừng nào chúng ta còn chưa thực hiện sự nỗ lực đó, thì mỗi khoảng khắc của ác hạnh đang đưa dẫn chúng ta tái sanh nhiều kiếp trong những cõi thấp. Đừng bao giờ xem thường những hành động xấu dù nhỏ nhặt nhất, và cho rằng chúng không thể gây tổn hại lớn lao. Như Bồ Tát Santideva (Tịch Thiên) nói: 

Nếu những ác hạnh chỉ thực hiện trong một khoảng khắc

Là đủ dẫn tới một kiếp trong địa ngục sâu thẳm nhất,

Những ác hạnh tôi từng làm từ vô thuỷ -

Thì cần gì nói tới việc chúng ngăn cản tôi đi tới các cõi cao! 

Và trong Kinh Hiền Ngu chúng ta thấy:

Đừng làm những ác hạnh dù nhỏ bé,

Và tin rằng chúng không gây ác hại:

Ngay cả một tia lửa nhỏ xíu,

Cũng có thể thiêu rụi một núi cỏ. 

Tương tự như thế, ngay cả những thiện hạnh nhỏ bé nhất cũng đem lại lợi ích to lớn. Chớ có xem thường chúng, đừng cho rằng chúng không đáng làm.

Trong một đời quá khứ Vua Mandhatri là một người nghèo. Một ngày nọ, trên đường đi dự một đám cưới với một nắm đậu trong tay, ông gặp Đức Phật Ksantisarana đang du hành qua làng. Được thúc đẩy bởi lòng sung kính mãnh liệt, ông tung nắm đậu vào Ngài. Bốn hạt đậu rơi vào bình bát và hai hạt khác chạm vào ngực Ngài. Sự chín muồi của hành động này khiến ông tái sanh làm đại đế cai trị châu lục Jambu (châu Diêm Phù Đề). Vì bốn hạt đậu rơi vào bình bát của Phật nên ông được cai trị bốn châu lục trong tám vạn năm. Bởi một trong hai hạt đậu chạm tim Phật, ông trở thành Hoàng Đế cai quản cảnh giới của Bốn Đại Vương trong tám vạn năm khác; và do hạt đậu thứ hai, ông được chia đồng đều chủ quyền với ba mươi bảy vị Trời Indra liên tiếp trên tầng Trời thứ Ba mươi ba.

Người ta có nói ngay cả quán tưởng Đức Phật và tung một đoá hoa vào hư không cũng dẫn tới việc bạn được chia vương quyền của Vua Trời Indra trong một thời gian dài khó tưởng tượng nổi. Đây là điều tại sao Kinh Hiền Ngu nói: 

Không làm những thiện hạnh nhỏ bé,

Vì tin rằng chẳng được lợi gì:

Bởi tuần tự từng giọt nước một

Khi tới lúc, có thể làm đầy một hồ lớn. 

Kho Tàng Của Những Phẩm Tính Quý Báu nói: 

Từ những hạt giống không lớn hơn hạt mù tạt,

Mọc thành những cây ashota rộng lớn mà chỉ trong một năm

Có thể vươn cành rộng hàng lý.

Nhưng sự tăng trưởng của thiện và ác thậm chí con nhanh hơn thế. 

Hạt của cây ashota không lớn hơn hạt cây mù tạt, nhưng cây ashota thì phát triển nhanh tới nỗi cành lá của chúng lớn hàng lý chỉ trong một năm. Tuy nhiên ngay cả hình ảnh này cũng chưa mô tả đầy đủ sự phát triển quá mạnh của kết quả của những hành vi thiện và ác.

Cũng thế, sự vi phạm giới luật nhỏ nhất gây nên những điều xấu ác to lớn. Một ngày kia Long Vương Elapatra đến gặp Phật dưới lột một Chuyển Luân Thánh Vương.

Đức Phật trách: “Sự tổn hại mà người tạo ra cho giáo lý của Đức Phật Kasyapa đối với ngươi chưa đủ hay sao mà bây giờ lại còn muốn làm tổn hại giáo lý của ta? Hãy hiện nguyên hình mà lắng nghe Giáo Pháp!”

“Nếu làm như vậy, nhiều người sẽ hại con,” Long Vương trả lời, vì thế Phật bèn cho Kim Cương Thủ (Vajrapani) bảo vệ, Long Vương bèn biến thành một con rắn khổng lồ dài vài lý (một lý khoảng 4,8km). Trên đầu ông mọc một cây elapatra lớn, đè bẹp ông ta với sức nặng của nó, rễ cây nhung nhúc côn trùng chúng làm cho ông đau đớn khủng khiếp.

Đức Phật hỏi tại sao ông như thế này, ông ta trả lời, “Xưa kia, vào thời đại giáo lý Đức Phật Kasyapa (Ca Diếp), khi ấy con là một tu sĩ. Một hôm áo của con bị vướng vào một cây elapatra lớn mọc bên đường và bị kéo tuột ra. Con giận dữ điên cuồng và vi phậm giới luật,88 con đã đốn ngã thân cây. Những gì Ngài thấy hôm nay là hậu quả của hành vi đó.”

Đối với tất cả những hành vi thiện hay ác, ý định là yếu tố hết sức quan trọng quyết định chúng có tính chất thiện hay bất thiện, nặng hay nhẹ. Nó cũng giống như một cái cây: nếu rễ của nó có dược tính, thì thân và là của nó cũng sẽ có dược tính. Nếu rễ độc hại thì thân và lá cũng độc. Lá thuốc không thể phát triển từ một rễ độc. Tương tự, nếu một ý định phát triển trên sự kích động hay bám chấp và do đó không hoàn toàn thanh tịnh thì hành vi theo sau bắt buộc phải tiêu cực, mặc dù chúng có vẻ tích cực. Trái lại, nếu ý định thanh tịnh, thì cho dù hành vi có vẻ tiêu cực nhưng trong thực tế lại là tích cực. Trong  Kho tàng Những Phẩm tính Quý Báu có nói: 

Nếu rễ là thuốc thì cành lá của nó cũng thế

Nếu nó độc thì khỏi cần nói, cành lá cũng độc.

Điều làm cho một hành vi thành thiện hay ác không phải ở chỗ bề ngoài của nó ra sao

Hoặc kích thước thế nào, mà là ý định tốt hay xấu đứng sau nó. 

Vì lý do này, thậm chí đã có thời chư vị Bồ Tát, những bậc Kế thừa của các Đấng

Chiến Thắng đượd phép vi phạm bảy hành động tổn hại của thân và khẩu với điều kiện là tâm các Ngài thanh tịnh và thoát khỏi mọi sự tham muốn ích kỷ. Điều này được minh hoạ bằng những ví dụ của Thuyền Trưởng Bi Tâm giết Chiến sĩ Giáo Đen, hay của thanh niên bà la môn Tình nhân của Các Ngôi Sao phạm giới trong sạch với một thiếu nữ bà la môn.

Có lần, trong một đời trước, Đức Phật là một thuyền trưởng tên là Bi Tâm. Ngài đang vượt biển với năm trăm thương nhân thì tên cướp biển ác độc tên là Chiến sĩ Giáo Đen xuất hiện, đe doạ giết tất cả mọi người. Thuyền trưởng nhận thấy những lái buôn này đều là những Bồ Tát không còn trở lại luân hồi, và nếu một người nào đó giết họ sẽ phải chịu đau khổ trong địa ngục trong vô số kiếp. Được thúc đẩy bởi một cảm xúc bi mẫn mãnh liệt, Ngài nghĩ: “Nếu ta giết hắn, hắn sẽ không phải xuống địa ngục. Do đó ta chẳng còn chọn lựa nào khác, dù rằng điều đó có nghĩa là chính ta phải đoạ địa ngục.” Với lòng can đảm phi thường, Ngài đã giết tên cướp biển, và khi làm hành động này Ngài đã tích tập được một lượng công đức tương đương với công đức tích tập trong bảy mươi ngàn kiếp theo cách bình thường. Ở bề ngoài của nó thì đó là một ác hạnh, bởi Bồ Tát đang phạm vào hành vi sát sanh. Nhưng nó đã được làm mà không có động cơ ích kỷ nào. Trong tương lai gần, nó cứu mạng sống của 500 người lái buôn. Và trong phạm vi xa rộng hơn nó cứu Chiến sĩ Giáo Đen khỏi phải chịu đau khổ trong địa ngục. Vì vậy, trong thực tế thì hành động đó chính là một thiện hạnh hết sức mạnh mẽ.

Lại có một người bà la môn tên là Tình nhân của Các Ngôi Sao sống lâu năm trong rừng, giữ giới nguyện trong sạch. Một ngày nọ, anh ta đi khất thực trong một ngôi làng. Một thiếu nữ bà la môn thất tình với anh, tuyệt vọng tới nỗi sắp tự tử. Được thúc đẩy bởi lòng bi mẫn đối với cô ta, chàng thanh niên đã cưới cô, hành động này đem lại cho anh bốn mươi ngàn kiếp công đức.

Đối với những người như vậy thì việc giết hại hay phá vỡ giới nguyện trong sạch được cho phép. Trái lại, những hành vi tương tự được làm với động cơ ích kỷ do bởi sự tham dục, sân hận hay vô minh đều không được phép đối với bất kỳ ai.

Một Bồ Tát với tâm rộng lớn bao la và không dấu vết tham dục cá nhân cũng có thể lấy trộm của người giàu mà keo kiệt, và nhân danh họ cúng dường của cải cho Tam Bảo hay cho những người nghèo túng.

Việc nói dối để che chở người nào đó sắp bị giết, hay để bảo vệ của cải thuộc về Tam Bảo thì cũng được phép. Nhưng lừa dối người khác vì lợi lạc của mình thì không bao giờ là điều đúng đắn.

Việc nói gieo sự bất hoà, chẳng hạn như giữa hai người bạn thân, trong đó một người làm điều xấu trong khi người kia yêu thích làm việc tốt lành, thì cũng được phép nếu có nguy cơ tính khí mạnh mẽ của người xấu sẽ làm hư hỏng người tốt. Tuy nhiên, tuyệt đối không được phép chia rẽ hai người đang hoà thuận với nhau.

Cách nói cay nghiệt có thể được dùng, ví dụ thế, như một phương tiện mạnh mẽ hơn để đưa Giáo Pháp tới những người mà một cách tiếp cận mềm dẻo không gây được ấn tượng – hay trong sự răn dạy một đệ tử nhằm phô bày lỗi lầm được che đậy của anh ta. Như Ngài Atisa nói: 

Vị Thầy tốt nhất là người tấn công vào những lỗi lầm ẩn dấu của bạn;

Giáo huấn tuyệt hảo là lời chỉ dạy nhắm thẳng tới những lầm lỗi được che đậy này. 

Tuy nhiên, nói cay nghiệt chỉ để sỉ nhục người khác thì không được cho phép.

Nói chuyện vô ích có thể được sử dụng như một phương tiện để giới thiệu Giáo

Pháp cho những người thích trò chuyện và những người mà ta không có cách nào khác đem Giáo Pháp lại cho họ. Nhưng nó hoàn toàn không được dùng để biện hộ cho sự xao lãnh của chính mình và những người khác.

Đối với ba hành vi bất thiện của ý thì không ai được cho phép vi phạm, bởi đứng về mặt ý định thì không có cách nào để chuyển hoá những hành vi này thành điều tích cực. Một khi tư tưởng tiêu cực đã khởi lên, nó luôn luôn phát triển thành một điều gì đó không tốt lành.

Tâm thức là người duy nhất khởi xướng điều tốt và điều xấu. Có nhiều trường hợp khi những tư tưởng khởi lên trong tâm, cho dù chúng không được chuyển hoá thành lời nói hay hành động thì vẫn có một hậu quả tốt hay xấu hết sức mạnh mẽ. Vì thế, hãy luôn luôn kiểm soát tâm bạn. Nếu tư tưởng của bạn tích cực, hãy hoan hỷ và làm nhiều điều tốt lành hơn nữa. Nếu tư tưởng bạn tiêu cực, hãy sám hối lập tức, cảm thấy xấu xa và tủi hổ rằng bạn vẫn còn nuôi dưỡng những tư tưởng như vậy mặc dù đã tiếp nhận mọi giáo lý, và hãy tự nhủ từ giờ trở đi bạn phải nỗ lực hết sức không để cho những tư tưởng như thế xuất hiện trong tâm. Ngay cả khi bạn làm điều thiện, hãy kiểm tra động cơ của bạn thật kỹ lưỡng. Nếu ý hướng của bạn tốt, hãy thực hiện. Nếu động cơ của bạn là để gây ấn tượng cho mọi người, hoặc được đặt nền tảng trên sự ganh đua hay khao khát danh tiếng, hãy cương quyết chuyển hoá nó và thấm đẫm nó bằng Bồ Đề Tâm. Nếu bạn hàon toàn không chuyển hoá được động cơ của bạn, thì tốt hơn bạn nên trì hoãn thực hiện thiện hạnh đó.

Một ngày nọ, Geshe đang mong đợi một nhóm đông thí chủ của Ngài tới thăm. Sáng hôm đó, Ngài sắp xếp đồ cúng dường trên bàn thờ trước hình tượng của Tam Bảo hết sức ngăn nắp. Khi khảo sát những ý định của mình, Ngài nhận ra là chúng không thanh tịnh, và điều Ngài đang làm chỉ là để gây sự chú ý cho những người bảo trợ của Ngài; vì thế Ngài hốt một nắm đất và ném lên toàn bộ đồ cúng dường, Ngài nói: “Này ông Tăng, hãy chân thật và chớ có màu mè!”

Khi Padampa Sangye nghe được chuyện này, Ngài nói: “Trong cả xứ Tây Tạng, nắm bụi mà Ben Kungyal ném là món cúng dường tuyệt hảo nhất!”

Vì thế, hãy luôn cẩn trọng canh chừng tâm bạn. Ở cấp độ của chúng ta, là những người bình thường, ta không thể không có những tư tưởng và hành động bị thôi thúc bởi những ý định xấu. Nhưng nếu chúng ta có thể lập tức nhận ra điều sai lầm, hãy sám hối và nguyện không tái phạm nó, chúng ta sẽ cắt đứt mối ràng buộc với nó.

Một ngày khác, Geshe Ben đang ở nhà của một vài người bảo trợ. Lúc gia chủ ra khỏi phòng, Geshe Ben nghĩ: “Ta không còn trà. Ta sẽ lấy trộm một ít để nấu khi trở về ẩn thất.”

Nhưng lúc đặt tay vào túi trà của họ, đột nhiên Ngài nhận ra điều mình đang làm và gọi những người bảo trợ: “Hãy lại đây nhìn xem tôi đang làm gì! Chặt tay tôi đi!”

Ngài Atisa nói: “Từ khi thọ giới Biệt giải thoát (Pratimoksa), ta chưa từng bị nhiễm ô bởi lỗi lầm nhỏ nhất. Trong khi thực hành giới luật Bồ Đề Tâm, ta đã vi phạm một hay hai lỗi nhỏ. Và từ khi thọ Kim Cương Thừa Mantra Bí Mật, mặc dù thỉnh thoảng còn vấp ngã, nhưng ta không lưu giữ những lỗi lầm hay sa sút quá một ngày.”

Khi du hành, ngay khi khởi lên bất kỳ niệm xấu nào trong tâm, Ngài lấy đế mạn đà la bằng gỗ 89 luôn mang theo người ra và sám hối tư tưởng xấu của mình, nguyện rằng không bao giờ tái phạm.

Một ngày nọ, Geshe Ben đang tham dự một hội chúng đông đảo gồm các geshe tai Penyulgyal. Một lát sau sữa đông được mang ra mời khách. Geshe Ben ngồi ở một hàng giữa và nhận thấy những vị tăng ngồi ở hàng đầu nhận được khẩu phần lớn.

“Sữa đông trông thật ngon lành,” Ngài tự nghĩ, “nhưng ta không nghĩ mình sẽ được phần tốt như thế.”

Ngay lập tức Ngài tự nhận ra: “Mi ghiền sữa chua rồi!” Ngài nghĩ, và lật úp bình bát của mình. Khi người phục vụ sữa tới hỏi Ngài có muốn dùng không, Ngài từ chối.

“Tâm thức xấu xa này đã lấy phần của nó rồi.” Ngài nói.

Mặc dù hoàn toàn không có gì sai khi muốn được nhận phần bằng nhau của bữa tiệc cùng những Tu sĩ thanh tịnh khác, nhưng chính tánh tự cho mình là quan trọng (tánh tự-quy) trong những tư tưởng mong cầu được nhận món sữa chua ngon lành đã khiến Ngài từ chối nó.

Nếu bạn luôn khảo sát tâm bạn như vậy, tuân thủ những gì lành mạnh và từ bỏ những gì độc hại, tâm bạn sẽ nhu nhuyễn dễ điều khiển và mọi tư tưởng của bạn sẽ trở nên tích cực.

Ngày xưa, có một người bà la môn tên là Ravi, là người luôn kiểm soát tâm mình. Bất cứ kh nào một niệm xấu khởi lên, ông để một viên sỏi đen sang một bên và khi khởi lên một niệm tốt, ông đặt một viên sỏi trắng. Thoạt tiên, tất cả đều là những hòn sỏi đen. Sau đó, khi ông kiên trì trong việc phát triển sự đối trị và làm những thiện hạnh, từ bỏ những ác hạnh, một thời gian sau, số lượng sỏi trắng và đen bằng nhau. Cuối cùng thì ông có toàn sỏi trắng. Đây là cách thức bạn nên phát triển hành động tích cực như một phương pháp đối trị cùng với sự tỉnh thức và cảnh giác, và chớ làm ô nhiễm bản thân ngay cả bằng những hành động bất thiện nhỏ bé nhất.

Cho dù bạn không tích tập những hành vi bất thiện trong đời này, bạn cũng không thể thấu biết được quy mô của tất cả những hành động mà bạn từng tích tập trong vòng luân hồi vô thuỷ, hoặc hình dung ra được những hậu quả của chúng mà bạn còn phải trải nghiệm. Vì thế có những người mặc dù giờ đây hoàn toàn hiến mình cho đức hạnh và sự thực hành tánh Không, nhưng họ vẫn tràn đầy đau khổ. Kết quả của những hành động của họ mà ở mặt khác vẫn ngấm ngầm tồn tại nhưng về sau sẽ khiến họ phải tái sanh vào những cõi thấp, thì nay xuất đầu lộ diện do sự đối trị mà họ đang áp dụng và chín mùi trong đời này. Kinh Người Cắt Kim Cương nói: 

Bồ Tát thực hành trí tuệ siêu việt vẫn bị đau khổ - quả thực, họ sẽ bị đau khổ khủng khiếp - bởi những hành vi trong quá khứ thay vì sẽ gây nên đau khổ trong những đời sau, thì đã chín mùi trong đời này. 

Ngược lại, có những người chỉ làm những ác hạnh mà vẫn kinh nghiệm lập tức những kết quả của một vài thiện hạnh, mà ở mặt khác một hành động sau này sẽ chín mùi. Điều này xảy ra trong xứ Aparantaka. Một trận mưa toàn đá quý đã đổ xuống trong bảy ngày liền, sau đó ngày mưa quần áo, và bảy ngày nữa mưa ngũ cốc. Cuối cùng là một trận mưa đất. Mọi người đều bị đè chết và bị tái sanh trong địa ngục.

Những tình huống như thế, trong đó người làm tốt phải chịu đau khổ, người làm ác lại hưởng sự thành công thịnh vượng thì luôn luôn xảy ra như kết quả của những hành vi đã làm trong quá khứ. Hành động hiện nay của bạn, dù xấu hay tốt, sẽ có kết quả trong đời kế tiếp hay những đời sau nữa. Vì lý do này, hết sức cần thiết phải phát triển một sự xác tín vững chắc về kết quả không thể tránh khỏi của những hành động của bạn và luôn luôn hành sử một cách phù hợp.

Không nên sử dụng ngôn ngữ của Giáo Pháp của những quan kiến cao tột để xem thường luật nhân quả.90 Đạo sư Vĩ đại xứ Oddiyana đã nói: 

Nhà Vua Vĩ Đại, trong Mantra thừa Bí Mật của tôi, quan điểm (cái thấy) là điều quan trọng nhất. Tuy nhiên, đừng để hành động của Ngài sa vào chiều hướng của cái thấy. Nếu làm như vậy, Ngài sẽ rơi vào tà kiến của ma quỷ, phiếm luận rằng thiện thì không mà ác cũng không. Nhưng cũng đừng để cái thấy của Ngài hoặc sa vào chiều hướng của hành vi, hoặc Ngài sẽ bị dính mắc trong sự duy vật và duy tâm,* và sự giải thoát sẽ không bao giờ tới.…

Đó là điều tại sao cái thấy của tôi cao hơn bầu trời, mà sự chú tâm tới những hành vi của tôi và những kết quả của nó thì tinh tế như bột mì.** 

Một khi các ông chứng ngộ tánh Không,” Ngài Padampa Sangye trả lời, “thì thật là vô lý khi làm việc bất thiện. Khi các ông chứng ngộ tánh Không thì lòng bi xuất hiện đồng thời với nó.”

Do đó, nếu bạn muốn thực hành Giáo Pháp một cách đích thực, bạn nên dành ưu tiên cho việc lựa chọn làm những gì phù hợp với luật nhân quả. Cái thấy (kiến) và hành vi (hành) phải được nuôi dưỡng song hành với nhau. Dấu hiệu cho thấy bạn đã thấu suốt giáo lý này về kết quả của các hành vi phải giống như Ngài Jetsun Milaepa.

Một ngày nọ, đệ tử hỏi Ngài: “Thưa Ngài Jetsun, mọi hành vi chúng con thấy Ngài làm đều vượt lên sự hiểu biết của những người bình thường. Ngài Jetsun quý báu, phải chăng ngay từ lúc khởi đầu Ngài là một hoá thân của Đức Vajradhara (Kim Cương Trì), hay của một vị Phật hoặc Bồ Tát?”

“Nếu các con coi ta là một hoá thân của Đức Vajradhara, hay của một vị Phật hoặc Bồ Tát,” Ngài Jetsun trả lời, “nó cho thấy các con có lòng tin nơi Ta – nhưng các con khó có thể có một cái thấy không sai lầm về Giáo Pháp! Ta bắt đầu bằng cách chồng chất những hành động cực kỳ ác hại, sử dụng chú thuật và tạo ra mưa đá. Ta cũng sớm nhận ra rằng mình không có cách nào thoát khỏi việc bị tái sanh trong địa ngục. Vì thế ta đã thực hành Giáo Pháp với lòng nhiệt thành không ngơi nghỉ. Nhờ những phương pháp sâu xa của Mật chú thừa, ta đã phát triển những phẩm tính đặc biệt trong chính ta. Giờ đây, nếu các con không thể phát triển bất kỳ quyết tâm chân thực nào để thực hành Giáo Pháp, thì đó là vì các con không tin vào luật nhân quả. Bất cứ ai với chút ít quyết tâm có thể phát triển lòng dũng cảm như ta đã làm nếu họ có được sự xác tín thật sự và chân thành đó nơi kết quả của những hành vi của họ. Khi đó họ sẽ phát triển những thành tựu tương tự - và người ta cũng sẽ nghĩ rằng họ là những hiện thân của Đức Vajradhara hay của một vị Phật hoặc Bồ Tát nào khác.”

Chính niềm tin vào nhân quả của Jetsun Milarepa đã hoàn toàn thuyết phục Ngài rằng vì mắc phạm những ác hạnh trong thời niên thiếu nên Ngài sẽ bị tái sanh vào địa ngục. Do xác tín này, Ngài đã thực hành với một sự quyết tâm tới nỗi khó tìm thấy được bất kỳ câu chuyện kể nào ở Ấn Độ hay Tây Tạng so sánh được với câu chuyện về những thử thách và nỗ lực của Ngài.

Như vậy, từ đáy lòng bạn, hãy khơi dậy sự xác tín nơi điểm trọng yếu này, là nguyên lý nhân quả. Hãy luôn luôn thực hiện càng nhiều càng tốt các thiện hạnh khi có thể, cho dù chúng nhỏ bé tới đâu chăng nữa, trong khi áp dụng ba phương pháp tối cao.* Hãy tự hứa không bao giờ lập lại những hành vi tiêu cực nhỏ bé nhất, cho dù mạng sống của bạn bị đe doạ.

Khi tỉnh thức vào buổi sáng, đừng bất thần nhảy xuống giường như con bò hay con cừu phóng ra khỏi chuồng của nó. Trong lúc vẫn còn trên giường, hãy thư giãn tâm thức bạn, xoay chuyển vào trong và khảo sát nó kỹ càng. Nếu bạn đã làm bất kỳ điều bất thiện nào vào ban đêm trong giấc mộng thì hãy ân hận và sám hối. Trái lại, nếu bạn làm điều gì đó tích cực, hãy hoan hỷ và hồi hướng công đức cho sự lợi ích của tất cả chúng sanh. Hãy khơi dậy Bồ Đề Tâm, nghĩ rằng: “Hôm nay tôi sẽ làm bất cứ hành động tốt lành, tích cực nào mà tôi có thể, và hết sức tránh làm bất kỳ hành động tiêu cực hay xấu ác nào, khiến cho tất cả chúng sanh vô biên đều đạt được Phật Quả viên mãn.”

Buổi tối, lúc đi ngủ, đừng vội rơi vào sự vô thức. Hãy sử dụng chút ít thời gian để thư dãn trên giường và khảo sát chính mình trong cách thức tương tự. “Ngày hôm nay ta đã tận dụng được những gì? Tôi có làm điều gì tích cực không?” Nếu bạn đã thực hiện vài điều tốt, hãy hoan hỷ và hồi hướng công đức để tất cả chúng sinh có thể đạt được Phật quả. Nếu bạn làm điều gì sai, bạn nên nghĩ: “Thật khủng khiếp! Ta đã vừa tự huỷ hoại chính mình!” Hãy sám hối việc làm đó và nguyện không bao giờ tái phạm.

Trong mọi lúc, hãy tỉnh giấc và cảnh giác để bạn không bám níu vào những nhận thức của bạn về vũ trụ và chúng sinh ở trong đó là thực có và bền vững. Hãy tu tập bản thân để nhìn mọi sự như trò nô đùa của những sự xuất hiện không thực. Hãy làm cho tâm bạn nhu nhuyễn bằng cách luôn gìn giữ nó trên một tiến trình tốt lành và chân thật, tự bản chất là mục tiêu cũng như kết quả của những gì chúng ta đã giải thích, đó là sự thực hành bốn tư tưởng chuyển hoá tâm thoát khỏi luân hồi. Trong cách này, mọi thiện hạnh bạn làm sẽ tự động kết nối với ba phương pháp tối cao. Như có nói: 

Một người làm việc thiện giống như một cây thuốc;

Mọi người nương cậy anh ta đều được lợi ích.

Một người làm điều ác hại going như cây có chất độc;

Những ai nương cậy hắn đều bị huỷ hoại. 

Nếu bản thân bạn có tâm thái đúng đắn, bạn sẽ có thể chuyển tâm của tất cả những ai liên hệ với bạn91 hướng về Giáo Pháp chân thật. Vô lượng công đức cho chính bạn và người khác sẽ gia tăng không bờ bến. Bạn sẽ không bao giờ còn tái sanh vào những cõi thấp, là nơi viễn cảnh của bạn ngày càng tệ hơn, mà bạn sẽ luôn luôn có những điều kiện độc nhất vô nhị của đời sống một vị Trời hay con người. Ngay cả những miền đất nào là nơi trú ngụ của những vị trì giữ một giáo lý như thế cũng sẽ có công đức và sự may mắn, và sẽ luôn luôn được chư Thiên bảo vệ. 

Con biết mọi chi tiết về nghiệp, nhưng con không thực sự tin ở nó.

Con đã nghe nhiều Giáo Pháp, nhưng chưa từng đưa nó vào thực hành.

Xin ban phước cho con và những kẻ làm điều ác giống con

Khiến tâm chúng con có thể hoà lẫn với Giáo Pháp. 


 

* Từ Phạn ngữ karma (T.T. las), bây giờ thường được sử dụng trong Anh ngữ để biểu thị kết quả của những hành động trong quá khứ, thực ra chỉ đơn thuần có nghĩa là “hành vi”. Tuy nhiên, những người Tây Tạng cũng sử dụng thành ngữ las trong ngôn ngữ thông thường để biểu thị toàn thể tiến trình, hay nguyên lý, của nhân và quả thuộc về nghiệp, rgyu’bras, nó là chủ đề của chương này.

[69] Đi theo sự tiến bộ của các Thừa (Phạn: yana) có nghĩa là bên ngoài ta theo giới luật của Tiểu thừa trong khi bên trong thực hành Đại Thừa, và một cách bí mật, ta thực hành Kim Cương Thừa. Ở đây Ngài Patrul Rinpoche ngụ ý rằng Thầy của Ngài dù tâm đã hoàn toàn vượt khỏi luân hồi, nhưng vẫn là một gương mẫu hoàn hảo cho đệ tử về cách đi theo con đường tiến bộ. 

[70]  Hai hành động khác với quả báo lập tức là gây tội chia rẽ trong Tăng Đoàn và làm thân Phật chảy máu.

[71] Trong hầu hết xã hội Tây Tạng lúc đó, việc dùng thịt trong mỗi bữa ăn được coi như là dấu hiệu của sự giàu có và vì vậy thuộc địa vị cao. Người khách đang khoe khang để người khác có cảm tưởng rằng ở nhà ngoài món thịt ra cô không quen ăn bất kỳ món gì khác. 

* Một trong năm năng lực vi tế (rlung) hay “gió” trong thân thể (xem thuật ngữ).

[72]  Ở đây Ngài Patrul Rinpoche phân biệt giữa hiện tượng tâm lý không liên quan đến trí tuệ và tính siêu việt chân thực của không gian và thời gian của những bậc giác ngộ, là những người đã đạt được ba cấp độ Bồ Tát cao nhất. Cái trước được mô tả là bị zag bcas, “nhiễm ô” (bởi những khái niệm), và cái sau là zag med,  “vô nhiễm”. 

[73]  “Nghi lễ của những người bà la môn” ám chỉ những nghi lễ thực hiện không vì động cơ đạt được giác ngộ cho tất cả chúng sanh. Mặc dù là những nghi lễ tôn giáo, chúng không được coi là dẫn đến giải thoát rốt ráo.

[74] Dkor nag po: vì sự linh thiêng thật sự của Phật, Pháp, Tăng nên sự lạm dụng các vật cúng dường gây nên cho họ nghiệp quả hết sức nặng nề. Ở đây đặc biệt nói đến những sự cúng dường của tín đồ trong các nghi lễ được thực hiện cho người chết, người bệnh v.v.

[75]  thar pa dang grol ba: chúng tôi đã dịch hai thuật ngữ ở đây là sự giải thoát và tự do, gần như đồng nghĩa trong Anh Ngữ. Pema Wangyal Rinpoche giải thích sự khác nhau trong văn cảnh này là: sự giải thoát (thar pa) là thoát khỏi sinh tử luân hồi, đặc biệt là những cõi thấp, trong khi sự tự do (grol ba) là thoát khỏi mọi chướng ngại cho sự toàn giác, hay giác ngộ. Trong những văn cảnh khác, thar pa có thể bao hàm cả hai nghĩa này, như trong Chướng Sáu.

[76]  Quan điểm này được coi là không đúng, không phải vì nó phủ nhận một tác nhân, mà bởi nó phủ nhận tiến trình nhân quả 

78 Bởi những bậc dẫn dắt tâm linh xuất hiện tuỳ theo những hành vi trong quá khứ của chúng sanh nên vị Thầy và đệ tử được nối kết không thể chia cách. Do đó, nếu đệ tử cư xử không phù hợp thì những hậu quả sẽ phản nghịch lại vị Thầy (trong lãnh vực tương đối), làm suy giảm thời gian hoá thân và gây chướng ngại cho những hoạt động làm lợi ích cho người khác của vị Thầy.

79 Tà kiến sẽ làm cho quan điểm của ta trở nên chật hẹp. Ngay cả kết quả của những hành động tích cực của ta cũng sẽ bị giới hạn bởi ta thực hiện chúng mà không có động cơ đạt tới giác ngộ viên mãn vì lợi ích của tất cả chúng sanh. Ngoài ra, nếu không tin vào những bậc truyền dạy Giáo Pháp, ta sẽ không có sự hỗ trợ cho việc sám hối đã được mô tả trong Phần Hai, Chương Ba.

80 Điều này ám chỉ lúc nghiệp lực được tạo nên bởi một hành động sinh ra kết quả tối đa, nó có thể được thúc đẩy nhanh hơn hay làm chậm lại do kết quả của những hành động khác.

81 Một bản dịch hơi khác biệt của trích dẫn này được đưa ra trong ấn bản của Zenkar Rinpoche của bản văn Tây Tạng: “Muốn biết nơi bạn sinh ra trước kia, hãy nhìn xem bây giờ bạn là gì. Muốn biết nơi bạn sắp tái sanh, hãy nhìn xem hiện bạn đang làm gì.” 

82 Bố thí bất tịnh là cho với thái độ quy-ngã, trong kiểu cách bủn xỉn hay miễn cưỡng, hoặc cho rồi sau đó lại hối tiếc. Kết quả của việc bố thí theo cách này là ta sẽ được giàu có nhưng sẽ không hưởng được lợi ích từ nó. 

* Bộ tộc của Đức Phật, ngày nay sống ở biên giới Ấn Độ và Nepal.

83 Những phẩm tính của một vị Phật: gồm ba mươi hai tướng chính, tám mươi tướng phụ, mười năng lực v.v.

84  seng ldeng là một loại cân thân mộc, tức cây cao su Acacia cateche, được tìm thấy khắp miền Bắc Ấn Độ, Nepal và những thung lũng ở Tây Tạng.

85  Xem chú thích 36.

86  Chúng tôi không thể làm dễ hiểu nhóm từ này. Srog có nghĩa là sinh lực, nó hỗ trợ cho hơi ấm (nhiệt) và ý thức hoặc hơi thở. Dường như Surabhibhadra (xem chú thích 36) là vị bảo trợ của Nagarjuna, người cung cấp thuốc trường sinh cho Surabhibhadra. Nếu đúng như thế thì có lẽ người con muốn giết cha nên đã quyết định giết Nagarjuna để ngăn trở việc Ngài đưa thuốc trường sinh cho cha mình.

87 Theo truyền thuyết đầu và thân Ngài Nagarjuna có hình dạng hai tảng đá lớn bị tách rời (tại Nagarjunakoda miền Nam Ấn Độ) mà trải qua nhiều thế kỷ dần dần xích lại gần nhau hơn. Khi chúng hợp nhất, Ngài Nagarjuna sẽ hồi sinh 

88 Thêm vào những hành vi tiêu cực nói chung thì có những hành động mà Đức Phật ngăn cấm những người đã thọ những giới đặc biệt. Ở đây, vị tăng đang vi phạm một giới luật ngăn cấm tu sĩ đã thọ cụ túc giới chặt phá cây cối. 

89 Đế tròn trên đó những nhúm gạo, v.. được đặt tên trong sự cúng dường mạn đà la. Cúng dường mạn đà la là một phần của tiến trình tịnh hoá. Sự cúng dường mạn đà la đã được giải thích chi tiết trong Phần Hai. Chương Bốn. 

90  Việc dùng ngôn ngữ của Giáo Pháp về những quan kiến tối thượng để xem thường luật nhân quả có nghĩa là dùng giáo lý của chân lý tuyệt đối như một cái cớ để làm bất kỳ điều gì mình mong muốn, nói rằng không có khác biệt giữa thiện và ác, luân hồi và Niết Bàn, chư Phật và chúng sinh bình thường, v.v..

* dngos po dang mtshan ma, nghĩa đen: vật chất và các tính chất. Điều này có nghĩa là ta sẽ không bao giờ siêu vượt lên một cách tiếp cận thuộc khái niệm.

** zhib có nghĩa là mịn (như bột mì) và cũng có nghĩa là tỉ mỉ, chính xác

* Xem Phần Một chương Một, Mục II, tiết 4

91  Điều này có nghĩa là bất kỳ ai được nối kết với một người theo bất cứ cách nào, tích cực, tiêu cực, hay hoàn toàn ngẫu nhiên. Ngay cả một quan hệ tối thiểu với một Bồ Tát, qua việc thấy, nghe, xúc chạm, v.v..cũng có thể đem lại lợi ích to lớn và dẫn đến giải thoát.

 

----o0o---

 

Mục Lục > 1-1 > 1-2 > 1-3 > 1-4> 1-5 >1-6

 2-1 > 2-2 > 2-3 > 2-4 > 2-5 > 2-6 > 3-1

 

----o0o---

Vi tính: Tường Tâm

Trình bày: Diệu Tường

Cập nhật: 01-2008

Nguồn: www.quangduc.com

Về danh mục

VÃ Æ tấm Hồn xuân trong cánh mai quang CÃn lời phật dạy về đạo đức trong kinh çš phÃƒÆ nu cach cung ram thang bay tai nha hop ly va tiet điều quan chieu ngu uan ï¾ ï½½ bệnh Phật giáo Long trọng tưởng niệm Tổ Minh Hải tren hoc phat vì sao ta không thể dứt ra được trong đạt Chú 佛教 临终关怀 Vỏ các loại quả chữa bệnh ke ganh co kho tren duong thien ly quan hải メス 15 thiền sư thích nhất hạnh được trao tuc cấu hai cau chuyen y nghia ve dung khi va su kien tri Thương thắp sáng niềm chánh tín con duong phat bo de tam an chay Mật Gương d Tôi hạnh phúc vì tôi đang có mẹ phai qua bao nhieu loi Yêu lắm một vùng quê Ướp Ä Æ dung loi hen voi thoi Gừng tươi có tác dụng giảm đau tra Ni峄噈 tà Æ