LỜI VÀNG CỦA THẦY TÔI

Nguyên Tác: O-rgyan-'jigs-med-chos-kyi-dban-po

(Kunzang Lama'i Shelung)

Bản dịch Anh ngữ: The Words of my Perfect Teacher/Patrul Rinpoche

Của Nhóm Dịch thuật Padmakara

Nhà Xuất bản Shambhala

Bản dịch Việt ngữ: Nhóm Longchenpa 2004

----o0o---- 

PHẦN II 

NHỮNG CHUẨN BỊ PHI THƯỜNG HAY BÊN TRONG

-------------------

 

CHƯƠNG 6

GURU YOGA,[233] CON ĐƯỜNG DẪN TỚI NHỮNG SỰ BAN PHƯỚC, PHƯƠNG PHÁP TỐI HẬU ĐỂ KHƠI DẬY TRÍ TUỆ CHỨNG NGỘ

 

Trước tiên, Ngài đã đi theo một Đạo sư siêu việt và vâng lời Thầy;

Rồi Ngài đã thực hành, trải qua những gian khổ lớn lao;

Cuối cùng tâm Ngài và tâm Đạo sự trở thành một, và Ngài kế thừa dòng truyền.

Bậc Thầy Vô song, con đãnh lễ dưới chân Ngài. 

I – LÝ DO CÓ PHÁP GURU YOGA 

Để thực hành Pháp chân thực, điều tối quan trọng là trước tiên phải tìm một Thiện tri thức chân chính, một vị Thầy có tất cả các phẩm tính cần thiết. Sau đó bạn cần tuân theo từng giáo huấn của Ngài, khẩn cầu Ngài từ tận đáy lòng bạn và coi Ngài như một vị Phật đích thực. Như một trong kinh điển nói:  

Chính nhờ đức tin mà chân lý tuyệt đối được chứng ngộ. 

Tương tự, Ngài Atisa nói: 

Các bạn, cho tới khi đạt được giác ngộ, các bạn cần một vị Thầy, vì thế hãy đi theo một Thiện tri thức siêu việt.

Cho tới khi chứng ngộ trạng thái tự nhiên, các bạn cần phải học, vì thế hãy lắng nghe các giáo huấn của Ngài.

Mọi hạnh phúc là sự ban phước của vị Thầy, vì thế hãy luôn luôn tưởng nhớ lòng tốt của Ngài. 

Và Geshe Kharak Gomchugn nói: 

Vị Thầy cần được nhận thức như suối nguồn của mọi thành tựu thế gian lẫn các thành tựu xuất thế gian. 

Và cũng nói: 

Bạn có thể thông hiểu toàn bộ Tam Tạng, nhưng không có lòng sùng mộ đối với vị Thầy của bạn thì những thứ đó sẽ không ích lợi gì cho bạn  

Đặc biệt là trong tất cả các con đường của Mật Thừa, bậc Thầy có một quan trọng vô song và tột bậc. Vì lý do này, mọi Tantra đều dạy thực hành Guru Yoga, và nói rằng pháp này thì siêu vượt mọi thực hành của các giai đoạn phát triển và thành tựu. Trong một Tantra có nói: 

Tốt hơn sự thiền định về một trăm ngàn Bổn Tôn trong mười triệu kiếp

Là việc nghĩ tưởng về bậc Thầy của ta trong duy nhất một phút giây. 

Điều ấy đặc biệt đúng trong Thừa đặc biệt này, là tâm yếu của Đại Viên Mãn tự nhiên, giáo lý cốt lõi – kim cương. Ở đây nó không được dạy rằng chân lý sâu xa phải được thiết lập trên nền tảng của sự phân tích và luận lý, như sự thực hành trong các Thừa thấp hơn.[234] Cũng không được nói rằng các thành tựu thông thường phải được sử dụng để cuối cùng đạt được các thành tựu tối cao, như trong các tantra thấp. Cách sử dụng trí tuệ nguyên sơ - được minh hoạ của quán đảnh thứ ba để đưa vào trí tuệ nguyên sơ chân thực thì không được nhấn mạnh,[235] như trong các tantra cao cấp khác. Điều được dạy trong truyền thống này là cầu nguyện với lòng sùng một nhiệt thành và đức tin hoàn hảo đối với một vị Thầy chứng ngộ siêu việt mà dòng truyền thừa của Ngài thì giống một sợi xích vàng không bị hoen ố bởi bất kỳ sự bất tương ứng nào với các samaya, nương cậy độc nhất nơi Ngài và coi Ngài như một vị Phật đích thực;[236] theo cách này, tâm bạn sẽ hoàn toàn hoà nhập với tâm Ngài. Nhờ năng lực của những ban phước của Ngài được trao quyền qua bạn, sự chứng ngộ sẽ nảy sinh.[237] Như chúng ta đã trích dẫn trước đây:

Trí tuệ bẩm sinh tuyệt đối chỉ có thể hình thành

Như dấu hiệu của việc đã từng tích tập công đức và tịnh hoá các che chướng

Và nhờ các ban phước của một bậc Thầy chứng ngộ.

Hãy biết rằng nương tựa vào bất kỳ phương tiện nào khác là điên rồ. 

Và Ngài Saraha nói:

Khi lời dạy của vị Thầy đi vào trái tim bạn

Thì giống như nhận ra rằng bạn có một kho tàng trong lòng tay.

Ngài Longchenpa, vị Vua Pháp Toàn Giác, trong tác phẩm Tìm sự Nghỉ ngơi từ Ảo Tưởng [238], đã viết:

Trong các thực hành chẳng hạn như những thực hành của giai đoạn phát triển và thành tựu, không phải tự bản tánh của những con đường này đem lại sự giải thoát, vì điều đó tuỳ thuộc vào những yếu tố khác, chẳng hạn như làm thế nào ta tạo ra cho nó một kinh nghiệm sống động và làm sâu sắc thêm thực hành của mình. Trong Guru Yoga, dù thế nào chăng nữa, con đường – duy nhất bởi bản tánh đích thực của nó – đánh thực sự chứng ngộ trạng thái tự nhiên trong ta và đem lại sự giải thoát. Bởi lý do đó Guru Yoga là con đường sâu xa nhất trong mọi con đường.[239] 

Tantra Mạng lưới các Samaya nói: 

Tốt hơn việc thiền định trong một trăm ngàn kiếp

Về một Bổn Tôn với tất cả các tướng chánh và phụ

Là sự nghĩ tưởng về bậc Thầy của mình trong chốc lát.

Tốt hơn là một triệu câu trì tụng của các thực hành tiếp cận và thành tựu.

Là một lời cầu nguyện độc nhất gửi tới bậc Thầy. 

Mạng lưới Ati Yoga có nói: 

Bất kỳ ai thiền định về bậc Thầy tốt lành của mình

Trên đỉnh đầu họ,

Nơi giữa trái tim họ

Hoặc trong lòng bàn tay

Sẽ có được thành tựu của một ngàn vị Phật. 

Bậc tôn kính Gotsangpa nói: 

Thực hành Guru Yoga

Làm cạn kiệt mọi khiếm khuyết và hoàn thiện mọi thành tựu.

 

Và cũng nói:

thực hành của giai đoạn phát triển,  

Nhưng không có cái nào trong số đó vượt qua được thiền định về vị Thầy

Có nhiều thực hành của giai đoạn toàn thiện,

Nhưng không có cái nào trong chúng vượt qua được sự hoàn toàn tin cậy và sùng kính đó. 

Drikung Kyobpa Rinpoche nói:

 

Trừ phi mặt trời của lòng sùng mộ chiếu sáng

Trên đỉnh núi tuyết của bốn thân của bậc Thầy,

Dòng ân phước của Ngài sẽ không bao giờ chảy.

Vì thế hãy hăng hái khơi dậy lòng sùng một trong tâm bạn! 

Và Jetsun Rangrik Repa nói:

Ước muốn trí tuệ căn bản siêu vượt trí thức được ló rạng

Mà không có lòng tin nhiệt thành nơi vị Thầy

Thì giống như mong chờ ánh nắng mặt trời trong một cái hang quay về hướng Bắc

Theo cách đó, các hình tướng và tâm sẽ không bao giờ hoà hợp.[240] 

Thực hành sùng một của Guru Yoga là con đường duy nhất đánh thức trong bạn sự chứng ngộ trạng thái tự nhiên phi tạo tác. Không phương pháp nào khác có thể đem lại sự chứng ngộ như thế.

Ngài Naropa là một học giả hết sức uyên bác trong cả ba thừa, và sau khi đánh bại mọi thánh thức của những tirthika, ngài được ban cho địa vị người bảo trợ học giả ở cổng phía bắc của Vikramasila.100

Nhưng một ngày kia một Dakini trí tuệ bảo Ngài: “Ông uyên bác trong ngôn từ, chứ không trong ý nghĩa của chúng. Ông vẫn cần phải theo một vị Thầy.”

Tuân theo những giáo huấn của Bà, Ngài đi theo Tổ Tipola và chịu đựng nhiều thử thách, cho tới một hôm Tilopa bảo Ngài: “Mặc dầu ta dạy ông mọi sự, ông vẫn chẳng hiểu gì cả!” và đánh một chiếc dép lên trán Ngài. Ngay khi đó, Naropa chứng ngộ bản tánh tự nhiên và trí tuệ Ngài trở nên đồng nhất với trí huệ của bậc Thầy.*

Cũng có nói rằng Ngài Nagabodhi đã đạt thành tựu tối cao bằng cách chộp lấy và nuốt một miếng nước mũi nhỏ xuống của Đạo sư cao quý Nagarjuna. Và Rigdzin Rigme Lingpa nói: 

Khi tôi xem các tác phẩm của Đức Phật thứ hai đó – Ngài Longchenpa – thì trong trí tôi lóe lên rằng Ngài đích thật là một vị Phật, và tôi cầu nguyện với Ngài với lòng nhiệt thành mãnh liệt. Ngài đã xuất hiện với tôi trong một thị kiến và đã chấp nhận tôi. Sự chứng ngộ tự nhiên phát sanh trong tôi và từ ngày hôm đó trở về sau, tôi đã có thể dẫn dắt trên một trăm đệ tử. Những đệ tử tinh tấn không vượt quá nhưng tập trung thế tục, nhưng đệ tử thông minh lạc lối vào sự trí thức hoá; họ chỉ chứng ngộ được chân lý tuyệt đối là nhờ được hướng dẫn bởi một lực đối trọng của lòng sùng mộ của họ. 

Suốt thời kỳ tha hương ở Gyalmo Tsawarong, Đại dịch giả Vairotsana đã dạy cho cụ già Pang Mipham Gonpo cách dùng những ban phước của bậc Thầy như con đường. Mipham Gonpo đã tám mươi tuổi và nặng nhọc vì tuổi già, vì thế Ngài Vairotsana đã giữ thân thể ông ngồi thẳng bằng một giây - thiền định và giúp ông dựa đầu trên một giá đỡ - thiền định. ** Mipham Gonpo đã kinh nghiệm chứng ngộ sự thuần tịnh nguyên thuỷ của trekcho không chút sai lầm. Thân ông hoà tan thành những hạt cực nhỏ và đã đạt được Phật Quả.[241]

Bạn có thể so sánh giáo lý này với bất kỳ giáo lý nào khác từ tất cả chín thừa, nhưng bạn sẽ không bao giờ tìm ra một con đường tốt đẹp hoặc sâu xa hơn giáo lý này, Nó có thể được gọi là một thực hành sơ bộ, nhưng thực ra đây là vấn đề then chốt tối hậu của toàn thể các thực hành chính. Nếu bạn luôn luôn và trong bất kỳ tình huống nào lấy nó làm thực hành cốt tuỷ của bạn, thì chỉ mình nó là đủ - cho dù bạn không thực hành pháp nào khác. Vì thế, điều hết sức quan trọng là bạn hãy hiến mình cho thực hành này từ tận sâu thẳm của con người bạn.

 

II – LÀM THẾ NÀO ĐỂ THỰC HÀNH GURU YOGA

Đối với thực hành chính của con đường Guru Yoga sâu xa này, có ba giai đoạn: quán tưởng ruộng công đức, cúng dường bảy nhánh và sự cầu nguyện với đức tin kiên quyết. 

1- Sự quán tưởng ruộng công đức 

Việc chuyển hoá nhận thức của bạn về thế giới đòi hỏi một tâm thức mạnh mẽ và rộng mở, vì thế hãy bắt đầu bằng việc quán tưởng mọi sự, xa rộng tới độ bạn có thể nhìn thấy, như Cung điện Liên Hoa Quang, viên mãn trong toàn thể những đặc của nó.

Hãy quán tưởng bản thân bạn ở trung tâm cung điện, và nghĩ tưởng bản thân bạn có bản tánh của dakini Yeshe Tsogyal. Điều này sẽ đảm bảo rằng bạn là một bình chứa thích hợp cho các quán đảnh, khơi dậy trí huệ nguyên thuỷ của đại lạc và tánh Không, và tạo nên một mối liên kết với sự dẫn dắt mà Bà đã có từ vị Thầy của Bà.[242] Tuy nhiên, với sự sung mãn, hãy quán tưởng chính bạn là Vajrayogini. Bà có màu đỏ, một mặt, hai tay và ba mắt. Bà đang tha thiết nhìn nơi tim của vị Thầy – “tha thiết” ở đây diễn tả một cảm thức thiếu kiên nhẫn trong việc hoà nhập với bậc Thầy, Ngài là suối nguồn duy nhất của sự hỉ lạc. Với bàn tay phải, Bà đang chơi một cái trống - đầu lâu nhỏ đưa lên không trung, đánh thức chúng sinh ra khỏi giấc ngủ vô minh và lầm lạc. Bàn tay trái đặt lên hông, cầm một lưỡi dao cong chặt đứt gốc rễ của ba độc. Bà không mặc y phục ngoại trừ những vật bằng xương và các vòng hoa. Bà có thể được nhìn thấy nhưng không có thực chất, giống như một cầu vồng chiếu sáng trên bầu trời.

Lơ lửng trong không gian trên đầu bà khoảng bề dài một mũi tên là một hoa sen một trăm ngàn cánh làm bằng nhiều loại châu báu đang nở rộ. Trên đó là một đĩa mặt trời, trên nữa là một đĩa mặt trăng. Trên chiết ngai này, vị Thầy gốc vinh quanh của bạn an toạ, kho tàng của lòng đại bi vô song đó là hiện thân của chư Phật trong quá khứ, hiện tại và tương lai trong hình tướng của Đại Đạo Sư xứ Oddiyana. Nước da Ngài trắng, pha đỏ. Ngài có một mặt, hai tay và hai chân. Ngài ngồi trong tư thế vương giả và mặc một áo khoác không tay bằng gấm thêu kim tuyến, một chiếc y nhà sư, một áo choàng xanh lam có tay và một chiếc mũ hoa sen.

Ba cái mũ khác nhau được kết hợp với Guru Rinpoche, Ngài cũng được gọi là Đức Phật Thứ Hai xứ Oddiyana. Cái mũ thứ nhất được các dakini cúng dường cho ngài khi ngài sinh ra. Ngài không được thụ thai bởi một người cha hay được sinh ra từ một người mẹ, mà được sinh ở phương tây-nam, trên Hồ Sữa, giữa một bông sen. Đó là sự sinh ra thình lình, tự nhiên của Giác tánh, sự chứng ngộ rằng mọi sự hiện hữu phát sinh từ nền tảng nguyên thuỷ. Cái mũ mà các dakini cúng dường Ngài vào lúc đó tôn phong ngài như Chúa tể của gia đình họ, được gọi là Nụ-sen.

Về sau, khi Ngài thực hành hoạt động phi thường[243] trong Tám Mộ Địa Vĩ Đại và siêu vượt lên mọi hành động tốt hoặc xấu, các dakini hiến dâng Ngài chiếc mỹ gọi là Mũ Da-Hươu[244] như một biểu tượng cho sự vĩ đại của Ngài.

Chiếc mũ thứ ba do Arsadhara, Vua xứ Zahor cúng dường Ngài. Vua cố gắng thiêu sống Đạo sư, nhưng ông đã khám phá ra thân kim cương của Ngài không bị ngọn lửa làm tổn hại, thân này đang ngồi trần trụi, hoàn toàn tươi tắn, mát mẻ giữa một hoa sen kỳ diệu. Nhà vua hết sức kinh ngạc và đức tin xuất hiện trong Ngài.

“Hãy mở kho quần áo lụa mới của ta,” vua ra lệnh, “và đem cho ta tất cả những cái mũ và y phục.”

Cái mũ mà vua cúng dường lúc đó, không chỉ đi cùng với những của cải khác của nhà vua, mà còn cùng với quyến thuộc, vương quốc và thần dân của vua, được gọi là Hoa Sen Giải thoát nhờ Cái Thấy, cũng được gọi là Mũ Cánh Hoa Năm Bộ. Chính là cái mũ đặc biệt này liên quan đến chúng ta ở đây. Nó có hai lớp, trong và ngoài, tượng trưng cho sự hợp nhất của các giai đoạn phát triển và thành tựu. Nó có ba chởm, tượng trưng cho ba kaya (thân). Năm màu của nó tượng trưng năm thân* làm việc vì lợi lạc của chúng sinh. Nó được trang trí với một mặt trời và một mặt trăng tượng trưng cho các phương tiện thiện xảo và trí tuệ. Nó có một viền xanh dương tượng trưng cho samaya vô giới hạn. trên đỉnh là một vajra (chày kim cương), là một biểu tượng của sự tập trung (thiền định) không thể lay chuyển, và một chiếc lông chim kên kên, tượng trưng sự chứng ngộ của cái thấy cao tột và cực điểm của sự thực hành.

Với bàn tay phải nơi trái tim, Ngài phô diễn ấn phẫn nộ và cầm một cái chày kim cang vàng. Bàn tay trái đặt trong lòng với cử chỉ thiền định và cầm một tách sọ người. Nó chứa đầy chất cam lồ trí tuệ bất tử và đựng một bình trường thọ có cắm một chồi non của cây ước nguyện. Trong khuỷ tay trái, Đạo sự ôm Mandarava, bà hoàng của các Dakini, trong hình tướng ẩn dấu là khatvanga** của Ngài. Ba ngạnh của khatvanga tượng trưng cho bảnh tánh cốt tuỷ, sự biểu lộ tự nhiên, và lòng bi mẫn, và ở dưới chúng là ba cái đầu bị cắt đứt: một đầu đã khô tượng trưng Pháp Thân, một đầu thối rữa, tượng trưng Báo Thân, và một đầu mới cắt tượng trưng Hoá Thân. Chín vòng kim khí móc trên những ngạnh của nó tượng trưng cho chín thừa; những chiếc cờ lụa năm màu tượng trưng năm trí tuệ. Khatvanga cũng được trang hoàng với những mớ tóc của các mamo*** đã chết và còn sống và những dakini như một dấu hiệu cho thấy Đạo sư đã khuất phục họ trong suốt thời gian Ngài thực hành hoạt động phi thường trong Tám Một Địa Vĩ Đại.[245]

Khắp quanh Ngài, trong một khối cầu vồng chói lọi được vây quanh bởi một mạng lưới gồm vô số điểm ánh sáng năm màu, hãy quán tưởng Tám vị Vidyadhara của Ấn Độ, Hai mươi lăm Đệ tử của Tây Tạng và v.v.. cũng như hằng hà sa số Bổn Tôn của Ba Cội Gốc và các vị bảo hộ trung thành. Sự hiện diện các Ngài khiến những tư tưởng phàm tục của bạn tự động ngừng dứt.

Nói rộng ra thì có ba cách khác nhau để quán tưởng dòng truyền thừa. Trong sự thực hành quy y, chúng ta đã quán tưởng các Lạt ma vị này ở trên vị kia. Tất cả các Lạt ma của dòng Đại Viên Mãn xuất hiện vị này trên vị kia trên đầu của Đại Đạo Sư xứ Oddiyana. Cách chúng ta đã quán tưởng khi thiền định và trì tụng về Vajrasattva được biết là viên ngọc gồm chứa mọi sự. Tất cả các Lạt ma gốc và thuộc dòng truyền thừa được hiện thân bởi duy nhất Đức Vajrasattva. Nhưng bây giờ, khi thiền định về Guru Yoga, chúng ta quán tưởng các Lạt ma như một nhóm. Tất cả các Lạt ma của Dòng Đại Viên Mãn, đại dương của Ba Cội Gốc và các vị bảo hộ trung thành được tụ hội trong một nhóm xung quanh Đại Đạo Sư xứ Oddiyana.

Hãy trì tụng bản văn quán tưởng, chú ý tới ý nghĩa của những từ:

Emaho![246] Mọi sự con nhận thức là Phật cảnh hình thành tự nhiên, thanh tịnh và vô hạn…

xuống tới:

đựơc quán tưởng trong sự đồng nhất vĩ đại của sự trong sáng và tánh Không bất khả phân.

Rồi với lòng sùng một mãnh liệt, hãy trì tụng những giòng:

Hum! Trên biên giới tây bắc xứ Oddiyana…

xuống tới:

Guru Padma Siddhi Hum.[247]

Khi bạn đọc những dòng này, hãy quán tưởng rằng tất cả các Bổn Tôn và Cung điện Liên Hoa Quang ở núi Huy Hoàng Màu-Đồng Đỏ xuất hiện thực sự và hoà tan vào các Bổn Tôn samaya và cung điện[248] mà bạn đã quán tưởng, trở thành một với họ như nước đổ vào nước.

2. Sự cúng dường bảy nhánh

Con đường Kim Cương thừa bao gồm nhiều phương pháp và không có các gian khổ lớn lao. Nó được dành cho những người năng lực sắc bén. Nếu chúng ta bền bỉ tu tập bản thân để tích tập công đức và trí tuệ với một tâm thái mạnh mẽ, mọi sự đáng lẽ phải mất cả một đại kiếp để tích tập bằng sáu ba la mật, thì với con đường này ta có thể thành tựu chỉ trong chốc lát, và có thể đạt được giải thoát chỉ trong một đời.

Không thể nghi ngờ gì về ruộng công đức duy nhất tuyệt hảo, bí mất và vô song là Đạo sư kim cương.[249] Đó là lý do vì sao thực hành tích tập công đức được kết hợp với Guru Yoga. Bảy phần của sự Cúng dường Bảo Nhánh bao gồm toàn thể vô số các phương pháp để tích tập công đức và trí tuệ.

 

2.1 SỰ LỄ LẠY,[250] CÁCH ĐỐI TRỊ TÁNH KIÊU NGẠO

Đối với thực hành này, hãy quán tưởng là bạn đang hoá thân thành một trăm, một ngàn, rồi vô số thân như thân thể bạn, nhiều như những hạt bụi trong thế giới. Đồng thời hãy quán tưởng rằng tất cả chúng sinh vô hạn như chính không gian đang lễ lạy cùng bạn. Ngôn từ dùng trong phần này là:

Hrih! Con lễ lạy, hiện thể nhiều thân

Như những hạt bụi trong toàn thể thế giới.

Nói chung, khi bạn thực hành toàn thể “năm trăm ngàn chuẩn bị”,[251] là đúng đắn nếu bạn kết hợp các lễ lạy với sự thực hành quy y, và truyền thống đó thường được tuân theo. Nhưng trong giáo lý hiện thời, sự giảng dạy thực tế về việc lễ lạy được ban cho ở đây, thì kết hợp các lễ lạy với Guru Yoga là một cách thức hoàn hảo để thực hành chúng.

Một vấn đề quan trọng khi thực hành lễ lạy là để liên kết thân, ngữ và ý. Khi bạn lễ lạy bằng thân, hãy trì tụng bản văn cầu nguyện để lễ lạy bằng ngữ của bạn. Với tâm, hãy truy xét rằng bạn đang thực hành lễ lạy cùng tất cả chúng sinh và thực hành với sự tôn kính và sùng mộ, hoàn toàn nương tựa vào vị Thầy và hoàn toàn quy phục Ngài. Mặc khác, bạn sẽ chấm dứt hoàn toàn việc nói năng bất cứ điều gì bạn thích và ngó nhìn quanh quẩn mọi nơi, trong khi tâm bạn theo đuổi đủ loại sự kiện bên ngoài. Một khách qua đường hay một vài người nào đó nói bên tay phải bạn sẽ lôi kéo đôi mắt và sự chú ý của bạn về hướng đó, và bạn sẽ thấy mình chắp đôi tay lại và ép lên má trái. Khi ai đó xuất hiện ở bên trái bạn, bạn sẽ nhìn quanh, lắng nghe về phía đó và đôi bàn tay chắp lại của bạn sẽ kết thúc bằng cách chạm vào má phải. Bạn phải hiểu rằng thực hiện một cuộc trình diễn bề ngoài bằng cách lễ lạy như thế, để cho tâm bạn bị dẫn dắt bởi sự phóng tâm trong khi thân bạn tự lắc lư lên xuống thì chỉ là một sự thử thách xác thân mà không phụng sự cho bất kỳ mục đích nào.

Khi bạn lạy, hãy chụm hai bàn tay lại ở trong hình dạng một nụ hoa sen sắp nở, để một khoảng không gian ở giữa. Là không đúng khi ép chặt hai bàn tay lại không để chừa khoảng không ở giữa chúng, cũng đừng chỉ chạm các đầu ngón tay lại với nhau. Kinh Đại Giải Thoát nói:

Đôi bàn tay chắp trên đầu

Như một nụ sen hé nở,

Và với vô số thân tụ hội như mây

Con quỳ lạy chư Phật mười phương.

Kho tàng các Phẩm tính Cao Quý nói:

Hãy làm một biểu hiện tôn kính nơi tim bạn,

Thân bạn cúi xuống thấp không phóng tâm,

Đôi bàn tay bạn chụm lại như một nụ hoa

Và gắn với nhau như một hộp xá lợi.

Hãy chắp hai bàn tay lại và đặt trênđỉnh đầu bạn, rồi đặt ở cổ họng và tim bạn để tịnh hoá các che chướng của thân, khẩu và ý bạn. Rồi bạn chạm thân vào nền nhà ở năm điểm là trán, hai lòng bàn tay và hai đầu gối,[252] để tịnh hoá các che chướng của năm độc và nhận được các ân phước của thân, khẩu, ý, các phẩm tính của sự hoạt động. Sau đó đứng thẳng lên, lại chắp tay và tiếp tục các lễ lạy theo cách tương tự.

Là không đúng khi đung đưa tay mà không chắp bàn tay lại. Cũng không đúng nếu bạn chỉ cúi xuống phía trước mà đầu gối và trán không chạm đất. Cũng không đúng nếu khi đứng dậy bạn cứ lom khom mà không đứng thẳng hẳn lên. Lễ lạy như thế là thiếu tôn kính. Có nói rằng kết quả hoàn toàn chín mùi của việc lễ lạy mà không đứng thẳng người là bị tái sinh làm một người lùn gù lưng. Chúng ta thực hiện những sự lễ lạy trong hy vọng được lợi lạc từ chúng – vì thế không có ý nghĩa gì trong việc thực hành chúng theo một cách chỉ đưa đến một thân thể lệch lạc.

Cho dù bạn không thể lễ lạy được nhiều, hãy nỗ lực để bảo đảm rằng dù bạn có thể lễ lạy nhiều tới mức độ nào chăng nữa, chúng hoàn toàn được thực hiện không thể chê vào đâu được. Là vô nghĩa khi cố làm các lễ lạy trở nên dễ dàng hơn bằng cách thực hiện chúng trên một chỗ dốc, chẳng hạn sườn một ngọn đồi, hoặc bằng bất kỳ phương pháp nào như vậy.

Hơn nữa, ngày nay khi người ta tỏ lòng tôn kính, ví dụ như khi viếng thăm một Lạt ma, họ làm một sự lễ lạy hầu như đúng đắn và sau đó bồi thêm hai cái nghiêng mình nữa. Cứ cho là những người lễ lạy đó là người quan trọng biết bao – và hầu hết những người ngu dốt làm theo gương mẫu của họ. Nhưng đó là một cách lễ lạy cực kỳ thô tục. Mục đích của việc thỉnh cầu giáo lý, ngay cả trong những sự việc đơn giản như cách quỳ lạy ra sao, là để nghe Đạo sư giảng dạy bất kỳ điều gì ta không biết, và sau đó đưa nó vào thực hành trong mọi lúc mà không quên bất cứ chi tiết nào. Nếu ta không thể đưa vào thực hành ngay cả điều gì thật học và dễ làm thì việc nghiên cứu Pháp trở nên hoàn toàn vô nghĩa và không có kết quả. Những người đã từng nghiên cứu Pháp phải giải giang hơn những người không nghiên cứu, ngay cả trong cách thức họ thực hiện các lễ lạy đơn giản.

Khi Ngài Jetsun Mila đến cầu Pháp nơi Lạt ma Ngokpa, Ngài tới vào lúc Lạt ma Ngokpa đang giảng Tantra Hevajra cho một tập hội tăng sĩ đông đảo. Ngài Mila tỏ lòng tôn kính bằng cách quỳ lại từ xa. Vị Lạt ma rất hài lòng.

Bỏ mũ trùm đầu ra, vị Lạt ma lạy trả ngài Mila và nói: “Một sự gián đoạn tốt lành làm sao! Người quỳ lại đằng kia đang lạy theo cách của các đệ tử Ngài Marpa xứ Lhodrak.* Hãy hỏi xem ông ta là ai.”

Bất kỳ ai đi theo một ị Thầy và nhận các giáo lý của Ngài phải như một miếng vải được ngâm trong thuốc nhuộm. Khi anh ta học tập noi gương các hành vi của vị Thầy đáng kính của mình, thì chắc chắn sẽ có một miếng vải chuyển biến đáng lưu ý đối với tình trạng của anh ta trước đó. Khi một miếng vải được nhuộm màu, có thể có được một màu mới ít nhiều mỹ mãn – nhưng làm thế nào nó lại không thể thay đổi màu chút xíu nào? Ngày nay, có những người từng nhận lãnh Pháp hàng trăm lần, nhưng họ vẫn không cải thiện bản thân được chút nào, và xử sự hoàn toàn như một người thế tục trong mọi phương diện. Tất cả những gì Pháp sản sinh ra được là những hành giả trơ lì, những kẻ vi phạm samaya. Có nói rằng:

Pháp có thể gây cảm hứng khiến những kẻ làm điều ác biến đổi, nhưng nó không thể truyền cảm hứng cho những hành giả trở nên trơ lì đối với Pháp - giống như mỡ có thể làm làn da cứng trở nên mềm mại, nhưng không thể làm mềm da của túi đựng bơ.[253]

Một khi bạn đã học về những lợi lạc của các hành động tích cực, sự tai hại của các hành động tiêu cực và các phẩm tính của chư Phật, thì sẽ không đủ nếu chỉ đơn thuần tán đồng những sự tin tưởng đó; bạn còn phải khơi dậy sự xác quyết và niềm tin để có thể thực sự chuyển hoá cách nhìn của bạn. Nếu không thì ngay cả vị Phật Toàn Giác bằng xương bằng thịt cũng chẳng thể cứu giúp bạn. Đấng Vĩ Đại xứ Oddiyana ban lời cảnh báo sau đây:

Đừng tự vây quanh bạn với những đệ tử lạc lối trong việc chỉ bàn suông về giáo lý nhưng tâm họ đã trở nên trơ lì với nó.

Đừng liên kết với những bằng hữu đặt giới hạn cho các samaya của họ.

Cho dù bạn chỉ hiểu một từ của giáo lý, bạn cần nhận ra cách hoà trộn nó với tâm bạn và đưa nó vào thực hành. Mục đích của việc đi theo một vị Thầy là quan sát những tư tưởng, lời nói và hành vi của Ngài và học tập thực hiện như Ngài thực hiện. Như tục ngữ nói:

Mọi hành động chỉ là sự noi gương:                    

Những người hành động tuyệt hảo là những người noi gương tốt nhất.

Theo cách này, bạn nên để cho những phẩm tính bên ngoài, bên trong và bí mật của vị Thầy in dấu trong bạn, giống như một tsa-tsa hình thành từ cái khuôn của nó.

“Lễ lạy” là một từ tổng quát mô tả một cử chỉ tôn trọng và kính phục. Có nhiều cách khác nhau để thực hiện những lễ lạy, và những tập tục biến đổi từ nơi này sang nơi khác. Tuy nhiên, trong trường hợp này bậc Thầy của bạn đã dạy bạn cách thực hành chúng phù hợp với lời dạy của Đấng Chiến Thắng. Vì thế, lễ lạy theo cách thức sai lầm có dụng ý, bởi sự kiêu ngạo hay để việc lễ lạy dễ dàng hơn, đều là một hành vi thiếu tôn kính và là một biểu hiện của sự khinh thường. Cũng phải hiểu rõ rằng thực hành lễ lạy như thể thanh toán một món thế sẽ không phục vụ cho mục đích nào cả và chỉ đem lại những kết quả sai lầm.

Trái lại, những lễ lạy đúng đắn đem lại vô lượng lợi lạc. Một lần, khi một nhà Sư đang lễ lạy một cái tháp đựng những mẫu tóc và móng của Đức Phật, ngài Ananda hỏi Đức Phật một hành động như thế có thể có lợi lạc gì. Đức Phật đáp:

Một cái lễ lạy duy nhất thì có năng lực đến nỗi, như một kết quả, nếu như người ta phải trở thành một Đại đế nhiều lần như số hạt bụi ở dưới thân người đó xuống tới vực sâu nhất của trái đất,[254]thì các lợi lạc của sự lễ lạy đó vẫn không cạn kiệt.

Và trong các kinh có nói:

Nhục kế bí mật trên đầu Đức Phật hình thành từ việc Ngài đã lễ lạy đầy tôn kính trước Đạo sư của Ngài.

Cuối cùng, những sự lễ lạy cũng sẽ dẫn dắt chúng ta đến việc có được usnisa nhô lên trên đỉnh đầu chư Phật Toàn Giác.

2.2 SỰ CÚNG DƯỜNG[255]

Hãy sắp đặt nhiều sự cúng dường trong khả năng kinh tế của bạn cho phép, như đã được giảng trong chương về sự cúng dường mạn đà la – nói cách khác, sử dụng các vật cúng dường trong sạch và hoàn toàn thanh tịnh, và không bị vướng kẹt bởi tính bủn xỉn, sự đạo đức giả hay tính khoe khoang. Các sự cúng dường này chính là vật hỗ trợ cho sự thiền định của bạn.

Sau đó, hãy thực hiện một sự cúng dường trong tâm theo cách thức của Bồ Tát Samantabhadra (Phổ Hiền),[256] làm tràn đầy toàn thể thế giới và toàn bộ không gian với tất cả những vật cúng dường của các cõi người và trời: hoa, hương, đèn, nước hoa, thực phẩm, cung điện, phong cảnh, lâu đài, lạc-viên, bảy vật tượng trưng cho vương quyền và tám biểu tượng tốt lành, với mười sáu thiên nữ kim cương nhảy múa và ca hát, mỗi vị sự dụng nhạc cụ riêng của mình.

Nhờ năng lực của sự thiền định, Bồ Tát Phổ Hiền phóng ra hàng trăm triệu tia sáng từ tim Ngài, như vô số những hạt bụi trong hằng hà sa số các cõi Phật. Ở cuối mỗi tia sáng, Ngài phóng ra một thân tướng đồng nhất với bản thân ngài, cũng phóng ra các tia sáng đồng nhất từ tim thân tướng đó. Ở cuối mội tia sáng, còn lần lượt xuất hiện thêm các Đức Phổ Hiền, và như thế tiếp tục tăng trưởng vô hạn, cho tới số thân tướng hiển lộ thì hoàn toàn không thể nghĩ bàn. Mỗi một vị trong những Đức Phổ Hiền này đang cúng dường chư Phật và chư Bồ Tát khắp mười phương vô số những vật cúng dường vô vàn thứ loại. Đây là cái được gọi là “những đám mây cúng dường của Đức Phổ Hiền cao quý.” Hãy làm các sự cúng dường bằng cách thực hiện trong tâm nhiều Hoá Thân trong mức độ bạn có thể theo cách này, trong khi bạn đọc những lời tương ứng sau:

Với những vật cúng dường được chuẩn bị cả bằng vật chất lẫn tạo tác trong tâm.Con cúng dường mọi sự trong vũ trụ như một động thái cúng dường bao la.

Dù khả năng cúng dường của ta ra sao thì chư Phật và Bồ Tát cũng có đủ khả năng để nhận lấy. Vì vậy, hãy sử dụng trong tâm mọi của cải không có sở hữu chủ trong toàn thể các cõi người và trời khắp thế giới và thực hiện sự cúng dường nó. Sau đó hãy hiển lộ càng nhiều của cải càng tốt trong mức độ bạn có thể với trí tưởng tượng của bạn và cũng cúng dường nó. Theo cách này bạn có thể tích tập công đức hoàn toàn tương tự với lượng công đức bạn có được nếu như những vật cúng dường đó là tài sản của riêng bạn. Đừng bao giờ cho rằng bạn không có gì để cúng dường. Bất kỳ thứ gì bạn hay những người khác có và bất cứ điều gì bạn thấy, hãy để cho ý nghĩ đầu tiên của bạn luôn luôn là cúng dường sự vật đó cho Tam Bảo và các bậc Thầy gốc và các bậc Thầy thuộc giòng truyền thừa. Bằng tâm bạn, hãy cúng dường cho Tam Bảo bất kỳ điều gì bạn thấy đẹp đẽ khi bạn đi qua, thậm chí một dòng nước trong trẻo hay những cánh đồng hoa, như thế bạn sẽ hoàn thiện sự tích tập công đức và trí tuệ ngay giữa các hoạt động khác của bạn.

2.3 SỰ SÁM HỐI CÁC HÀNH VI CÓ HẠI[257]

Hãy sám hối bằng việc suy tưởng trước tiên: “Với nỗi hổ thẹn và ân hận mãnh liệt, con phát lồ sám hối mọi sự phạm giới và những ác hạnh của con, những gì con còn nhớ và những gì con đã quên, mọi điều tiêu cực không thể nói ra mà con đã từng làm trong mọi cuộc đời con trong sinh tử từ vô thuỷ: mười ác hạnh của thân, khẩu và ý, năm tội bị quả báo tức thì và năm tội hầu như nặng nề, bốn lỗi lầm nghiêm trọng, tám hành vi độc ác, sự lạm dụng tiền của được hiến cúng cho Tam Bảo và v.v.. Từ giờ trở đi, con sẽ không bao giờ lập lại những hành vi xấu ác này.”

Với ý nghĩ này, hãy sám hối như đã được giảng trong chương về Vajrasattva, trong khi ghi nhớ trong tâm những cách đối trị của bốn năng lực. Rồi hãy tưởng tượng rằng tất cả những hành động sai lầm và các che chướng của bạn cùng tập hợp lại trong hình thức một nhúm đen trên lưỡi bạn. Hãy quán tưởng các tia sáng đang tuôn chảy ra từ thân, khẩu, ý* của các Bổn Tôn của ruộng công đức, chạm vào chổ bị nhúm đen, và tẩy sạch bạn khỏi các ô nhiễm như thể mọi bụi đất được cuốn trôi. Hãy đọc những lời này:

Trong Pháp Thân chói lọi.

Con sám hối mọi tư tưởng, lời nói và hành vi sai trái.

2.4    SỰ HOAN HỈ, CÁCH ĐỐI TRỊ TÁNH GANH TI

Hãy hoan hỉ sâu xa và chân thành trước công cuộc chuyển Pháp Luân Vĩ đại đã được các Đấng Chiến Thắng khởi động vì lợi lạc của chúng sinh. Hãy hoan hỉ trước các hoạt động bao la, mạnh mẽ của chư Bồ Tát và các hành động tích cực của chúng sinh là những việc đáng tán thán và đưa tới giải thoát.[258]  Hãy hoan hỉ trước bất kỳ điều tốt lành nào bản thân bạn đã làm trong quá khứ, đang làm trong hiện tại và chắc chắn là bạn sẽ làm trong tương lai, và nói:

Con hoan hỉ trước các thiện hạnh

Được bao gồm trong hai chân lý.

Chúng ta hoan hỉ trước mọi thiện hạnh bao gồm trong hai chân lý,[259] dù được thực hiện bởi chúng ta hay những người khác, dù bị ô nhiễm bởi các cảm xúc hay hoàn toàn thanh tịnh, bởi không một giáo lý nào trong tất cả chín thừa mà không được bao gồm chân lý tương đối hay chân lý tuyệt đối.

Các lợi lạc của sự hoan hỉ theo cách này thì vô hạn. Có một lần Vua Ba Tư Nặc (Prasenajit) thỉnh mời Đức Phật và các đệ tử của Ngài dùng bữa hằng ngày tại cung điện trong thời gian bốn tháng, trong thời gian này ông ta cúng dường hội chúng tất cả tài sản của mình. Một bà lão hành khất đi ngang qua đó tràn ngập sự hoan hỉ trước hành động này.

“Vua Ba Tư Nặc, đã được mọi của cải này nhờ công đức vua đã tích tập trong quá khứ,” bà lão nghĩ, “và giờ đây vua đã được gặp Phật, là đấng quả là một tâm điểm hiếm có bởi các hành động đáng tán thán của Ngài, sự tích tập công đức của nhà vua sẽ hết sức to lớn. Kỳ diệu thay!”

Nhờ sự hoan hỷ chân thành và hoàn hảo của bà, bà đã tạo được vô lượng công đức. Đức Phật thấu suốt điều này.

Chiều hôm đó, khi đến lúc hồi hướng công đức, Đức Phật nói với vua: “Ngài muốn ta hồi hướng nguồn mạch công đức mà ngài đã thâu đạt được cho ngài, hay ta sẽ hồi hướng nó cho người xứng đáng hơn ngài?”

Nhà vua đáp: “Xin hồi hướng nó cho bất kỳ ai có nguồn mạch công đức to lớn nhất.”

Vì thế Đức Phật đã hồi hướng công đức nhân danh bà lão hành khất. Việc này xảy ra trong ba ngày liền. Quá bực tức, nhà vua thỉnh ý các thượng thư để tìm cách chấm dứt tình trạng này.

“Đức Vua quyết định về việc này thế nào?” họ hỏi. “Ngày mai, khi thỉnh mời Đấng Vĩ Đại và các đệ tử của Ngài đến để cúng dường, chúng ta sẽ làm đổ một số thực phẩm và thức uống quanh các cái bình. Khi những người hành khất đến nhặt nó, chúng ta sẽ đánh họ thật nghiêm khắc để ngăn cản.”

Và họ đã làm như thế. Khi bà lão hành khất hoan hỉ đến nhặt thực phẩm bị đổ, họ ngăn lại và đánh bà. Bà trở nên giận dữ, vì vậy tiêu huỷ nguồn mạch công đức; ngày hôm đó công đức được hồi hướng nhân danh nhà vua.

Như tôi đã lập lại ở đây nhiều lần, chính duy nhất ý hướng của người thực hiện sẽ quyết định các hành động là tích cực hay tiêu cực - chứ không phải sự thực hiện thực sự bằng vật chất hay trên ngôn từ của ý hướng đó. Vì lý do này, trong Kinh Các Giáo huấn cho vị Vua, Đức Phật giảng tỉ mỉ rằng việc chỉ đơn giản nhìn điều tốt người khác đã làm với một tâm thức thanh tịnh, chân thành hoan hỉ trước điều đó và hồi hướng năng lực của nó cho sự hoàn toàn giác ngộ của mọi chúng sinh, sẽ đem lại công đức nhiều hơn các hành vi tốt có tính phô trương bị hư hỏng bới tám mối quan tâm thế tục, bởi các tham vọng đối với cuộc đời này, bởi sự kiêu ngạo về các hành vi tốt đẹp, bởi ước muốn ganh đua với đức hạnh của người khác và v.v.. Chagme Rinpoche nói:

Khi nghe nói về điều tốt của người khác,

Nếu như ta đuổi đi mọi niệm tưởng ghen tị tiêu cực

Và thực sự hoan hỉ tận sâu thẳm trái tim ta,

Thì có nói rằng ta sẽ công đức ngang bằng công đức của họ.

 Trí huệ Cô đọng Siêu Việt nói:

Sức năng của tất cả các núi Tu di trong một tỉ thế giới có thể tính toán được,

Nhưng không thể đo lường được công đức của sự tùy hỉ công đức.

Hãy luôn luôn hoan hỉ trước điều tốt mà những người khác đã làm vì sự hoan hỉ rất dễ thực hiện và thật lợi lạc.

2.5    SỰ THÚC ĐẨY CHƯ PHẬT CHUYỂN PHÁP LUÂN[260]

Hãy tưởng tượng rằng hiện diện trước mặt bạn là chư Phật và Bồ Tát, các Đạo sư và tất cả những bậc có thể đảm đương gánh nặng to lớn để làm lợi lạc chúng sinh. Hãy nghĩ tưởng rằng các Ngài đã chán ngán vì thái độ vô ơn và ngã lòng của những chúng sinh đó và đang có ý định an trụ trong trạng thái an bình mà không giảng dạy gì hết. Bạn hoá hiện thành hàng trăm và hàng ngàn triệu thân, hãy cúng dường bánh xe, châu báu và các báu vật khác cho toàn thể chư vị, và thúc đẩy các Ngài chuyển Pháp Luân với những lời sau:

Con khẩn nài các Ngài chuyển Pháp Luân của ba thừa.

Pháp đước thân chia tổng quát thành ba thừa: Thanh Văn Thừa, Độc Giác Thừa, và Bồ Tát Thừa. Đồng thời chúng bao gồm toàn thể giáo lý của Đức Phật. Nhưng nó cũng có thể được chia nhỏ thành chín thừa: ba thừa bên ngoài là các thừa của Thanh Văn, các vị Phật Độc Giác và các Bồ Tát, chúng giải thoát tận nguồn gốc của đau khổ;* ba thừa bên trong, Kriya, Upayoga và Yoga có liên quan tới các thực hành khổ hạnh theo kiểu truyền thống Vệ Đà;** và ba thừa bí mật, Mahayoga, Anuyoga và Atiyoga, dạy các phương pháp hữu hiệu để chuyển hoá. Khi chúng ta thỉnh cầu việc chuyển Pháp Luân, điều chúng ta đang cầu khẩn là Giáo Pháp của ba thừa này, được phân chia xa hơn nữa thành chín thừa, chúng có thể cung cấp các giáo lý thích hợp cho mỗi loại đệ tự.

2.6 SỰ KHẨN CẦU CHƯ PHẬT KHÔNG NHẬP NIẾT BÀN[261]

Hãy gởi lời khẩn cầu của bạn đến các Đạo sư, chư Phật và chư Bồ Tát là những bậc đã hoàn thành công trình của các Ngài vì điều tốt lành cho chúng sinh, trong cõi Phật này và những cõi Phật khác, và giờ đây muốn nhập Niết Bàn. Giống như cư sĩ Cunda[262] đã làm trong quá khứ, hãy nài xin các Ngài bằng cách tạo ra trong tâm nhiều Hoá Thân của chính bạn. Hãy nói:

Cho tới khi vòng sinh tử được làm rỗng

Xin ở lại với chúng con và đừng nhập Niết Bàn!

Rồi hãy nghĩ tưởng rằng do sự cầu nguyện của các bạn, tất cả chư Phật ở lại để làm việc cho điều tốt lành của chúng sinh cho tới khi vòng sinh tử được làm trống rỗng.

2.7  SỰ HỒI HƯỚNG[263]

Hãy theo gương mẫu của Đức Văn Thù bằng cách hồi hướng cho tất cả chúng sinh bất kỳ công đức nào đang được và sẽ được bản thân bạn và những người khác thâu đạt, bắt đầu với hành động mà giờ đây bạn đang làm. Hãy niêm phong bằng dấu niêm của trí tuệ vô - niệm. Đọc những dòng này:

Mọi nguồn mạch công đức được tích tập suốt trong quá khứ, hiện tại và tương lai,

Con hồi hướng như một nguyên nhân của đại Giác ngộ.

Đừng quên thực hiện sự hồi hướng vào lúc cuối của bất kỳ hành động đáng khen nào, dù lớn hay nhỏ. Bất kỳ nguồn mạch công đức nào không được hồi hướng theo lối này sẽ chỉ kết trái một lần và sau đó sẽ bị cạn kiệt. Nhưng bất cứ điều gì được hồi hướng cho sự Giác ngộ tối hậu sẽ không bao giờ bị khô cạn, thậm chí khi đã kết trái một trăm lần. Thay vào đó, nó sẽ tăng trưởng và phát triển cho tới khi thành tựu được Phật Quả toàn hảo. Trong Kinh Sagaramati Khẩn Cầu có nói:

Giống như một giọt nước rơi vào đại dương

Sẽ không bao giờ biến mất cho tới khi đại dương khô cạn,

Công đức hoàn toàn được hồi hướng cho sự Giác ngộ

Sẽ không bao giờ biến mất cho tới khi đạt được Giác ngộ.

Bạn có thể ước muốn đạt được cấp bậc của một Thanh Văn hay Phạt Độc Giác, hay thành tựu sự Toàn Giác. Bạn có thể chỉ ước muốn được tái sinh trong các cõi giới cao, như một vị trời hay một con người. Hoặc bạn có thể chỉ ước muốn một kết quả nhất thời như một cuộc đời trường thọ hoặc dồi dào sức khoẻ. Nhưng khi bạn làm điều gì đáng khen, thì dù trong cái nhìn của bạn có mục đích nào chăng nữa, điều quan trọng là hãy hồi hướng nó cho mục đích đó. Drikung Kyobpa Rinpoche nói:

Trừ phi bạn thực hiện những nguyện cầu mong mỏi,

Bằng cách xoa tay vào viên ngọc như-ý của hai tích tập,

Kết quả bạn mong ước sẽ không bao giờ xuất hiện;

Vì vậy hãy thực hiện sự hồi hướng kết thúc thật toàn tâm.

Chính năng lực của sự hồi hướng sẽ quyết định các hành động tích cực có dẫn tới sự toàn giác hay không. Các hành động tích cực có điều kiện mà bạn tích tập, dù chúng có thể bao la đến đâu chăng nữa, cũng không thể dẫn tới giải thoát trừ phi bạn cho chúng một định hướng bằng cách hồi hướng chúng. Geshe Khampa Lungpa nói:

Không thiện hạnh có điều kiện nào có một định hướng của riêng chúng,[264]

Vì thế hãy thực hiện những ước nguyện rộng lớn vì lợi lạc của chúng sinh.

Cũng áp dụng tương tự đối với một hành động tích cực mà bạn có thể thực hiện nhân danh cha, mẹ hay những người thân yêu của bạn, hoặc cho người đã chết.[265] Không có sự hồi hướng thì hành động đó không có hiệu quả. Nhưng nếu bạn hồi hướng hành động đó, những người mà bạn lựu giữ trong tâm sẽ được lợi lạc một cách tương ứng.

Một lần kia những cư dân ở Vaisali đến mời Đức Phật tới dùng bữa vào ngày hôm sau.

Sau khi ra về, năm trăm quỷ đói đến và khẩn cầu Ngài: “Xin hồi hướng cho chúng tôi công đức của sự bố thí mà dân chúng ở Vaisali sắp cúng dường cho Ngài và các đệ tử của Ngài vào ngài mai.”

“Các ông ta là ai?” Đức Phật hỏi, mặc dù ngài đã biết câu trả lời. “Tại sao nguồn công đức của dân chúng ở Tỳ Xá Li (Vaisali) phải hồi hướng cho các ông?”

“Chúng tôi là cha mẹ họ,” các quỷ đói đáp. “Chúng tôi bị tái sinh làm quỷ đói là hậu quả của thái độ bủn xỉn của chúng tối.”

Đức Phật nói: “Trong trường hợp này, hãy đến vào lúc hồi hướng và ta sẽ làm như các ông yêu cầu.”

“Điều đó không thể được,” họ nói: “Chúng tôi rất xấu hổ vì thân hình xấu xí của mình.”

Đức Phật đáp: “Các ông nên xấu hổ khi làm những hành động xấu ác đó. Lúc ấy không cảm thấy xấu hổ thì có gì là khôn ngoan đâu, nhưng bây giờ lại thấy xấu hổ ư, khi các ông đã bị tái sinh trong thân tướng khốn khổ này? Nếu các ông không đến, ta sẽ không thể hồi hướng công đức cho các ông.”

“Nếu thế chúng tôi sẽ tới,” họ nói và cáo biệt.

Ngày hôm sau, khi đến lúc, các quỷ đói tới để nhận sự hồi hướng. Những cư dân ở Vaisali khiếp sợ và bắt đầu chạy trốn.

“Không có lý do gì phải sợ,” Đức Phật trấn an họ. Đây là cha mẹ quý vị đã bị tái sinh làm quỷ đói. Chính họ đã nói với ta như thế. Ta có nên hồi hướng nguồn công đức của quý vị cho họ hay không?”

“Tất nhiên là Ngài nên!” họ la to.

Đức Phật nói:

Cầu mong công đức của sự cúng dường

Đến với những quỷ đói này.

Cầu mong họ thoát khỏi những thân thể xấu xí

Và đạt được hạnh phúc của những thế giới cao hơn!

Tất cả những quỷ đói đã chết ngay sau khi Đức Phật nói. Đức Phật giảng rằng họ đã được tái sinh ở cõi Trời thứ Ba mươi ba.

Ngài Jetsun Mila nói:

Giữa nhà ẩn sĩ thiền định trong núi non

Và người cúng dường cung cấp lương thực cho Ngài

Có một mắt xích sẽ đưa họ cùng đạt được Giác ngộ.

Sự hồi hướng công đức là tâm yếu của mắt xích đó.

Đối với bất kỳ sự hồi hướng công đức nào đưa dẫn tới sự Toàn Giác, nó phải được đi kèm bởi trí huệ, sự giải thoát khỏi ba ý niệm. Sự hồi hướng bị ô uế bởi việc bám chấp vào các ý niệm đó như thật có thì được gọi lại hồi hướng độc hại. Trí huệ Cô đọng Siêu Việt nói:

Đấng Chiến Thắng đã dạy rằng thực hành tốt cùng các ý niệm

Thì giống như ăn toàn bộ thực phẩm có lẫn thuốc độc.

Ba ý niệm được đề cập ở đây là các ý niệm: có một nguồn mạch công đức để hồi hướng, người được hồi hướng và mục đích mà nơi đó sự hồi hướng nhắm tới. Nếu ta có thể hồi hướng công đức trong trạng thái trí tuệ, hoàn toàn thấu hiểu ba điều ấy không có bất kỳ hiện hữu chân thực sự nào ra sao, thì hồi hướng đó quả thực không có chất độc. Điều đó có lẽ vượt quá khả năng của những người bình thường ở trình độ chúng ta. Tuy nhiên, chỉ đơn giản nghĩ rằng ta đang hồi hướng công đức trong chính phương cách mà chính phương cách mà chư Phật và Bồ Tát trong quá khứ sẽ dùng là một sự hồi hướng hoàn toàn thoát khỏi ba ý niệm. Sự Sám hối các tội Phạm giới nói:

Giống như tất cả chư Phật Thế Tôn trong quá khứ đã hồi hướng công đức một cách toàn hảo; giống như tất cả chư Phật Thế Tôn chưa xuất hiện sẽ hồi hướng công đức một cách toàn hảo; và giống như tất cả chư Phật Thế Tôn đang trụ thế hồi hướng công đức một cách toàn hảo; thì cũng thế; con cũng hồi hướng toàn hảo tất cả mọi công đức.

Lời Cầu nguyện các Thiện Hạnh:

Noi gương đấng anh hùng văn Thù,

Phổ Hiền và tất cả những Bậc trí tuệ,

Con cũng thực hiện mọi sự hồi hướng toàn hảo

Về mọi hành động tiêu cực.

Hãy chắc chắn là luôn luôn niêm phong các hành động tích cực của bạn bằng một sự hồi hướng đúng đắn, bởi đó là phương pháp duy nhất không thể sai lầm để bảo đảm rằng công đức sẽ dẫn tới sự Toàn Giác.

3. Sự khẩn cầu[266] với đức tin kiên quyết

Việc này giúp cho tâm ta thành tựu bản tánh của bốn kim cương[267] bằng cách khẩn cầu Đạo sư với đức tin kiên quyết.

Hãy quán chiếu rằng bậc Thầy đáng kính của bạ, bậc bảo trợ vinh quang, có quyền uy toàn hảo, như có bản tánh của Heruka[268] trong mỗi mạn đà la của các Bổn Tôn. Chỉ đơn giản nhìn thấy Ngài, nghe Ngài nói, xúc chạm Ngài hay nghĩ tưởng về Ngài là đã gieo trồng hạt giống giải thoát. Bởi hoạt động Ngài làm thì tương tự hoạt động của tất cả chư Phật nên Ngài là Bảo ngọc thứ tư (đệ tứ Bảo). Đối với bạn, lòng tốt của Ngài thì vĩ đại hơn lòng tốt của tất cả chư Phật, bởi Ngài nhanh chóng đưa bạn trong một đời duy nhất và trong chúng thân xác này – lên cấp bậc của Vajradhara (Kim Cương Trì), hoàn toàn bằng phương tiện của con đường sâu xa làm thuần phục và giải thoát, và sự ban phước từ lòng đại bi của Ngài. Đối với các phẩm hạnh của Ngài, sự chứng ngộ của Ngài thì bao la như bầu trời, trí tuệ và từ tâm của Ngài thì vô hạn như đại dương. Lòng bi mẫn của Ngài mãnh liệt như một con sông lớn. Bản tánh của Ngài vững chắc như Núi Tu Di. Ngài như một người cha và một người mẹ của tất cả chúng sinh, bởi trái tim Ngài thương yêu đồng đều tất cả. Mỗi phương diện riêng của mỗi một trong những phẩm hạnh của Ngài thì không thể nghĩ bàn. Ngài giống như một viên ngọc – như ý. Bạn chỉ cần tin tưởng và khẩn cầu Ngài, và bất kỳ thành tựu nào mà bạn tìm kiếm sẽ xuất hiện không cần chút nỗ lực.

Với nước mắt và lòng sùng mộ, hãy nghĩ tưởng: “Con hoàn toàn nương cậy Ngày, con đặt toàn bộ hy vọng nơi Ngài, con tự cam kết chỉ nương tựa duy nhất nơi Ngài!” Hãy đọc những dòng này khi thực hành nhận lãnh các thành tựu, từ:

Đức Guru Quý báu,

Của tất cả chư Phật, Ngài là…..

cho tới:

..Con nương cậy nơi Ngài, Đức Liên Hoa Sanh vĩ đại!

Kế đó, hãy tập trung trì tụng thần chú Vajra Guru (Đạo sư Kim Cương), như một sự khẩn cầu. Sau mỗi một trăm lần trì tụng, đọc bài cầu nguyện “Đức Guru Quý báu…” một lần nữa. Khi được nữa thời gian bạn dành cho việc trì tụng, hãy tiến hành khẩn cầu sự thành tựu bằng cách đọc bài cầu nguyện, sau mỗi lần đọc hãy hoàn tất một chuỗi trì tụng. Bài cầu nguyện bắt đầu bằng:

Con không hy vọng vào ai khác ngoài Ngài..

và chấm dứt:

Ôi, Đấng Vĩ đại, xin tịnh hoá con khỏi hai che chướng!

4. Nhận bốn quán đảnh

Khi đã đến lúc khẩn cầu những thành tựu, bạn hãy nhận bốn quán đảnh bằng cách quán tưởng chữ om ở giữa cặp lông mày của Đức Guru, chiếu sáng như một vầng trăng – pha lê, phát ra những tia sáng thấm nhập vào đỉnh đầu bạn và tịnh hoá bạn về những hậu quả của ba hành động có hại thuộc thân - sự sát sinh, sự lấy thứ gì không được cho, và sự tà dâm – và tịnh hoá mọi che chướng các kinh mạch của bạn, từ đó thân phát triển.[269] Hãy đọc những dòng bắt đầu bằng:

Những ban phước của thân kim cương đi vào trong con..

và nghĩ tưởng rằng tiềm năng để đạt được cấp bậc Hoá Thân đã được thiết lập trong bạn.

Rồi từ trong cổ họng Đức Guru, một chữ ah, chói lọi như một viên hồng ngọc phát ra các tia sáng đi vào cổ họng bạn, tịnh hoá bạn về các hậu quả của bốn hành động ác hại thuộc ngữ - nói dối, gieo mối bất hoà, nói ác và nói tầm phào – và tịnh hoá mọi che chướng các năng lực của bạn, từ đó ngữ phát triển. Đọc những giòng bắt đầu bằng:

Những ban phước của ngữ kim cương đi vào trong con...

và nghĩ tưởng rằng tiềm năng để đạt được cấp bậc Báo Thân đã được thiết lập trong bạn.

Rồi chữ hum màu xanh dương đậm trong tim Đạo sư phóng ra những tia sáng đi vào tim bạn, tịnh hoá bạn về những hậu quả của ba hành động có hại thuộc về ý - sự tham lam, ước muốn làm hại người khác và tà kiến – và tịnh hoá mọi che chướng bản chất của bạn, từ đó những tiến bộ trong tâm phát triển. Hãy trì tụng những dòng bắt đầu bằng:

Những ban phước của tâm kim cương đi vào trong con..

và nghĩ tưởng rằng tiềm năng đạt được cấp bậc Phân Thân đã được thiết lập trong bạn.

Rồi từ chữ hum trong tim Đạo Sư một chữ hum thứ hai, giống như một ngôi sao băng, phóng vụt xuống và hoàn toàn hoà lẫn với tâm bạn, tịnh hoá mọi che chướng thuộc nghiệp và ý niệm ngăn che nền tảng của mọi sự, là cái làm nền tảng của thân, khẩu, và ý. Hãy đọc những giòng bắt đầu bằng:

Những ban phước của Trí tuệ kim cương nguyên thuỷ đi vào trong con..

và nghĩ tưởng rằng từ giây phút đó tiềm năng để đạt được kết quả tối hậu, cấp bậc của Thân Tự Tánh, được thiết lập trong bạn.

Sau cùng, hãy hoàn toàn hoà lẫn tâm bạn với tâm Đạo Sư, và an trụ ở trạng thái đó. Vào cuối thời khoá, hãy trì tụng với sự sùng mộ và lòng khao khát mãnh liệt bài cầu nguyện bắt đầu bằng:

Khi cuộc đời con đến lúc kết thúc..

và chấm dứt:

..xin ban cho con những điều ước muốn, con khẩn cầu Ngài.

Guru Rinpoche mỉm cười, đôi mắt Ngài tràn đầy lòng bi mẫn. Từ tim Ngài, một tia sáng đỏ ấm áp chiếu ra. Giây phút tia sáng này chạm vào bạn – cho tới bây giờ bạn vẫn quán tưởng chính mình là Vajrayogini - bạn được chuyển hoá thành một trái cầu ánh sáng đỏ có kích thước bằng một hạt đậu, nó phóng vọt hướng về Guru Rinpoche như một tia lửa và tan hoà vào tim Ngài. Hãy an trụ trong trạng thái đó.

Sau đó, nhìn mọi sự hiện hữu như sự hiển lộ của Đạo Sư, hãy kết thúc bằng cách trì tụng bài kệ hồi hướng:

Nhờ công đức của thực hành này, cầu mong con nhanh chóng đạt được

Cấp bậc của Đạo Sư vinh quang, vị bảo trợ của con..

cũng như Bài Cầu Nguyện Núi Màu - Đồng Đỏ.

Bất kỳ bạn đang đi đây đi đó nơi đâu, bạn vẫn có thể thực hành Guru Yoga bằng cách quán tưởng vị Thầy của bạn trong bầu trời ở trên vai phải của bạn và tưởng tượng rằng bạn đang đi nhiễu quanh Ngài. Dù bạn đang ngồi xuống nơi đâu, hãy quán tưởng Ngài ở trên đầu như trọng tâm của những sự cầu nguyện của bạn. Khi đang ăn uốn, hãy quán tưởng Ngài ở trong cổ họng và cúng dường Ngài phần đầu tiên của thức ăn hay thức uống của bạn. Khi đi ngủ, hãy quán tưởng Ngài ở giữa trái tim bạn: đây là cốt tuỷ của kỹ thuật yoga giấc ngủ “đưa mọi sự có thể biết được vào cái bình.”[270]

Tóm lại, hãy khơi dậy lòng sùng mộ của bạn trong mọi lúc, trong mỗi tình huống. Hãy giữ gìn tư tưởng để dù bạn ở nơi đâu, nơi đó cũng thực sự là núi Huy Hoàng Màu - Đồng Đỏ, và hãy tịnh hoá mọi sự bạn tri giác bằng cách nhìn chúng như thân tướng Đạo Sư.

Bất cứ khi nào bệnh tật, chướng ngại từ các thế lực tiêu cực hay những hoàn cảnh không mong muốn khác xuất hiện, đừng chỉ nỗ lực thoát khỏi chúng. Hãy hoan hỉ nghĩ tưởng rằng chúng được Đạo Sư lo liệu trong tình thương yêu của Ngài như một phương cách làm cạn kiệt các hành vi tiêu cực của bạn trong quá khứ. Bất cứ khi nào niềm hạnh phúc, sự tiện nghi và thực hành đức hạnh trội vượt, hãy nhận thức điều này có được cũng là nhờ lòng bi mẫn của Đạo Sư, và đừng kiêu ngạo hay kích động thái quá. Trong khi thiền định, bất cứ khi nào các tâm thái như sự ngã lòng, mệt mỏi, hôn trầm và kích động tinh thần (trạo cử) xuất hiện, hãy hoà trộn sự tỉnh giác của bạn bất khả phân với tâm Đạo Sư. Hãy ở trong cái thấy của trạng thái tự nhiên, duy trì sự chói sáng bẩm sinh của nó. Đồng thời, hãy đọc thần chú Vajra Guru như một sự cầu nguyện và trì tụng. Theo cách này, mọi sắc tướng sẽ xuất hiện như Đạo Sư và các Bổn Tôn. Mọi sự bạn làm sẽ trở nên tích cực. Như Ngài Jetsun Mila nói:

Khi tôi đi, tôi dùng mọi tri giác như con đường;

Đó là cách đi thế nào để cho sáu thức tự giải thoát.[271]

Khi tôi nghỉ, tôi nghỉ ngơi trong trạng thái tự nhiên bất biến;

Đó là phương cách cốt tủy và tuyệt đối để nghỉ ngơi.

Khi tôi ăn, tôi ăn thực phẩm của tánh Không;

Đó là cách để ăn không có chút ý niệm nhị nguyên.

Khi tôi uống, tôi uống nước của sự chánh niệm và cẩn mật;

Đó là cách uống không ngừng dứt.

Hơn nữa, một khi bạn đi vào Kim Cương Thừa, điều thiết yếu là phải nhận lãnh các quán đảnh, nó làm chín mùi và giải thoát.[272] Chúng sửa chữa các samaya bị vi phạm và gãy bể, và khiến bạn có thể thiền định về mọi con đường của giai đoạn phát triển, giai đoạn thành tựu, và Đại Viên Mãn. Chúng ngăn ngừa các chướng ngại và sai lầm sinh khởi, và cho phép mọi thành tựu của bạn phát triển thêm mãi. Có nói rằng:

Trong Mật Thừa, không thể có thành tựu mà không cần quán đảnh,

Bởi điều ấy cũng giống như một thuỷ thủ mà không có mái chèo.

và cũng nói:

Không có quán đảnh thì không có thành tựu;

Bạn không thể ép cát để lấy dầu.

Sự quán đảnh mà ta nhận lãnh là trước tiên chúng ta được một Đạo sư Kim Cương có thẩm quyền đưa vào mạn đà la là quán đảnh nền tảng. Sự quán đảnh bốn nhánh mà ta nhận tự chính mình khi ta thực hành Guru Yoga, không cần phụ thuộc vào bất kỳ ai hay điều gì khác, là quán đảnh con đường. Sự quán đảnh mà ta có được vào giây phút của kết quả tối hậu, được gọi là “quán đảnh tia sáng vĩ đại” hay “quán đảnh sự sâu xa và chói lọi bất khả phân,” là quán đảnh kết quả, Phật Quả toàn hảo và viên mãn.[273]

Các quán đảnh này có ba đặc điểm sâu xa không thể nghĩ bàn: chúng tịnh hoá, làm viên mãn và làm chín mùi.[274] Thậm chí khi bạn đang thực hiện thực hành chính yếu, là một sai lầm khi bỏ qua bất kỳ sự chuẩn bị sơ bộ nào. Đặc biệt quan trọng, khi bạn đang thiền định về các thực hành chẳng hạn như các giai đoạn phát triển và thành tựu, hãy luôn luôn bắt đầu mỗi thời khoá với sự quán đảnh con đường của Guru Yoga.

Bất cứ ai mà lòng sùng một và samaya của họ hoàn toàn thanh tịnh và những ai thành tựu con đường đi tới Pháp Guru Yoga, ngay cả khi không thực hiện thực hành chính, sẽ được tái sinh trong núi Huy Hoàng ở Đại lục Tây Nam.[275] Trong cõi Phật thanh tịnh đó họ sẽ vượt qua con đường của bốn cấp bậc Vidyadhara còn nhanh hơn những chuyển động của mặt trời và mặt trăng và đạt tới cấp bậc của Đức Phổ Hiền.

 

III - LỊCH SỬ SỰ RA ĐỜI CỦA HỌC THUYẾT DỊCH THUẬT LÚC BAN ĐẦU

Ở vấn đề này, vì sự hoan hỷ của người đọc và vì những lý do khác, việc thuật lại – không quá vắn tắt và cũng không quá chi tiết - lịch sử của sự hình thành các giáo lý nói chung và ba yoga nội nói riêng là một công việc truyền thống. Vì thế, bây giờ tôi sẽ mô tả vắn tắt như thế nào ba yoga nội của Cựu Dịch - được gọi là Mahayoga, Anuyoga và Atiyoga, và tương ứng với các giai đoạn phát triển, thành tựu và Đại Viên Mãn – đã truyền xuống chúng ta ngày nay. Có ba dòng truyền dạy: dòng truyền tâm của các Đấng Chiến Thắng, dòng truyền của biểu tượng của các Vidyadhara và dòng truyền nhờ sự nghe của chúng sinh bình thường.

1 – Dòng truyền tâm của các Đấng Chiến Thắng

Đức Phật Phổ Hiền* đã giác ngộ từ vô thủy. Nhờ sự phô diễn vô hạn, thần diệu của lòng bi mẫn của Ngài, đã xuất hiện những cõi thanh tịnh của tất cả chư Phật, mọi nơi chốn ở đó có những Đạo sư của bốn thân (kaya) và sự giảng dạy được ban tặng. Tập hội đệ tử của Ngài gồm những Vidyadhara của năm thân thành tựu tự nhiên và hằng hà sa số các Đấng Chiến Thắng không thể nghĩ bàn; không có phân biệt nào giữa các Ngài và bản thân Đức Phật Phổ Hiền. Ngài giảng dạy không qua giáo lý, truyền dạy mọi giáo thuyết không cần ngôn từ hay các biểu tượng, nhờ sự quang minh tự nhiên và không nỗ lực của lòng đại bi chiếu rọi tự phát từ giác tánh nguyên thuỷ. Các đệ tử của Ngài tự thể nhập yếu nghĩa của giáo lý tuyệt đối này không chút sai lầm, và những phẩm hạnh của các Ngài về sự giải thoát và chứng ngộ[276] trở thành một với các phẩm hạnh của Đức Phật Phổ Hiền.

Đối với những ai không có may mắn thấu hiểu sự truyền dạy đầu tiên này thì có những thừa khác đòi hỏi một con đường tiệm tiến. Đức Phật Phổ Hiền đã dạy những thừa này bằng cách hiển lộ vô số thân tướng trong hằng hà sa số không thể nghĩ bàn các thế giới trong vũ trụ để làm lợi lạch chúng sinh, dẫn dắt từng chúng sinh bằng phương tiện thích hợp nhất. Các thân tướng đặc biệt qua đó Ngài dạy dỗ sáu loài chúng sinh là Sáu Đức Mâu Ni (Phật). Trong cõi Diêm Phù Đề này Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã chuyển Pháp Luân ở ba cấp độ khác nhau cho các vi trời và loài người. Ngài đã giảng dạy thừa nhân quả của các tính chất, bao gồm Lật, Kinh và A tì đàm (Luận), và Đại thừa ngoại – Kriya Tantra, Upayoga Tantra, Yoga Tantra và v.v..

Như cách đối trị cảm xúc tham đắm

Đức Phật đã dạy hai mươi mốt ngàn phần đoạn của Luật Tạng;

Như cách đối trị cảm xúc sân hận

Ngài dạy hai mươi mốt ngàn phần đoạn của Kinh Tạng;

Như cách đối tri cảm xúc vô minh

Ngài đã dạy hai mươi mốt ngàn phần đoạn của Luật Tạng;

Như các đối trị điều phục đồng thời  cả ba độc

Ngài đã dạy hai mươi mốt ngàn phần đoạn của Tạng thứ Tư.

 

2 – Dòng truyền qua biểu tượng của các Vidyadhara

Vào thời điểm nhập Niết Bàn, chính Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã tiên đoán sự hình thành của Giáo thuyết Mật Thừa vô song:

 

Hai mươi tám năm

Sau khi ta ngừng xuất hiện trong thế giới này,

Cốt tuỷ tột vời của Giáo lý,

Đã được tôn vinh khắp ba cõi Thánh,

Sẽ được giảng dạy ở phương đông cõi Diêm Phù Đề

Cho một người được gọi là Vua Ja,

Một con người cao quý và may mắn,

Được báo trước bởi các điềm lành.

Và trên đỉnh được gọi là Núi Đáng Sợ

Vajrapani (Kim Cương Thủ) sẽ dạy nó

Cho Đức Lanka

Cùng những bằng hữu có đẳng cấp thấp hơn, và những người khác.

Sau khi thực hiện sự tiên tri này, Đức Phật đã thị hiện nhập Niết Bàn.[277] Sau đó, ba yoya của giáo thuyết nội vô song, các giai đoạn phát triển và thành tựu và Đại Viên Mãn xuất hiện như Đức Phật đã tiên tri.

2.1 CÁC TANTRA MAHAYOGA

Hai mươi tám năm sau khi Đức Phật nhập diệt, vua Ja nhận được bảy điềm triệu trong giấc mơ của mình. Sau đó, trên mái cung điện, nhà vua tìm thấy một số lượng lớn các quyển sách vàng quý báu gồm các tantra Mật Thừa, được viết bằng bột đá da trời trên các phiến vàng, và một pho tượng Vajrapani (Kim Cương Thủ) cao một cubit (khoảng 46cm). Nhà vua cầu nguyện và sau đó có thể thông hiểu chương có tên là Thị Kiến của Vajrasattva. Nhà vua đã thực hành trong sáu tháng, sử dụng chương đó và bức tượng Vajrapani như vật hỗ trợ cho việc thiền định của mình. Nhà vua có một thị kiến về Vajrasattva, Ngài ban phước cho nhà vua khiến vua hoàn toàn thông suốt ý nghĩa của ba quyển sách này. Từ lúc đó trở đi, các giáo lý dần dần lan rộng.

 

 

 

 

2.2 SỰ TRUYỀN DẠY ANUYOGA

Trong cùng thời gian, trên đỉnh núi Malaya[278] Năm Bậc Tuyệt Hảo của sự Cao Quý Siêu Phàm[279] định tâm về tất cả chư Phật ở mười phương và tụng đọc một bài kệ ai oán gồm hai mươi ba câu, bắt đầu bằng:

Than ôi! Than ôi! Than ôi!

Giờ đây mặt trời của Đức Phật đã biến mất

Ai sẽ xua tan bóng tối của thế giới?

Tất cả các Đức Như Lai đồng khẩn cầu Chúa tể những Ẩn Mật, Đức Vajrapani (Kim Cương Thủ):

Xin hãy nghe chúng tôi, Chúa tể những Ẩn Mật, chúng tôi khẩn cầu Ngài!

Ngài vứt bỏ áo giáp kiên định trước đây của Ngài rồi sao?

Ngài không thấy nỗi khổ đau của thế giới?

Xin Ngài xót thương và hạ thế,

Xua tan những thống khổ của thế gian!

Chúa tể những Ẩn Mật ưng thuận

Không bắt đầu và không chấm dứt

Không bao giờ từ bỏ thệ nguyện của ta,

Đáp ứng bất kỳ khi nào được khẩn cầu

Ta phô diện sự hiển lộ kỳ diệu của ta.

Ngay lúc đó, ngay trên đỉnh núi Malaya, Ngài đã giảng dạy Kinh Ý nghĩa Cô đọng[280] và các giáo lý khác cho năm Đấng cao quý đó. Tại Dhanakosa ở phía tây xứ Oddiyana, Đức Vajrapani đã dạy Tantra Cốt tủy Bí Mật[281]  cùng với các giáo huấn tinh tuý của Ngài và các Tantra Kila, Mamo và những thứ khác cho Hoá Thân Garab Dorje.[282] Tất cả sự truyền dạy này được Padma Thotrengsel xứ Oddiyana (Đức Liên Hoa Sanh) nhận lãnh và sau đó dần dần lan rộng.

 

2.3 CÁC GIÁO HUẦN TINH TÚY CỦA ATIYOGA

Atiyoga trước tiên được dạy cho những vị trời. Trong cõi Trời thứ ba mươi ba, có một vị trời tên là Devabhadrapala, ông có năm trăm con trai, tất cả được sanh ra từ tâm ông.* Người lớn nhất có tên là Anandagarbha, thông minh và mạnh mẽ hơn các em. Ngài thích thực hành trì tụng vajra (kim cương) đơn độc trong một túp lều thiền định. Ngài được gọi là Devaputra Adhicitta, “thiên tử có tâm siêu việt.”

Vào năm con bò cái mạng thuỷ, Ngài có bốn giấc mơ có tính chất tượng trưng. Trong giấc mơ thứ nhất, tất cả chư Phật đang phóng những tia sáng trong mười phương, và các thân tướng của Sáu Đức Mâu Ni được tạo bởi các chùm ánh sáng đang xoay quanh chúng sinh trước khi tan lẫn vào Ngài qua đỉnh đầu. Trong giấc mơ thứ hai, ông nuốt Brama, Visnu và Pasupati.** Trong giấc mơ thứ ba, mặt trời và mặt trăng trong bầu trời xuất hiện trong đôi tay Ngài và làm toàn thể thế giới tràn đầy ánh sáng. Trong giấc mơ thứ tư, một trận mưa cam lồ rơi xuống từ một đám mây-châu báu – có màu sắc, và đột nhiên hiện ra các rừng rậm, cây cối quý, các thứ hoa, quả và hột.

Hôm sau, Ngài đến kể các giấc mơ cho Kausika, vua các vị trời. Nhà vua nói ra lời tán tụng này:

Emaho!

Bây giờ là lúc để giáo thuyết tâm yếu không cần dụng công xuất hiện!

Hoá Thân của Chư Phật, Bồ Tát trong quá khứ, hiện tại và tương lai,

Chúa tể của cấp bậc thứ  mười – Ngài sẽ thắp sáng toàn thể thế giới.

Thật là một tô điểm kỳ diệu cho các cõi trời!

Giấc mơ đầu tiên là một dấu hiệu cho thấy Ngài sẽ hấp thu tâm trí huệ của tất cả chư Phật và trở thành người đại diện của các Ngài. Giấc mơ thứ hai biểu thị rằng Ngài sẽ chinh phục tất cả ma quỷ và tiệt trừ ba độc. Giấc mơ thư ba có nghĩa là Ngài sẽ xua tan bóng tối trong tâm chúng sinh và soi sáng cho họ bằng các giáolý. Giấc mơ thứ tư tượng trưng sự dập tắt nỗi thống khổ mãnh liệt gây nên bởi các cảm xúc tiêu cực bằng chất cam lồ của giáo lý Ati xuất hiện tự nhiên, và kết quả không cần dụng công của thừa Ati được thành tựu tự nhiên.

Một lần nữa, tất cả chư Phật trong quá khứ, hiện tại và tương lai tụ hội và nói:

Chúng tôi khẩn cầu đấng Vinh Quang Vajrasattva:

Là đấng sở hữu viên ngọc phương tiện kỳ diệu,

Xin mở cánh cửa cho mọi chúng sinh đang ước muốn.

Xin ban cho họ viên ngọc thoát khỏi mọi nỗ lực này.

Từ tim đức Vajrasattva xuất hiện một bánh xe nạm ngọc rực rỡ, Ngài tặng nó cho Sattvavajra¨ và nói:

Trí huệ vượt lên sự nhị nguyên, thực tại ẩn dấu,

Đức Phật nguyên thuỷ, không nỗ lực và không hành động:

Con đường này được gọi là Trung Đạo Vĩ đại.

Hãy khám phá nó cho tập hội các đệ tử.

Sattvajra hứa sẽ giảng dạy:

Vajrasattva, rộng lớn như bầu trời,[283]

Là Đấng siêu vượt phạm vi ngôn từ

Con thật khó mà diễn tả.

Nhưng với những ai không chứng ngộ điều đó, con sẽ sử dụng ngôn từ

Để chỉ ra ý nghĩa khiến họ có thể chứng ngộ nó,

Con sẽ sử dụng bất kỳ phương tiện nào cần thiết để giải thoát các hành giả.

Ở Vajraloka, cõi Phật phía đông, đức Vajrapani đã tham vấn Đức Phật Vajraguhya và các đức Như Lai của Kim Cương Bộ. Ở Ratnaloka, cõi Phật phía nam, Ngài tham vấn đức Như Lai Ratnapada và các Đức Như Lai của Bảo Sanh Bộ. Ở Padmakata, cõi Phật phía tây, Ngài tham vấn Đức Thế Tôn Padmaprabha và tất cả vô số các đức Như Lai của Liên Hoa Bộ. Ở Visuddhasiddha, cõi Phật phía bắc, Ngài tham vấn Đức Như Lai Siddhyaloka và vô số các đức Như Lai của Nghiệp Bộ. Ở Viyoganta, cõi Phật trung tâm, Ngài tham vấn đức Như Lai Sri Vairocana và nhiều Đấng Chiến Thắng khác của Phật Bộ.

Như thế Đức Vajrapani đã chắt lọc tinh chất trí tuệ của tất cả các đấng Chiến Thắng và giải tan mọi hiểu biết sai lầm về mỗi một và mọi phương diện của Atiyoga, tinh túy tuyệt diệu của giáo lý, sự chứng ngộ tự nhiên không nỗ lực siêu vượt nhân quả. Ngài biết rằng Adhicitta, bậc thiên tử, đã có thiện nghiệp và sự may mắn tốt lành, và phải tìm Adhicitta ở Cõi Trời thứ Ba mươi ba, trong gian chính của Cung điện Toàn Thắng, ngay trên đỉnh của nó làm một cây sinh lực, trên ngọn có đặt một chày kim cương chín dấu. Đức Vajrapani đi tới đó để gặp Adhicitta và ngự trên một chiếc ngai khảm ngọc chói ngời trên mút đỉnh của chày kim cang này.

Adhicitta mở rộng tấm màn che đủ loại châu báo và cúng dường cho nhiều đối tượng linh thánh. Rồi Đức Vajrapani truyền dạy cho Ngài bằng phương tiện là những biểu tượng, sự quán đảnh hoàn toàn trực tiếp nhờ việc “rót phương tiện của các Đấng Chiến Thắng.”[284] Đức Vajrapani cũng ban cho Ngài mười sự truyền dạy về các giáo huấn tinh túy kỳ diệu, bảy quán đảnh, năm giáo huấn tinh túy và một số lớn các Tantra và Giáo huấn tinh túy khác, truyền dạy toàn bộ chúng chỉ trong chốc lát. Đức Vajrapani ban quán đảnh cho Ngài như một đại diện lỗi lạc nhất của chư Phật và tuyên bố những lời này:

Cầu mong tinh túy kỳ diệu này của các giáo lý

Được biết đếntrong ba cõi linh thánh

Và được truyền bá giữa cõi Diêm Phù Đề

Bởi một Quý tử là Hoá Thân của một Hoá Thân.[285]

Như thế, Giáo lý đã lan truyền khắp ba cõi linh thánh.

2.4 GIÁO LÝ ATIYOGA ĐẾN CẢNH GIỚI CON NGƯỜI

Nằm ở phía tây Ấn Độ là Oddiyana, xứ sở của các dakini. Ở đó, trong miền Dhanakosa, có một cái hồ tên là Kutra. Trên bờ hồ, toạ lạc trong một lùm cây đẹp đầy hoa cỏ xinh tươi là một cái hang được gọi là Cung điện Kim Cương, và là nơi cư ngụ của một thiếu nữ tên là Đoá hoa Tươi đẹp, con gái của Vua Uparaja và Hoàng hậu Alokabhasvati. Cô mang mọi dấu hiệu của sự toàn thiện, có trái tim đức hạnh và Bồ Đề Tâm bao la. Từ bỏ thói đạo đức giả và phóng dật, cô được thọ giới làm ni cô và giữ mọi giới nguyện thật toàn hảo không lỗi lầm. Cô có một chúng đệ tử gồm năm trăm sư cô.

Vào năm Mộc Ngưu, lúc bình minh ngày mồng tám tháng thứ hai của mùa hạ, cô có một giấc mơ trong đó cô nhìn thấy tất cả chư Như Lai phát ra những tia sáng, chúng biến thành một mặt trời và một mặt trăng. Mặt trời tan vào cô qua đỉnh đầu, di chuyển đi xuống. Mặt trăng tan vào cô qua các bàn chân, di chuyển lên trên. Vào buổi sáng, cô phát triển sự chứng ngộ, và cô đi tắm trên bờ Hồ Kutra. Trong lúc đó, Đức Vajrapani mang thân tướng của một con thiên nga, vua của các loài chim; Ngài biến Adhicitta thành một chữ hum và sau đó tự biến mình thành bốn con thiên nga. Bốn con thiên nga từ trên bầu trời, nhưng một trong những hiển lộ này của Chủ tể những Ẩn Mật (Đức Vajrapani) là trước tiên chạm mỏ vào tim công chúa ba lần, và một chữ hum sáng chói tan vào tim cô. Rồi nó cũng bay đi.

Thật ngạc nhiên, công chúa nói cho cha cô và các đệ tử biết điều gì đã xảy ra. Tràn đầy kinh ngạc, vị vua cha rất hoan hỷ.

“Đây có phải là điềm báo trước sự ra đời của một Hoá Phật? nhà vua hỏi.

Nhà vua tiến hành tổ chức nhiều bữa tiệc và lễ lạc. Mặc dù công chúa không có dấu hiệu cụ thể là đang có thai, khi cô gần đến thời kỳ ở cữ, một chày kim cang chín chấu lấp lánh xuất hiện từ tim cô. Rồi nó biến mất, để ở lại vị trí của nó một em bé có những tướng chính và phụ của Phật Quả, cầm một chày kim cang trong bàn tay phải và tay trái cầm một cây gậy bằng vật liệu quý. Em đang tụng đọc những giòng bắt đầu bằng: “Đức Vajrasattva, mênh mông như bầu trời..” Mọi người đều hoan hỷ. Họ đưa em tới một người Bà la môn thông thạo nghệ thuật đọc các dấu hiệu. Hết sức kinh ngạc, người Bà la môn tuyên bố em bé là một hiển lộ Hoá Thân, Bậc nắm giữ các Giáo lý tối thượng thừa. Vì mọi người hết sức vui mừng và em bé đang cầm một cái chày nên họ gọi em là Garab Dorje, có nghĩa là Kim Cương Cực Hỷ. Bởi mọi người rất hoan hỷ, họ cũng gọi em là Kim Cương Hỷ. Và vì họ tràn đầy tiếng cười nên họ cũng gọi em là Kim Cương Vui Cười.

Khi Garab Dorje lên ngôi, Đức Vajrapani xuất hiện trong thân tướng con người và ban cho Ngài quán đảnh viên mãn trực tiếp bằng cách rót những yếu nghĩa của các Đấng Chiến Thắng cũng như các quán đảnh khác. Chỉ trong chốc lát, Đức Vajrapani cũng truyền cho Ngài toàn bộ các Tantra và giáo huấn tinh túy, chẳng hạn như hai mươi ngàn quyển sách của Chín Phạm Vi và v.v.., và trao quyền cho Ngài làm người trì giữ giáo lý. Đức Vajrapani chỉ định các hộ pháp trung thành làm những bạn đồng hành với Garab Dorje để bảo vệ giáo thuyết. Không chút nỗ lực và chỉ trong chốc lát, Garab Dorje đạt được Phật Quả ở cấp bậc Đại Viên Mãn.

Vào lúc đó, trong xứ Ấn Độ cao quý, người Bà la môn Sukhapala và vợ ông là Kuhana sinh ra một bé trai, một Hoá Thân của đức Manjusri (Văn Thù) cao quý. Em bé Bà la môn tên là Sarasiddhi, và cũng được gọi là Samvarasara. Về sau em trở thành một Tu sĩ và là người lãnh đạo của năm trăm học giả và được nhận lãnh danh hiệu Đạo sư Manjusrimitra.

Trong một thị kiến, đức Văn Thù cao quý bảo Ngài: “Hãy đi về phía tây xứ Oddiyana. Trên bờ Hồ Kutra, có một mộ địa tênlà Cung điện Vàng Mahahe. Ở giữa là một cái hang gọi là Cung điện Kim Cương, ở đó có hiện lộ Hoá thân được gọi là Garab Dorje. Ngài là một Hoá Thân của Vajrasattva. Ngài nắm giữ giáo thuyết không dụng công của tất cả chư Phật, và tất cả chư Phật đã quán đảnh cho Ngài. Hãy đi đến Ngài và khẩn cầu tinh yếu phi thường của các giáo lý, là Pháp có tên là Atiyoga mà Ngài đang nắm giữ và nhờ đó có thể đạt Phật Quả không nỗ lực. Ông phải là người biên soạn giáo lý của Ngài.”

Manjusrimitra nói với những người bạn học giả của Ngài: “Ở phương tây trong xứ Oddiyana có một Đạo sư đang giảng dạy một giáo thuyết siêu vượt nguyên lý nhân quả. Chúng ta phải lên đường và đánh đổ ông ta bằng luận lý.”

Họ bàn cãi vấn đề và bảy người trong số đó, gồm cả bậc huynh trưởng Rajahasti, đã du hành gian khổ đến Oddiyana. Nhưng mặc dù họ không tranh luận gay gắt đến đâu với Garab Dorje, dù về các giáo lý đặt nền tảng trên nguyên nhân hay các giáo lý đặt nền tảng trên kết quả, các giáo lý Mật thừa ngoại hay nội, họ vẫn không thể đánh bại Ngài.

Rồi Manjusrimitra hỏi các học giả khác: “Hẳn chúng ta sẽ hỏi hiện thể Hoá Thân này về giáo lý siêu vượt nguyên lý nhân quả của Ngài chứ?”

Huynh trưởng Rajahasti muốn thỉnh cầu giáo lý nhưng tuyên bố: “Tôi không dám, bởi chúng ta đã biểu lộ thiếu tôn kính với Ngài.”

Một số người khác cảm thấy rằng họ có thể thỉnh cầu giáo lý vì giờ đây họ đã bị thuyết phục. Họ cũng quyết định sám hối với bậc Đạo sư. Một số bắt đầu lễ lạy và đi nhiễu quanh Ngài. Những người khác bắt đầu kêu khóc.

Manjusrimitra quỳ lạy trước Ngài và nói: “Bậc hiện thể Hoá Thân, bằng cách phát biểu một dòng luận chiến thiếu kiểm soát như thế, con đã xử sự bất kính đối với Ngài.”

Với ý định cắt đứt lưỡi mình để bày tỏ sự thống hối, ông bắt đầu tìm kiếm một lưỡi dao cạo. Nhưng ngài Garab Dorje đọc được tâm ông.

“Ông sẽ không bao giờ tịnh hoá các hành động xấu của ông bằng cách cắt đứt lưỡi được!” Ngài nói: “Hãy biên soạn một giáo lý vượt xa các giáo lý phụ thuộc vào nguyên lý nhân quả. Việc đó sẽ tịnh hoá ông.”

Tất cả những học giả thiếu nghiệp thiết yếu và may mắn đã trở về nhà. Nhưng Manjusrimitra thây hoá toàn bộ Giáo Pháp, đạt được chứng ngộ tức thời chỉ nhờ thấy một cử chỉ của Đạo sư. Để giáo lý được hoàn toàn viên mãn, Garab Dorje ban cho Ngài quán đảnh hoàn toàn trực tiếp bằng cách rót phương tiện của các Đấng Chiến Thắng, tất cả các Tantra và giáo huấntinh túy không trừ thứ nào, gồm cả hai mươi ngàn quyển sách của Chín Phạm Vi. Chính vào lúc này Ngài ban cho ông danh hiệu Manjusrimitra. Hiện thể Hoá Thân Garab Dorje đã ghi chép ý nghĩa của các giáo huấn này và ban cho Manjusrimitra giáo lý sau đây:

Từ vô thủy Bản tánh của tâm là Phật.

Nó không sanh cũng không diệt, giống như không gian.

Khi ông chứng ngộ chân nghĩa của bản tánh bình đẳng của mọi sự,

An trụ trong trạng thái không tìm hiểu[286] đó là sự thiền định.

 Manjusrimitra hoàn toàn thấu suốt giáo lý này muốn nói gì và diễn bày sự chứng ngộ của riêng Ngài như sau:

Ta là Manjusrimitra,

Ta đã đạt được sự thành tựu Yamataka.

Ta đã chứng ngộ sự bình đẳng vĩ đại của sinh tử và Niết Bàn;

Trí tuệ toàn giác nguyên thuỷ đã xuất hiện.

Ngài đã viết Các Giáo huấn về Bồ Đề Tâm Được Soạn trong Vàng trên Đá[287] như một sự sám hối, và biên soạn các giáo lý của Garab Dorje.

Kế đó các giáo lý này được truyền cho Sri Simha, Ngài sinh tại Trung Hoa ở một nơi có tên là Shosha, cha ngài tên là Đức Hạnh và mẹ tên là Tri Giác Trong Sáng (Quang Tri). Ngài trở nên tinh thông năm khoa học (ngũ minh), ngôn ngữ, luận lý, chiêm tinh học và v.v.., các môn này Ngài học với Đạo sự Hastibhala. Năm hai mươi lăm tuổi, ngài gặp Acarya (Đạo sư) Manjusrimitra, từ bậc Đạo sư này Ngài nhận lãnh toàn bộ giáo lý Atiyoga sâu xa, với những Tantra, các sự truyền dạy và những giáo huấn tinh túy của Giáo lý này, và Ngài đạt được sự chứng ngộ tối thượng giải thoát khỏi mọi tạo tác trong tâm thức.

Từ Sri Simha, các Giáo lý đã được trao truyền tới Đức Phật thứ Hai xứ Oddiyana* và sau đó tới học giả Jnanasutra, đại học giả Vimalamitra và đại dịch giả Vairotsana. Dòng truyền thừa cho tới thời điểm này là sự truyền thừa bằng biểu tượng của các Vidyadhara.

 

IV - SỰ TRUYỀN BÁ GIÁO LÝ – TINH YẾU Ở XỨ TUYẾT TÂY TẠNG

Trong thời Đức Phật, Tây Tạng không có dân cư là con người. Về sau, một bộ lạc con người phát xuất từ một loài vượn - một Hoá Thân của Đức Avalokitesvara (Quán Tự Tại) cao quý – và một tinh linh núi** cư trú ở đó. Trong thời kỳ đầu này Tây Tạng ở trong một tình trạng hỗn loạn không tôn giáo, không luật lệ, không người cai trị.

Trong lúc đó ở Ấn Độ, một vị vua tên là Satanika sinh được một bé trai. Bàn tay và bàn chân của đứa trẻ có màng giống màng của một con thiên nga và mí mắt của em khép hướng lên trên như mí mắt của một con chim. Cha em cho rằng đứa trẻ hẳn có nguồn gốc của phi-nhân, tuyên bố là em phải bị trục xuất. Ngay khi vừa lớn lên một chút, em bé bị đuổi đi. Được nghiệp dẫn dắt, em bé lang thang vô định và cuối cùng thì đến Tây Tạng. Ở đó em tình cờ gặp vài người chăn cừu cho rằng em bé phải là một vị trời từ các cõi trời xuống, và tôn em làm thủ lãnh của họ. Họ làm cho em một chiếc ngai bằng đất và đá mà khiêng nó trên vai, và vì thế em được gọi là Nyatri Tsenpo người Cổ thời – Nyatri Tsenpo có nghĩa là “Vua chiếc Ngai trên Vai.” Ngài là vị vua đầu tiên,[288] và là một Hoá Thân của Bồ Tát Sarvanivaranaviskambhin.

Nhiều đời sau đó, trong triều đại Lha-Thothori Nyentsen, Ngài là một Hoá Thân của Bồ Tát Samatabhadra (Phổ Hiền), trên mái Cung điện Yumbu Lakhar xuất hiện một số các vật linh thiêng:[289] hình ảnh được gọi là Cintamani,[290] tượng trưng thân tướng của chư Phật; Kinh Phác hoạ như một Rương Ngọc,[291]Kinh Một trăm Lời Khẩn Cầu và Lễ Lay,[292]  tượng trưng ngữ của Phật; và một tháp pha lê cao một cubit (khoảng 46cm), tượng trưng tâm của chư Phật. Đây là sự khởi đầu của Giáo Pháp ở Tây Tạng.

Sau đó năm đời là triều đại songtsen Gampo,[293] một Hoá Thân của Đức Avalokitesvara (Quán Tự Tại). Ngài xây dựng tất cả các điện thờ Thadul và Yangdul và cung điện chính ở Lhasa[294] và kết hôn với công chúa Kongjo xứ Trung Hoa - một Hoá Thân của Đức Tara – và công chúa Tritsun xứ Nepal - một Hoá Thân của thiên nữ Bhrikuti. Mỗi công chúa đem theo mình bức tượng của Đức Phật, như một phần của hồi môn. Hai bức tượng này được gọi là Jowo.[295]

Lần đầu tiên của một hệ thống chữ cái Tây Tạng được Thomi Sambhota giới thiệu, ông nghiên cứu các ngôn ngữ dưới sự dạy dỗ của học giả Ấn Độ Devavit Simha và sau đó bắt đầu dịch Mây Châu báu và các Kinh khác. Vua hiển lộ một Tu sĩ tên là Akarmati từ giữa cặp lông mày của Ngài, đi cải đạo các vuia phi-Phật giáo ở Ấn Độ, và tìm thấy năm bức tượng Quán Tự Tại xuất hiện tự nhiên được gọi là Năm Anh em Cao quý trong thân của một loại cây đàn hương gọi là “tinh yếu của rắn,” ở Cung điện Cát giữa Ấn Độ và Tamradvipa. Ngài cũng tạo pho tượng Avalokitesvara mười một đầu (Quán Tự Tại thập nhất diện) đặc biệt linh thiêng hiện ở Lhasa.[296] Chính trong triều đại này mà Pháp thực sự bắt rễ ở Tây Tạng.

Sau năm đời nữa, vua Trisong Detsen,[297] một Hoá Thân của Đức Văn Thù Cao quý được sinh ra. Khi Ngài lên mười ba tuổi thì thân phụ mất. Trước tiên Ngài chinh phục một số lớn xứ sở bằng vũ lực và tham khảo ý kiến của các thượng thư như Ngam Tara Logong và Lhazang Lupel.

Sau đó, lúc mười bảy tuổi, tham khảo các tài liệu của tổ tiên, Ngài nhận ra rằng trước tiên Pháp đã tới xứ Tây Tạng trong triều đại Lha-Thothori Nyentsen và được vua Songtsen Gampo củng cố. Khi nhận thức được tổ tiên Ngài nhất tâm làm việc vì Pháp ra sao, Ngài cảm thấy chính mình cũng phải hàon toàn quan tâm đến việc truyền bá giáo thuyết. Ngài hỏi ý thượng thư Bộ Tôn Giáo của mình là Go Pema Gungtsen và khéo léo thỉnh ý các thượng thư khác khiến họ nhất trí xây dựng một ngôi chùa. Khi tìm kiếm một Thầy tế lễ để làm an định (tức tai) thổ địa,[298] họ hỏi ý kiến Nyang Tingdzin Zangpo, bậc Thầy rất được nhà vua tôn kính, khi đó đang ở Samye Chimpu.

Bằng sự nội quán có được trong thiền định, Ngài Tingdzin Zangpo biết rằng ở Zahor miền đông Tây Tạng có một đại tu viện trưởng tên là Santarakista, con trai của vị vua đạo Gomadeviya. Ngài báo tin này cho nhà vua, và vị tu viện trưởng được mời sang Tây Tạng.

Sau đó ngài Santaraksita cố gắng hiến cúng địa điểm của ngôi chùa. Nhưng một Naga (long vương) sống trong một cung điện tên là Aryapalo, biết rằng bụi cây nơi ông ta sống sắp bị đốn hạ, đã kêu gọi tất cả các tinh linh tới trợ giúp ông. Hai mươi mốt henyen được người và các phi-nhân hộ tống, cùng tập hợp thành một đội quân, và đêm đến các tinh linh phá hủy bất kỳ những gì được con người xây dựng vào ban ngày, đưa mọi thức đất đá trở lại nơi chúng xuất phát.

Nhà vua đến gặp tu viện trưởng và yêu cầu một sự giải thích: “Có phải bởi các che chướng của trẫm quá sâu dày? Hay tại Ngài đã không ban phước cho địa điểm? Phải chăng kế hoạch của trẫm vẫn chưa thực hiện được?”

“Tôi đã thấu suốt Bồ Đề Tâm,” vị tu viện trưởng đáp, “nhưng các vị trời và quỷ ma không thể bị điều phục bởi các phương pháp an bình như thế. Chỉ có các phương pháp phẫn nộ mới đem lại kết quả. Hiện tại Bodh Gaya ở Ấn Độ có một Đạo sự tên là Liên Hoa Sanh xứ Oddiyana. Ngài đến với thế giới bằng một phương cách kỳ diệu. Ngài tinh thông ngũ minh và đã làm chủ được năng lực của sự tuyệt đối.[299] Ngài đã đạt được các thành tựu thông thường lẫn siêu việt. Ngài đã dẹp tan ma quỷ, và buộc tám loại tinh linh phải quy phục. Ngài đã làm tất cả vị trời và ma quỷ run sợ và điều phục các tinh linh mạnh mẽ. Nếu nhà vua thỉnh Ngài đến đây, sẽ không tinh linh nào có thể chống lại Ngài và mọi ước muốn của nhà vua sẽ được thực hiện.”

“Lỡ không thể thỉnh mời được người như thế thì sao?” nhà vua hỏi.

Tu viện trưởng đáp: “Không đâu, sẽ có thể mời được bởi các lời cầu nguyên đã được thực hiện trong quá khứ. Thời xa xưa ở Nepal, có một người đàn bà tên là Samvari, con gái của người chủ trại gà Salé, bà ta có bốn con trai sống chung với một người nuôi ngựa, một người nuôi heo, một người nuôi gà vịt và một người nuôi chó..” và Ngài kể cho vua câu chuyện tháp Jarung Khashor[300] đã được xây dựng thế nào và các lời cầu nguyện đã được thực hiện vào lúc đó.

Nhà vua phái Ba Trisher, Dorje Dudjom Chim Sakyaprabha và Shubu Palgyi Senge tới Ấn Độ, mỗi vị mang một số lượng bụi vàng và một cái nơ vĩnh cửu bằng vàng. Các vị giải thích cho Đạo sư rằng Ngài cần có mặt ở Tây Tạng để ban phước cho địa điểm của một ngôi chùa.

Đạo sư hứa sẽ đến. Ngài lên đường, dừng lại trên đường để buộc mười hai tenma, mười hai vị nữ bảo hộ, hai mươi mốt genyen, tất cả các vị trời và tinh linh của Tây Tạng tuyên thệ.

Cuối cùng Ngài đến Trakmar để tức tai địa điểm, và ngôi chùa Samya Xuất hiện Tự nhiên được xây dựng. Nó có một dinh thự chính ba tầng, được bao quanh bởi các toà nhà tượng trưng cho bốn đại lục và các tiểu lục địa. Hai điện Yaksa, một cao và một thấp tượng trưng cho mặt trời và mặt trăng. Toàn bộ quần thể được một bức tường bao quanh. Tu viện trưởng Santaraksita, acarya (Đạo sư) Padma và Vimalamitra ném hoa để hiến cúng ba lần và người ta đã nhìn thấy nhiều dấu hiệu cùng những sự kỳ diệu phi thường.[301]

 

3    Dòng truyền nhờ sự nghe của những chúng sinh bình thường.*

Sau đó tu viện trưởng Santaraksita giảng dạy các truyền thống của Luật và Kinh, trong khi Đạo sư Padma và Ngài Vimalamitra thiết lập các giáo lý Mật thừa. Chính vào lúc này Đức Phật Thứ Hai xứ Oddiyana và đại học giả Vimalamitra đã dạy ba đệ tử-tâm yếu – Nhà Vua, Thần dân và Bằng hữu** - cũng như Nyangwen Tingdzin Zangpo và các đệ tử may mắn khác là những pháp khí thích hợp với giáo lý. Đối với những đệ tử này các Ngài đã chuyển Pháp Luân gồm ba yoga nội, bao gồm Atiyoga của Đại Viên Mãn, và chỉ rõ ba điểm trọng yếu: sự nhận ra bản tánh, sự xác quyết và sự tự giải thoát.[302] Dòng truyền thừa từ thời điểm này trở đi được gọi là “dòng truyền thừa nhờ sự nghe của những chúng sinh bình thường.”

 Đức Phật thứ hai xứ Oddiyana cũng ban cho mỗi một trong hai mươi lăm Đệ tử của Ngài,¨ tất cả các vị này đều có phước duyên thiết yếu, bất kỳ giáo lý nào trong vô số giáo lý của Đức Phật đều được dành cho các Đệ tử này do thiện nghiệp của các Ngài. Sau đó, các bản văn Mật thừa đã được viết trên “các cuộn giấy vàng”[303] và được cất dấu như các kho tàng tâm linh.¨¨ Đạo sư thực hiện những lời cầu nguyện và cất dấu chúng như một di sản vì lợi lạc của các đệ tử trong tương lai. Về sau, vào những thời điểm được tiên tri, các Hoá Thân của những hành giả thành tựu đó mà các lời cầu nguyên đã được làm ra cho các Ngài, sẽ sanh ra đúng lúc để khám phá các kho tàng sâu xa này. Nhiều đệ tử với nghiệp thích ứng đi theo các Ngài và làm việc vì sự lợi lạc của chúng sinh lập nên các dòng truyền thừa được gọi là các dòng với sáu hay chín sự truyền dạy.[304]

 Trong vô số các tulku và những vị khám phá-kho tàng, một vị quan hệ với chúng ta ở đây là Ngài Rigdzin Jigme Lingpa. Bản thân Ngài thực sự là Đức Avalokitesvara An trụ trong Bản tánh Tâm,§ và mang hình tướng của một Thiện tri thức. Ngài nhận lãnh đồng thời sự truyền dạy viênmãn của cả ba dòng truyền thừa – dòng truyền tạm, dòng truyền bằng biểu tượng và dòng truyền từ sự nghe - từ Đức Phật thứ hai xứ Oddiyana, đại học giả Vimalamitra và bậc Toàn Giác Longchen Rabjam.[305] Ngài là một vị Phật Toàn Giác. Ngài đã quay Bánh xe Giáo lý Viên mãn cho chúng sinh có nghiệp may mắn và thuận lợi. Như tục ngữ nói:

 Thân tướng Ngài là thân tướng của một vị trời hay con người bình thường

 Nhưng tâm viên mãn của Ngài là vị Phật thực sự.

 Vì lý do này, Đạo sư đáng kính§ của tôi thường nói: “Đối với những ai có thể thực hành và cầu nguyện, thì bậc Thầy của ta, Vajradhara[306] (Kim Cương Trì), chúa tể và bậc bảo hộ của chúng sinh thực sự là một vị Phật Toàn Giác. Ta không nói thế chỉ vì muốn tán thán hay tôn kính ngài. Ngài thực sự là Đức Vajradhara Toàn Giác Vĩ đại, bậc đã đến để làm lợi lạc chúng sinh trong thân tướng con người bình thường. Trong dòng truyền thừa, giữa Ngài và bản thân các con không có ai khác ngoài ta. Và đối với ta, suốt từ lần đầu tiên gặp Ngài, ta đã hoàn thành mọi sự Ngài dạy bảo. Ta đã phụng sự Ngài trong ba cách thế§§ và không bao giờ làm điều gì khiến Ngài phật lòng hay thậm chí làm Ngài cau mày. Vì thế các con có thể tin chắc rằng tuyệt đối không có sự suy đồi samaya khiếnô uế sợi xích vàng của dòng truyền thừa này. Suối nguồn những ân sủng của nó thì khác biệt với suối nguồn của bất kỳ dòng truyền nào khác.”

Tantra sự Hợp nhất Mặt trời và Mặt trăng nói:

Nếu bạn không giải thích lịch sử các nguồn gốc của nó

Người ta sẽ phạm lỗi không tin tưởng

Vào giáo lý bí mật chân thực sâu xa.

Chính vì rất cần làm hưng khởi tín tâm của các đệ tử bằng cách giảng dạy cho họ làm thế nào truy nguyên được nguồn mạch xác thực của dòng truyền thừa của họ, và bằng cách thuật lại chi tiết lịch sử của nó, nên ta đã thực hiện như thế ở đây trong phạm vi pháp Guru Yoga.

Trong pháp Guru Yoga, điều tối quan trọng là phải trì tụng thần chú mười triệu lần. Một số người không trì tụng nó lâu dài, cho rằng các thực hành chuẩn bị này không thực sự quan trọng. Hoặc có lẽ họ ngây ngất hy vọng sau khi nghe nói các giáo lý của thực hành chính thì sâu xa biết bao. Nhưng hãy tưởng tượng rằng việc họ có thể thực hiện các thực hành thuộc giai đoạn phát triển và thành tựu mà không mất thời gian để thực hành đúng đắn các chuẩn bị thì giống như tục ngữ phổ thông nói:

Thè lưỡi ra trước khi đầu được nấu,[307]

Duỗi chân bạn ra trước khi giường ấm lên.

Thực hành các chuẩn bị mà không đi thẳng tới mục đích sẽ không có bất kỳ ý nghĩa nào. Cho dù một vài dấu hiệu nhỏ bé nhất thời vế “hơi nóng” xuất hiện, chúng cũng không có gì là bền vững giống như một toà nhà không móng.

Hiểu biết sai lạc tương tự là ngưng lại các sự chuẩn bị một khi bạn bắt đầu thực hành chính yếu, cho rằng bạn đã thực hành chúng đúng đắn – cùng việc nghĩ tưởng các sự chuẩn bị là sơ bộ và vì thế không còn cần thiết nữa. Nếu bạn vứt bỏ các chuẩn bị là nền tảng của con đường, bạn đã chặt đứt gốc rễ rốt ráo của Pháp. Nó giống như việc cố gắng vẽ một tranh bích hoạ ở nơi không có ngay cả một bức tường. hãy luôn luôn nỗ lực cho tới khi bạn khơi dậy được sự xác tín chân chính nơi các thực hành chuẩn bị. Hãy đặc biệt tập trung nơi pháp Guru Yoga, lối vào các sự ban phước, và hãy làm cho nó trở thành nền móng đích thực của thực hành của bạn. Đó là vấn đề cốt tủy.

Con nhận ra rằng vị Thầy tốt lành của con đích thực là một vị Phật

Nhưng với bản chất ngoan cố, con bất tuân các giáo huấn của Ngài.

Con biết rằng tất cả chúng sinh trong ba cõi từng là cha mẹ con

Nhưng với tính khí xấu xa, con vẫn sỉ nhục các Pháp-hữu.

Xin ban phước cho con và những ai có ác nghiệp như con,

Để chúng con có thể, trong đời này và tất cả những đời khác,

Với giới hạnh khiêm tốn, kiên định, mềm dẻo trong tâm hồn và hành vi,

Đi theo vị Thầy Tâm linh của chúng con.

___________________________

Dudjom Rinpoche (1904 – 1987)

Một học giả và Đạo sư kiệt xuất của Đại Viên Mãn, Ngài trì giữ rất cả các sự truyền dạy chính yếu của dòng Nyingama, khám phá nhiều kho tàng tâm linh và là một tác giả và vị Thầy biên soạn giáolý sung sức. Ngài trở thành vị lãnh đạo trường phái Nyingma tại hải ngoại, và đã giảng dạy rộng rãi ở Tây phương và Viễn Đông cũng như khắp các miền núi Hymalaya. Ngài mất tại trụ xứ ở Dordogne, Pháp Quốc, năm 1987.


 

[233] Ta thường dùng thuật ngữ Phạn bởi nó dễ sử dụng hơn Tạng ngữ (bla ma’I rnal ‘byor) hay Anh ngữ. Cũng như chỉ đơn giản muốn nói “sự thực hành đặt nền trên vị Thầy,” thì thuật ngữ có nghĩa là “sự hợp nhất với bản tánh của tâm vị Thầy.”

[234] Trong triết họ Phật giáo, tánh Không được thiết lập trên căn bản của lý lẽ luận lý. Đây không phải là sự đeo đuổi thuần tuý trí thức nhưng là một thực tập tâm linh, dùng ý niệm để bẻ gãy ý niệm

[235]  dpe’i ye shes. Chẳng hạn như trong Anuyoga, qua sự làm việc với các kinh mạch và năng lực, ta kinh nghiệm đại lạc-tánh Không, điều đó cung cấp một biểu hị về hương vị của trí huệ nguyên sơ chân thật luôn luôn an trú trong ta nhưng ta không thể nhận ra. Đúng hơn, nó giống như một bức tranh vẽ con voi khiến ta có thể nhận ra con voi thực sự. Trong Đại Viên Mãn, bản tánh của tâm, là trí huệ nguyên sơ chân thật, được giới thiệu trực tiếp.

[236] “Người ta nên coi Ngài như một vị Phật bằng cách nào? Theo Tiểu Thừa thì thậm chí không nhất thiết phải coi vị Thầy của mình là một hiện thể đặc biệt hay một vị Phật Độc Giác. Chỉ cần coi vị Thầy như một người bình thường có những phẩm hạnh nào đó là đủ. Đối với con đường Bồ Tát thì phải coi Ngài như một hiện thể đã đạt một trong những cấp độ siêu việt, như Hoá Thân của một vị Phật hay Bồ Tát ít nhất đang ở trên con đường lớn của sự tích tập (tshogs lam chen po). Trong truyền thống của Đại Viên Mãn, sẽ không thích hợp nếu coi vị Thầy của mình như một người thông thái bình thường, như một A La Hán, như một Bồ Tát trên một trong những cấp độ siêu việt, như Hoá Thân của một vị Phật hoặc ngay cả như một Báo Thân. Ta phải coi Ngài như Pháp Thân. Nếu ta có thể nguyện cầu Ngài với một đức tin bền bỉ tuyệt đối thì ta có thể khơi dậy trí tuệ của sự chứng ngộ sâu xa mà không cần nhờ cậy những con đường khác.” Những Chú thích về Lời Vàng của vị Thầy của tôi. (NT)

[237] NT giảng chi tiết như sau: “Nếu ta có lòng sùng một để nhìn vị Thầy của ta như một vị Phật, trí tuệ chứng ngộ sẽ phát sinh cho dù ta không thực hành các giai đoạn phát triển và thành tựu. Truyền thống Mới cũng chia sẻ quan điểm này. Tuy nhiên, trong Mahayoga và Anuyoga, các giai đoạn phát triển và thành tựu là thực hành chính. Nếu ta không có mâu thuẫn với vị Thầy cùng bằng hữu tâm linh của ta và thực hành coi vị Thầy như tinh yếu của các Bổn Tôn thì sự thành tựu đã gần kề và sự ban phước sẽ tới một cách nhanh chóng.”

[238]  Sgyu ma ngal gso, tác phẩm thứ ba trong Tác phẩm bộ ba của sự Nghỉ ngơi (ngal gso skor gsum) của Longchenpa. Chính Ngài Longchenpa giảng rằng tựa đề không chỉ được hiểu là “tìm kiếm sự nghỉ ngơi từ ảo hoá,” mà cũng được hiểu là “tìm kiếm sự nghỉ ngơi trong ảo hoá,” - sự ảo hoá trong trường hợp sau được hiểu như ám chỉ cách nhìn mọi sự như sự phô diễn kỳ diệu không có bất kỳ thực tại cố hữu nào.

[239] Sự hoàn toàn đầu hàng bản tánh trí tuệ được hiện thân bởi vị Thầy cho phép một sự truyền đạt trực tiếp trí tuệ đó. Không có tiến trình đầu hành này thì không thể buông bỏ sự chấp-ngã được. Nguyên tắc này áp dụng cho tất cả các giai đoạn của con đường, nhưng nó trở nên mãnh liệt và dứt khoát hơn trong pháp Guru Yoga. Hiệu quả của bất kỳ con đường nào tuỳ thuộc vào quy mô nó được tiếp cận trong pháp Guru Yoga này.

[240] Sự hoà hợp của sắc tướng và tâm thức (snang sems ‘dres pa) ám chỉ sự chứng ngộ rằng mọi sắc tướng được sinh ra bởi tính sáng tạo của tâm thức, và chân tánh của tâm là tánh Không; điều này đưa dẫn ta kinh nghiệm mọi sự trong một cách thế siêu vượt bất kỳ sự nhị nguyên chủ thể-đối tượng nào, và có đặc điểm là “trần trụi” và “sâu sắc” (zang thal) không bị ngăn che. Pema Wangyal Rinpoche.

100 Một trong ba đại học tu viện lớn của Phật Giáo Ấn Độ, hai đại học kia là Nalanda và Odantapuri. Nhiệm vụ “học giả-giữ cổng” của các “cổng,” hay các bộ phận tại mỗi phương chính được giao cho các học giả có khả năng nhất để bảo vệ quan điểm triết học Phật Giáo chống lại những thách thức tranh luận của những tư tưởng gia phi-Phật Giáo. Việc tranh luận mãnh liệt và được đề ra giữa những người đề xướng của những học phái tư tưởng khác nhau là đặc tính của thời kỳ văn minh cao cấp này ở miền Bắc Ấn Độ.

* Để có thêm chi tiết xin xem thêm Phần Một, Chương Sáu, Mục III

** Sợi dây làm một dây thắt lưng dài giúp thiền giả duy trì một tư thế đúng đắn suốt thời gian dài. Giá đỡ thiền định là một cây gậy dài khum lại ở một đầu dùng như một giá đỡ cằm.

[241] Đây là một hình thức của hiện tượng được gọi là thần cầu vồng (‘ja’lus).

[242] Sự quán tưởng chính mình là một Bổn Tôn khiến ta vượt lên những giới hạn của các ý niệm quy ước tầm thường không chỉ về vị Thầy mà còn về bản thân ta. NT nói: “Nếu quán tưởng chính mình trong sắc tướng thông thường của ta, ý niệm này sẽ cản trở những sự ban phước đến với ta.” Cũng thế, ta quán tưởng chính mình trong một thân tướng nữ trong sự nối kết với thân tướng nam của Guru Rinpoche, như thế kết hợp các phương diện trí tuệ và phương tiện; và đặc biệt là bằng cách nghĩ tưởng mình có bản tánh của Yeshe Tsogyal, đệ tử thân thiết nhất của Guru Rinpoche, ta tạo nên một rten’brel (liên kết tương thuộc hay nối kết tốt lành) với mối liên hệ vị Thầy-đệ tử phi thường của các Ngài.

[243] Brtul zhugs kyi spyod pa: lối sống trái với thông lệ được những hành giả cao cấp nhất tuân theo như một phương tiện để hoàn thiện sự xác quyết của các Ngài trong cái thấy (kiến). “Khi đã vượt lên các hoạt động  thông thường, dấn thân vào những hoạt động phi thường.” Đại Tự điển Tây Tạng – Trung Quốc

[244] Hươu nai là một biểu tượng của sự thanh bình. Đức Avalokitesvara thường được miêu tả khoác miếng da hươu trên vai Ngài. Chiếc mũ này được tô điểm quanh viền bằng da một con hươu nhỏ.

* Xem Thuật Ngữ.

** Một loại đinh ba đặc biệt

*** Phạn: matrika, một loại dakini phẫn nộ

[245] Những năng lực mãnh liệt của những địa điểm như thế đem lại một sự thách thức mà các hành giả có thể sử dụng để đối diện với những nỗi sợ hãi của họ.

[246] Một thán từ chỉ sự ngạc nhiên. “Kỳ diệu xiết bao! Sự thuần tịnh và bao la vô tận của các hiện tượng” Những Chú thích về Những Lời Vàng của vị Thầy của tôi.

[247] Bài Nguyện Bảy Giòng:

Hum!Sanh ra ở tây bắc xứ Oddiyana

Trong nhụy một hoa sen,

Kỳ diệu thay, Ngài đã đạt được thành tựu siêu việt.

Ngài lừng danh là Đức Liên Hoa Sanh,

Đoàn tuỳ tùng gồm nhiều dakini vây quanh ngài.

Đua tranh với Ngài, con sẽ hoàn thiện bản thân –

Con khẩn cầu Ngài, xin đến ban phước.

Guru Padma Siddi Hum

[248] Để không cảm thấy rằng ta chỉ đang chế tác một sự quán tưởng giả tạo, ta mời thỉnh Đức Liên Hoa Sanh “thật” cùng đoàn tuỳ tùng từ cõi Phật của Ngài là Núi Huy Hoàng Màu - Đồng Đỏ. Những Bổn Tôn trí tuệ này (ye shes sems dpa’, Phạn: jnanasattva, trí tuệ tát đoả) tan hoà và ban phước cho các Bổn Tôn samaya (dam tshig sems dpa’, nguyện tát đoả) mà chúng ta đã quán tưởng. Điều tương tự diễn ra đối với cung điện và các yếu tố khác của cõi Phật (ở đây, cả các Bổn Tôn lẫn môi trường của các Ngài, cung điện, được bao gồm trong thuật ngữ tam tshig pa). Như chúng ta đã thấy, sự hiện diện của Đức Liên Hoa Sanh thì luôn luôn ở đó.  Những kỹ thuật này dùng để phát triển sự xác tín trong kinh nghiệm đó.

[249] “Bí mật” bởi Đạo sư Kim cương có một khả năng ẩn dấu để tăng trưởng công đức của các hành vi. Đối với “ruộng công đức”, xem chú thích 112 và Thuật ngữ.

[250]  “Có ba loại lễ lạy:

Loại lễ lại cao cấp là ‘bắt gặp cái thấy’. Lễ lạy với cái thấy có nghĩa là thấu hiểu rằng không có chủ thể, đối tượng hay hành động để quan niệm hoá.

Loại lễ lại bậc trung được gọi là ‘tu tập trong sự thiền định’. Trong cách tu tập này chúng ta hiển lộ vô số thân, mỗi thân đang hát tụng vô số bài ca tán thán. Ta có thể nghĩ tưởng rằng đây là một thực hành của giai đoạn phát triển, nhưng không phải vậy bởi vô số thân đã phát triển là những thân bình phàm, bất tịnh (và không phải là những Bổn Tôn).

Loại lễ lạy bình thường là ‘lễ lạy sùng mộ’ lễ lạy với thân ta, tụng những bài cầu nguyện với ngữ của ta và kinh nghiệm lòng sùng mộ với tâm ta. Bởi sùng mộ là vấn đề tối quan trọng nên ta cần trì giữ phẩm tính của các đối tượng quy y bao la vô hạn trong tam khi ta lễ lạy.” Những Chú thích về Những Lời Vàng của vị Thầy của tôi.

[251] Nói chung, “năm trăm ngàn sự chuẩn bị sơ bộ” muốn nói tới thói quen tụng bài nguyện quy y, bài nguyện Bồ Đề Tâm, thần chú trăm âm, sự cúng dường mạn đà la, và bài cầu nguyện của pháp Guru Yoga một trăm ngàn lần. Tuy nhiên, có những cách khác trong việc tính đếm năm loại thực hành (bao gồm việc lễ lạy, ví dụ thế), và các sự trì tụng bổ sung thường được thêm vào cho năm thực hành căn bản này.

[252] Trong thực hành, người ta thường tích tập các lễ lạy theo cách nằm dài toàn thân.

* Vị Thầy gốc củ Milarepa, và cũng là thầy gốc của Ngokpa.

[253] Loại túi thường được dùng để vận chuyển bơ đã nhiễm đầy chất mỡ, vì thế một khi nó trở nên khô cứng thì việc thêm mỡ vào sẽ không có lợi ích gì. Cũng thế, loại hành giả này đã nắm bắt giáo lý một cách thông tuệ, và trở nên lừ đừ, vô cảm, có cảm tưởng trước đó đã từng nghe tất cả các giáo lý nên việc nhận thêm giáo lý cũng sẽ không ảnh hưởng gì tới họ, mà chỉ khiến họ trở nên kiêu ngạo hơn nữa.

 

[254] Nghĩa đen: “nền móng vàng của thế giới,” căn bản của thế giới trong vũ trụ học truyền thống. Dilgo Khyentse Rinpoche gợi ý rằng trong giới hạn của vũ trụ học hiện đại nơi này có thể được coi như tâm điểm của trái đất.

[255] “Sự cúng dường nên được dùng như một cách đối trị sự bám luyến và tham lam.”

[256]   Một trong tám Nam tử Thân thiết (xem Thuật ngữ), khác biệt với Đức Phật nguyên thuỷ Samantabhadra.

[257] “Sự sám hối các hành vi tiêu cực là cách đối trị tánh ganh ghét.” Những Chú thích về Những Lời vàng của vị Thầy của tôi. (NT)

* Ánh sáng trắng từ giữa trán, tượng trưng cho thân; ánh sáng đỏ từ giữa cổ họng tượng trưng cho ngữ; ánh sáng xanh dương từ giữa trái tim tượng trưng cho tâm.

[258] “Những việc đưa tới sự giải thoát” ám chỉ các hành vi tích cực được làm trong khi thực hiện ba phương pháp siêu việt. Những hành vi tích cực khác chỉ dẫn tới các tái sinh tốt đẹp hơn.

[259] Vài chi tiết được đưa ra trong NT: “Mọi suối nguồn công đức phát sinh từ chân lý tuyệt đối không bị ô nhiễm bởi các cảm xúc tiêu cực (zag med); mọi suối nguồn công đức phát sinh từ chân lý tương đối đều bị ô nhiễm (zag bcas). Mọi suối nguồn công đức được thành tựu trên các con đường tích tập và nối kết đều bị ô nhiễm; mọi suối nguồn công đức thành tựu trên các con đường của cái thấy (kiến đạo) và thiền định thì không bị ô nhiễm. Mọi sự tích tập công đức đều bị ô nhiễm; mọi sự tích tập trí tuệ thì không bị ô nhiễm.”

[260] “Cách đối trị sự vô minh.” Những Chú thích về Lời Vàng của vị Thầy của tôi (NT)

* Cách hiểu khác: “chúng dẫn dắt chúng ta dùng căn nguyên của đau khổ như khởi điểm.”

** Trong đó có một nhấn mạnh quan trọng về sự sạch sẽ sẽ có tính nghi lễ và các cư xử bên ngoài.

[261]  NT mô tả điều này như cách đối trị tà kiến, và thêm rằng cầu nguyên sự trường thọ cho vị Thầy hay các huynh đệ và tỉ muội kim cương của ta là một thực hành hết sức sâu xa quét sạch các chướng ngại đe doạ đời sống của riêng ta.

[262] “Nhập Niết bàn” trong mạch văn này ám chỉ rằng chư Phật hay Bồ Tát đang chấm dứt những hoạt động của các Ngài trong thế giới chúng ta, và vì thế chúng ta khẩn cầu các Ngài ở lại và tiếp tục những hoạt động này vì lợi lạc của chúng sinh, như cư sĩ Cunda đã làm trong trường hợp của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni.

[263] “Các đối trị sự bất quyết.” NT. Nếu không hồi hướng những hành động tích cực ta đã làm, ta không biết được chúng sẽ có kết quả ra sao.

[264] Ví dụ như nếu ta thực hiện một hành động bác ái mà không chuyển tải ý định của ta qua sự hồi hướng và ước nguyện, hành động đó được mô tả là “không ý hướng” (lung ma bstan). Không rõ điều lợi lạc nào sẽ đến từ loại hành động này. Tuy nhiên ví dụ nếu ta thực hiện một ước nguyện không bao giờ thiếu thốn những nhu yếu của đời sống trong khi thực hành Pháp, thì hành động có một ý hướng chính xác và sẽ dẫn tới mục tiêu ao ước.

[265] Ta có thể hồi hướng kết quả của một hành động tích cực cho một người đặc biệt. Tuy nhiên, để hành vi đó thực sự hiệu quả, ta nên hồi hướng kết quả cho tất cả chúng sinh kể cả người đó.

[266] Từ Tây Tạng gsol ba ‘debs pa ở đây, như trong hầu hết các trường hợp trong bản văn này, được dịch là “lời cầu nguyện” hay “sự khẩn cầu”. Tuy nhiên, nó nên được hiểu trong ý nghĩa sâu xa và rộng rãi nhất của từ Anh ngữ, và có lẽ với những ý nghĩa hơi khác nhau. Nó có nghĩa đen là đưa ra (‘debs) một sự thỉnh cầu (gsol), nhưng gsol cũng bao hàm có sự hoàn toàn tin tưởng và phó thác nơi điều gì đó không thể sai lầm, và ‘debs một việc làm mạnh mẽ, quả quyết (Pema Wangyal Rinpoche). Như vậy nó còn ám chỉ thêm tới tâm thái được cảm nhận - một tâm thái hoàn toàn xác tín, cởi mở và tin cậy – hơn đối với sự biểu lộ của nó, như có thể hiểu được trong đoạn này là nơi ý nghĩa bao hàm sự nhận lãnh bốn quán đảnh.

[267] “Điều phải được thành tựu là cấp độ của bốn vajra (kim cương). Các kinh mạch được tịnh hoá là thân kim cương, hay Hoá Thân; các năng lực được tịnh hoá là ngữ kim cương hay Báo Thân; tâm được tịnh hoá là tâm kim cương hay Pháp Thân; bản tánh được tịnh hoá (của ba thân trên) là sự bất khả phân kim cương hay Thân Tự Tánh”. (NT)

[268] Thuật ngữ heruka thường được dùng cho các Bổn Tôn phẫn nộ, nhưng thực ra muốn nói tới bất kỳ sắc tướng nào tượng trưng cho bản tánh tối hậu của ta. “He tượng trưng cho Pháp giới (có nghĩa là tánh Không), ka tượng trưng cho Trí tuệ, và ru tượng trưng cho sự hợp nhất của hai cái trên” NT. Ý nghĩa của đoạn này trong bản văn là ý nghĩa trong bất kỳ thực hành Kim Cương Thừa nào mà ta có thể làm, bản tánh của Bổn Tôn chính yếu bao giờ cũng là vị Thầy của riêng ta, do đó Ngài luôn luôn là trọng tâm tối yếu của lòng sùng mộ và là suối nguồn của các sự ban phước.

[269] Sau sự hợp nhất của tinh tuý của mẹ và cha lúc thụ thai, luân xa hiển lộ hình thành (luân xa này, hay cakra, có vị trí ở rốn khi thân thể được cấu tạo). Từ nó xuất hiện ba kinh mạch chính àm sau đó chia nhỏ thành hàng ngàn kinh mạch khác. Xem “kinh mạch” và “luân xa” trong Thuật ngữ.

[270] shes bya bum ‘jug, một trong những giáo huấn về yoga giấc ngủ được tìm thấy trong giáo lý Đại Viên Mãn.

[271] Ở cấp độ này, dùng các tri giác như con đường có nghĩa là kinh nghiệm chúng mà không có bất kỳ ý niệm nào về một thực tại nội tại của tri giác hay người tri giác. Sáu thức và những đối tượng của chúng trở nên không thể nghĩ lường được, giống như không gian (Pháp giới). Chúng không gây nên sự tham luyến nữa và do đó không còn là một nguồn mạch của đau khổ.

[272] Sự quán đảnh đưa ta tới giải thoát bằng cách làm thuần thục giòng tâm thức của ta.

[273] “Quán đảnh nền tảng là như sau. Nếu ta chứng ngộ bản tánh của tâm, là Phật tánh của ta, thì đó là ‘quán đảnh’ Niết Bàn. Nếu không chứng ngộ thì đó là ‘quán đảnh’ sinh tử. Trên con đường, quán đảnh gồm có ba yếu tố: 

1)  Quán đảnh nền tảng, trong đó ta được một vị Thầy tâm linh chân chính giới thiệu vào mạn đà la của một Bổn Tôn. Vào lúc này, tuyệt hảo nhất là ta chứng ngộ cái thấy của quán đảnh tuyệt đối. Trong trường hợp trung bình, ta có một kinh nghiệm về sự hỉ lạc, trong sáng và vô-niệm. Ít nhất ta nên kinh nghiệm một xác quyết rằng thân, khẩu và ý của ta là ba kim cương, với một tâm thức không bị xao lãng bởi bất kỳ điều gì khác. Một quán đảnh được nhận lãnh trong cách thức này sẽ là sự hỗ trợ cho con đường Kim Cương Thừa. Tuy nhiên, việc khẩn cầu thêm nhiều lễ quán đảnh nữa cho tới khi đầu ta bị dẹt đi (bởi mọi đồ lễ đặt lên nó), trong khi tâm ta không tiến bộ chút nào thì không thể dùng như một quán đảnh chân thực.

 

2)  Quán đảnh con đường. Một khi ta đã nhận quán đảnh nền tảng, thì bất kỳ quán đảnh được nhận sau đó, dù ta nhận chúng từ người nào khác hay nhận từ chính mình, đều là những quán đảnh trên con đường của Kim Cương Thừa mà chức năng của nó là chỉnh sửa và tịnh hoá.  

3)  Quán đảnh kết quả là “quán đảnh tia sáng lớn,” quán đảnh này, từ sự bất khả phân của nền tảng và tịnh quang, và nhờ năng lực trí tuệ của quán đảnh tuyệt đối, tiêu trừ mọi che chướng của các khuynh hướng tập quán, hay các khuynh hướng của ba tri giác về sự trong sáng, tăng trưởng, và thành tựu trong thời gian chuyển di (vào lúc chết.)” 

[274] Chúng tịnh hoá chúng ta về những tham đắm đối với ba cõi dục giới, sắc giới và vô sắc giới, hoàn thiện các phẩm tính của ba thân (kaya) trong ta và làm chín mùi trí tuệ tịnh quang trong chúng ta.

[275] Tên khác của Núi Màu-Đồng Đỏ

* Tây Tạng: kun tu bzang po, xem Dẫn nhập: Đại Viên Mãn

[276] spangs rtogs, những phẩm hạnh của một vị Phật - sự giải thoát khỏi mọi ngăn che và khuynh hướng, và sự chứng ngộ hai loại thấu suốt - thấu suốt tất cả những gì phải thấu suốt và thấu suốt bản tánh của mọi sự.

[277] Theo giáo lý Kim Cương Thừa, Đức Phật đã hoàn toàn giác ngộ khi Ngài xuất hiện trong thế giới và mọi hoạt động của Ngài chỉ là một sự phô diễn để giảng dạy chúng sinh.

[278] Núi Malaya, hay Malayagiri (ri ma la ya), ở Sri Lanka và thường được coi ngang hàng với ngọn núi thiêng Sumanakuta, hiện nay được gọi là Đỉnh Adam, cũng là một nơi có dấu chân của Đức Phật và đã được  Guru Rinpoche viếng thăm. Trong vài bài tường thuật, Núi Malaya được mô tả là “chói lọi với những tảng thiên thạch” (gnam lcag ‘bar ba).

[279] Năm bậc Tuyệt hảo của sự Cao quý Siêu phàm (dam pa’I rigs can dra ma lnga) là một vị trời (grags ldan mchog skyony, Phạn: Yasavi Varapala), một naga (long, rồng) (klu rgyal ‘jog po, long vương Taksaka), một vị dạ xoa (skar mda’ gdong, Ulkamaukha), một vị la sát (blo gros thabs ldan, Matyaupayika) và một con người (dri med grags pa, Ngài Vimalakirti); hoặc theo một vài nguồn tài liệu, vua Trời Đế Thích (Indra) (rig ‘dzin tha dbang rgyal sbyin) được đưa vào danh sách thay cho Vimalakirti.

[280] Mdo dgongs ‘dus, cũng được biết là dus pa mdo. Mặc dù nó được gọi là một sutra (Kinh), thực ra bản văn này là một trong bốn Tantra gốc của Anuyoga. Nó được La Sát Matyaupayika ghi lại trong chất khoáng beryl nấu chảy.

[281] rgyud gsang ba’I snying po, Phạn: guhyagarbha, ở đây được gọi là Tantra Bí mật Vinh Quang (dpal gsang ba’I rgyud).

[282] Câu chuyện của Gara Dorje được kể trong đoạn kế. Mặc dù Ngài có gốc gác Ấn Độ, chúng tôi giữ nguyên tên Tây Tạng của Ngài, bởi trong truyền thống Tây Tạng tên tiếng Phạn (Pramodavajra hoặc Prahevajra) của Ngài ít được dùng tới, và tên Tây Tạng của Ngài thì có vẻ quen thuộc với độc giả hơn.

* Họ được sinh ra một cách kỳ diệu chỉ nhờ ước muốn của ông ta.

** Ba vị trời chín của người Ấn Độ. Pasupati là tên khác của Siva.

¨ Tên khác của Vajrapani

[283]  Vajrasattva, rdo rje smes dpa’: rdo rje sems có nghĩa là tâm kim cương, và ở đây Vajrasattva có thể được hiểu trong ý nghĩa tuyệt đối của giác tánh nguyên sơ (rig pa) bất hoại.

[284] rgyal thabs spyi lugs: sự quán đảnh không có bất kỳ tiến trình hữu hình hay nghi lễ nào, chỉ đơn giản là sự trao truyền đầy đủ và tức thời sự giác ngộ từ tâm qua tâm. Spyi lugs, “sự rót” ám chỉ sự trao truyền trực tiếp này, trong khi rgyal thabs, “phương tiện của các Đấng Chiến Thắng.” có thể được hiểu như ám chỉ cho Phật Quả, và một các ẩn dụ, cũng ám chỉ vương quyền được ban cho, như một vị vua truyền cho người kế tục.

[285] yang sprul: “Hoá Thân của một Hoá Thân” vì Garab Doje là một Hoá Thân của Đức Vajrasattva, mà chính Vajrasattva lại là Hoá Thân của Đức Samantabhadra (Phổ Hiền)

[286] Bản văn có một cách giải thích khác, ma brtsol nghĩa là “không nỗ lực.” Tuy nhiên cả hai có nghĩa là không có sự tạo tác hay vận dụng trong tâm thức. Zenkar Rinpoche

[287] byang sems rdo la gser zhun

* Đức Padmasambhava

** Có nói rằng đó là một hoá thân của Đức Tara.

[288] Naytri Tsenpo được tôn phong trong thung lũng Yarlung, một trog bảy lãnh địa nhỏ ở trung tâm Tây Tạng, có lẽ vào thế kỷ thứ hai hay thứ ba trước Công nguyên. (Trường phái Nyingma Phật Giáo Tây Tạng: Những Nguyên tắc Căn bản và Lịch Sử của Dudjom Rinpoche [HIST]cho là năm 247 trước Công nguyên). Dòng dõi của Ngài trở nên nổi danh là triều đại Chogyal, và về sau dần dần nắm được quyền kiểm soát một phần trọng yếu của xứ sở.

[289] Lha-Thothori Nyentsen (374-? Sau Công nguyên) là vị vua thứ 28 của triều đại Chogyal, và sự kiện mô tả được cho là xảy ra vào năm 433 sau Công nguyên. Những niên đại này được cung cấp trong Đại Tự điển Tây Tạng – Trung Quốc và bởi Dudjum Rinpoche trong HIST, trong tác phẩm này Ngài nói thêm rằng một biến thể của câu chuyện, theo đó Kinh và các linh vật khác được mô tả là đã được những học giả thăm viếng Ấn Độ mang tới Tây Tạng thì có thể rất chân xác.

[290] Danh hiệu có nghĩa là “viên ngọc như ý”  Để có thêm chi tiết, xin coi HIST.

[291] mdo sde za ma tog bkod pa (Phạn: Aryakarandavyuha sutra), một bản thảo về Đức Avalokitesvara được tìm thấy trong Mani Kahbum của Songtsen Gambo.

[292] Dpang skong phyag brgya pa’i mdo (Phạn: Saksipuranasudrakanama sutra)

[293] Niên đại cuộc đời Ngài Songtsen Gambo thường được cho là 609-698, nhưng theo Gendun Chophel là 617-650 (xem Biên niên sử Trắng trang 13). HIST cũng cho là Ngài sinh năm 617, trong khi các tác giả khác thì cho là năm 629.

[294] Gtsug lag khang hay điện thờ trugn tâm ở Lhasa, Rasa Trulnang, ngày nay được gọi là Jokhang, có thể chỉ được xây dựng sau khi xây cất bốn điện thờ Thadul (mtha’ ‘dul) hay Thuần hoá-Biên địa và bốn điện thờ Yangdul (yang’dul) hay Thuần hoá-Ngoại Biên, cùng những điện thờ khác, trên những vị trí quan trọng được tiên đoán quanh Tây Tạng và những vùng biên giới của nó. Để biết chi tiết câu chuyện và các vị trí, xin xem HITS, quyển 1 trang 510 và các chú thích.

[295] Công chúa Wen-Ch’eng Kung-chu, (người Tây Tạng gọi là Kongjo) là con gái của Hoàng đế Đường Thái Tông đời Đường. Pho tượng bà đem theo là tượng Đức Phật Thích Ca Mâu Ni mười hai tuổi, và từng được một vị vua Phật tử xứ Bengal tặng cho Hoàng Đế Trung Hoa; điện Ramoche được xây năm 641 để an vị pho tượng này nhưng về sau được di chuyển sang điện Rasa Trulnang (Jokhang), là nơi hiện nay có tượng Jowo Rinpoche nổi danh. Hoàng hậu Trisun là con gái vua Amsuvarman xứ Nepal; pho tượng bà đem theo là tượng Đức Phật Thích Ca Mâu Ni tám tuổi hiện thờ trong Điện Ramoche.

[296] Truyền thuyết kể lại rằng pho tượng này (nay vẫn có thể thấy trong điện Potala ở Lhasa) được tạc từ gỗ cây đàn hương thân tròn trong đó người ta tìm thấy năm hình ảnh.

[297] Theo Đại Tự điển Tây Tạng – Trung Quốc, hầu hết các học giả cho rằng niên đại của Trisong Detsen là 790-844, mặc dù theo Buton thì Ngài sinh năm 718 và theo quyển Baikar Yasel thì là năm 730. Xin coi chú thích 301 về những vấn đề niên đại trong thời kỳ này. 

[298] Sa’dul: một nghi lễ để tịnh hoá địa điểm và chế ngự những thế lực của đất ở nơi đó, trước khi xây dựng một dinh thự.

[299] Ngài có thể xử sự với mọi tình huống bằng cái thấy tối hậu. Zenkar Rinpoche 

[300] Stupa (tháp) tại Bodhnath, Nepal. Xem Phần Hai, Chương Hai, Mục I và chú thích 129.

[301] Theo Khetsun Zangpo Rinpoche, niên đại trong việc xây dựng Samye như sau: Năm 797, Khenpo Santaraksita cúng đất. Năm 798 Ngài bố trí nền móng. Năm 802, Guru Rinpoche rời Ấn Độ, tới Samye năm 809. Năm 810 ngài cúng đất lần nữa, và năm 811 bố trí lại đá móng. Năm 814, Samye hoàn tất. Niên đại tương tự được đưa ra trong HIST nhưng với lời chú giải là nó cũng có thể ít hơn cách tính truyền thống một chu kỳ sáu mươi năm giữa 790 và 953; nói cách khác, có lẽ tất cả những niên đại này nên được đều chỉnh lại bằng cách trừ đi sáu mươi năm.

* Tiêu đề này được đưa vào trong bảndịch để thêm sáng nghĩa.

** Trisong Detsen, Yeshe Tsogyal và Vairotsana

[302] Ba yếu tố của giáo lý Đại Viên Mãn (shan ‘byed, la bzla ba, rang grol)

¨ rje ‘bango, nghĩa đen là “chúa tể và thần dân,” đức vua TrisongDetsen và các thần dân là hai mươi bốn đệ tử khác.

[303] Những cuộn giấy nhỏ trên đó những biểu tượng được viết ra mà từ đó các vị khám phá kho tàng có thể phát lộ toàn bộ một giáo lý hay giáo khoá. Xem Tulku Thondup, Giáo lý Ẩn dấu của Tây Tạng.

¨¨ Xem Thuật ngữ: kho tàng

[304] Ba dòng truyền thừa của sự truyền dạy “dài” bka’ ma là dòng truyền tâm của các Đấng Chiến Thắng (rgyal ba dgongs pa’i brgyud), dòng truyền thừa biểu tượng của các Vidyadhara (rig ‘dzin brda’i brgyud) và dòng truyền nhờ sự nghe của chúng sinh bình thường (gang zag snyan brgyud). Sáu dòng truyền thừa “ngắn” gter ma hay sự truyền dạy các kho tàng tâm linh đồng thời cũng chính là ba dòng truyền thừa được quán đảnh bằng những sự cầu nguệyn (smon lam dbang bskur ba’i brgyud) và dòng của sự niêm phong và giao phó cho các dakini (mka’ ‘gro glad rgya’i brgyud) và dòng kế thừa được uỷ nhiệm theo tiên tri (bka’ bab lung bstan gyi brgyud). Trong đoạn này Patrul  Rinpoche mô tả vắn tắt sự liên tục của ba dòng sau cùng này, chúng thì đặc trưng đối với các kho tàng tâm linh. “Sự niêm phong và giao phó cho các dakini” tương ứng với sự cất dấu kho tàng trên thực tế. Để có thêm chi tiết, xin coi HIST quyển 1, trang 745. Sự sở hữu “chín” sự truyền dạy ám chỉ các dòng truyền thừa bao gồm bka’ma (ba) và gter ma (sáu) sự truyền dạy.

§ sems nyid ngal gso: một thân tướng của Avalokitesvara

[305] Tất cả những Đạo sư này đã an trụ trong sự giác ngộ trước thời Jigme Lingpa. Ngài gặp các Đạo sư này và nhận giáo lý chi tiết từ các Ngài trong linh kiến. Ngài được chú ý nhờ sự hiểu biết phi thường thâu đạt được theo cách này mặc dù không nhọc công chút nào trong việc nghiên cứu.

§ Vị thầy của Patrul Rinpoche, Ngài Jigme Gyalwai Nyugu, là một trong các đệ tử chính của Ridzin Jigme Lingpa. Xem Dẫn nhập.

[306] Vajradhara(rdo rje ;chang) có nghĩa là “Bậc trì giữ kim cương” (Kim Cương Trì). Vị Thầy nắm giữ chì khoá để đi vào bản tánh bất hoại của ta. Điều này thường được dùng như một cách hết sức tôn kính khi nói tới một bậc Thầy vĩ đại.

§§  Xem phần Một, chương Sáu, Mục II.

[307] Dòng đầu của tục ngữ này, mgo ma tshos gong lce snyabs, có thể được hiểu theo nghĩa đen là để ám chỉ rằng không nên nếm một cái đầu đang được nấu cho tới khi nó sẵn sàng (việc nấu đầu những con yak hay bò được phổ biến ở Tây Tạng, đặc biệt là trong những người chăn cừu du mục). Tuy nhiên, ‘thè lưỡi ra’ có thể ngụ ý biểu lộ sự đồng ý hay bằng lòng, và ‘đầu được nấu’ thì đôi khi được dùng như một sự tiên tri về sự thấu suốt. Như vậy, một cách dịch khác - nếu như kém màu sắc hơn - sẽ là “sự chấp nhận trước khi bạn thấu hiểu.”

 

 

----o0o---

 

Mục Lục > 1-1 > 1-2 > 1-3 > 1-4> 1-5 >1-6

 2-1 > 2-2 > 2-3 > 2-4 > 2-5 > 2-6 > 3-1

 

----o0o---

Vi tính: Tường Tâm

Trình bày: Diệu Tường

Cập nhật: 01-2008

Nguồn: www.quangduc.com

Về danh mục

m nội Mộc êm Nửa 24 hấp Hoa Ly chè đậu ngự dâng cúng Phật Long thuyen loi di ngon cua bo tat thich quang duc truoc ngay con đường đi đến thành tựu chánh nấu chè đậu thật đơn giản Nhọc nhằn hạt thóc mùa lũ đổi tÕng vi ngay xay Tung kinh giẠm cà n bẠng dà u tà y và Cơn mưa đầu mùa lá ÿ Pháp Thoà t Hơi ДГІ sヾ Trần chua linh son bên nghĩ im lang 17 cau noi dang gia ngan vang giup ban binh an Nhất xiển đề thành Phậtđến việc anh se nho 四大假合 trien nhà tài tren phap luan cong co phai phap mon cao cap cua phat Đau lưng khai 五藏三摩地观 bèo Ùng Quan điểm của Phật giáo về sức khỏe quan he giua nha nuoc va cong dan theo kinh dien à Nắng việt vầng long nguoi con xa xu cung day bao dong Mỗi năm vach tran su that cua loi tien tri tan the quán bước S ban ve van de nhan qua trong doi song hien tai tín 22 dẠo Giòn thơm món nấm ngon y鎈