LỜI VÀNG CỦA THẦY TÔI

Nguyên Tác: O-rgyan-'jigs-med-chos-kyi-dban-po

(Kunzang Lama'i Shelung)

Bản dịch Anh ngữ: The Words of my Perfect Teacher/Patrul Rinpoche

Của Nhóm Dịch thuật Padmakara

Nhà Xuất bản Shambhala

Bản dịch Việt ngữ: Nhóm Longchenpa 2004

----o0o---- 

PHẦN II 

NHỮNG CHUẨN BỊ PHI THƯỜNG HAY BÊN TRONG

------------------- 

CHƯƠNG I

SỰ QUY Y, NỀN MÓNG CỦA MỌI CON ĐƯỜNG 

 

Đặt Tam Bảo lên đầu, là sự quy y bên ngoài

Ngài thực sự chứng ngộ Ba Gốc, là sự quy y bên trong;

Ngài đã hiển lộ ba thân, là quy y tối thượng.

Bậc Thầy Vô Song, con đãnh lễ dưới chân Ngài. 

Sự quy y, [106] nền móng của mọi con đường,[107] được giải thích dưới ba tiêu đề: những tiếp cận để quy y, quy y như thế nào, những giới luật và lợi ích của việc quy y.

 

I.  NHỮNG TIẾP CẬN ĐỂ QUY Y 

1.  Niềm tin

Giống như sự quy y mở ra cánh cửa đi vào tất cả những giáo lý và sự thực hành, thì chính niềm tin mở ra cánh cổng để quy y. Do vậy, như bước đầu trong việc quy y, điều quan trọng là phải phát triển một niềm tin kiên cố và lâu dài. Bản thân niềm tin có ba loại: niềm tin sống động, niềm tin tha thiết, và niềm tin chắc chắn. 

1.1  NIỀM TIN SỐNG ĐỘNG 

Niềm tin sống động là niềm tin được thôi thúc trong chúng ta qua việc nghĩ tưởng về lòng bi mẫn bao la của chư Phật và những bậc Thầy vĩ đại. Chúng ta có thể kinh nghiệm loại niềm tin này khi viếng thăm một ngôi chùa có nhiều biểu tượng cho thân, khẩu, ý của chư Phật, hay sau một cuộc gặp gỡ một vị Thầy hoặc thiện tri thức vĩ đại mà ta vừa đích thân hội kiến hoặc những phẩm tính hay tiểu sự của những vị mà ta được nghe kể lại.

 1.2  NIỀM TIN THA THIẾT 

Niềm tin tha thiết là lòng nhiệt thành của chúng ta muốn thoát khỏi những đau khổ của ba cõi thấp khi chúng ta được nghe mô tả về chúng: sự nhiệt thành của chúng ta muốn vui hưởng hạnh phúc của những cõi cao và của sự giải thoát khi chúng ta được nghe về chúng; sự nhiệt thành của chúng ta để dấn mình vào những thiện hạnh khi ta nghe nói về những lợi ích mà chúng mang lại; và sự nhiệt thành của chúng ta để tránh những hành vi tiêu cực khi ta hiểu được những tổn hại do chúng gây ra. 

1.3  NIỀM TIN CHẮC CHẮN 

Niềm tin chắc chắn là niềm tin vào Tam Bảo khởi lên từ đáy lòng ta một khi chúng ta thấu hiểu được những phẩm tính phi thường và năng lực những sự ban phước của các Ngài. Nó là toàn bộ niềm tin cậy duy nhất nơi Tam Bảo xuất phát từ sự nhận thức rằng các Ngài là nơi nương tựa[108] duy nhất không bao giờ vơi cạn, luôn luôn và trong mọi hoàn cảnh, cho dù chúng ta hạnh phúc, buồn bã, bệnh tật, sống hay chết.* Đức Tôn Quý xứ Oddiyana nói: 

Niềm tin của sự hoàn toàn tin cậy cho phép những sự ban phước thấm nhập vào bạn.

Khi tâm thoát khỏi sự nghi ngờ, bất kỳ những gì bạn mong muốn đều có thể thành tựu. 

Do đó niềm tin giống như một hạt giống, từ đó mọi điều thiện có thể tăng trưởng.

Nếu thiếu niềm tin, hạt giống như thể bị thiêu đốt. Kinh điển nói: 

Trong những người thiếu niềm tin

Sẽ không có điều thiện nào được phát triển,

Cũng như từ một hạt giống bị thiêu đốt

Sẽ chẳng bao giờ có chồi xanh nào mọc được. 

Trong bảy sự giàu có cao quý, niềm tin là điều quan trọng nhất. Có câu nói: 

Bánh xe quý báu của niềm tin

Lăn cả ngày lẫn đêm trên con đường đức hạnh. 

Niềm tin là món quý báu nhất trong tất cả những tài nguyên của chúng ta. [109]Nó đem lại một nguồn đức hạnh vô tận, giống như một kho tàng. Nó mang chúng ta suốt trên con đường giải thoát giống như đôi chân, và thâu nhập mọi điều tốt đẹp cho chúng ta như đôi tay. 

Niềm tin là tài sản và kho tàng vĩ đại nhất, kẻ tốt nhất trong những đôi chân;

Nó là nền tảng để thâu thập mọi đức hạnh, giống như đôi tay. 

Lòng bi mẫn và những sự ban phước của Tam Bảo thì không thể nghĩ bàn. Tuy nhiên, việc chúng có thể thấm nhập vào chúng ta sâu xa hay không thì hoàn toàn tuỳ thuộc vào lòng tin và sự sùng mộ ta. Nếu bạn có lòng tin và sự sùng mộ bao la, thì những sự ban phước và lòng bi mẫn mà bạn nhận được từ vị Thầy của bạn và  Tam Bảo cũng sẽ bao la tương đương như vậy.  Nếu lòng tin và sự sùng mộ của bạn chỉ ở mức độ trung bình thì lòng bi mẫn và những sự ban phước đến với bạn cũng sẽ trung bình. Nếu bạn chỉ có một lòng tin và sự sùng mộ ít ỏi, thì chỉ có ít ỏi lòng bi mẫn và ân phước sẽ đến với bạn. Nếu bạn hoàn toàn không có lòng tin và sự sùng mộ, bạn sẽ tuyệt đối không nhận được gì cả. Nếu không có lòng tin thì ngay cả việc được gặp Đức Phật và được Ngài nhận làm đệ tử cũng hoàn toàn chẳng có ích lợi gì, giống như đối với tu sĩ Sanaksatra mà câu chuyện của ông đã được kẻ ở chương trước, và với người anh em bà con của Đức Phật là ông Devadatta (Đề Bà Đạt Đa).

Ngay cả ngày nay, bất kỳ khi nào Đức Phật được khẩn cầu với lòng tin và sự sùng mộ chân thành, thì Ngài hiện diện ở đó và ban rải những sự ban phước. Đối với lòng bi mẫn của Đức Phật thì không có gần hay xa. 

Đối với tất cả những ai nghĩ tưởng tới Ngài với niềm tin

Đức Phật hiện diện ở đó trước mặt họ

Và sẽ ban những quán đảnh và ân phước. 

Và Đạo Sư Vĩ đại xứ Oddiyana nói: 

Đối với tất cả đàn ông và đàn bà có lòng tin nơi ta, Ta, Liên Hoa Sanh

Chưa từng rời xa – Ta ngủ cạnh cửa nhà họ.[110]

Với ta không có sự chết;

Trước mỗi người có lòng tin, đều có một Liên Hoa Sanh. 

Khi ta có niềm tin chắc chắn, lòng bi mẫn của Đức Phật có thể hiển diện trong bất kỳ sự việc gì. Điều này được minh hoạ bởi câu chuyện một bà lão sùng tín được cứu giúp để đạt được Phật quả nhờ một cái răng chó.

Ngày xưa có một bà cụ, con trai bà là một thương gia. Anh ta thường đi Ấn Độ buôn bán. Một hôm bà cụ nói với con: “Ở Bồ Đề Đạo Tràng tại Ấn Độ có Đức Phật Toàn Giác. Con hãy đem về cho mẹ một vài thánh tích đặc biệt từ Ấn Độ để mẹ có thể đảnh lễ nó.” Bà lập lại lời thỉnh cầu nhiều lần, nhưng người con vẫn quên và chẳng bao giờ đem về cho bà những gì bà yêu cầu.

Một hôm, khi người con đang chuẩn bị đi Ấn Độ một lần nữa, bà mẹ nói: “Lần này, nếu con không đem về vật gì để mẹ đảnh lễ thì mẹ sẽ tự sát trước mặt con.”

Người con đi Ấn Độ, kết thúc việc mua bán đã dự định và lên đường trở về nhà, một lần nữa lại quên điều yêu cầu của mẹ. Chỉ khi về gần tới nhà anh ta mới chợt nhớ ra.

Anh ta tự nghĩ: “Nay ta sắp làm gì?” anh tự nghĩ. “Ta không mang được thứ gì về cho mẹ già của ta đảnh lễ. Nếu ta về nhà tay không, bà sẽ tự sát!”

Nhìn quanh, anh ta thấy một cái đầu chó đang nằm gần trên đất gần đó. Anh ta nhổ một cái răng và dùng miếng lụa gói lại. Về đến nhà, anh đưa nó cho mẹ và nói: “Đây là một trong những ranh nanh của Đức Phật. Mẹ có thể dùng nó để trợ giúp cho sự cầu nguyện của mẹ.”

Bà lão tin lời con. Bà có niềm tin mãnh liệt nơi chiếc răng, hoàn toàn như thể nó thực sự là chiếc răng Phật. Bà luôn luôn cúng dường và đảnh lễ, và từ chiếc răng chó xuất hiện nhiều hạt ngọc kỳ diệu.* Khi bà lão chết, một vòm ánh sáng cầu vòng xuất hiện quanh bà cùng những dấu hiệu khác của sự thành tựu.

Như thế một cái răng chó thì không chứa đựng chút ân phước nào. Nhưng lòng tin của bà lão mãnh liệt tới nỗi bà đoan chắc rằng nó thực sự là răng của Đức Phật. Nhờ niềm tin của bà, chiếc răng được thấm đẫm những sự ban phước của Đức Phật, cho tới cuối cùng thì cái răng chó không khác gì chiếc răng Phật thực sự.

Xưa kia, trong tỉnh Kongpa, có một người chất phác mà sau này được biết với cái tên Jowo Ben. Ông làm một cuộc hành trình tới miền Trung Tây Tạng để gặp Jowo

Rinpoche.**

Thoạt đầu khi ông tới trước tượng thì quanh đó không có người giữ chùa hay bất kỳ ai khác. Thấy thực phẩm cúng dường và đèn bơ ở trước pho tượng, ông ngỡ Jowo Rinpoche phải nhúng bánh cúng vào bơ chảy lỏng trong các ngọn đèn và ăn chúng. Ông tin rằng những ngọn tim đèn cháy sáng để làm cho bơ tan lỏng.

“Ta nghĩ rằng tốt hơn mình nên ăn một ít giống như Jowo Rinpoche,” ông tự nghĩ và nhúng một miếng bánh bột lấy trong torma cúng dường vào bơ rồi ăn. Ông nhìn vào khuôn mặt đang tươi cười của Ngài Jowo.

“Ngài thật là một lạt ma tốt bụng,” ông nói. “Ngay cả khi chó đến ăn trộm thực phẩm được cúng dường của Ngài, Ngài cũng mỉm cười; khi gió lùa làm những ngọn đẻn của Ngài kêu xèo xèo, Ngài vẫn mỉm cười. Đây, tôi gởi Ngài đôi giày. Làm ơn trông chừng dùm tôi trong khi tôi đi nhiễu quanh Ngài.”***

Ông cởi giày đặt trước pho tượng. Trong lúc ông đang đi nhiễu quanh con đường chính giữa bao quanh ngôi chùa thì người giữ chùa nhìn thấy đôi giày. Ông ta sắp ném đôi giày ra ngoài thì bức tượng nói:

“Đừng ném chúng. Kongpo Ben đã gởi giày cho ta!”

Cuối cùng Ben trở lại và lấy đôi giày.

“Người ta gọi Ngài là một lạt ma tốt bụng quả là không sai”, ông nói với pho tượng. “Sang năm sao Ngài lại không đến thăm chúng tôi nhỉ. Tôi sẽ giết một con heo già để nấu cho Ngài và đãi Ngài ít bia lúa mạch lâu năm hấp dẫn.”

Ngài Jowo nói: “Ta sẽ đến.”

Ben trở về nhà và nói với vợ: “Tôi đã mời Ngài Jowo Rinpoche, thế nhưng tôi không biết chính xác chừng nào Ngài tới, vậy đừng quên và nhớ để ý đến Ngài.”

Một năm trôi qua. Một ngày nọ, khi đang kéo nước trên sông vợ của Ben thấy rõ ràng bóng phản chiếu của Ngài Jowo Rinpoche trên mặt nước.

Bà lập tức chạy về nhà nói với chồng “Có cái gì ở dưới đó, trong con sông tôi không rõ đó có phải là người mà ông không.”

Ben chạy xuống sông và thấy Jowo Rinpoche sáng ngời trong nước. Cho là Ngài bị chìm xuống sông, Ben nhảy xuống. Khi chộp được hình ảnh, ông thấy là có thể thực sự nắm được nó và đem nó đi theo.

Khi gần đến nhà Ben, họ tới trước một tảng đá khổng lồ bên đường. Ngài Jowo không muốn đi xa hơn nữa.

“Ta không vào nhà của cư sĩ,” Ngài nói, và biến mất vào tảng đá.

Nơi Ngài Jowo được nhìn thấy khi tới đó được gọi là Jowo Dolé, còn dòng sông nơi xuất hiện hình ảnh Ngài thì có tên là Sông Jowo. Thậm chí ngày nay, người ta nói nơi này cũng ban phước tương tự như Ngài Jowo ở Lhasa, và mọi người đảnh lễ và cúng dường ở đây. Chính nhờ sức mạnh của niềm tin kiên cố mà Ben đã kinh nghiệm được lòng bi của Đức Phật. Mặc dù ông ăn bơ trong các ngọn đèn và thực phẩm lấy từ các món cúng dường, lại đặt đôi giày trước tượng Ngài Jowo - ở mặt khác thì những hành vi này chỉ có thể là điều sai trái – nhưng sức mạnh của niềm tin của ông đã làm cho chúng trở nên hoàn toàn tích cực.

Thêm nữa, cũng chỉ duy nhất trên niềm tin mà sự chứng ngộ thực sự chân lý tuyệt đối, trạng thái tự nhiên được phát sinh. Trong một quyển Kinh có nói: 

Ô, Xá Lợi Phất, chân lý tuyệt đối chỉ được chứng ngộ nhờ niềm tin. 

Khi bạn phát triển được một niềm tin hoàn toàn siêu việt vượt sự tầm thường, khi nhờ năng lực của nó mà những sự ban phước của vị Thầy và Tam Bảo sẽ thấm nhập vào bạn. Sau đó, sự chứng ngộ thực sự sẽ phát sinh và bạn sẽ nhận ra được trạng thái tự nhiên như nó thực sự là. Khi điều đó xảy ra, bạn sẽ cảm thấy một niềm tin và sự xác tín thậm chí còn phi thường và kiên cố hơn nữa nơi vị Thầy của bạn và Tam Bảo. Trong cách này, niềm tin và sự chứng ngộ trạng thái tự nhiên hỗ trợ lẫn nhau.

Trước khi từ giã Ngài Jetsun Mila, Dagpo Rinpoche hỏi Ngài khi nào ông nên bắt đầu giảng dạy.

Ngài Jetsun trả lời: “Một ngày kia con sẽ có được một sự chứng ngộ nó sẽ đem tới cho con một cái thấy trong sáng phi thường về bản tánh của tâm con, hoàn toàn khác biệt với cái thấy con hiện có. Vào lúc đó, niềm tin kiên định sẽ xuất hiện trong con và con sẽ nhận ra ta, người cho già của con, như một vị Phật thật sự. Đó là lúc con nên bắt đầu giảng dạy.”

Do đó, khả năng nhờ đó ta nhận lãnh lòng bi mẫn và những sự ban phước của vị Thầy và Tam Bảo thì hoàn toàn phụ thuộc vào lòng sùng mộ và niềm tin.

Có một lần một đệ tử thỉnh cầu đạo sư Jowo Atisa: “Ngài Jowo, xin ban phước cho con”

“Đệ tử giải đãi,” Ngài Atisa trả lời: “hãy cho ta lòng sùng mộ của ngươi…”

Như thế, rất cần phải có sự tin cậy kiên cố tuyệt đối phát sinh từ niềm tin và lòng sùng mộ phi thường. Điều đó mở ra cánh cửa để thọ nhận sự quy y.

 

2.  Động cơ 

Có ba mức độ động cơ khác nhau để thọ quy y với loại niềm tin này. 

2.1    SỰ QUY Y CỦA CHÚNG SINH THẤP KÉM 

Sự sợ hãi những đau khổ của ba cõi thấp – cõi địa ngục, cõi ngạ quỷ và cõi súc sinh thúc đẩy chúng ta quy y với ý hướng đơn giản là đạt được hạnh phúc của những vị Trời và người. 

2.2    SỰ QUY Y CỦA CHÚNG SINH TRUNG BÌNH 

Sự nhận thức rằng cho dù ta tái sanh ở bất kỳ cõi giới cao hay thấp nào trong vòng luân hồi đều không thoát khỏi nỗi đau khổ đã thúc đẩy chúng ta quy y Tam Bảo với mục đích duy nhất là bản thân ta đạt được Niết Bàn, an lành và thoát khỏi tất cả đau khổ trong luân hồi. 

2.3    SỰ QUY Y CỦA NHỮNG BẬC VĨ ĐẠI 

Cảnh tượng mọi chúng sinh đắm chìm trong đại dương vĩ đại của những nỗi khổ bao la trong vòng luân hồi sinh tử và trải qua nhiều loại đau khổ khác nhau không thể tưởng tượng nổi thúc đẩy chúng ta quy y với ý định kiến lập tất cả họ trong trạng thái toàn giác vô song của Phật Quả viên mãn và toàn thiện.

Trong ba cấp độ động cơ này, ở đây chúng ta nên chọn con đường của những bậc vĩ đại, quy y vì mong muốn kiến lập mỗi người trong toàn thể vô lượng chúng sanh trong trạng thái Phật Quả viên mãn.

Thoạt nhìn thì hạnh phúc của chư Thiên và nhân loại có vẻ thực sự hạnh phúc. Tuy nhiên, trong thực tế họ vẫn không thoát khỏi đau khổ; và ngay khi kết quả của các thiện hạnh dẫn họ tới những trạng thái hạnh phúc đó bị cạn kiệt, họ sẽ rơi trở lại vào những cõi thấp. Vậy tại sao lại nỗ lực đạt được hạnh phúc của những cõi cao nếu như nó chỉ kéo dài trong khoảng khắc? Cõi Niết Bàn của những vị Thanh Văn và Độc Giác Phật đem lại sự an bình và hạnh phúc nhưng chỉ cho độc nhất chúng ta; trong khi tất cả chúng sanh - những cha và mẹ của chúng ta từ vô thuỷ - đang đắm chìm trong đại dương đau khổ vô tận của vòng luân hồi, nên nếu ta không nỗ lực cứu giúp họ thì đó sẽ là điều sai lầm.  Do đó, quy y Tam Bảo với mong ước tất cả chúng sanh có thể đạt đến Phật Quả là con đường của những bậc vĩ đại và là cánh cổng dẫn tới công đức vô biên. Đó cũng là con đường chúng ta nên đi theo. Trong Vòng Hoa Châu Báu có nói: 

Bởi chúng sinh thì bao la vô tận

Nên ước nguyện cứu giúp họ cũng bao la vô tận như vậy. 

II  QUY Y NHƯ THẾ NÀO 

Theo Thừa Nền tảng, ta quy y (nương tựa) nơi Đức Phật như vị Thầy, nơi Giáo Pháp như con đường, và nơi Tăng Đoàn như những bạn đồng hành trên suốt con đường.

Phương pháp tổng quát của Mantra Thừa Bí Mật phi thường là quy y bằng cách cúng dường thân, khẩu và ý cho vị Thầy, nhận các Bổn Tôn như người hộ trì, và các dakini như những người bạn đồng hành.

Phương pháp tối cao, đặc biệt của Tâm Yếu Kim Cang là quy y nơi con đường nhanh chóng nhờ đó hành giả sử dụng những kinh mạch như Hoá Thân, tu tập các năng lượng như Báo Thân và tịnh hoá những tinh tuý như Pháp Thân.

Sự quy y tuyệt đối và không thể sai lầm trong trạng thái bổn nhiên bất hoại được đặt nền tảng trên trí huệ nguyên sơ sẳn có nơi sự quy y. Bản chất cốt lõi và trí huệ đó là tánh không; biểu lộ tự nhiên của nó là sự trong sáng; và lòng bi của nó là sự toả khắp.[111] Sự quy y ở đây có nghĩa là nhận ra trong dòng tâm thức của chính chúng ta, với toàn bộ tín tâm, sự bất khả phân vĩ đại của ba phương diện này của trí huệ nguyên sơ.

Khi đã có một sự hiểu biết rõ ràng về tất cả con đường như vậy để thọ quy y, giờ đây chúng ta tiếp tục đi tới sự thực hành thực sự của việc quy y. Trước hết, hãy quán tưởng ruộng công đức[112] trong sự hiện diện đối tượng mà bạn sẽ quy y.

Hãy xem nơi bạn ở hoàn toàn là một Phật cảnh, đẹp đẽ và thật vừa ý, được làm bằng đủ loại chất liệu quý báu. Mặt đất bóng láng như mặt gương, không có bất kỳ núi đồi, thung lũng hay những gì thiếu sự hài hoà. Ở chính giữa, phía trước bạn, mọc lên một cây như ý với năm cành lớn toả ra từ thân cây. Lá, hoa và trái hoàn hảo của nó vươn tới bốn hướng Đông, Tây, Nam, Bắc, xa rộng tới nỗi làm tràn ngập cả bầu trời, và mỗi cành và nhánh treo vô số ngọc quý đẹp mê hồn và những cái chuông đủ loại.

Trên cành chính là một ngai bằng ngọc được tám con sư tử lớn nâng đỡ. An toạ trên ngai, trên một chỗ ngồi gồm một bông sen nhiều màu sắc,[113] một mặt trời và một mặt trăng, là vị đạo sư gốc của bạn, suối nguồn không gì sánh được của lòng bi mẫn, hiện thân của tất cả chư Phật trong quá khứ, hiện tại và vị lai, xuất hiện trong hình tướng của Đức Kim Cang Trì vĩ đại xứ Oddiyana. Thân Ngài có màu trắng quyến rũ có pha sắc hồng. Ngài có một mặt, hai tay, hai chân[114] và ngồi trong tư thế vương giả.*  Tay phải cầm một chày vajra (kim cương) năm chấu bằng vàng với ấn phẫn nộ. Trong tay trái với ấn thiền định, Ngài cầm một tách sọ người đựng một bình đầy chất cam lồ trí tuệ bất tử. Trên nắp bình là một cây như ý. Ngài mặc một áo choàng không tay bằng gấm thêu kim tuyến, các y tu sĩ và một áo dài ngang thắt lưng có tay dài màu xanh dương, và trên đầu ngài là một nón hoa sen. Ngồi trong tư thế hợp nhất với Ngài là một vị phối ngẫu của Ngài, dakini Yeshe Tsoyal thân trắng, đang cầm một lưỡi dao cong và một tách sọ người.

Hãy quán tưởng Ngài như vậy trong không gian trước, mặt hướng về bạn. Trên đỉnh đầu Ngài là tất cả những lạt ma của dòng truyền thừa, vị này ngồi trên vị kia, người trên không chạm vào người dưới. Những vị thầy của sự truyền dạy tantra thông thường thì nhiều vô số, nhưng ở đây chúng ta đặc biệt quán tưởng những nhân vật chính của dòng truyền Tâm-Yếu của Đại Viên Mãn: Đức Phật Phổ Hiền, Pháp Thân, Đức Phật Kim Cang Tát Đoả, Báo Thân; Ngài Garab Dorje, Hoá Thân; đạo sư Manjusrimitra; Guru Sri Simha; Ngài Jnanasutra uyên bác; đại học giả Vimalamitra; Đức Liên Hoa sanh xứ Oddiyana và ba đệ tử thân cận của Ngài, Đức Vua, Thần dân và Phối ngẫu - vị vua Pháp Trisong Detsen, đại dịch giả Vairotsana và dakini Yeshe Tsogyal; Longchen Rabjampa toàn trí; và Rigdzin Jigme Lingpa. Mỗi người trong số các Ngài phải được quán tưởng với những vật trang sức và vật tượng trưng của riêng mình. Tất cả được vây quanh bởi vô số Yidam Bổn Tôn của bốn phần tantra và bởi các daka và dakini.

Trên cành phía trước là Đức Phật, Đấng Chiến Thắng Thích Ca Mâu Ni, được bao quanh bởi một ngàn lẻ hai vị Phật Toàn Giác của thời Hiền Kiếp này cũng như tất cả chư Phật khác trong quá khứ, hiện tại và vị lai trong mười phương. Tất cả các Ngài có hình tướng Hoá Thân siêu việt, đắp y tu viện, có đầy đủ ba mươi hai tướng chính của Phật Quả - đỉnh đầu nhô cao, lòng bàn chân có in dấu các luân xa và v.v.. – và tám mươi tướng phụ. Tất cả các Ngài an toạ trong tư thế kim cương. Một số vị có sắc trắng, một số sắc vàng, một số sắc đỏ, một số sắc xanh lục, và một số có sắc xanh dương. Những tai sáng tuyệt diệu chiếu ra từ thân tướng các Ngài. 

Trên cành bên phải, hãy quán tưởng tám Đại Đệ Tử, [115] dẫn đầu bởi các Bồ Tát Bảo Hộ của Ba Gia Đình – Văn Thù, Kim Cương Thủ, và Quán Tự Tại – và được bao quanh bởi toàn thể Tăng Đoàn tôn quý gồm các chư vị Bồ Tát. Các Ngài có sắc trắng, vàng, đỏ, xanh dương, xanh lục. Tất cả đều mang mười ba trang sức của Báo Thân,[116] và đứng bằng cả hai chân.

Trên cành bên trái hãy quán tưởng hai Sravaka (Thanh Văn) chánh là Ngài Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên, được tăng đoàn cao quý gồm chư vị Thanh Văn và Độc Giác Phật bao quanh.   Tất cả các Ngài có sắc trắng, và mặt ba y tu viện. Các Ngài cũng đứng, tay cầm tích trượng và bình bát.[117]

Trên cành phía sau hãy quán tưởng  Pháp Bảo trong hình dạng những chồng sách. Trên cùng là sáu triệu bốn trăm ngàn tantra của Đại Viên Mãn, được bao bọc bởi một lưới ánh sáng, tựa đề của mỗi quyển sách hướng về bạn.*  Tất cả những quyển sách này xuất hiện rất rõ ràng và minh bạch, và ngân vang giai điệu tự nhiên của những nguyên âm và phụ âm.

Giữa những cành lá là tất cả chư Hộ Pháp quang vinh, cả hai hộ pháp trí tuệ và hộ pháp bị ép buộc do hậu quả của những hành động trong quá khứ của họ.[118] Tất cả những nam hộ pháp đều hướng mặt ra ngoài; hoạt động của họ là ngăn ngừa những chướng ngại từ bên ngoài thâm nhập vào trong, bảo vệ chúng ta khỏi bị những chướng ngại và những điều kiện không thuận lợi để thực hành Giáo Pháp và đạt được giác ngộ. Tất cả những nữ hộ pháp đều hướng mặt vào trong; hoạt động của họ là giữ gìn những thành tựu bên trong không bị rò rỉ ra ngoài.

Hãy nghĩ tưởng về tất cả những nhân vật này của sự quy y, với những phẩm tính trí tuệ, lòng bi mẫn và năng lực vô lượng của các Ngài, đang dẫn dắt bạn như người dẫn đường vĩ đại duy nhất của bạn.

Hãy hình dung ở bên phải bạn là người cha và bên trái là người mẹ trong hiện đời của bạn. Phía trước bạn, một đám đông trùng trùng điệp điệp cùng tụ hội che kín cả mặt đất, đó là tất cả chúng sanh trong tam giới và sáu cõi, hàng thứ nhất gồm tất cả những địch thủ thù ghét bạn và tất cả những kẻ gây chướng ngại làm tổn thương bạn. Cùng với bạn, tất cả những người này đều đứng với hai bàn tay chắp lại. Khi bày tỏ lòng tôn kính bằng thân bạn, hãy thực hiện những sự lễ lạy. Khi bày tỏ lòng tôn kính với khẩu của bạn, hãy tụng đọc lời nguyện quy y. Khi bày tỏ lòng tôn kính bằng ý của bạn, hãy nuôi dưỡng tư tưởng sau:

Ô, Đạo sư và Tam Bảo, bất kỳ điều gì xảy ra đến với con, dù thuận lợi hay bất lợi, hạnh phúc hay đau khổ, tốt hay xấu, bất kỳ bệnh tật hay đau khổ nào xảy ra cho con, con không có sự nương tựa hay che chở nào khác ngoài Ngài. Ngài là đấng bảo hộ duy nhất, người hướng dẫn duy nhất, nơi trú ẩn duy nhất và là niềm hy vọng duy nhất của con. Từ bây giờ cho đến khi con đạt được tâm yếu của sự giác ngộ,[119] con đặt mọi sự trông cậy và niềm tin của con vào Ngài. Con sẽ không tìm kiếm những lời khuyên dạy của cha, không thỉnh cầu lời chỉ dạy của mẹ, cũng không tự mình quyết định. Chính Ngài, vị Thầy và Tam Bảo của con, mà con nhận làm nơi nương tựa. Chính Ngài là đối tượng mà con thực hiện các sự cúng dường.  Con tự cam kết chỉ với một mình Ngài. Con không có nơi nương tựa nào khác, không còn hy vọng nào khác ngoài Ngài!”

Với sự xác tín nồng nhiệt này, hãy tụng bản văn sau đây:

Cho tới khi đạt được tâm yếu của sự Giác ngộ[120] con luôn luôn nương tựa (quy y)

Nơi những Đấng Thiện Thệ của Ba gốc, Tam Bảo chân thực,[121]

Nơi Bồ Đề Tâm, bản tánh của các kinh mạch, năng lực và tinh tuý

Và nơi mạn đà la của bản tánh cốt tuỷ, sự biểu lộ tự nhiên và lòng bi mẫn. 

Trong mỗi thời khoá, hãy đọc bài này càng nhiều lần càng tốt khi có thể. Cho tới khi bạn đã đọc nó ít nhất một trăm ngàn lần, hãy bảo đảm thực hành bài này trong những thời khoá riêng biệt[122] và hãy làm cho nó trở thành thực hành liên tục và quan trọng nhất của bạn.

Có thể bạn ngạc nhiên tại sao những kẻ thù và những người gây chướng ngại cho bạn lại được ưu tiên hơn cả cha, mẹ bạn trong thực hành quy y, vì họ được quán tưởng ở phía trước đám đông, trong khi cha và mẹ bạn thì ở phía sau bên cạnh bạn. Lý do là chúng ta, những người đảm đương Đại Thừa phải có lòng từ và bi đối với toàn thể chúng sanh vô tận một cách đồng đều. Đặc biệt hơn, cách duy nhất để tích luỹ một khối lượng công đức vô biên và không lãng phí tất cả những gì ta đã tích tập là hãy lấy kiên nhẫn làm thực hành chính yếu của ta. Có câu nói rằng: 

Làm sao chúng ta có thể thực hành nhẫn nhục nếu không có ai làm ta nổi giận. 

Chính những hoạ hại gây nên bởi kẻ thù và những kẻ tạo ra chướng ngại đã ban cho bạn cơ hội phát triển sự kiên nhẫn. Từ quan điểm của Giáo Pháp, sự quán sát kỹ lưỡng sẽ chỉ cho bạn thấy rằng kẻ thù và những kẻ gây chướng ngại còn tử tế với bạn hơn cha mẹ bạn. Cha mẹ bạn, bằng cách dạy bạn mọi sự thủ đoạn và lọc lừa cần thiết để bạn thành công trong thế gian này, có thể ngăn trở khiến bạn không thoát ra khỏi đáy sâu của những cõi thấp trong những đời tương lai của bạn. Vì thế lòng tốt của họ không vĩ đại như ta tưởng. Trái lại, những kẻ thù và người gây chướng ngại thì cực kỳ tử tế với bạn. Chính những nghịch cảnh mà kẻ thù gây ra cho bạn đã cung cấp cho bạn lý do để thực hành nhẫn nhục. Họ tách lìa bạn, dù bạn có thích hay không, với của cải và tài sản của bạn – là những ràng buộc ngăn cản không cho bạn thoát khỏi luân hồi và vì thế chúng chính là nguồn gốc của mọi sự đau khổ. Những lực lượng tiêu cực và những kẻ gây chướng ngại cũng cung cấp cho bạn sự tập trung để thực hành nhẫn nhục. Nhờ những bệnh tật và đau khổ do họ gây ra mà nhiều hành động sai lầm trong quá khứ được tịnh hoá. Hơn nữa, những kẻ thù và chướng ngại đem bạn tới Giáo Pháp, như đã xảy ra cho Ngài Jetsun Milarepa khi chú và dì của Ngài cướp đi tất cả tài sản của Ngài, và xảy ra cho ni Palmo, cô bị mắc bệnh phong cùi do một quỷ naga gây ra, đã hiến mình cho sự thực hành Avalokiteshvara và sau đó được sự thành tựu siêu việt.  Đấng Toàn Giác Longchepa, vị Vua Pháp, đã nói: 

Bị đau khổ tấn công, ta phát hiện Giáo Pháp

Và tìm ra con đường giải thoát. Xin cảm ơn những thế lực xấu ác!

Khi phiền muộn tràn ngập tâm tưởng, ta phát hiện Giáo Pháp

Và tìm thấy hạnh phúc vĩnh cữu. Xin cảm ơn những muộn phiền!

Nhờ thương tổn gây nên bởi các tinh linh, ta phát hiện Giáo Pháp

Và tìm thấy sự vô uý. Xin cảm ơn những bóng ma và quỹ dữ!

Nhờ sự thù hận của con người mà ta phát hiện Giáo Pháp

Và tìm được những lợi lạc và hạnh phúc. Xin cám ơn những kẻ thù ghét ta!

Nhờ những nghịch cảnh tàn bạo mà ta phát hiện Giáo Pháp

Và tìm thấy con đường bất biến. Xin cám ơn nghịch cảnh!

Nhờ bị người khác thúc ép mà ta phát hiện Giáo Pháp

Và tìm thấy ý nghĩa cốt tuỷ. Xin cảm ơn tất cả những kẻ kéo lôi ta!

Để đáp đền lòng tốt, ta hồi hướng công đức cho tất cả các ngươi. 

Vì vậy, những kẻ thù không chỉ rất tử tế với bạn trong đời này, mà họ còn là những cha mẹ bạn trong những đời quá khứ. Đây là điều tại sao bạn nên dành cho họ một vị trí quan trọng trong thực hành này.

Khi tới lúc kết thúc thời công phu, hãy quán tưởng lòng khát khao sùng mộ của bạn tạo ra vô số những tia sáng phóng ra từ những Bổn Tôn quy y. Những tia sáng này xúc chạm bạn và tất cả chúng sanh, và giống như bầy chim bị một viên đạn bắn ná làm cho tan tác, tất cả các bạn vù vù bay lên và hoà nhập vào tập hội các Bổn Tôn.

Sau đó những Bổn Tôn chung quanh tan thành ánh sáng, từ ngoài vào trong và tan biến vào vị Thầy ở trung tâm, hiện thân của ba đối tượng quy y (ba nơi nương tựa).  Tất cả những Bổn Tôn trên đầu vị Thầy cũng tan biến vào Ngài. Sau đó vị Thầy hoà tan và biến mất vào ánh sáng. Hãy ngơi nghĩ trong trạng thái nguyên sơ bao lâu mà bạn có thể, thoát khỏi tất cả mọi sự tạo tác, Pháp Thân, không có bất kỳ động niệm nào.

Khi bạn ra khỏi sự thiền định này, hãy hồi hướng công đức cho vô số chúng sanh bằng những lời sau:

Nhờ công đức của thực hành này,

Cầu mong con nhanh chóng đạt được Tam Bảo

Và củng cố vững chắc mỗi một chúng sanh

Không loại trừ ai, theo cấp độ của họ. 

Hãy luôn nghĩ tưởng những Bổn Tôn của sự quy y trong mọi tình huống. Khi bạn đi, hãy quán tưởng các Ngài trong không gian trên vai phải của bạn và hình dung rằng bạn đang đi nhiễu quanh các Ngài. Khi ngồi, hãy quán tưởng các Ngài trên đầu như nơi nương tựa của những lời nguyện cầu của bạn. Khi ăn, hãy quán tưởng các Ngài ở cổ họng và cúng dường các Ngài phần đầu tiên của thức ăn hay đồ uống. Khi ngủ, hãy quán tưởng các Ngài ở giữa tim bạn. Thực hành này chủ yếu để giải tan những mê lầm vào tịnh quang.

Bất cứ bạn làm gì, đừng bao giờ xa lìa hình ảnh trong sáng của các Bổn Tôn quy y trong tâm thức. Hãy giao phó bản thân với toàn bộ tín tâm cho Tam Bảo và hoàn toàn hiến mình để thọ nhận sự quy y. 

III  NHỮNG GIỚI LUẬT VÀ LỢI ÍCH CỦA SỰ QUY Y 

1.         Những giới luật của sự quy y

Những giới luật bao gồm ba điều phải từ bỏ, ba điều nên làm và ba thái độ phụ phải được tuân giữ. 

1.1  BA ĐIỀU NÊN BỎ:

Sau khi đã quy y với Đức Phật, chớ tôn thờ thần thánh trong vòng luân hồi. Nói khác đi, bởi những vị trời của các tirthika như Isvara hoặc Visnu cũng như những vị thần địa phương, các thổ địa, hay bất kỳ những vị trời hay tinh linh thế tục mạnh mẽ nào khác, bản thân họ chưa giải thoát khỏi những đau khổ của luân hồi, nên bạn chớ coi họ như chỗ nương tựa của mình trong những đời sau, đừng cúng dường hay đảnh lễ họ.

Đã quy y Pháp, đừng làm tổn hại người khác, ngay cả trong các giấc mơ của bạn. Hãy nỗ lực mạnh mẻ che chở họ với khả năng tốt nhất của bạn.

Đã quy y Tăng, đừng dính líu với những tirthika và những người như thế là những kẻ không tin tưởng giáo lý của các Đấng Chiến Thắng hay không tin Đức Phật Toàn Giác là đấng đã giảng dạy những điều đó. Mặc dù không thật sự có những tirthika ở Tây Tạng, bạn cũng nên tránh dính líu với bất kỳ người nào hành động như một tirthika - họ sỉ nhục và chỉ trích vị Thầy của bạn và Giáo Pháp, chẳng hạn thế, hoặc phỉ báng giáo lý sâu xa của Mật Thừa.

 

1.2  BA ĐIỀU NÊN LÀM: 

Đã quy y Đức Phật, hãy tôn kính ngay cả một mảnh nhỏ của pho tưởng vỡ tượng trưng cho Ngài. Hãy đặt tượng lên đầu bạn,* để ở nơi tinh sạch, có lòng itn và nhận thức với cái thấy thanh tịnh, xem pho tượng như Trân Châu thật sự của Đức Phật.

Đã quy y Pháp, hãy tôn kính ngay cả một mảnh giấy chỉ có một chữ của kinh điển.  Hãy đặt nó lên đầu bạn và xem nó như Trân Bảo thực sự của Pháp.

Đã quy y Tăng, hãy coi bất kỳ những gì biểu tượng cho các Ngài, dù chỉ là một mảnh vải nhỏ có màu đỏ hay vàng, như Trân Bảo thực sự của Tăng Đoàn. Hãy tôn kính nó, đặt nó lên đầu bạn, để nó ở nơi sạch sẽ và nhìn nó với niềm tin và cái thấy thanh tịnh.

 

1.3  BA GIỚI LUẬT BỔ SUNG: 

Hãy coi vị Thầy của bạn, bậc thiện trí thức đã giảng dạy cho bạn ở đây và bây giờ điều gì nên làm và không nên làm, như Trân Bảo thật sự của Đức Phật. Thậm chí không dẫm lên bóng của vị Thầy, và hãy nhiệt tình phục vụ và tôn kính Ngài.

Hãy coi từng lời của vị Thầy cao cả của bạn như Trân Bảo thật sự của Giáo Pháp. Hãy chấp nhận mọi điều Ngài nói không bất tuân một điểm nhỏ nào.

Hãy coi đoàn tuỳ tùng, đệ tử của Ngài và những bằng hữu tâm linh của bạn là những người có hành sử trong sạch như Trân Bảo thật sự của Tăng Đoàn. Hãy tôn kính họ với thân, khẩu, ý của bạn và không bao giờ làm họ đau khổ dù chỉ trong chốc lát.

Đặc biệt, trong Mật Thừa, vị Thầy là sự quy y chính yếu: thân Ngài là Tăng; khẩu Ngài là Pháp và ý Ngài là Phật. Do vậy, hãy nhận thức Ngài như sự hợp nhất tinh tuý của Tam Bảo và thấy mọi hành động của Ngài đều viên mãn. Hãy đi theo Ngài với lòng tin tuyệt đối và nỗ lực cầu nguyện Ngài trong mọi lúc. Nên nhớ rằng làm phật lòng Ngài bằng bất kỳ những gì bạn làm, nói hay nghĩ tưởng là từ bỏ toàn bộ sự quy y, vì vậy hãy đặt tất cả sự quyết định và nỗ lực của bạn trong việc cố gắng làm hài lòng Ngài mọi lúc.

Cho dù điều gì xảy tới với bạn, vừa ý hay khó chịu, tốt hay xấu, bệnh tật hay đau khổ, hãy hoàn toàn giao phó bản thân bạn cho vị Thầy.  Hãy nhận thức rằng mọi điều hạnh phúc đều xuất phát từ lòng bi mẫn của Tam Bao. Có câu nói rằng mọi sự vừa ý và tốt đẹp trong thế gian này, ngay cả một cơn gió nhẹ thoảng qua trong một ngày nóng bức, đều xuất phát từ lòng bi mẫn và những sự ban phước của Đức Phật. Cũng thế, thiện niệm nhỏ bé nhất xuất hiện trong tâm bạn bắt nguồn từ năng lực không thể nghĩ bàn của những sự ban phước của Ngài. Trong Bồ Tát Đạo, Ngài Santideva nói: 

Giống như một tia chớp xé toang màn đêm,

Ánh sáng của nó phơi bày tất cả những đám mây đen ẩn giấu,

Cũng thế, hiếm hoi biết bao, nhờ năng lực của chư Phật,

Mà những thiện niệm khởi lên chóng vánh và thoáng qua, trong thế giới. 

Thế nên, việc nhận ra lòng bi mẫn của chư Phật trong mọi sự sẽ cứu giúp bạn và đem lại hạnh phúc cho bạn.

Bất cứ khi nào bạn đối mặt với bệnh tật hay đau khổ, khi ma quỷ và những kẻ thù gây nên các chướng ngại, hoặc bất kỳ những gì khác có thể xảy đến với bạn, hãy chỉ cầu nguyện Tam Bảo và không dựa vào bất kỳ phương pháp nào khác để đối phó những khó khăn như thế. Nếu bạn phải trải qua sự chữa trị hay sử dụng một nghi thức chữa bệnh, thì hãy làm những việc đó trong nhận thức rằng chính các sự việc đó là hoạt động của Tam Bảo.

Hãy học hỏi để có niềm tin và tri giác thanh tịnh bằng cách nhận ra mọi sự xuất hiện như được hiển lộ bởi Tam Bảo. Khi bạn lên đường đi tới một nơi nào đó, dù để làm việc hay vì một lý do nào khác, hãy kính lễ Phật, Pháp và Tăng ở hướng đó. Hãy thực hành lời nguyện quy y liên tục hàng ngày, hoặc bạn dùng bản Tâm-Yếu đã trích dẫn ở trên hay bài nguyện này có tên là sự quy y bốn nhánh, thông dụng cho tất cả các Thừa:

Con quy y Đạo Sư,

Con quy y Phật.

Con quy y Pháp.

Con quy y Tăng. 

Hãy khuyên bảo người khác quy y và khuyến khích họ thực hành sự quy y. Hãy giao phó bản thân bạn và những người khác cho Tam Bảo trong cả đời này lẫn những đời sau, và hãy thực hành quy y một cách siêng năng.

Khi bạn đi ngủ, hãy quán tưởng những Bổn Tôn của ruộng công đức, như đã mô tả trên nhưng đặt trong tim bạn, và rơi vào giấc ngủ với tâm thức tập trung vào các Ngài. Nếu không thể làm như vậy, hãy nghĩ tưởng vị Thầy và Tam Bảo như thực sự hiện diện bên gối của bạn, tràn đầy lòng từ bi với bạn. Sau đó đi vào giấc ngủ với niềm tin và tri giác thanh tịnh không mất niệm tưởng về Tam Bảo.

Khi bạn ăn hay uống, hãy quán tưởng Tam Bảo trong cổ họng và cúng dường các Ngài mọi thứ mà bạn ăn hay uống. Nếu bạn không làm được điều đó, hãy cúng dường các Ngài ngụm hay miếng đầu tiên, và nghĩ: “Con cúng dường những món này lên Tam Bảo.”

Khi bạn có quần áo mới, trước khi mặc vào lần đầu tiên, hãy nâng chúng lên và thầm cúng dường chúng cho Tam Bảo. Sau đó hãy mặc vào với niệm tưởng rằng Tam Bảo đã ban chúng cho bạn.

Bất cứ khi nào bạn thấy đều gì đem lại cho bạn sự hoan hỷ hay bạn thấy đáng khao khát, hãy thầm cúng dường nó lên Tam Bảo quý báu: những khu vườn đáng yêu đầy hoa, những giòng suối trong trẻo, những ngôi nhà đẹp, những cánh rừng trông thật dễ chịu, những tài sản và của cải vô tận, những người đàn ông và phụ nữ mặc quần áo đẹp.

Khi rót nước, hãy tung vài giọt lên không gian và nói: “Con cúng dường nước này cho Tam Bảo,” trước khi rót nước vào bình chứa.

Tất cả những hoàn cảnh tốt đẹp và đáng ao ước trong đời này - sự tiện nghi, hạnh phúc, sự được mến mộ, sự thuận lợi hay bất cứ điều gì - đều phát xuất từ lòng bi mẫn của Tam Bảo. Với lòng sùng mộ và tri giác thanh tịnh hãy nghĩ: “Con cúng dường tất cả những điều này cho các Ngài”. Hãy cúng dường lên các Ngài bất kỳ nguồn công đức nào mà bạn tạo được - những sự lễ dạy, cúng dường, thiền định về Bổn Tôn, tụng niệm các mantra v.v.. – và hãy hồi hướng chúng vì lợi ích của tất cả chúng sanh.  Hãy thường cúng dường Tam Bảo khi bạn có thể, vào ngày mồng một, ngày rằm và sáu thời trong ngày (ba thời vào ban ngày, ba thời vào ban đêm).* Luôn tuân theo những thời điểm đặc biệt này để cúng dường Tam Bảo.

Bất kỳ điều gì xảy tới, dù xấu hay tốt, đừng bao giờ quên quy y Tam Bảo. Hãy tu tập bản thân cho đến khi bạn đạt tới chỗ ngay cả cảm giác sợ hãi trong một cơn ác mộng cũng không làm bạn quên quy y, bởi điều đó có nghĩa là bạn cũng sẽ nhớ quy y như thế trong trạng thái trung ấm. Tóm lại, hãy đặt toàn bộ niềm tin của bạn nơi Tam Bảo và không bao giờ từ bỏ việc quy y cho dù phải trả giá bằng cả cuộc đời bạn.

Xưa kia, ở Ấn Độ, có một hành giả cư sĩ Phật Giáo bị một số tirthika bắt giam, họ nói với ông: “Nếu ngươi từ bỏ sự quy y Tam Bảo, chúng ta sẽ không giết. Nếu không chúng ta sẽ giết chết ngươi.”

Ông ta trả lời: “Tôi chỉ có thể từ bỏ quy y bằng miệng, tôi không bao giờ có thể làm điều đó bằng tâm.” Vì thế họ giết ông.

Chúng ta nên thực sự giống vị cư sĩ đó. Một khi ta từ bỏ việc quy y Tam Bảo, thì dù những thực hành mà chúng ta thực hiện có sâu xa tới đâu chăng nữa, ta có thể thậm chí không còn một phần tử của cộng đồng Phật Giáo nữa. Có câu nói: 

Chính sự quy y tạo ra khác biệt giữa một Phật tử và người không phải Phật tử. 

Có nhiều tirthika tránh làm những hành vi ác hại, thiền định về các Bổn Tôn, thực hành trên những kinh mạch và năng lực, và đạt được những thành tựu thông thường.  Nhưng bởi không biết quy y Tam Bảo, họ không ở trên con đường đi tới giải thoát và sẽ không thoát khỏi luân hồi.[123]

Không có duy nhất một điều nào trong vô số tất cả những giáo lý Kinh điển và tantra mà Ngài Jowo Atisa không biết hay chưa từng đọc. Nhưng Ngài cho rằng trong tất cả những giáo lý đó, sự quy y có tầm quan trọng bậc nhất khiến Ngài đã lấy nó làm một chủ đề để dạy đệ tử - tới nỗi người ta đặc biệt danh cho Ngài vì “Vị Học Giả Quy Y.”

Vậy, từ giây phút bạn đi vào con đường giải thoát và trở thành một Phật tử, hãy thực hành sự quy y cùng với các giới luật của nó, và đừng bao giờ từ bỏ chúng cho dù mạng sống của bạn đang bị lâm nguy. Như một Kinh điển nói:

Những người quy y Phật

Là những tín đồ cư sĩ thực thụ;

Họ không nên tìm kiếm sự quy y

Nơi bất kỳ thần thánh nào khác.

Những người quy y Thánh Pháp

Không nên có các tư tưởng ác hại.

Những người quy y Tăng Đoàn cao quý

Không nên kết giao với những tirthika.

 Ngày nay, một số người khẳng định mình là những tín đồ của Tam Bảo nhưng lại không có sự tôn kính tối thiểu đối với những đại diện của họ. Họ coi những tranh tượng trưng cho Đức Phật hay những pho sách chứa đựng những lời dạy của Ngài là những món hàng bình thường có thể được mang ra bán hay cầm cố. Điều này gọi la “sinh sống bằng cách bắt giữ Tam Bảo để đòi tiền chuộc” và là một lỗi lầm hết sức nghiêm trọng. chỉ ra chổ khiếm khuyết của một bức vẽ hay tượng của một vị Phật hoặc chỉ trích nó, thì trừ khi bạn ước định sự cân xứng để sửa chữa nó, còn không đó cũng là một lỗi lầm nghiêm trọng và nên tránh. Đặt Kinh sách trực tiếp trên sàn nàh, bước qua chúng, thấm nước bọt vào ngón tay để lật trang sách và những cư xử thiếu tôn kính khác cũng đều là những lỗi lầm nghiêm trọng. Chính Đức Phật đã nói:

 Vào lúc chấm dứt của năm trăm năm

Ta sẽ hiện diện trong hình thức Kinh điển

Hãy xem Kinh điển như chính Ta

Và tỏ lòng tôn kính chúng. 

Một câu châm ngôn để dùng mỗi ngày nói rằng chúng ta không nên đặt những hình ảnh lên trên Kinh điển. Thay vì tượng trưng cho thân hay ý của Đức Phật thì Kinh điển là sự tượng trưng cho ngữ của Ngài, nó dạy chúng ta điều gì nên làm và điều gì không nên và cũng bảo đảm tính liên tục của giáo lý của Ngài. Do đó, kinh điển không khác với bản thân Đức Phật, và nó thiêng liêng một cách đặc biệt.

Ngoài ra, phần lớn mọi người nghĩ rằng chuông và chày* là những đồ vật bình thường. Họ không hiểu rõ ràng chúng là những vật tượng trưng cho Tam Bảo. Chày tượng trưng cho tâm Phật, năm trí huệ. Chuông mang hình ảnh của một khuôn mặt, theo tantra ngoại thì đó là Đức Tỳ Lô Giá Na (Vairochana), và theo quan điểm của các tantra cao cấp thì đó là Đức Vajradhatvishvari. Nói khác đi, chuông mang hình ảnh của thân Phật.  Những chữ chạm khắc trên nó là tám chủng tự của tám vị phối ngẫu, va bản thân của chuông tượng trưng cho ngữ của Phật, âm thanh của Giáo Pháp.  Như vậy, chuông và chày đồng thời đáp ứng mọi tiêu chuẩn đại diện cho thân, khẩu và ý của Đức Phật. Đặc biệt hơn, đây là hai đối tượng bao gồm tất cả các mạn đà la của Kim Cương Thừa Bí Mật, và vì thế được coi là những đối tượng samaya phi thường. Như vậy, xử sự thiếu tôn kính với chúng là một lỗi lầm nghiêm trọng.  Hãy luôn luôn tôn kính chúng.

 

2.         Những lợi ích của sự quy y 

Quy y là nền tảng của mọi sự thực hành. Chỉ bằng sự quy y là bạn đã gieo trồng hạt giống của sự giải thoát trong bản thân bạn. Bạn tự rời xa mọi hành vi tiêu cực đã tích tập, và ngày càng phát triển những hành vi tích cực. Quy y là nơi nương tựa cho mọi giới nguyện, suối nguồn của mọi phẩm tánh tốt đẹp.  Cuối cùng, nó sẽ dẫn bạn đến trạng thái Phật Quả. Và trong lúc đó, nó sẽ bảo đảm cho bạn nhận được sự che chở của những vị trời từ tâm và thực hiện được mọi điều bạn mong ước; bạn sẽ không rời tư tưởng của Tam Bảo; bạn sẽ nhớ đến các Ngài từ đời này sang đời khác và tìm được hạnh phúc và an lành trong đời này và trong những sự tái sanh tương lai. Lợi ích của việc quy y được nói là vô lượng.

Trong Bảy Bài Kệ Quy Y có nói: 

Thật ra, ai cũng có thể thọ giới nguyện,

Ngoại trừ những người không quy y. 

Quy y là nền tảng cần thiết cho tất cả các giới nguyện Pratimoksa (Biệt giải thoát giới), những giới nguyện của một hành giả cư sĩ, một sa di, một tu sĩ v.v.. Trước khi phát triển Bồ Đề Tâm, nhận quán đảnh của Kim Cương Thừa Mantra Bí Mật, và tất cả những thực hành khác, nó là yếu tố cần thiết để nhận giới nguyện quy y đầy đủ và xác thực. Không có cách nào để bắt đầu ngay cả việc thực hành sự tịnh hoá và sửa đổi* mỗi ngày mà trước tiên không thọ quy y. Nó là sự hỗ trợ cho tất cả những giới nguyện và mọi phẩm tánh tốt lành.

Việc quy y với một tấm lòng tin hoàn toàn thấu hiểu những phẩm tính của Tam Bảo đem lại lợi ích không còn phải nghi ngờ gì nữa. Nhưng thậm chí chỉ đơn giản nghe từ “Phật,” hoặc tạo được bất kỳ mối liên kết nào, dù có thể rất mỏng manh, với bất kỳ sự đại diện nào của thân, khẩu và ý của Đức Phật là có thể gieo trồng hạt giống của sự giải thoát, và cuối cùng sẽ dẫn đến trạng thái siêu vượt đau khổ. Trong Tạng Luật (Vinaya) có một câu chuyện kể về một con chó săn đuổi một con heo quanh một bảo tháp. Nhờ sự “nhiễu quanh” này, hạt giống giác ngộ đã được gieo trong cả hai con vật.

Theo chuyện khác, có ba người đạt được Phật Quả chỉ nhờ một tượng tsa bằng đất sét. Một hôm có một người thấy tượng tsa tsa nhỏ bằng đất sét nằm trên mặt đất ngay bên lề đường.

Ông ta nói: “Nếu để tượng nằm đó, trời mưa sẽ làm hỏng nó; tốt hơn ta nên làm điều gì cho nó.” Vì vậy, trước khi ông ta lấy một miếng đế giày da cũ bị bỏ gần đó che tượng lại.

Một người khác tự nghĩ khi đi qua chỗ đó: “Thật sai lầm khi dùng một đế giày cũ che tượng tsa tsa đó,” và vì thế ông ta bỏ cái đế đi.

Như kết quả của ý định tốt lành của họ, cả người dùng đế giày che tượng tsa-tsa lẫn người bỏ cái đế ra đều được thừa hưởng các vương quốc trong những đời sau của họ. 

Với mục đích thanh tịnh, người che

Đầu tượng Phật bằng một đế giày

Và người sau đó lại mở nó ra

Cả hai đều được thừa hưởng một vương quốc. 

Ba người - người đầu tiên đã nặn bức tượng tsa tsa, người thứ hai che tượng lại bằng một đế giày, và người cuối cùng mở cái đế giày ra - tất cả đều đạt được hạnh phúc ở những cõi cao, được thừa hưởng vương quốc và v..v.. như một lợi lạc nhất thời, và cùng lúc đã tiến tới Phật Quả bằng cách gieo trồng trong tâm thức chính mình chủng tử của sự giải thoát tối hậu.

Nhờ sự quy y bạn đã tự tách mình khỏi mọi hành động tiêu cực. Quy y Tam Bảo với niềm tin chân thành và mãnh liệt làm suy giảm và cạn kiệt ngay cả những hành động xấu ác mà bạn đã tích tập trong quá khứ. Và từ lúc đó trở đi, những sự ban phước tràn đầy bi mẫn của Tam Bảo đáp trả lại tất cả những niệm tưởng tích cực của bạn, tới nỗi bạn chẳng còn làm bất kỳ điều tổn hại nào nữa.

Một ví dụ là Vua Ajatasatru (A Xà Thế), người đã giết cha mình nhưng về sau quy y Tam Bảo. Ông đã chịu đựng những thống khổ của địa ngục trong một tuần lễ và sau đó được giải thoát.

Và Devadatta (Đề Bà Đạt Đa), người đã phạm ba tội ác dẫn tới quả báo lập tức, thậm chí đã phải chịu đựng lửa địa ngục ngay khi còn sống. Nhưng vào lúc đó ông có niềm tin vào giáo lý của Đức Phật và gào lên: “Tôi quyết định quy y Đức Phật từ tận trong xương tuỷ tôi!” Đức Phật đã giảng rằng nhờ những lời này mà Devadatta sẽ trở thành một vị Phật Độc Giác có danh hiệu là Quyết Định Tối Hậu.[124]

Như thế, giờ đây nhờ thiện tâm của một vị Thầy hay thiện tri thức, bạn đã nhận được Giáo Pháp đích thực và phát khởi một ít ý định mỏng manh muốn làm điều tốt lành và ngưng làm điều sai trái. Nếu bạn nỗ lực thực hành quy y Tam Bảo, tâm thức bạn sẽ được ban phước và bạn sẽ phát triển mọi phẩm tính tốt lành của con đường, chẳng hạn như niềm tin, tri giác thanh tịnh, không còn ảo tưởng với sự luân hồi và quyết định giải thoát khỏi nó, niềm tin vào hậu quả của các hành vi và v..v..

Trái lại, cho dù giờ đây sự chán ghét luân hồi hay tâm quyết định đạt được giải thoát của bạn có mãnh liệt tới đâu chăng nữa nhưng nếu bạn không hết lòng quy y vị Thầy và Tam Bảo hay cầu nguyện các Ngài, thì những hình tướng bên ngoài quá quyến rũ, tâm thức quá cả tin và những niệm tưởng lọc lừa mau chóng tới nỗi việc này dễ dàng biến thành hành vi tiêu cực, ngay cả trong khi bạn đang làm điều tốt. Vì thế, hết sức cần thiết phải hiểu rằng không có gì tốt đẹp hơn việc quy y để cắt đứt dòng chảy của những hành vi tiêu cực trong tương lai.

Bây giờ là một vấn đề quan trọng khác. Có câu nói rằng:

Ma quỷ đặc biệt thù ghét những người kiên trì trong thực hành

Và:

Càng thực hành mãnh liệt thì ma quỷ càng mạnh mẽ. 

Chúng ta đang ở trong một thời đại suy đồi, và những người thiền định về ý nghĩa sâu xa và những người mà thiện hạnh của họ tràn đầy năng lực, lại dễ dàng bị lọc lừa bởi những cám dỗ của đời sống thế tục. Họ bị gia đình và bạn bè cản trở. Họ đau khổ bởi những nghịch cảnh như bệnh tật và bị nhiễu loạn bởi những lực lượng tiêu cực.  Tâm thức họ bị tràn ngập bởi những niệm tưởng và sự do dự. Dưới nhiều chiêu bài như thế, những chướng ngại cho việc thực hành Giáo Pháp xuất hiện và tiêu huỷ tất cả các công đức của họ. Nhưng, như một cách đối trị với những nguy hiểm này, nếu bạn nỗ lực thực sự để chân thành quy y Tam Bảo thì mọi sự đối nghịch với thực hành của bạn sẽ bị chuyển hoá thành những hoàn cảnh thuận lợi và công đức của bạn sẽ tăng trưởng liên tục.

Ngày nay khi những gia chủ loan báo rằng họ đang tự bảo vệ bản thân và gia đình họ khỏi bị bệnh tật trong năm, họ đã mời thỉnh một số Lạt ma và đệ tử của các vị này – không một ai trong số đó từng nhận lãnh quán đảnh cần thiết hay sự khẩu truyền, cũng không thực hành những tụng niệm căn bản[125] - để khai mở mạn đà la của một vài Bổn Tôn phẫn nộ.[126] Không kinh qua giai đoạn phát triển và toàn thiện, họ trợn tròn đôi mắt như những chiếc đĩa nhỏ và thả mình và một cơn giận dữ điên cuồng nhắm vào một hình nộm bằng bột nhào.* Họ luôn thực hiện những cuộc “cúng dường đỏ” gồm máu và thịt, và những tiếng họ kêu gào “Đem chúng tới! Giết chúng! Liệu hồn đấy! Đánh chúng!” Khơi dậy trong lòng bất cứ ai nghe thấy chúng những cảm xúc khích động dữ dội. Điều Ngài Milarepa nói dưới đây cho một cái nhìn rõ ràng hơn về những nghi lễ như thế:

Cầu thỉnh những Bổn Tôn trí tuệ để bảo vệ chúng sinh thế tục thì giống như lôi một vị vua từ ngai vàng xuống và bắt Ngài quét nhà. 

Ngài Padampa Sangye nói:

Họ làm một mạn đà la Mantra Bí Mật trong một chuồng dê trong làng và tuyên bố đó là một sự giải độc!

 Những thực hành thuộc loại này làm nhiễu độc Mật Thừa và biến nó thành những thực hành của những người theo đạo Bon.[127] Những người thực hiện những thực hành “giải thoát” phải vượt lên mọi sự tư lợi. Chỉ có những người như thế, hành động trên một phạm vi rộng lớn vì lợi ích của chúng sinh và giáo lý, mới có thể có đủ phẩm tính để giải thoát những địch thủ và những người gây chướng ngại là những kẻ đang phạm mười ác hạnh. Nhưng khi một thực hành như thế được làm với sự sân hận thông thường,[128] phe phái, thì nó sẽ không chỉ không có năng lực để giải thoát chúng sinh nó nhắm đến, mà còn gây ra sự tái sanh trong địa ngục cho người thực hiện nó.

Đối với những người không thành tựu những giai đoạn phát triển và toàn thiện và những người không tuân theo các samaya, sự thực hiện những cuộc “cúng dường đỏ” gồm máu và thịt không đem lại sự chứng ngộ của các Bổn Tôn trí tuệ lẫn của những Hộ Pháp. Thay vào đó, những vị trời và ma quỷ ác độc tụ hội lại để cùng hưởng thụ những vật cúng dường và torma. Dường như họ có thể mang lại một số lợi ích tức thời, nhưng kết quả sau cùng sẽ là vô số những hậu quả không ai mong muốn.

Một sự che chở tốt nhất là bạn hãy đặt niềm tin nơi Tam Bảo. Hãy thỉnh cầu những vị Thầy và những tu sĩ là những người đã an định và kiểm soát được tâm thức của mình để xin các Ngài tụng một trăm ngàn lần bài nguyện quy y. Bạn sẽ nhận được sự chăm sóc của Tam Bảo; không có điều gì bất như ý xảy ra cho bạn trong đời này và mọi ước muốn của bạn sẽ được thực hiện một cách tự nhiên. Những Thiện thần sẽ bảo vệ bạn, và thậm chí tất cả những ai có thể làm hại bạn – ma quỷ và những kẻ gây chướng ngại - sẽ không tới gần bạn được.

Có lần, một số người bắt được một tên trộm và đánh cho hắn một trận, mỗi lần đánh một gậy là họ niệm một câu trong bài nguyện quy y:

“Tôi quy y Phật,” chát! “Tôi quy y Pháp,” chát! v..v..

Sau khi đã khắc sâu những lời này vào tâm thức tên trộm, họ thả hắn đi. Tên trộm ngủ đêm dưới một cây cầu, tâm thức hắn tràn đầy lời lẽ của bài nguyện quy y, cùng với ký ức về trận đòn đau đớn mà hắn đã nhận. Trong khi hắn nằm ở đó thì một nhóm ma quỷ kéo tới gần cây cầu.  Nhưng sau đó chúng la lên: “Ở đây có người quy y Tam Bảo!” và tất cả bỏ chạy, la hét inh ỏi.

Để tiệt trừ những điều ác của cuộc đời này thì không có cách nào tốt hơn việc quy y Tam Bảo tận đáy lòng bạn. Và trong những đời tương lại nó sẽ đem tới cho bạn sự giải thoát và giác ngộ. Thậm chí khó có thể hình dung được tất cả những lợi ích của việc quy y. Kinh Bất Nhiễm nói: 

Nếu tất cả công đức của việc quy y

Có một hình tướng vật chất,

Thì toàn thể hư không sẽ hoàn toàn bị tràn ngập,

Không đủ sức dung chứa nó. 

Và trong Trí Tuệ Cô Đọng Siêu Việt: 

Nếu công đức của sự quy y có hình tướng,

Thì cả tam giới không thể chứa được nó.

Làm sao đo lường nước bốn biển

Chỉ bằng chiếc muỗng nhỏ?

 Thêm nữa, như Kinh Trái Tim Mặt Trời nói

Người coi Đức Phật là nơi nương tựa

Mười triệu ma quỷ cũng không thể giết hại;

Dù họ vi phạm giới nguyện hay đau khổ trong tâm,

Chắc chắn họ sẽ siêu vượt sự tái sinh. 

Do đó, hãy nhiệt thành hiến mình cho sự quy y, nền tảng của mọ sự thực hành Giáo Pháp, bởi lẽ lợi ích của nó thật vô biên. 

Con đã quy y ba nhánh nhưng ít lòng tin chân thành,

Con đi theo sự tu tập ba nhánh nhưng để cho giới nguyện của con lẩn mất

Xin ban phước cho con và những kẻ bạc nhược như con

Khiến niềm tin của chúng con kiên cố và bất thối chuyển. 


 

[106] Ý nghĩa căn bản là đi tìm sự che chở để thoát khỏi một sự nguy hiểm, trong trường hợp này là những nguy hiểm của vòng sinh tử luân hồi.

[107] “Tại sao mọi con đường? Bởi sự quy y là một phần quan trọng của mỗi con đường Kinh điển và tantra” Những Chú thích về Những Lời Vàng của Vị Thầy của tôi.

[108] Ở đây niềm tin chỉ đơn giản là một sự đáp ứng tự nhiên. “Trong trường hợp này, ta không nhất thiết phải hiểu lý do vì sao mình tin.” Những Chú Thích về Lời Vàng của Vị Thầy của tôi.

* Điều này có nghĩa là niềm tin của chúng ta trong sự quy y sẽ khiến cho chúng ta có khả năng đối phó với những kinh nghiệm trong trạng thái trung gian (bardo) sau cái chết.

[109] “Khi ta có loại niềm tin này, ta biết lý do tại sao. Ta có niềm tin bởi ta hiểu rằng Tam Bảo, và đặc biệt là vị Thầy tâm linh, là một nơi nương tựa không thể sai lầm.” Những Chú thích về Lời Vàng của Vị Thầy của tôi.

[110] Từ “cửa” (sgo) ở đây hoàn toàn ám chỉ cho niềm tin, là cái đem lại quyền sử dụng những sự ban phước của Đức Phật, hay của Đức Liên Hoa Sanh, hoặc của vị Thầy của ta. Pema Wangyal Rinpoche.

* ring bsrel: những vật tròn giống như những hạt ngọc nhỏ xuất hệin từ những di tích của các hành giả chứng ngộ.

** Pho tượng Đức Phật nổi tiếng ở Lhasa. Xem chú thích 295

*** Việc ăn những món cúng dường và dựng đôi giày của ông ta trước pho tượng được coi là một hành vi phạm thượng, khiếm nhã.

[111]  Đây là sự quy y ở cấp độ Đại Viên Mãn

[112]  tshogs zhing: “ruộng (tức là đối tượng) để tích tập công đức qua những sự lễ lạy, cúng dường và cầu nguyện.” Đại Tự điển Tây Tạng – Trung Quốc. Nhờ những phẩm tánh giác ngộ của Phật, Pháp và Tăng, kết qủ của bất kỳ hành động tích cực nào hướng tới các Ngài đều có năng lực to lớn. Xem thêm ruộng công đức trong Thuật ngữ.

[113]   Hoa sen biểu tượng cho sự thanh tịnh của tâm giác ngộ. Mặc dù nó mọc trong bùn, hoa của nó vẫn không bị nhiễm mùi bùn.

[114] Số chân tay được định rõ bởi các hình tướng được quán tưởng của những vị Thầy và Bổn Tôn thường có hơn một đầu và hơn hai tay hay chân, mỗi một chi tiết đều có một ý nghĩa biểu tượng đặc biệt.

* rgyal po’I rol stabs: tư thế du hí vương giả, với chân phải duỗi ra một nữa và chân trái xếp vào.

[115] Những Bồ Tát chính trong quyến thuộc của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni: Manjusri (Văn Thù), Avalokiteshvara (Quán Tự Tại), Vajrapani (Kim Cương Thủ), Maitreya (Di Lặc), Akasagarbha (Hư Không Tạng), Sarvanivaranaviskambhin, và Samantabhadra (Phổ Hiền).

[116] Mười ba món trang sức của Báo Thân, xem Phần Hai, Chương Ba, Mục III.

[117] Tích trượng của tu sĩ, được gọi là  ‘khar gsil’, nghĩa đen là “trượng ngân vang,” gồm một tay cầm bằng gỗ và sắt được phủ lên bởi hai cái tháp; bên dưới tháp cao nhất treo bốn bánh xe và mười hai vòng kim loại, âm thanh kêu vang của chúng báo hiệu sự hiện diện của vị tu sĩ. Bình bát thường bằng kim loại, được gọi là lhung bzed, nghĩa đen là “vật chứa những thứ rơi rớt”.

* Đây là những quyển sách Tây Tạng bằng lá rời và dài, được bọc trong vải, với một tiêu đề bằng vải được gắn ở cuối sách bên tay trái.

[118] Những Hộ Pháp đôi khi là các Hoá Thân của chư Phật hay Bồ Tát, và đôi lúc là những tinh linh, các vị trời hay ma quỷ đã khuất phục bởi một Đạo sư tâm linh vĩ đại và buộc phải giữ những lời thề. Những Hộ Pháp trong loại thứ nhất được giải thoát khỏi nghiệp và những hành vi nhờ lòng bi mẫn. Những vị trong loại thứ hai là những vị bảo trợ do những mối liên kết thuộc về nghiệp của họ.

[119] “Vào giây phút (đạt được giác ngộ) đó ta có mười sức mạnh và được phú tặng mười năng lực, nhờ đó ta thoát khỏi mọi nỗi sợ hãi. Khi ta có khả năng che chở người khác, ta không cần quy y nữa.” Những Chú Thích về Lời Vàng của Vị Thầy của tôi.

[120]  “Sự quy quy (nương tựa) tối thượng dy nhất là trạng thái tối hậu của Phật Quả. Giáo Pháp và Tăng Đoàn là những sự quy y tạm thời. Giáo Pháp của sự truyền dạy là ý nghĩa mà ta phải chứng ngộ. Một khi ta đã chứng ngộ ý nghĩa đó một cách đúng đắn thì ta không còn cần tới nó nữa, giống như sau khi qua sông ta không còn cần tới đò. Đối với Giáo Pháp của sự chứng ngộ, khi đã tiến bộ trên con đường, ta bỏ lại những phía sau những nhận thức trước đó của mình, là những gì, nói theo cách khác, là sự lầm lạc và vô thường.

Đối với Tăng Đoàn, các vị Thanh Văn và Phật Độc Giác không có những phẩm tính của các Bồ Tát đã đạt tới những cấp độ siêu việt, và những Bồ Tát phẩm tính của Bồ Tát đã đạt tới những cấp độ siêu việt, và những Bồ Tát siêu việt không có những phẩm tính của Chư Phật; các Bồ Tát là chúng sanh bình thường vẫn còn sợ hãi các cõi thấp. Do đó những bậc như vậy không phải là một suối nguồn quy y lâu dàu.” Những Chú Thích về Những Lời Vàng của Vị Thầy của tôi.

[121] Ở đây sự quy y được diễn tả theo ba giai đoạn khác nhau của thực hành chính. Xin xem Dẫn nhập

[122] Để thực hành một cách có hệ thống, ta được khuyên là nên phân chia một khoảng thời gian đều đặn, trong đó ta tập trung vào sự thực hành mà không bị gián đoạn. Có thể chỉ một lần trong ngày, hay trong một cuộc nhập thất mãnh liệt thì một ngày bốn thời: sáng sớm, giữa sáng, chiều và tối, chẳng hạn thế.

* Đặt vật gì ên đầu mình là một dấu hiệu của sự tôn kính.

* dus drug, sáu thời: ba thời ban ngày và ba thời ban đêm.

[123] Thành tựu thông thường (thun mong) bao gồm những năng lực kỳ diệu v..v.. và là cái gì chung nhất cho Phật Giáo và những con đường du già khác. Sự thành tựu siêu việt (mchog) là sự giác ngộ viên mãn siêu vượt luân hồi.

* Chuông và chày là những “đối tượng samaya,” những linh vật cần thiết trong những thực hành của Kim Cương Thừa (xem Thuật ngữ)

* gso sbyong: một nghi thức để tịnh hoá và sửa đổi những lỗi lầm trong khi giữ gìn những giới nguyện khác nhau.

[124] Rus pa can, nghĩa đen là “nhiều xương”, ở đây ám chỉ thành ngữ snying rus, nghĩa đen là “một cái xương trong tim” có nghĩa sự quyết định dũng mãnh và lòng can đảm không bao giờ đầu hàng, từ bỏ.

[125]  Yêu cầu căn bản trước khi cử hành các nghi lễ để trợ giúp người khác là ta nên thực hành trọn vẹn phần chính yếu của sadhana (nghi quỹ) đang được bàn tới, nó bao gồm sự tụng niệm thần chú nhiều ngàn lần để tịnh hoá tâm thức của bản thân ta.

[126] “Mạn đà la” trong văn cảnh này có nghĩa hội chúng của các Bổn Tôn được quán tưởng và cầu thỉnh cho sự thực hành. Trong truyền thống đạo Phật thực sự thì thực hành này được coi là một phương pháp để đánh thức tâm trí tuệ của chính ta. Ở đây nó bị lạm dụng như một nghi thức huyền thuật thô thiển.

* Hiểu một cách đúng đắn thì một hình nộm như thế tượng trưng cho khái niệm sai lạc về một bản ngã thực sự hiện hữu. Ở đây nghi thức linh thiêng đang được sử dụng trong một cách thế hời hợt bề ngoài, đối nghịch với ý hướng của nó.

[127] Mặc dù có những giáo lý trí tuệ trong truyền thống đạo Bon rất gần với Phật Giáo nhưng điều muốn nói ở đây là đạo Bon nguyên thuỷ của các phù thuỷ trong làng.

[128]  Sân giận thực sự (zhe sdang rang mtshan pa) là một cảm xúc tiêu cực được đặt nền trên ý niệm nhị nguyên về “ta” và “người”. Nó cần được phân biệt với cách biểu lộ của sự sân giận được phô bày bởi những bậc đã giải thoát khỏi những ý niệm như thế và mỗi hành vi của họ được đặt nền trên lòng bi mẫn đối với tất cả chúng sinh. Sự phô bày phẫn nộ này là một phương pháp mạnh mẽ để giúp cho những người không nhạy cảm với cách tiếp cận an bình.

 

 

----o0o---

 

Mục Lục > 1-1 > 1-2 > 1-3 > 1-4> 1-5 >1-6

 2-1 > 2-2 > 2-3 > 2-4 > 2-5 > 2-6 > 3-1

 

----o0o---

Vi tính: Tường Tâm

Trình bày: Diệu Tường

Cập nhật: 01-2008

Nguồn: www.quangduc.com

Về danh mục

nÃ Æ chùa thanh trước ï¾ å Æ thí Kiên Giang Chùa Phật Quang tổ chức Bảo Ai không nên ăn cam quýt Những Từ Rạch Cát tới Tòa Đại sứ gi廕 泰卦 cẠi Vui tử tuÃÆ chua sung an 07 bardo va nhung thuc tai khac ban bang da saphir Nhá Nỗi Tưởng Giai món Bác b瓊o thất bại nh脙茠脝 trùng hay chung song than ai voi cac ban dac biet doc kinh vo chong ç hanh dong co va nguyen vong duoi chan ngai dia tang lời ngoi bau tang Gene và môi trường tác động lớn phat giao con duong cua tuoi tre cận Bậc cao tăng đạo đức thủy chung mẠu Bậc cao tăng đạo đức thủy chung Những món chay bổ dưỡng trong mùa Vu Lan thiện chua dao Vấn Kiên Giang Ni trưởng Thích nữ Liễu Liên 1973 Phật giáo thay ương chánh niệm chua vinh khanh Phở 不空羂索心咒梵文 ï¾ ï½ nhá ã thuyen troi tren sa Su thien phat giao