LỜI VÀNG CỦA THẦY TÔI

Nguyên Tác: O-rgyan-'jigs-med-chos-kyi-dban-po

(Kunzang Lama'i Shelung)

Bản dịch Anh ngữ: The Words of my Perfect Teacher/Patrul Rinpoche

Của Nhóm Dịch thuật Padmakara

Nhà Xuất bản Shambhala

Bản dịch Việt ngữ: Nhóm Longchenpa 2004

----o0o---- 

PHẦN III

CON ĐƯỜNG CHUYỂN DI NHANH CHÓNG

____________________ 

Dilgo Khyentse Rinpoche (1910 – 1991) 

Một trong những Hoá Thân của Jamyang Khyentse Wangpo. Ngài đã tu học với một trăm hai mươi vị Thầy và trải toàn bộ hai mươi năm trong thiền thất. Ngài thường ban các Giáo lý, kể cả Giáo lý Đại Viên Mãn, cho Đức Đạt Lại Lạt Ma. Nhiều hậu thế các Lạt ma Tây Tạng coi Ngài như vị Thầy gốc của họ. Ngài cũng giảng dạy rộng rãi ở Âu Châu và Bắc Mỹ.

_____________________

  

SỰ CHUYỂN DI TÂM THỨC, CÁC GIÁO HUẤN CHO NGƯỜI HẤP HỐI:

PHẬT QUẢ KHÔNG CẦN THIỀN ĐỊNH

 

 

Cao cả thay hành động bi mẫn của Ngài đối với chúng sinh vô minh.

Cao cả thay cách thức Ngài bảo bọc những kẻ đại ác như đệ tử của Ngài.

Cao cả thay những phương pháp thiện xảo của Ngài đối với kẻ khó điều phục.

Đạo sư vô song, con đảnh lễ dưới chân Ngài.

 

I – NĂM LOẠI CHUYỂN DI

 

Có năm loại chuyển di tâm thức khác nhau:

  1. Sự chuyển di siêu việt tới Pháp Thân nhờ dấu ấn của cái thấy.

  2. Sự chuyển di trung bình tới Báo Thân nhờ sự hợp nhất các giai đoạn phát triển và toàn thiện.

  3. Sự chuyển di thấp tới Hoá Thân nhờ lòng bi mẫn bao la.

  4. Sự chuyển di thông thường sử dụng ba ẩn dụ.

  5. Sự chuyển di được thực hiện cho người chết với cái móc của lòng bi mẫn.

 

1. Sự chuyển di siêu việt tới Pháp Thân nhờ dấu ấn của cái thấy

 

Đối với những người đã phát triển và thiết lập sự quen thuộc với cái thấy không lầm lạc của trạng thái tự nhiên không bị tạo tác suốt trong những cuộc đời của họ, thì vào lúc chết họ có thể đưa vào thực hành vấn đề cốt tủy của Pháp giới và sự tỉnh giác trên con đường bí mật của sự thuần tịnh nguyên thuỷ của trekcho, và chuyển di tâm thức của họ tới phạm vi Pháp Thân.[308]

 

2. Sự chuyển di trung bình tới Báo Thân nhờ hợp nhất giai đoạn phát triển và toàn thiện

 

Đối với những người rất quen thuộc với sự thực hành đồng thời các giai đoạn phát triển và toàn thiện như một yoga bất khả phân, và tu tập viên mãn trong việc nhìn hình tướng của Bổn Tôn hoàn toàn giống như một sự phô diễn thần diệu, thì khi các ảo giác của trạng thái trung ấm xuất hiện vào lúc chết, họ có thể chuyển hoá tâm thức của họ thành thân trí tuệ hợp nhất.[309]

 

3. Sự chuyển di thấp tới Hoá Thân nhờ lòng bi mẫn bao la

 

Những người đã nhận các quán đảnh của Kim Cương thừa, những người trì giữ samay không lỗi lầm, những người có thiên hướng về các giai đoạn phát triển và toàn thiện và những người đã nhận lãnh các giáo huấn về trạng thái trung ấm có thể, như có nói:

Hãy làm gián đoạn sự nhập thai, nhớ quay trở lại:*

Đây là lúc đòi hỏi sự quyết định và thuần tịnh của thị kiến.

 

Những người đang thực hành sự chuyển di này phải chặn đứng bất kỳ sự thâm nhập không được mong muốn nào vào một thai tạng bất tịnh. Được dẫn dắt bởi lòng đại bi và sự thực hiện thực hành nhận lấy tái sanh như một hiện thể Hoá Thân, sau đó họ chuyển di tâm thức tới một nơi tái sanh ở một trong những tịnh thổ.[310]

 

 

4. Sự chuyển di thông thường sử dụng ba ẩn dụ 

Những người thực hành phương thức chuyển di này bằng cách tưởng tượng kinh mạch trung ương như con đường, bindu của tâm thức như người lữ khách, và một tịnh thổ của đại lạc như đích đến.[311]

 

5. Sự chuyển di được thực hiện cho người chết với cái móc của lòng bi mẫn 

Loại chuyển di này cũng được thực hiện cho người đang hấp hối, hay cho người đã ở trong trạng thái trung ấm. Nó có thể được thực hiện bởi một yogi có sự chứng ngộ cao cấp, làm chủ được tâm thức và các tri giác, và có khả năng nhận ra tâm thức của người trong trạng thái trung ấm. Nói chung, để thực hiện sự chuyển di cho người chết, ta cần thấu đạt thật rõ rằng Con đường của Cái Thấy. Như Ngài Jetsun Mila nói:

Đừng thực hành sự chuyển di cho người chết

Trừ phi bạn đã nhận thức chân lý của con đường của cái thấy. 

Tuy nhiên, bất cứ ai thực sự biết đúng lúc để thực hiện sự chuyển di – là lúc hơi thở ra đã ngưng và hơi thở vào vẫn còn tiếp tục[312]- đều có thể thực hiện nó ngay lúc ấy nếu họ có chút kinh nghiệm về các giáo huấn chuyển di. Nó cực kỳ lợi lạc cho người đang hấp hối, và giống như một lữ khách được bằng hữu dẫn đi đúng đường, nó có khả năng ngăn chặn sự tái sinh trong các cõi thấp.

Sự chuyển di sẽ khó khăn hơn một khi tâm và thân trở nên hoàn toàn phân cách. Vì thế, cần một yogi làm chủ được bổn tâm, có thể nhận ra người chết trong trạng thái trung ấm. Tác động tới người không còn một thân xác vật chất nữa là điều dễ dàng, và khi được thực hiện bởi một yogi như thế, sự chuyển di từ trạng thái trung ấm tự nó có năng lực để chuyển đẩy tâm thức chúng sinh tới một tịnh thổ. Tuy nhiên, hoàn toàn vô nghĩa khi cho rằng sự chuyển di có thể được thực hiện bằng cách triệu thỉnh tâm thức quay trở lại thân xác sau khi chết.[313]

Ngày nay, nhiều người thực hành các nghi lễ chuyển di dù họ chỉ là các lạt ma hay tulku** trên danh nghĩa. Nếu họ thực hiện chúng với lòng từ bi của Bồ Đề Tâm và không có chút tính toán ích kỷ nào, thì bổn tâm họ có mọi cơ may không bị ngăn che khiến họ có thể thực sự giúp đỡ người chết. Điều này chỉ có thể được làm bởi động lực Bồ Đề Tâm. Còn bất kỳ ai hoàn toàn thực hiện sự chuyển di vì lợi ích cá nhân, chỉ biết cách đọc tụng những ngôn từ và sau đó nhận thù lạo là một con ngựa hay thứ gì đáng giá khác, thì những kẻ ấy thật đáng khinh miệt.

Là người hướng dẫn và bậc thầy của những người khác,

Mà bản thân bạn không đi tới bến bờ giải thoát,

Thì cũng mâu thuẫn như đưa tay cho người đang chết đuối

Trong khi chín bạn đang bị nước lũ cuốn trôi. 

Một lần, khi đại đạo sư Tendzin Chopel đang ở Tsari, ngài có một thị kiến về một con người có lần ngài thực sự chuyển di cho ông ta và nhận thù lao một con ngựa. Tất cả những gì ngài có thể thấy là cái đầu người nhô lên từ một cái hồ máu đỏ thẫm. Vật ấy gọi tên Tendzin Chopel và yêu cầu ngài làm điều gì đó.

Tendzin Chopel cảm thấy sợ hãi. Ngài đáp lại: “Ta tặng ngươi cuộc hành hương tới Tsari của ta,”· và ảo cảnh biến mất.

Ngay cả đối với một vị thầy vĩ đại có mức độ chứng ngộ cao, việc nhận sự cúng dường nhân danh người chết mà không thực hiện một nghi lễ hay việc tương tự vì lợi lạc của họ sẽ gây nên những trở ngại trên con đường.

Khi vị hoá thân tu viện trưởng Dzogchen, ngài Gyurme Thekchok Tendzin thị tịch, Trime Shingkyong Gonpo được mời tới tang lễ. Suốt cả ngày Ngài chỉ cử hành các nghi lễ tịnh hoá và nhắc nhở tâm thức, tụng đi tụng lại sự chuyển di, giống như ngài đã làm sau cái chết của một người bình thường. Các nhà sư hỏi Ngài tại sao làm vậy.

Ngài giải thích: “Cách đây đã lâu, Dzogchen Rinpoche quên không cử hành các nghi lễ và cầu nguyện hồi hướng cho người mà nhân danh họ, một con ngựa đen đã được cúng dường cho ngài. Người đó là một kẻ đại ác và vì thế Rinpoche hơi bị chướng ngại trong các cấp bậc và con đường. Giờ đây ngài và ta đã phối hợp năng lực và giải quyết vấn đề.” Chuyện kể làm ác này được kể trong câu chuyện gọi là Golok Tendzin.

Thật sai lầm khi những người ở địa vị đại lạt ma hay tulku nhận các sự cúng dường nhân danh người chết mà chỉ nghĩ: “ta là một bậc vĩ đại nào đó,” và không thực hành Bồ Đề Tâm hay thực hiện các sự cầu nguyện, các nghi lễ cúng dường những sự hồi hướng đúng đắn và có hiệu quả. Các tulku quan trọng được công nhận là những hoá thân chính thức của các bậc thầy vĩ đại trong quá khứ vẫn còn phải học đọc lại, và bắt đầu với vần abc như những người bình thường. Bởi các ngài đã quên cách đọc đã biết từ những đời trước nên có thể nghi ngờ chút ít rằng các ngài cũng phải quên mất mọi thứ mà các ngài từng biết về các yoga của các giai đoạn phát triển và toàn thiện.  Tôi tự hỏi không biết họ có dùng chút thì giờ để tu tập Bồ Đề Tâm và học tập về sự thực hành cùng các sự nhập thất, hơn là đi quanh quẩn tìm kiếm các vật cúng dường ngay khi họ có thể cưỡi lên một con ngựa.

 

II - SỰ CHUYỂN DI THÔNG THƯỜNG SỬ DỤNG BA ẨN DỤ

Bây giờ tôi mô tả loại chuyển di được gọi là “chuyển di thông thường sử dụng ba ẩn dụ” hay “sự chuyển di tâm thức vào vị thầy.” Nó cũng phù hợp với điều mà Tantra Sự Sám Hối Tinh khiết gọi là “sự chuyển di quả cầu ánh sáng sử dụng âm thanh vào lúc chết.” Loạt thực hành chuyển di này không cần thiết với những người đã có một mức độ chứng ngộ cao. Đối với họ, như tantra nói:

 Điều gọi là cái chết chỉ là một ý niệm,

Là cái gì đưa dẫn tới các cõi trời.[314] 

Và, một lần nữa

Cái chết, hay cái chúng ta biêt như cái chết,

Là một sự giác ngộ nhỏ bé đối với một yogi. 

Những người mặc dù đã đoạt được thành lũy của sự tuyệt đối trong đời họ và thành tựu việc làm chủ sự sinh và tử hình như vẫn phải chết. Nhưng đối với họ, cái chết không khác gì việc di chuyển từ nơi này sang nơi khác. Những người có kinh nghiệm trong các thực hành tinh túy của các giai đoạn phát triển và toàn thiện có thể, như chúng ta đã đề cập trước đây, sử dụng một trong ba thực hành đối với cái chết, trạng thái trung gian hay sự tái sinh để chuyển di tâm thức họ tới một trong ba thân (kaya).

Ngược lại, như có nói: 

Những người không có sự tu tập đầy đủ có thể được thọ nhận nhờ sự chuyển di. 

Sự thực hành này là cần yếu đối với những hành giả không đạt được sự vững chắc trên con đường, hay đối với những người mắc phạm nhiều hành động ác hại.  Đối với bất kỳ ai nắm giữ những giáo huấn đặc biệt này, cánh cửa của các cõi thấp được đóng lại dù những ác hạnh của họ nặng nề tới đâu chăng nữa. Thậm chí đối với những kẻ từng phạm một tội lỗi bị quả báo tức thời, và lẽ ra phải bị đoạ thẳng xuống, chắc chắn sẽ không bị tái sinh trong các cõi thấp nếu họ sử dụng giáo lý này. Các tantra nói: 

Bạn có thể từng giêt một người ba la môn mỗi ngày

Hay từng mắc phạm năm hành vi bị quả báo tức thời,

Nhưng bạn vẫn sẽ được giải thoát nhờ con đường này.

Sẽ không cái nào trong những tội lỗi đó làm ô nhiễm bạn.

Và: 

Bất kỳ ai thực hành sự chuyển di,

Tập trung nơi lỗ mở trên chín lỗ kia*

Sẽ không bị ô nhiễm bởi những hành vi tiêu cực của họ,

Và sẽ được tái sinh trong một cõi Phật thanh tịnh. 

Và thêm nữa:

Dưới chân cha bạn, vị thầy đầy đủ phẩm tính

Được tôn vinh trên một mặt trời và mặt trăng trên đỉnh đầu bạn,

Hãy đi theo con đường lụa trắng là kinh mạch trung ương của bạn,

Và bạn sẽ được giải thoát, cho dù bạn từng mắc phạm năm trọng tội với quả báo tức thì.  

Như thế, những giáo huấn này về con đường chuyển di sâu xa là phương cách dẫn tới Phật Quả mà không cần thiền định, một con đường bí mật giải thoát thật mạnh mẽ ngay cả những kẻ phạm trọng tội. Đức Phật Vajradhara đã nói:

Bạn có thể từng giết một người bà la môn mỗi ngày

Hoặc mắc phạm năm hành vi bị quả báo tức thời,

Nhưng một khi bạn gặp được những giáo huấn này

Thì không còn nghi ngờ gì, bạn sẽ được giải thoát. 

Và chính Đại Đạo sư xứ Oddiyana đã nói:

Mọi người đều thấu suốt Phật Quả nhờ thiền định

Nhưng ta thấu suốt một con đường không thiền định. 

Đại học giả Naropa nói: 

Chín lỗ mở (chín khiếu) mở ra sự luân hồi sinh tử

Nhưng một khiếu khai mở lối vào Mahamudra (Đại Ấn).

Hãy đóng lại chín khiếu và mở ra một khiếu;

Chớ nghi ngờ việc nó đưa dẫn tới giải thoát. 

Và Marpa, dịch giả xứ Lhodrak:

Cho tới nay ta từng thực hành sự chuyển di,

Tu tập, tu tập và tu tập nữa.

Ta có thể chết một cái chết bình thường, nhưng ta không cần lo lắng;

Sự quen thuộc đã cho ta sự xác tín hoàn hảo. 

Jetsun Shepa Dorje nói:

Những giáo huấn này hoà lẫn, chuyển di đi và nối kết,*

Là cẩm nang để vượt qua trạng thái trung gian.

Ai có được một con đường như thế?

Hạnh phúc biết bao, người mà sinh lực của họ đi vào kinh mạch trung ương

Kỳ diệu thay! Họ đi tới một pháp giới tuyệt đối! 

Các giáo huấn này có hai phần: phần đầu là sự tu tập, và sau đó là thực hành thực sự. 

 

1. Sự tu tập chuyển di 

Khi sử dụng những giảng dạy về sự chuyển di mà bạn đã thọ nhận, bản thân bạn hãy tu tập liên tục với sự tinh tấn cho tới khi các dấu hiệu thành công xuất hiện.

Lúc này, trong khi toàn thể các kinh mạch, năng lực và tinh chất của bạn còn nguyên vẹn và mạnh mẽ, bạn sẽ nhận ra rằng thực ra tiến hành sự chuyển di thì rất khó khăn. Nhưng một khi bạn đi tới giờ phút quyết định của mình, hay vào lúc đã quá già, thì việc này trở nên rất dễ dàng. Giống như trái cây trên cành, khó hái vào mùa hè khi nó còn đang phát triển. Nhưng vào mùa thu, một khi nó đã chín và sẵn sàng rụng xuống, thì chỉ cần áo quần của bạn chạm nhẹ vào nó cũng đủ làm nó rụng. 

2. Sự chuyển di thực sự

 Thời điểm để đưa sự chuyển di vào thực hành thực sự là sau khi xuất hiện các dấu hiệu của cái chết đang tới gần, khi bạn chắc chắn rằng không có việc quay trở lại nữa và tiến trình phân rã đã bắt bắt đầu. Đừng làm điều này vào bất kỳ lúc nào khác. Như có nói trong các tantra:

Hãy tiến hành sự chuyển di khi đã tới thời điểm thích hợp.

Nếu không như thế, bạn sẽ giết các Bổn Tôn.· 

Có nhiều giai đoạn trong tiến trình phân rã, nhưng để dễ hiểu, tiến trình này có thể được phân chia thành sự phân rã của năm năng lực giác quan, sự phân ra của bốn yếu tố (bốn đại), và những giai đoạn của sự trong sáng, tăng trưởng và thành tựu.

Sự phân rã của năm lực giác quan bắt đầu khi, ví dụ thế, sự trì tụng của các nhà sư tụ họp quanh tử sàng của bạn chỉ còn là những âm thanh giống như một tiếng rì rầm lộn xộn. Bạn không còn có thể phân biệt được các âm tiết. Hoặc khi bạn nghe âm thanh giọng nói của con người như thể đến từ rất xa, và không thể nhận ra được lời lẽ nữa. Đó là nhĩ thức của bạn đang chấm dứt. Nhãn thức của bạn đang kết thúc khi, thay vì nhìn thấy các hình tướng như chúng là, thì bạn chỉ có thể thấy một cảnh tượng lờ mờ. Khi những kinh nghiệm về sự ngửi thấy, nếm biết và xúc chạm cũng chấm dứt và đi tới sự phân rã sau cùng của chúng, thì dứt khoát là đã tới thời điểm thích hợp để tiến hành sự chuyển di.

Sau đó, khi yếu tố bên trong của thịt phân rã thành yếu tố bên ngoài của đất,[315] bạn kinh nghiệm một cảm giác giống như rơi xuống một cái hố. Bạn cảm thấy nặng nề, như thể bị đè bẹp bởi sức nặng của một trái núi. Đôi khi, người hấp hối yêu cầu được nâng lên hay đỡ cao chiếc gối. Khi máu phân rã thành yếu tố nước bên ngoài, bạn chảy nước miếng và nước mũi. Khi yếu tố nhiệt của thân phân rã thành yếu tố lửa bên ngoài, miệng và lỗ mũi bạn cảm thấy khô và thân bạn bắt đầu mất nhiệt bắt đầu với tứ chi. Trong một vài trường hợp hơi xuất hiện từ đỉnh đầu vào giai đoạn này. Khi hơi thở bên trong, hay yếu tố năng lực phân rã thành yếu tố khí bên ngoài, thì các năng lực khác nhau của bạn – năng lực đi lên, năng lực triệt thoái; năng lực nồng nhiệt và năng lực toàn khắp - tất cả tan hoà vào năng lực hỗ trợ-sinh lực. Sự thở vào trở nên khó khăn. Sự thở ra là một sự đổ tràn hổn hển của các lá phổi qua cổ họng. Rồi tất cả máu trong thân bạn hội tụ trong kinh mạch-sinh lực và ba giọt nhỏ giọt vào trung tâm tim bạn, giọt này sau giọt kia. Với ba hơi thở dài, hơi thở của bạn đột nhiên ngừng lại.

Vào lúc đó yếu tố trằng hay “tinh dịch” mà bạn đã nhận từ cha bạn nhanh chóng di chuyển đi xuống từ đỉnh đầu bạn. Như dấu hiệu bên ngoài, bạn nhận thức một thứ gì đó có màu trắng giống như một bầu trời không mây được ánh trăng thắp sáng. Như dấu hiệu bên trong, bạn kinh nghiệm sự trong sáng trong tâm thức bạn và ba mươi ba loại niệm tưởng thù địch ngừng dứt. Trong trạng thái này được gọi là “sự trong sáng.”

Yếu tố đỏ hay “máu” mà bạn đã nhận từ mẹ bạn nhanh chóng di chuyển đi lên từ vùng rốn của bạn. Như dấu hiệu bên ngoài, bạn nhận thức một thứ gì màu đỏ giống như một bầu trời trong trẻo được ánh sáng rực rỡ của mặt trời thắp sáng. Như dấu hiệu bên trong, bạn kinh nghiệm sự hỉ lạc chính yêu trong tâm thức bạn và bốn mươi loại niệm tưởng tham dục ngừng dứt. Trạng thái này được gọi là “sự tăng trưởng.”

Khi các yếu tố đỏ và trắng hội tụ trong tim bạn, tâm thức bạn đi vào giữa chúng. Dấu hiệu bên ngoài là một sự nhận thức về màu đen giống như màu đen của một bầu trời trong trẻo hoàn toàn ngập trong bóng tối. Dấu hiệu bên ngoài là tâm thức bạn kinh nghiệm một trạng thái không có bất kỳ niệm tưởng nào và bạn ngất đi, rơi vào một trạng thái hoàn toàn tối tăm. Điều này được gọi là “sự thành tựu.”

Sau đó bạn xuất hiện trong một lúc từ trạng thái kích ngất đó tới một kinh nghiệm giống như kinh nghiệm về một bầu trời không bị ảnh hưởng bất kỳ thứ gì trong ba tình cảnh trước đây. Đây là “tịnh quang của thời gian nền tảng”[316] đang xuất hiện. Việc nhận ra nó là bổn tánh của bạn và nghỉ ngơi trong đó là điều được gọi là “sự chuyển di siêu việt tới Pháp thân.” Nó là Phật Quả không kinh qua bất kỳ trạng thái trung gian nào.

Sau thời điểm đó trạng thái trung gian của thực tại tuyệt đối và trạng thái trung gian của sự trở thành dần dần biểu lộ, nhưng những giai đoạn đó sẽ không được miêu tả ở đây bởi chúng đã được thuật lại trong các giáo huấn về thực hành chính yếu.

Đối với những người không có kinh nghệm thích đáng về con đường,[317] giây phút tốt đẹp nhất để thực hiện sự chuyển di là lúc bắt đầu tiến trình phân rã. Vào lúc đó, hãy hoàn toàn cắt đứt mọi bám luyến với cuộc đời này và làm tăng trưởng lòng can đảm của bạn bằng cách nghĩ tưởng: “Bây giờ tôi đang chết, tôi sẽ nương cậy các giáo huấn của vị thầy của tôi và bay vút tới các cõi thuần tịnh giống như một mũi tên được một bậc phi thường bắn ra. Điều nay thật hỉ lạc biết bao!”

Sẽ khó mà nhớ lại rõ ràng mọi sự quán tưởng và những chủ đề quan trọng khác của sự chuyển di, vì thế nếu bạn có một bằng hữu có thể nhắc nhở bạn thì hãy yêu cầu người ấy làm công việc đó. Nhưng trong bất kỳ trường hợp nào, vào lúc đó, khi nương cậy sự tu tập trước đây của bạn và thực hành những giáo huấn của con đường sâu xa này, đã tới lúc bạn phải thực sự làm cho pháp chuyển di trở nên hữu hiệu.

Như thế, bây giờ là những bước của sự thực hành chính của Pháp chuyển di, chúng đồng nhất dù bản thân bạn đang tu tập trong đó hay dùng nói vào lúc thực sự chết.

 

3. Những bước của thiền định về sự chuyển di 

Hãy ngồi thoải mái trên một tấm nệm, chân bắt chéo trong tư thế kim cương, giữ cho lưng hoàn toàn thẳng.

 

3.1 CÁC SỰ CHUẨN BỊ 

Trước tiên, hãy hoàn tất việc xuyên suốt mọi sự chuẩn bị, rõ ràng và đi vào chi tiết, bắt đầu với Kêu gọi Vị Thầy từ Xa và tiếp tục cho tới lúc giải tan trong pháp Guru Yoga. 

3.2 SỰ QUÁN TƯỞNG CHÍNH 

Hãy quán tưởng thân bình thường của bạn,[318] trong chốc lát, trở thành thân tướng của một Vajra Yogini. Bà có màu đỏ, một mặt và hai tay, đang đứng với cả hai chân, bàn chân phải giở lên trong “tư thế đang bước.” Ba con mắt bà nhìn lên trời. Những giáo huấn này nhằm mục đích chuyển di nên hãy quán tưởng bà với một biểu lộ quyến rũ, an bình đồng thời hơi phẫn nộ. Với bàn tay phải trong không, bà khua lách cách cái trống - đầu lâu nhỏ đánh thức chúng sinh khỏi giấc ngủ vô minh và lầm lạc. Nơi cạnh bàn tay trái bà cầm một lưỡi dao cong cắt đứt tận gốc ba độc. Bà trần trụi ngoại trừ một vòng hoa và các vật trang sức bằng xương. Như một cái lều bằng lụa đỏ, bà xuất hiện nhưng không có chất thể hay thực tại. Tất cả những điều này là vật bao bọc trống rỗng bên ngoài của thân tướng.

Đi xuống giữa thân thẳng đứng của bạn, hãy quán tưởng kinh mạch trung ương, giống như một cây cột trong một ngôi nhà trống. Nó được gọi là kinh mạch “trung ương” bởi nó đứng ngay nơi trục của than, không nghiêng sang trái hay phải. Nó có bốn đặc tính. Nó màu xanh dương như một phim ảnh màu chàm, tượng trưng cho Pháp Thân bất biến. Kết cấu của nó thì tinh vi như một cánh hoa sen, tượng trưng cho tính chất mỏng manh của các màn ngăn che xuất hiện từ những khuynh hướng quen thuộc. Nó sáng như ngọn lửa của một cây đèn dầu mè, tượng trưng sự xua tan bóng tối vô minh. Và nó thẳng như một khúc tre, biểu thị rằng nó không bao giờ dẫn tới những con đường thấp và sai lạc. Đầu trên của nó mở thẳng ra lỗ mở Brahma trên đỉnh đầu, giống như một cửa sổ mở rộng trên mái nhà, tượng trưng rằng nó là con đường đưa tới giải thoát và những tái sinh cao hơn, trong khi đầu dưới đóng lại dưới rốn bốn ngón tay không có lỗ mở nào, tượng trưng rằng mọi lối vào luân hồi sinh tử và các cõi thấp đã được đóng kín. Tất cả những điều này là vật bao bọc trống rỗng bên trong của kinh mạch trung ương.

Bây giờ hãy quán tưởng một sự sưng phồng lên trong kinh mạch trung ương ở khoảng trái tim, giống như một cái mắt trong thân tre. Trên mắt này, hãy quán tưởng bindu của năng lực, màu xanh lá cây nhạt, sống động và mạnh mẽ. Ngay trên đó là tinh tuý của tâm bạn, chữ hrih màu đỏ, với dấu nguyên âm dài và hai chấm nhỏ thay thế cho visarga,* lay động và rung rinh như một lá cờ trong gió. Điều này tượng trưng cho tâm tỉnh giác của bạn.[319]

Trong không gian trên đầu bạn một cubit (khoảng 46cm), hãy quán tưởng một chiếc ngai báu, được tám con công trống nâng đỡ, trên đó là một hoa sen nhiều màu và đĩa mặt trời và mặt trăng, cái nọ trên cái kia, tạo thành một tấm nệm ba-lớp. An toạ trên tấm nệm là vị thầy gốc vinh quang của bạn, kho tàng bi mẫn không gì sánh, trong bản chất là hiện thân của tất cả chư Phật trong quá khứ, hiện tại và tương lại, và trong thân tướng của Đức Phật Thế Tôn và Đấng Bảo trợ Amitabha (A Di Đà). Ngài có sắc đỏ, giống như một trái núi bằng hồng ngọc được một ngàn mặt trời bao bọc. Ngài có một mặt, hai bàn tay nghỉ ngơi trong tư thế thiền định, cầm một bình bát chứa đầy chất cam lồ bất tử trí tuệ. Ngài mặt ba y tu viện, y phục của một nirmanakaya (Hoá Thân) siêu phàm[320] tuân giữ hành vi thanh tịnh. Thân Ngài mang ba mươi hai tướng chính và tám mươi tướng phụ, chẳng hạn như usnisa (đảnh) trên đỉnh đầu và các luân xa in dấu trên lòng bàn chân, và được bao phủ trong sự chói lọi rực rỡ từ đó vô số tia sáng chiếu rọi.

Bên phải Đức Amitabha là Đấng cao quý Avalokitesvara (Quán Tự Tại), hiện thân của lòng bi mẫn của tất cả chư Phật, sắc trắng, một mặt và bốn tay. Đôi bàn tay trên chắp lại nơi trái tim, lòng bàn tay úp vào nhau. Bàn tay phải bên dưới lần hột của một chuỗi pha lê trắng và bàn tay trái dưới đang cầm cọng sen trắng, bông hoa ở sát tai Ngài, tất cả các cánh đều mở lớn.

Bên trái Đức Amitabha là Vajrapani (Kim Cương Thủ), Chúa tể của những điều Bí mật, hiện thân của năng lực và sức mạnh của tất cả chư Phật. Ngài có sắc xanh dương, và trong hai bàn tay bắt chéo trước ngực, Ngài cầm một chày và chuông.

Cả hai vị Bổn Tôn này đều mang mười ba vật trang sức** sambhogakaya (Báo Thân). Đức Phật Amitabha ngồi, hai chân xếp chéo trong tư thế kim cương. Điều này tượng trưng cho việc Ngài luôn an trụ mà không rơi vào những cực đoan của cả sinh tử lẫn Niết Bàn. Hai vị Bồ Tát đang đứng, điều này tượng trưng việc các Ngài không bao giờ mệt mỏi khi làm việc vì lợi lạc của chúng sinh.

Xung quanh ba Bổn Tổn chính này, tất cả các bậc thầy dòng truyền thừa của con đường chuyển di sâu xa được hội tụ như một đám mây trong một bầu trời trong trẻo. Các Ngài hướng khuôn mặt tràn đầy lòng từ ái về phía bạn và tất cả chúng sinh khác. Các Ngài chăm chú nhìn bạn với đôi mắt ánh nụ cười, nghĩ tưởng về bạn với niềm hỉ lạc. Hãy nhớ tưởng tới các Ngài như những vị dẫn dắt vĩ đại giải thoát bạn và tất cả chúng sinh khỏi những nỗi khổ của sinh tử và các cõi thấp, đưa dẫn bạn tới cõi thuần tịnh của đại lạc. Hãy quán tưởng theo bản văn, bắt đầu từ: 

Thân bình thường318của con trở thành thân Đức Vajra Yogini.. 

xuống tới:

..Ba con mắt Bà nhìn lên bầu trời. 

Rồi từ:

Kinh mạch trung ương chạy giữa thân Bà.. 

Cho tới câu:

..Thân Bà toàn thiện bởi mọi tướng chính và phụ. 

Sau đó, với tất cả niềm tin và kỳ vọng, toàn thân bạn bừng bừng và nước mắt tuôn rơi, hãy lập lại càng nhiều lần càng tốt lời khẩn nguyện: 

Đức Thế Tôn, Như Lai, A La Hán, Đức Phật Toàn Giác, Đấng Bảo trợ Amitabha, con đảnh lễ trước Ngài. Con xin cúng dường Ngài. Con nương tựa nơi Ngài. 

Rồi hãy tụng đầy đủ bài cầu nguyện kế tiếp ba lần, bắt đầu từ: 

Emaho! Trong nơi chốn này, cõi Akanistha tuyệt đối xuất hiện tự nhiên. 

cho tới:

..Cầu mong con đoạt được pháo đài của Pháp giới Pháp thân! 

Kế đó hãy tụng lần phần cuối cùng, bắt đầu từ: 

Với lòng sùng mộ trong lòng con.. 

cuối cùng, tụng ba lần dòng duy nhất cuối cùng: 

Cầu mong con đoạt được pháo đài của Pháp giới Pháp Thân! 

Trong khi  bạn cầu nguyện, hãy chỉ chú tâm trên chữ hrih, biểu tượng của tâm tỉnh giác của bạn, với lòng sùng mộ đối với bậc thầy và đấng bảo trợ của bạn, Đức PHật Amitabha, tới nỗi đôi mắt bạn đẫm lệ.

Bây giờ tới nghi thức để phóng xuất tâm thức. Khi bạn tụng “Hrih, Hrih,” năm lần từ phía sau vòm miệng, chữ hrih màu đỏ, tượng trưng cho tâm tỉnh giác của bạn, được nâng lên bởi bindu của năng lực rung động, màu xanh lá cây nhạt,[321] nó nổi cao dần lên, luôn luôn rung động. Khi nó xuất hiện từ lỗ mở Brahma trên đỉnh đầu bạn, hãy kêu lớn “Hik!” và quán tưởng bindu phóng vút lên, giống như một mũi tên được một người thiện nghệ bắn đi, và tan hoà vào trái tim Đức Phật Amitabha.

Hãy thực hiện tiến tình bảy lần, hai mươi mốt lần hay nhiều hơn nữa, trong khi quán tưởng chữ hrih trong tim bạn và lập lại “Hik!” như trước đó. Trong các truyền thống khác, người ta nói “Hik!” khi tâm thức phóng lên và “Ka” khi nó quay trở xuống, nhưng trong truyền thống này chúng ta không nói “Ka” đối với lúc trở xuống.

Sau đó hãy thực hiện nghi thức như trước càng nhiều càng tốt phù hợp với bạn, bắt đầu với:

Đức Thế Tôn…Đấng Bảo trợ Amitabha.. 

trong khi tụng những lời cầu nguyện và thực hành kỹ thuật phóng xuất tâm thức và phần còn lại. Rồi một lần nữa, hãy tụng ba hay bảy lần từ  

Đức Thế Tôn…Đấng Bảo trợ Amitabha.. 

xuống tới:

 ..Con xin cúng dường lên Ngài. Con nương tựa nơi Ngài. 

Hãy theo nghi thức này với lời khẩn nguyện chuyển di cô đọng được gọi là Sự Cài vào Cọng-Cỏ, được vị khám phá kho tàng Nyi da Sangye[322] biên soạn và trao truyền qua dòng truyền thừa của Tu viện Dzogchen:

 Đức Phật Amitabha, con đảnh lễ trước Ngài;

Đức Padmasambhava xứ Oddiyana, con khẩn cầu Ngài;

Bậc thầy gốc từ bi, xin nắm giữ con với lòng bi mẫn của Ngài!

Những bậc thầy gốc và thuộc dòng truyền thừa, xin dẫn dắt con trên đường.

Xin ban phước cho con để con có thể quán triệt con đường chuyển di sâu xa.

Xin ban phước cho con để con đường chuyển di ngắn gọn này có thể đưa con tới cõi giới của sự phúc lạc.[323]

Xin ban phước cho con và những chúng sinh khác để ngay khi cuộc đời này chấm dứt,

Chúng con có thể được tái sinh trong Cõi Cực Lạc! 

Hãy tụng lời cầu nguyện này ba lần, và sau đó lập lại ba lần dòng cuối cùng.

Hãy tiếp tục thực hành kỹ thuật phóng xuất tâm thức càng lâu càng tốt phù hợp với bạn như trước đó. Rồi lại bắt đầu từ: 

Đức Thế Tôn, Như Lai.. 

và tụng lời cầu nguyện chuyển di theo Giáo lý Không gian, được truyền dạy qua dòng truyền thừa của tu viện Palyul:[324] 

Emaho! Đức Phật Amitabha, đấng Bảo trợ kỳ diệu nhất,

Đấng Bi mẫn vĩ đại và Đức Vajrapani đầy năng lực,

Với sự nhất tâm, con khẩn cầu các Ngài hãy vì con và những chúng sinh khác:

Xin hãy ban phước cho chúng con để chúng con có thể quán triệt con đường chuyển di sâu xa.

Xin ban phước cho chúng con để khi giờ chết tới,

Tâm thức chúng con có thể được chuyển di tới trạng thái đại lạc! 

Hãy tụng lời cầu nguyện này ba lần, lập lại hai dòng sau cùng thêm ba lần nữa. Rồi hãy thực hành kỹ thuật phóng xuất như trước đó.

Hai lời cầu nguyện sau cùng này không có trong những bản văn giáo huấn Tâm yếu của Pháp Giới Bao la và không do Rigdzin Jigme Lingpa truyền dạy, nhưng được truyền xuống từ Dzogchen Rinpoche qua tu việc Gochen, và qua các vị trung gian khác. Chúng tạo nên một phần của các sự truyền dạy được Ngài Kyabe Dodrup Chen Rinpoche thọ nhận, Ngài đã hợp nhất chúng thành một nguồn mạch duy nhất. Bản thân Ngài đã sử dụng chúng, như bổn sư tôn kính của tôi đã làm. Dodrup Chen Rinpoche cũng được kế thừa các giáo huấn về sự chuyển di được truyền xuống từ Ngài Gampopa thuộc dòng Kagyu. Bởi thế vài lời cầu nguyện của Gampopa được tìm thấy trong sách-cầu nguyện chuyển di do Ngài biên soạn, mặc dù những lời cầu nguyện đặc biệt này không phải là những gì bổn sư của tôi thường trì tụng. Trong bất kỳ trường hợp nào, tiến trình quán tưởng trong tất cả những truyền thống khác nhau này thì hoàn toàn giống nhau, vì thế không còn nghi ngờ gì là những dòng giáo huấn đã được hợp nhất để trở thành một con sông lớn. Vị Thầy tôn kính của tôi đã nhận lãnh chúng nhiều lần từ Kyabje Dodrup Chen Rinpoche. Tôi có cảm tưởng rằng tất cả những ai đã nhận các giáo huấn này từ Ngài cũng phải đồng thời từng nhận những giáo huấn về sự chuyển di của truyền thống Kagyu, và vì thế được cho phép trì tụng dòng truyền tương ứng và những lời cầu nguyện khác. Dù hai lời cầu nguyện trong tuyển tập của Dodrup Chen Rinpoche hay không chúng cũng chỉ khác biệt rất ít đối với những bản dịch khác và vì thế tôi ghi lại đúng những gì vị Thầy tôn kính của tôi đã giảng dạy.

Có lầnThầy tôi đang truyền dạy truyền thống chuyển di Giáo lý Không gian. Trong khi Ngài đang cử hành sự chuyển di cho một đám đông khổng lồ thì một vài người không nhận ra câu mà Nài thêm vào “..tất cả những điều này (di nam), khi thời điểm cái chết đến với họ;” vì thế bây giờ một vài người nói “..những nhận thức của cuộc đời này (dir nang)…,” và những người khác nói “..vì lý do đó (di ne)…” theo ý kiến của tôi cả hai sai không đáng kể.

Khi bạn hoàn tất thực hành nhiều lần và đến lúc kết thúc thời khoá, hãy niêm phong thực hành trong sự rộng mở của năm thân bằng cách tụng “P’et” năm lần. Sau đó an trú trong trạng thái thanh thản tự nhiên không tạo tác bất kỳ điều gì.

Tất cả những vị Thầy của dòng truyền trên đầu bạn tan hoà vào ba nhân vật chính; hai Bồ Tát tan hoà vào Phật A Di Đà (Amitabha – vô Lượng Quang), Đức Phật A Di Đà tan thành ánh sáng và sau đó đi vào bạn. Hãy quán tưởng chính bạn lập tức là vị Phật Bảo Hộ Amitayus (Vô Lượng Thọ) màu đỏ, với một mặt, hai bàn tay và hai chân. Ngài ngồi trong tư thế Vajra (Kim Cương), với ấn thiền định hai bàn tay Ngài cầm một bình sinh lực tràn đầy cam lồ trí tuệ bất tử và trên đỉnh là một cây ban-như ý, Ngài mang mười ba vật trang sức của Báo Thân.

Hãy tụng “Om Amarani Jivantiye Svaha” một trăm lần, sau đó là đà ra ni trường thọ và những thần chú khác. Điều này ngăn ngừa khoảng thời gian đời bạn bị ảnh hưởng bởi việc thực hàanh và - nhờ chân lý tương thuộc - tẩy trừ bất kỳ chướng ngai đe doạ nào.[325] Phần thực hành này không cần thiết khi bạn thực hiện sự chuyển di cho một người hấp hối hay người đã chết, và cũng không cần thiết khi bạn thực hành nó thực sự vào lúc bạn chết.

Những dấu hiệu thành tựu trong thực hành này được mô tả trong bản văn gốc như sau:

Sự nhức đầu, một giọt huyết thanh lóng lánh như sương xuất hiện;

Có thể nhét từ từ một cọng cỏ vào đỉnh đầu. 

Hãy thực hành siêng năng cho đến khi những dấu hiệu này xuất hiện.

Để kết thúc, hồi hướng công đức và niệm Bài Nguyện Được Tái Sinh Trong Cõi Cực Lạc và những bài nguyện khác.

Không giống như những thực hành khác của giai đoạn phát triển và toàn thiện, những giáo huấn này về con đường sâu xa của sự chuyển di không đòi hỏi thời gian tu tập lâu dài. Những dấu hiệu thành tựu nhất định sẽ xảy đến sau một tuần lễ. Đó là điều tại sao phương pháp này được gọi là “giáo lý đem lại Phật Quả không cần bất kỳ sự thiền định nào,” và đó là điều tại sao mọi người nên lấy con đường tắt không gì sánh được này làm thực hành hàng ngày của mình.

Không thể tự lo cho mình, đối với cái chết con lảm nhảm không mạch lạc.

Không thực hành, nhưng con trải rộng vòm giáo lý vô tận.

Xin ban phươc cho con và những kẻ lọc lừa như con

Để chúng con có thể thực hành với sự kiên trì.

 

 

KẾT LUẬN 

Những giáo huấn này gồm mười hai điểm chính, sáu điểm đầu tiên trong đó liên quan tới những chuẩn bị thông thường bên ngoài:

 

  1. Sử dụng đời người này cho điều thật sự quan trọng bằng cách quán chiếu về việc khó tìm được những sự tự do và thuận lợi.

  2. Tự thôi thúc mình phải tinh tấn bằng cách quán chiếu về lẽ vô thường của cuộc đời.

  3. Phát triển sự quyết tâm giải thoát và một thái độ về lòng bi mẫn nhờ việc nhận ra bản chất của toàn bộ luân hồi là đau khổ.

  4. Tử bỏ điều xấu và tuân thủ điều tốt lành trong bất kỳ những gì mình làm nhờ một sự hiểu biết rành mạch về những hậu quả mình làm nhờ một sự hiểu biết rành mạch về những hậu quả của các hành vi.

  5. Càng ngày càng thiết tha kết quả nhờ việc nhớ đến những lợi ích của sự giải thoát.

  6. Bằng cách đi theo một vị thầy tâm linh chân chính, tu tập bản thân để ganh đua với sự chứng ngộ và các hành vi của Ngài.

Năm điểm kế tiếp bao gồm những chuẩn bị phi thường bên trong: 

  1. Đặt nền tảng cho sự giải thoát bằng cách quy y Tam Bảo.

  2. Thiết lập một khuôn khổ cho vô số hoạt động của một Bồ Tát bằng cách khơi dậy Bồ Đề Tâm tuyệt đối.

  3. Sám hối những ác hạnh và các vi phạm, là gốc rễ của mọi điều bất thiện, nhờ bốn sức mạnh, sử dụng sự thiền định và trì tụng về Đức Vajrasattva.

  4. Tích tập công đức và trí tuệ là suối nguồn của mọi tiến bộ tâm linh, bằng cách cúng dường những cõi Tịnh Độ của ba Thân trong hình thức một mạn đà la.

  5. Tự khơi dậy trong bản thân trí tuệ tối thượng của sự chứng ngộ bằng cách cầu nguyện vị Thầy, suối nguồn của mọi ân phước.

Cuối cùng, trong trường hợp cái chết đột ngột xảy đến trước khi hoàn tất con đường, nhờ sự chuyển di tâm thức mà một nối kết được tạo ra với các cõi tịnh độ, sẽ đem lại Phật Quả mà không cần thiền định 

Những thực hành chuẩn bị này cũng có thể trình bày như sau. Nhờ bốn sự quán chiếu xoay chuyển tâm thoát khỏi luân hồi và nhờ sự hiểu biết về những lợi ích của sự giải thoát, bạn đánh thức một quyết tâm chân thành muốn được giải thoát, nó mở ra lối vào toàn bộ con đường. Nhờ việc đi theo vị Thầy tâm linh, suối nguồn của mọi phẩm tính tốt đẹp, bạn tạo ra những điều kiện thuận lợi cho con đường. Nhờ việc quy y là nền tảng, sự khơi dậy Bồ Đề Tâm và tu tập trong thực hành sáu sự hoàn thiện siêu việt (sáu ba la mật), bạn được dẫn dắt theo con đường chân chính của chư Phật Toàn Trí Toàn Giác.

Có những giáo huấn khác được biết tới bởi sự giải thích của chúng về ba loại tri giác,[326] ba cấp độ khả năng của chúng sanh, Đại Thủ Ấn theo truyền thống của các Kinh điển[327] và v.v…nhưng tất cả những điểm trọng yếu của các con đường tìm thấy trong cúng được hợp nhất ở đây trong tác phẩm này.

Tuy nhiên, sự tịnh hoá và tích luỹ sử dụng hai phương pháp tối cao, cụ thể là thực hành Vajrasattva (Kim Cương Tát Đỏa) và cúng dường Mạn đà la; Guru Yoga, con đường bí mật của sự ban phước sâu xa; và những giáo huấn về sự chuyển di đem lại Phật Quả không cần thiền định - tất cả những điều này là những giáo lý độc nhất vô nhị, đặc biệt là cách giảng giải thực hành này.

Sau những thực hành này, ta đi vào con đường chính yếu phi thường của giáo lý - cốt lõi kim cương của Tâm Yếu, bởi trong đó có những thực hành chuẩn bị đặc biệt dẫn đến ba Thân (kaya), đến tâm, và sự tỉnh giác. Sau đó, một khi ta được giới thiệu vào sự tuyệt đối qua sự quán đảnh sáng tạo của giác tánh,[328] đó là những giáo huấn không che đậy đặt nền tảng trên sự phát triển kinh nghiệm của riêng ta.*

Khi viết những giáo huấn này, tôi không được hướng dẫn một cách căn bản bởi những chú tâm tới khía cạnh mỹ học hay văn chương. Mục đích chính của tôi là chỉ ghi chép một cách trung thực những giáo huấn truyền khẩu của vị Thầy tôn kính của tôi theo một cách thức dễ hiểu và ích lợi cho tâm thức. Tôi đã làm tốt nhất trong khả năng của mình để không làm hư hỏng chúng bằng cách pha lẫn vào những ngôn từ và ý tưởng của riêng tôi.

Vào những dịp riêng biệt, Thầy tôi cũng thường ban nhiều giáo huấn đặc biệt để phơi bày những lỗi lầm che dấu, và tôi đã thêm vào bất kỳ những gì tôi nhớ được về những điều này trong những nơi chốn thích hợp nhất. Đừng nên lấy chúng như một của sổ qua đó xem xét lỗi lầm người khác, mà phải coi là một tấm gương để khảo sát chính bạn. Hãy xem xét kỹ lưỡng trong bản thân bạn để xem mình có hay không những lỗi lầm che dấu đó. Nếu có, hãy nhận ra và trục xuất chúng. Hãy chỉnh sửa tâm bạn và thanh thản đặt nó trên con đường đúng đắn. Như Ngài Atisa đã nói:

 Vị Thầy tâm linh tuyệt vời nhất là người tấn công vào những lỗi lầm che dấu của bạn.

Giáo huấn xuất sắc nhất là những giáo huấn đánh trúng những lỗi lầm đó.

Những người bạn tuyệt hảo nhất là sự chánh niệm và tỉnh giác.

Sự khích lệ tốt lành nhất là những kẻ thù, chướng ngại và những đau khổ của bệnh tật.

Phương pháp thiện xảo nhất là không tạo tác bất kỳ điều gì. 

Điều cực kỳ quan trọng là hãy làm cho giáo huấn tác động được tới những lỗi lầm che dấu của bạn, sử dụng Giáo Pháp để sửa chữa tâm bạn, luôn luôn duy trì sự chánh niệm và tỉnh giác, nhận vào mình toàn bộ trách nhiệm về bất kỳ điều gì xảy ra, không bao giờ buông lỏng thậm chí chỉ một tư tưởng bất thiện, và sử dụng Giáo Pháp để điều phục tâm bạn. Nếu bạn có thể làm tất cả những điều này, bạn sẽ ban cho chính bạn một đặc ân. Giáo Pháp sẽ lợi ích cho tâm bạn, và việc đi theo một vị Thầy sẽ bắt đầu có ý nghĩa thật sự. Ngài Atisa cũng nói: 

Cách tốt nhất bạn có thể giúp đỡ người khác là dẫn dắt để họ hiểu được Pháp.

Cách tốt nhất họ có thể nhận lãnh sự giúp đỡ đó là xoay chuyển tâm họ hướng về Pháp. 

Tóm lại, giờ đây bạn đã có được sự tự do và thuận lợi của đời người. Bạn đã gặp một vị Thầy chân chính và nhận được những giáo huấn sâu xa. Cơ hội đạt được Phật Quả bằng cách đưa chính thừa của giáo lý vào thực hành giờ đây là của bạn. Bây giờ là lúc bạn có thể tạo ra một chiến lược cho tất cả những đời tương lại của bạn - hoặc bây giờ là lúc bạn cóthể từ chối vận may của mình. Giờ đây là lúc bạn có thể xoay chuyển tâm bạn hướng về điều thiện - hoặc giờ đây là lúc bạn từ bỏ nó để đến với điều xấu. Chính giây phút này là bước ngoặt giữa hướng đúng và sai của toàn bộ cuộc đời bạn. Cơ hội này giống như việc tìm được cái để ăn khi bạn chỉ có một bữa trong một trăm bữa suốt cuộc đời bạn. Vì thế hãy tận dụng Giáo Pháp để giải thoát bản thân trong khi bạn còn có thể, hãy lấy cái chết như sự thôi thúc của bạn vào mọi lúc. Hãy cắt bớt những kế hoạch của bạn trong đời này, và cố gắng kiên nhẫn thực hành điều thiện và từ bỏ việc ác – cho dù phải trả giá bằng cuộc đời mình. Hãy đi theo một vị Thầy chân chính và chấp nhận không chút do dự bất cứ điều gì Ngài bảo ban bạn. Hãy dâng hiếng thân và tâm bạn cho Tam Bảo. Khi hạnh phúc xảy đến, hãy nhận ra nó là lòng bi mẫn của các Ngài. Khi đau khổ xảy ra, hãy nhận thức nó là kết quả của những hành vi trong quá khứ của chính bạn. Hãy chuyên tâm vào những thực hành của sự tích tập công đức và tịnh hoá với động cơ hoàn toàn thanh tịnh của Bồ Đề Tâm. Cuối cùng nhờ sự sùng kính thanh tịnh và samaya, hãy hợp nhất tâm bạn không thể tách biệt với tâm vị Thầy cao cả trong một dòng truyền chân chính. Hãy giành lấy thành lũy của sự tuyệt đối ngay trong đời này, can đảm nhận lãnh trách nhiệm giải thoát tất cả chúng sanh, là những bà mẹ già nua của chúng ta, khỏi ngục tối của luân hồi. Điều này bao gồm tất cả những giáo huấn cốt yếu nhất. 

Những giáo huấn cốt tủy từ dòng truyền ba nhánh trong dòng sông cam lồ,

Hương vị dịu ngọt từ đôi môi của vị Thầy thuộc dòng truyền chân chính này, 

Những điểm trọng yếu của sự thực hành chín thừa,

Tất cả được đúc kết ở đây, không lỗi lầm hay pha tạp.

 

Những lời tốt lành này thì giống như thực phẩm khéo-nấu,

Với mọi hí luận của những lời lẽ hoa mỹ đều được sàng lọc,

Được nêm bằng những điểm cốt yếu thơm ngon của thực hành sâu xa nhất

Trong nước cốt của những giáo huấn đặt nền trên kinh nghiệm.

 

Những lời tốt đẹp này giống như một nông dân thiện nghệ

Là người mà, hướng lưỡi cày của giáo lý, đào xới tất cả lỗi lầm che dấu,

Khắp mảnh đất hoang của bản tánh xấu xa mà tam độc mọc tràn lan,

Và khéo léo tưới rải chất nước Giáo Pháp chân chính.

 

Những lời tốt đẹp này giống như một vụ mùa bội thu.

Trong mảnh đất phì nhiêu của sự quyết tâm thoát khỏi luân hồi,

Hạt giống Bồ Đề Tâm được gieo trồng cẩn thận

Và được nuôi dưỡng bằng công đức và sự tịnh hoá, sinh ra trái quả của những thành tựu  tâm linh.

 

Những lời tốt đẹp này giống như một vú em tử tế.

Xem xét những lỗi lầm che dấu của lũ trẻ và nhổ bật gốc chúng,

Bà khéo léo thúc đẩy chúng tốt hơn một trăm lần,

Luôn quan tâm chỉ để giúp chúng trở nên toàn thiện.

 

Không chỉ là những ngôn từ; chúng cô một ý nghĩa đặc biệt sâu sắc;

Chúng còn nồng ấm hơi thở vị Thầy vô song của tôi.

Những người coi chúng như viên ngọc quý trong tâm họ

Chắc chắn nhận được chân lý, con đường thanh tịnh.

 

Những giáo lý tốt lành này là sự thiện xảo đặc biệt của chư Bồ Tát,

Một văn bản linh thánh được viết ra không cần sự tao nhã hay thi ca

Mà sử dụng ngôn ngữ thông thường để giảng dạy con đường chân chính,

Để những lợi ích và thực hành có thể thâm nhập tận đáy lòng.

 

Những bình giảng rộng rãi đầy ắp chi tiết

Không dễ thích hợp với không gian tù túng của những tâm thức hạn hẹp.

Những luận giảng cao xa về các quan điểm triết học và giáo thuyết thâm sâu

Khó đưa vào thực hành đối với những trí năng yếu đuối trong thời đại suy đồi của chúng ta.

Đây là điều tại sao bản văn này cô đọng và dễ hiểu,

Một thần được quý báu thấm nhập các khe hở nhỏ bé trong những tâm trí chật hẹp,

Một ngọn đèn soi sáng bóng tối của những kẻ có căn cơ thấp kém,

Như một thầy giáo điềm tĩnh, truyền đạt yếu nghĩa đúng đắn tự nó rõ ràng trong sáng.

 

Đối với nhà thông thái yếu thích luận thuyết dông dài,

Đối với vị Thầy vĩ đại không tìm được gì trong các bản văn và truyền thống khẩu truyền khi áp dụng cho chính mình,

Khi được thưởng thức những giáo huấn cam lồ cốt tuỷ tuyệt hảo này

Sẽ làm hồi sinh tây yếu của sự thực hành của họ, không còn nghi ngờ gì nữa

 

Đối với người ẩn tu thiền định mà không được hướng dẫn như thể ném đá vào bóng tối,

Đối với người lão luyện kiêu căng về mọi thực hành mà họ đã làm,

Đối với những nhà thành tựu hư giả chưa từng đương đầu với các giới hạn của mình,

Con đường này sẽ chữa lành tật bệnh trong tâm họ.

 

Bản văn này không phải là sự pha chế nào đó gồm những câu cú vẽ vời,

Một cầu vồng được tô vẽ khéo léo làm bằng những ngôn từ kỳ dị

Bởi một vài kẻ tinh thông uyên bác sáng tác nông cạn trong những bản văn phức tạp,

Chúng chẳng là gì cả đối với những lời từ ái của vị Thầy tôi.

 

Cuộc đời của vị Phật trong thực tế, vị Thầy vô song của tôi

Các huynh đệ kim cương của tôi vẫn còn có thể làm chứng về điều này,

Bởi thời đại tốt đẹp đó chưa phải là một quá khứ xa xăm,

Một thời đại may mắn cho Tây Tạng và cả thế giới –

 

Chính hoạt động của bậc tôn quý đó gây cảm hứng cho tôi,

Biên soạn một tuyển tập những lời chân xác của Ngài.

Vết tích này của lòng sùng kính và thiện ý của tôi,

Đáng được các huynh đệ và ngay cả chư Thiên đại hoan hỷ.

 

Những người may mắn sống trong những đời tương lai thì cũng thế:

Hãy cảm thấy lòng sùng kính tương tự khi bạn đọc bản văn này

Như bạn gặp được vị Thầy giác ngộ của tôi trong thân người,

Bởi tôi tin rằng nó chuyên chở trung thực tinh hoa những lời dạy của Ngài.

 

Bất kỳ công đức nào có được từ tác phẩm này

Tôi hồi hướng đến tất cả chúng sanh, những bà mẹ trong quá khứ của tôi,

Để họ có thể được một vị Thầy tâm linh hoàn thiện cứu giúp,

Hãy áp dụng những lời toàn hảo của Ngài vào thực hành, và hãy nhìn xem kết quả tuyệt hảo.

Đặc bịet là, cầu xin tất cả những người được nuôi dưỡng bằng cam lồ này,

Từ đôi môi vị Thầy vô song của tôi, vị Phật toàn giác,

Đều đạt được Phật Quả viên mãn;

Cầu mong tôi được nhìn thấy họ lên đường và dẫn dắt chúng sanh.

 

Cầu xin những người thừa kế tối thượng của vị Thầy từ ái nhất của tôi,

Những bậc đã uống say những lời cam lồ toàn thiện của Ngài

Và mê hoặc những người may mắn bằng bài ca say đắm trong các giáo huấn của Ngài.

Cầu mong gót sen của các Ngài an trụ bền vững trên toà kim cương.*

 

Từ nay trở đi, cầu xin trong mọi kiếp sống tương lai của con

Được là một người phục vụ cho vị Thầy toàn thiện của con và những ai đi theo Ngài;

Làm vui lòng họ nhờ đáp ứng bất kỳ những gì họ yêu cầu

Cầu xin cho con được dẫn dắt như đệ tử của Ngài.

 

Cho tới khi vòng luân hồi chấm dứt, đối với mỗi một chúng sanh,

Cầu mong con tích tập những thân thể, các vật sở hữu và công đức của con;

Cầu xin con phục vụ những bà mẹ già của con bị chìm đắm trong phiền não,

Và sau đó cầu xin tất cả họ cũng thực hành Giáo Pháp của Đức Phật Toàn Giác.

 

Trong lúc đó, cầu xin những sự ban phước của dòng truyền quý báu này

Ló rạng trong tâm họ như vầng dương xuất hiện toàn hảo.

Sau khi hiến dâng đời họ để thực hành nơi ẩn thất,

Cầu mong họ luôn được vị Thầy vô song giúp đỡ. 

Hướng dẫn tổng quát ngoài và trong này về Tâm Yếu Của Sự Rộng Mở Bao La thì trung thực với những lời của vị Thầy vô song của tôi. Nó xuất hiện do sự khẩn cầu bền bỉ của Dronma Tsering, một người bạn và là một đệ tử tinh tấn và nghiêm trì giới luật, người đã tặng cho công trình bảo quản của tôi một số ghi chú mà Ngài đã ghi lại mọi sự có thể nhớ được. Ngài năn nỉ tôi viết một giảng văn trên căn bản của những ghi cú này, ghi chép lại trung thực những giảng dạy của vị Thầy chúng tôi. Ngoài ra, Kunzang Thekchok Dorje, một  tulku quý báu và là người đại diện của vị Thầy tôn quý và là bậc nắm giữ giáo lý đem lại sự trưởng thành và làm giải thoát, sau đó đã lập lại hai ba lần lời yêu cầu tương tự - thậm chí còn cung cấp cho tôi nhiều tấm giấy để ghi chép.

Sau này lại tới phiên Ngài Kushab Rinpoche Changchub Dorje[329] - vị Vua Pháp của mọi giáo thuyết, bậc lỗi lạc nhất trong tất cả những trưởng tử tâm linh là những bậc nắm giữ dòng truyền thừa của truyền thống khẩu truyền của vị Thầy siêu phàm của tôi - khuyến khích tôi, nói rằng tôi phải dứt khoát viết ra những lời dạy của vị Thầy đáng kính của chúng tôi trong cách mà Ngài đã dạy họ, bởi điều đó sẽ giúp tất cả chúng tôi tưởng nhớ tới Ngài và làm sống lại lòng sùng kính của chúng tôi. Tôi cũng được khuyến khích và truyền cảm hứng bởi một số huynh đệ kim cương thân yêu, là những người thân quý như đôi mắt của tôi, và chắc chắn họ sẽ vận còn thân thiết với tôi như ngọn lửa và tim đèn, cho tới khi tất cả chúng tôi đạt được tâm yếu của sự giác ngộ.

 

Vì thế, đây là nguyên bản của tác phẩm này, được viết ra bởi một người mà Ngài Rigdzin Changchub Drje,[330] bậc là vương miện của hàng trăm vị thành tựu giả vô song, đã ban cho danh hiệu Orgyen Jigme Chokyi Wangpo – nhưng là kẻ mà phía sau sự trang điểm đẹp đẽ của một danh hiệu như vậy, thực ra chỉ là Abu Rách rưới,[331] cư xử thô lỗ và đang bị thiêu đốt bởi ngọn lửa của năm độc. 

Bản văn này được hoàn tất tại nơi ẩn tu, còn hẻo lánh hơn cả Rudam samten Choling* hẻo lánh mà nó trực thuộc, được gọi là Cung Điện Khủng Khiếp của Yamataka - một nơi được trang hoàng tráng lệ với tất cả những phẩm tính của sự cô tịch, ở đó những tàng cây tắm mình trong tinh chất ấm áp của ánh nắng mặt trời trong lúc bộ rễ của chúng hấp thu những giọt cam lồ mát lạnh; nơi mà những cây nho, những lùm cây, những bụi cây thấp, những cành lá, những hoa và trái đủ mọi loại trải dài trong sự sặc sỡ và những tràng hoa, chắt lọc chất cam lồ của nụ cười rạng rỡ của Con Gái Các Cung Trời Xanh Biếc** khi nó chảy xuống để hoàn toàn làm hài lòng trái tim. 

Nhờ công đức của sự hoàn thành tốt lành tác phẩm này, cầu mong tất cả chúng sanh vô tận đi theo con đường tối thượng này và hoàn toàn được giải thoát vào Pháp Giới nền tảng của Đức Phật nguyên sơ!

 

LỜI BẠT

Của jamgon Kongtrul Lodro Thaye[332]

 

Om Swasti Siddham

Kho tàng trí tuệ Phổ Hiền này, với sáu cách giải thoát,[333]

Được lộ bày bởi ấn Yoga Pháp Giới của Phạm vi Bao la.·

Lừng danh là Tâm yếu của Phạm vi Bao la, vinh quang với hai sự thành tựu

Những sự ban phước vĩ đại của nó có năng lực ban tặng mọi ước muốn.

 

Chỉ cần nghe giáo lý về những thực hành chuẩn bị được minh giải của nó

Là có đủ năng lực để thình lình chuyển hoá tâm thức các sinh linh.

Tuân theo sự truyền dạy truyền khẩu của Jigme Gyalwai Nyugu,

Về mọi điều mà Ngài Orgyen Chokyi Wangpo đã dạy, đây là điều cốt tuỷ.

 

Làm cho tặng phẩm Giáo Pháp này trở nên hữu hiệu, thoát khỏi mọi ý niệm về chủ thể, đối tượng và hành động,

Pema Lekdrup, bậc sở hữu cả niềm tin lẫn tài sản hoàn hảo,

Vị Thượng thư xứ Dergé cao quý cả tâm linh lẫn thế tục với bốn phần và mười đức hạnh của nó,

Qua tác phẩm này đã trút xuống một trận mưa Pháp vô tận.

 

Nhờ những công đức này, cầu mong giáo lý tịnh quang kim cương tột bậc này

Lan truyền và trải rộng khắp ba cõi và tồn tại lâu dài.

Cầu mong mọi chúng sinh có liên hệ với giáo lý này nhanh chóng vui hưởng vương quốc nguyên sơ vĩ đại

Và thành tựu tự nhiên hạnh phúc của chính họ và những người khác.

 

Trong việc hoàn thành bản sửa đầu tiên của bản văn này, lời bạt này được viết bởi Ngài Lodro Thaye, bậc có tri giác thanh tịnh về tất cả những Đạo sự mà không có chút thành kiến bộ phái nào.

Cầu mong đức hạnh được tăng trưởng!

 


 

[308] “Sự chuyển di siêu việt được thực hành bởi chư Bồ Tát, các Ngài thiền định chân lý của thực tại tuyệt đối (chos nyid kyi bden pa) trên Con đường của cái Thấy, là những bậc mà ngay trong đời này, phát sinh cái thấy bản tánh bất biến như nó là (gnas lugs) và hộ trì nó suốt ngày đêm không gián đoạn. Các Ngài thực hành chuyển di theo những giáo huấn cốt tuỷ về sự chuyển di từ thân này (grong ‘pho) sang thân khác (grong ‘jug) trong thực hành trekcho, hoặc bằng cách theo các giáo huấn ‘đi vào bên trong của thanh tịnh quang’ trong thực hành thogal.

“ Rồi có những người trì giữ samaya rất thanh tịnh, là những người đã là chủ sự tỉnh giác nhưng chỉ chế ngự các tri giác của họ vào ban ngày, và không thể kiểm soát chúng vào ban đêm. Khi họ chết và tiến trình tan rã cũng như các hiện tượng của sự trong sáng, tăng trưởng, và thành tựu xảy ra, thanh tịnh quang của thân tuyệt đối vào lúc chết xuất hiện. Đó là thnah tinh quang “mẹ”, khoảnh khắc (giây phút) của nền tảng. Họ được dẫn dắt bởi thanh tịnh quang “con”, là cái đã được kinh nghiệm trong đời này. Khi hai thanh tịnh quang gặp gỡ họ được giải thoát trong nền tảng nguyên sơ, sự thanh tịnh nguyên thuỷ.

“Có những người bắt đầu kinh nghiệm ‘sự phát triển các kinh nghiệm và những hình tướng’ trong thogal. Vào lúc chết, khi thanh tịnh quang của thời điểm chết xuất hiện, họ không nhận ra nó bởi họ không có sự chứng ngộ để nhận ra điều đó, và không thể giải thoát. Nhưng khi trạng thái trung gian (trung ấm) của Thực tại Tuyệt đối (chos nyid bar do) xuất hiện, họ nhận ra nó và an trú trong sự nhất như với nó và nhờ đó được giải thoát trong sự hiển lộ tự nhiên.

“Cả hai sự giải thoát siêu việt trong đời này và giải thoát trung bình trong cõi trung ấm được coi là sự chuyển di siêu việt qua dấu ấn của Pháp Thân (Cũng xem chú thích 314).

[309] “Sự chuyển di trung bình được thực hành bởi những người bắt đầu có trí tuệ của giai đoạn toàn thiện. Sau khi đạt được một trong bốn cấp độ trong sáng của con đường hợp nhất, họ phát sinh trí tuệ của con đường đó và có khả năng đi vào và lìa bỏ một huyễn thân. Hoặc họ được giới thiệu với sự hiển lộ toàn thiện của các Bổn Tôn và tự quen thuộc với sự biểu hiện này. Vào lúc chết, như trong lúc tan rã ở giai đoạn phát triển, họ hoà tan huyễn thân vào thanh tịnh quang. Nếu trong đời này họ đã từng phát triển thanh tịnh quang minh hoạ (dpe’I ‘od gsal), họ sẽ nhận ra thanh tịnh quang tuyệt đối trong trạng thái trung gian, và kết quả là họ sẽ biểu hiện như thân của Bổn Tôn, đại ấn của sự hợp nhất chưa từng siêu vượt sự học hỏi (slob pa’I zung ‘jug phyag rgya chenpo).” NT

zung ‘jug yeshes kyi sku (Phạn.  Yuganaddha-Jnanakaya), “thân trí tuệ hợp nhất”, là sự hợp nhất của sắc thân và Pháp thân, hay nói khác đi là sự bất khả phân của hiện tượng và tánh Không, hoặc của giai đoạn phát triển và toàn thiện. “Sự hợp nhất” (zung ‘jug) có nghĩa là sự nhận thức hai khía cạnh này của bản tánh thực tại không phải là hai điều tách biệt, giống như hai sừng của một con bò, nhưng hoàn toàn bất khả phân.

* Điều này có nghĩa là quay trở lại trước khi tâm thức nhập thai.

[310]  Sự chuyển di này được thực hành bởi những người mới bắt đầu trên con đường tích tập, là những người đã nhận quán đảnh, tôn trọng các samaya và có một sự thấu suốt về cái thấy, và những người sử dụng giai đoạn phát triển như con đường nhưng chưa thuần thục nó. Mặc dù họ không thể được giải thoát trong thanh tịnh quang của lúc chết hay trong trạng thái trung gian của thực tại tuyệt đối, nhưng họ có thể đóng lại con đường dẫn vào một tử cung không thuận lợi, và chọn một tái sanh thuận lợi. Nhờ lòng bi mẫn và Bồ Đề Tâm của họ, họ được đẩy tới một cõi Phật thanh tịnh, hay tái sanh như một hoá thân (Xem Thuật ngữ) vào các bậc cha mẹ đang thực hành Giáo Pháp. Họ sẽ được giải thoát trong đời kế tiếp.

[311] Sự chuyển di  thông thường được thực hành bởi những người sơ cơ chỉ có lòng sùng mộ Giáo Pháp và không có dấu hiệu thành công trên con đường để tiên đoán sự giải thoát của họ.

[312] Lúc hơi thở đã ngưng nhưng trái tim vẫn chưa ngừng đập

[313] Đây là trường hợp nếu ta không có năng lực trí tuệ cần thiết. Một cách giải thích khác là đây không phải là cách thích hợp để trợ giúp cho người chết.

** sprul sku, nghĩa đen: Hoá thân. Một Lạt ma hoá thân. Những lạt ma như thế thường được coi như hiện thân của một Đại Bồ Tát. Tuy nhiên, có nhiều ảnh hưởng xã hội trong việc tuyển chọn một tulku, và có nhiều trường hợp mà tính xác thực của sự tuyển chọn thì đáng nghi ngờ.

· Đó là công đức của cuộc hành hương của ngài.

[314] Mkha’ spyod gnas su khrid par byed. Điều này không nên được hiểu một cách quá duy vật. “Trong thực tế, không có điều gì và không ai dẫn dắt hay được dẫn dắt. Nó chỉ đơn giản là sự gặp gỡ của ánh sáng ‘mẹ’ và ‘con’.” Dilgo Khyentse Rinpoche. Thanh tịnh quang ‘mẹ’ là bản tánh nền tảng của chúng ta và an trụ trong mọi chúng sanh, mà vị Thầy đã giới thiệu cho chúng ta. Thanh tịnh quang ‘con’ là sự tương tục của việc nhận ra bản tánh đó mà chúng ta đã nuôi dưỡng trong sự thực hành của mình. (Cũng xem chú thích 308)

* Lỗ mở Brahma (xem thuật ngữ)

* Sự nối kết chúng ta với các cõi thuần tịnh nhờ sự chuyển di tâm thức bằng các hoà lẫn với vị thầy.

· Theo Kim Cương thừa, thân thể được coi như một mạn đà la linh thánh của các bổn tôn. Trong ý nghĩa này, làm ngắn lại mạng sống của ta bằng cách tiến hành sớm sự chuyển di sẽ phá huỷ mạn đà la đó. 

[315] Những thành phần của thân thể có thể được tập hợp lại thành bốn (đôi khi là năm) yếu tố bên trong (kham): 1) thịt, 2) máu, 3) nhiệt, 4) hơi thở hay năng lực (rlung), (và trong một số luận thư y khoa, dù không có ở đây là 5) các xoang). Những yếu tố này tương ứng với bốn (hay năm) yếu tố bên ngoài là 1) đất, 2) nước, 3) lửa, 4) gió hay khí (cũng là rlung), (và trong nhiều trường hợp 5. không). Cả hai yếu tố bên ngoài và bên trong được hiểu rõ nhất là những thuộc tính hay trạng thái – tính chất vững chắc, trạng thái lỏng, nhiệt độ, sự chuyển động và khả năng - của cả hai thế giới bên ngoài và những thành phần của thân thể. Những kinh nghiệm được mô tả xảy ra như những thuộc tính đó trong vai trò đặc biệt của chúng như các thành phần cấu thành một cơ thể sống bị hư hoại, và hoà nhập hay “phân rã” trở về phạm vi rộng lớn, phổ biến hơn của chúng.

[316] “Vào thời điểm của sự trong sáng, ý thức của năm cánh cửa (của các giá quan) (sgo lnga’I shes pa) tan hoà trong tâm thức (yid shes). Vào lúc tăng trưởng, tâm thức tan hoà trong tâm của các cảm xúc (nyon yid). Vào lúc thành tựu, tâm của các cảm xúc tan hoà vào nền tảng của mọi sự (kun gzhi). Khi ta phục hồi được ý thức (thời điểm được gọi là cận kề sự thành tựu) nền tảng của mọi sự tan hoà vào thanh tịnh quang.” Những Chú Thích về Những Lời Vàng của Vị Thầy của tôi. Vào lúc này có một kinh nghiệm trực tiếp của thanh tịnh quang nền tảng. Với những người đã được đưa vào bản tánh của nền tảng đó là như là Pháp thân và từng củng cố nhận thức đó, thì lúc này là một cơ hội cho sự giải thoát tức thời, sự gặp gỡ của thanh tịnh quang mẹ và con. Đối với phần lớn mọi người, nó vụt qua không thể nhận ra, nhanh như một ánh chớp.

[317] Họ không có sự kiên cố không thể lay chuyển trong thực hành và sự xác tín bất thối chuyển trong cái thấy chân chính cần thiết để thực hành những loại chuyển di đã mô tả ở trên.

[318] Ở đây, đối với “thân bình thường”, thay vì thuật ngữ tha mal lus thường được sử dụng trong những giáo huấn về sự quán tưởng, bản văn dùng thuật ngữ gzhi lus, nghĩa đen là thân “căn bản” hay “nền tảng.” Trong những thuật ngữ thực hành, ý nghĩa cũng tương tự - thân bình thường của ta – nhưng nó hàm ý là thân bình thường của chúng ta thì cũng huyễn hoá. Nó là bar do’I sgyu lus, “thân huyễn hoá của trạng thái trung gian,” nền tảng hay căn bản của mọi sự huyễn hoá mà chúng ta đang kinh nghiệm trong cuộc đời hiện tại này – mà không ít hơn trạng thái trung gian của sự trở thành (srid pa’I bar do), nó cũng là một trạng thái trung gian (skye gnas bar do). Pema Wangyal Rinpoche. Xem Thuật ngữ ‘trạng thái trung gian.’

* Một dấu hiệu Phạn ngữ được phát âm như một âm “h” nặng. Trong cách dùng của tiếng Tây Tạng nó chỉ kéo dài âm tiết, và được viết là hai vòng tròn nhỏ cái này trên cái kia, tượng trưng trí tuệ và phương tiện.

[319] Ở đây thuật ngữ này có thể được hiểu đơn giản là tâm thức của ta. Zenkar Rinpoche

[320] Ở đây thành ngữ này có nghĩa là một vị Phật.

** Xem Phần Hai, Chương Ba, Mục III

318 Ở đây, đối với “thân bình thường”, thay vì thuật ngữ tha mal lus thường được sử dụng trong những giáo huấn về sự quán tưởng, bản văn dùng thuật ngữ gzhi lus, nghĩa đen là thân “căn bản” hay “nền tảng.” Trong những thuật ngữ thực hành, ý nghĩa cũng tương tự - thân bình thường của ta – nhưng nó hàm ý là thân bình thường của chúng ta thì cũng huyễn hoá. Nó là bar do’I sgyu lus, “thân huyễn hoá của trạng thái trung gian,” nền tảng hay căn bản của mọi sự huyễn hoá mà chúng ta đang kinh nghiệm trong cuộc đời hiện tại này – mà không ít hơn trạng thái trung gian của sự trở thành (srid pa’I bar do), nó cũng là một trạng thái trung gian (skye gnas bar do). Pema Wangyal Rinpoche. Xem Thuật ngữ ‘trạng thái trung gian.’ 

[321] “Người ta muốn nói gì qua từ năng lực (rlung được tượng trưng bởi bindu xanh lục) và tâm (sems được tượng trưng bởi chủng tử tự hrih)? Khía cạnh chuyển động là năng lực và khía cạnh thấu biết là tâm, nhưng tự bản chất thì chúng là một và đồng nhất. Những Chú Thích về Những Lời Vàng của Vị Thầy của tôi.

[322] Một vị khám phá những kho tàng tâm linh ở thế kỷ thứ 14.

[323] Mkha spyod: nói chung, là một cõi trời. Ở đây một cõi trời “vĩ đại” (mkha spyod chen po) được ám chỉ như thế có nghĩa là một loại cõi Phật, được hiển lộ vì lợi ích của chúng sanh. Một cõi trời “nhỏ” (mkha spyod chung ngu) có thể ám chỉ bất kỳ cõi trời nào. (Cũng xem chú thích 314).

[324] Gnam chos. Namcho hay Giáo lý Không gian là một tuyển tập giáo lý mười ba cuốn được thọ nhận trong các thị kiến bởi vị khám-phá-kho-tàng và sáng tác nhiều Mingyur Dorje sinh năm 1645 và tịch năm 1668 lúc hai mươi ba tuổi. Dòng Namcho là một trong những truyền thống thực hành chính của các tu viện Nyingma thuộc phái Palyul và Kathok ở miền Đông Tây Tạng.

[325]. Những chướng ngại như thế phát sinh chủ yếu do kỹ thuật sai lạc khi tụng “Hik” trong thực hành này. Hik là một âm thanh làm rút ngắn thọ mạng. Khi sử dụng nó, ta phải kéo hơi xuống dưới rốn, kéo dài khí của phần trên cơ thể và nhướng mắt thật mạnh mẽ nhìn vào không gian. Nếu các chướng ngại xuất hiệ, hãy nén khí ở trên xuống, xả khí ở dưới và trải rộng khí tại rốn, thực hiện sự trì tụng kim cương ba âm (om ah hum, phối hợp với sự hít vào, nín hơi, và thở ra), tập trung tâm bạn vào lòng bàn chân và mắt nhìn xuống dưới. Các chướng ngại sẽ biến mất. Những Chú Thích về Những Lời Vàng của Vị Thầy của tôi.

[326] Những thực hành chuẩn bị cho thực hành “Con đường và Quả” (lam ‘bras) của truyền thống Sakya được đặt nền trên ba loại tri giác (snang ba gsum): tri giác bất tịnh (ma dag pa’I snang ba), tri giác hỗn hợp được các yogi kinh nghiệm qua sự thực hành (mal ‘byor nyams kyi snang ba), và tri giác thanh tịnh (dag pa’I snang ba)

[327] Như trong “Sự Tương Tục Siêu phàm” (rgyud bla ma, Phạn ngữ: Uttaratantrasastra) và những bản văn khác.  Zenkar Rinpoche

[328] Tây Tạng: rig pa rtsal gyi dbang bskur.

* Đoạn này ám chỉ các thực hành đặc biệt là Đại Viên Mãn.

* Một biểu lộ thi vị thường được dùng để cầu chúc các vị thầy tâm linh được trường thọ và dồi dào sức khoẻ.

[329] Kushab Gemang, Gyalse Shenpen Thaye hay Gyalse Rigpa’I Dorje (sinh năm 1800), một trong những vị nắm giữ dòng truyền chính yếu của Tâm-Yếu Của Phạm vi Bao La.

[330] Changchub Dorje (1745-1821), cũng được biết là Jigme Trinle Ozer, là vị Dodrupchen Rinpoche đệ nhất, một trong những đệ tử chính của Jigme Lingpa, và ban phước cho Patrul Rinpoche khi còn bé.

[331]Orgyen Jigme Chokyi Wangpo là tên riêng của Ngài Patrul Rinpoche. Lời tự khẩn nguyện trong đoạn này thuộc về truyền thống. Tuy nhiên nó có một sức mạnh đặc biệt phát xuất từ Ngài Patrul Rinpoche, là bậc đã để lộ sự khiêm tốn tương tự trong cách sống của Ngài.

* Tu viên Dzogchen

** Mặt trời. Cách hành văn trau chuốt ở đây được mượn từ truyền thống thi ca Ấn Độ, dùng để làm lời cuốn sách theo truyền thống.

[332] Jamgon Kongtrul Vĩ Đại (Xem Thuật ngữ) là một vị cùng thời với Ngài Patrul Rinpoche và Jamyang Khyentse Wangpo; cả ba vị đều biết nhau rất rõ, cùng học vào lúc thiếu thời tại tu viện Shechen ở tỉnh Kham. Ngài là một người sáng tác, biên soạn và biên tập nhiều tác phẩm, và viết thêm nhiều lời bạt này sau khi sửa những lỗi theo đúng nguyên văn trong nguyên báo của Patrul Rinpoche, khi nó đang được chuẩn bị in bản khắc gỗ tại nhà in lớn ở Derge.

[333] Sáu cách giải thoát (grol ba drug) là bằng: sự thấy, nghe, nhớ lại, xúc chạm, nếm và mặc trang phục.

· Klong chen nam mkha’I rnal ‘byor, tức Jigme Lingpa

 

 

----o0o---

 

Mục Lục > 1-1 > 1-2 > 1-3 > 1-4> 1-5 >1-6

 2-1 > 2-2 > 2-3 > 2-4 > 2-5 > 2-6 > 3-1

 

----o0o---

Vi tính: Tường Tâm

Trình bày: Diệu Tường

Cập nhật: 01-2008

Nguồn: www.quangduc.com

Về danh mục

ï¾ å dam tang am em vẫn đến và đi пѕѓ Tâm chuyển thì cảnh chuyển đừng vội vàng so sánh người khác đau lưng sóc Gió có dặt dìu lời thủ thỉ 1 mot coi di ve trinh cong son cứ truyện lục tổ huệ năng phần 1 sử viet văn 2010 Minh Hiếu Tông Vị hoàng đế nổi danh Khánh Hòa Lễ húy nhật Tổ khai sơn chùa dem nhac ve chon binh yen cua ca sy quach tan bui sứ 2016 GiẠnghiep 泰卦 加持 Năm mới cÃn cứu gioi thieu ve niem tin trong phat hoc trò phần vo thuong Tiếng chuông khuya bình an duc phat day ve nhan qua dep tín tin tuc phat giao công đức nghe pháp dối Giç đồng Bà Phật giáo Củ cải kho tương ăn cơm ngon Quan rộng mở từ ái quan điểm của tôi bang Thử Mộng pháp åº Phật Tức 佛教中华文化 Tây Ngày Tết Tri vi niềm giau บทสวดพาห งมหากา Món chay mùa Vu lan GiÃi thời pháp thuyết giảng cho một cụ già Nhật kí mùa chia tay 不空羂索心咒梵文 Ăn một lượng nhỏ sô cô la mỗi ngày