Dưỡng Sinh & Tự Chữa Bệnh Bằng Ngủ Tâm Trạm Trang Công
Lương
Y VÕ HÀ
Ngủ Tâm Trạm Trang Công là một phương pháp khí công
đứng tùng tĩnh
bao gồm một số động tác đơn
giản, dễ thực hành, phối hợp giữa thổ
nạp khí và quán tưởng ngủ tâm tương ứng. Ngoài khử trược lưu
thanh và tăng cường
nội khí phương pháp nầy đặc biệt có tác dụng làm
êm dịu thần kinh và giải trừ tác
động của Stress trên
cơ thể.
Thông qua tứ chi, vận
động cơ bắp trong công việc
hàng ngày ngoài việc mang lại hiệu quả
trong lao động sản
xuất phục vụ con người còn có ý nghĩa
kiện thân phòng bệnh rất quan trọng.
Đó là
thúc đẩy khí huyết
lưu thông. Y học cổ truyền cho rằng tứ chi và việc lưu
thông khí huyết có liên quan chặt chẻ với nhau và do tạng Tỳ chi
phối. Nội kinh ghi "Tỳ chủ tứ chi và cơ nhục" và "Tỳ thống
huyết". Ngoài ra, bàn tay bàn chân còn là nơi tụ hội của 12 kinh
chính Thủ Tam Âm, Thủ Tam Dương và Túc Tam Âm, Túc Tam Dương. Do
đó về mặt khí công chữa
bệnh nếu ta có thể làm cho khí huyết thông
đạt ra tứ chi cũng đồng
nghĩa với làm cho khí huyết
đi khắp kinh lạc và
vận hành khắp cơ thể.
Đối với y học châm cứu
huyệt Lao cung thường được tác động để thanhTâm hoả, trừ thấp
nhiệt trong các chứng bứt rứt phiền muộn, viêm nhiệt thuộc Tâm, Vị;
Huyệt Dũng tuyền thường
được tác động để bổ âm, giáng hư hoả,
định thần
chí.
Tập trung tư tưởng (tức tâm nhãn hay tâm ý)
đồng thời vào
hai huyệt Lao cung (hai lòng bàn tay) và hai huyệt Dũng tuyền (hai lòng
bàn chân) được gọi là
ngủ tâm tương ứng nhằm
đạt được những hiệu quả trên.
Trên thực tế công phu tập trung tư tưởng
đồng thời vào
các huyệt Lao cung và Dũng tuyền có thể
điều hoà
thần kinh, giúp nội khí vận hành ra tay chân, thúc
đẩy khí huyết lưu thông ra
ngoại biên. Tác dụng nầy tăng
cường vệ khí và cải thiện tuần hoàn huyết
trong nhiều bệnh về tim mạch, phong thấp, thấp khớp …đặc
biệt là các chứng mất ngủ, rối loạn thần
kinh giao cảm, cao huyết áp và những trường hợp
đau nhức, tê
mõi thuộc tay chân, bàn tay, bàn chân. Mặt khác trong tĩnh công dưỡng
sinh cũng như trong
động công võ thuật, bên cạnh những
đại huyệt trên
hai mạch Nhâm Đốc, lòng
bàn tay lòng bàn chân cũng là những vị trí rất quan trọng có tác dụng
thu, phát và giao hoà giữa nội khí và Thiên,
Địa khí của vũ trụ bên
ngoài. Do đó điểm
tập trung quán tưởng trong công pháp nầy đặc biệt phát triển hiệu quả
của những huyệt Lao cung và Dũng tuyền
để tăng cường nội
khí cũng như xã bỏ trược khí cho nhu cầu
dưỡng sinh chữa bệnh
ĐỊNH VỊ HAI HUYỆT LAO CUNG VÀ
DŨNG TUYỀN:
Lao cung nằm trên lòng bàn tay ở vị trí giao
điểm giữa đường tâm đạo và
đường thẳng dọc khe
giữa hai ngón áp út và ngón giữa (H.1).
Dũng tuyền ở chỗ lõm dưới lòng bàn chân tại
điểm nối 2/5 trước và
3/5 sau của đoạn
thẳng nối từ đầu ngón chân thứ hai đến bờ sau của gót chân (H.2).
DỰ BỊ THỨC:
Đứng tự nhiên, hai
chân dang rộng bằng vai.Bụng hơi thót lại. Lưng thẳng. Vai hơi thu vào.
Hai cánh tay
thả tự nhiên dọc hai bên thân, buông lõng
cánh tay và khuỷu tay. Hai mắt hơi nhắm.
Miệng khép hờ.
Đầu lưỡi chạm nhẹ nướu
răng trên
ĐAN ĐIỀN TAM HƯ TỨC (ba lần hà
hơi từ Đan điền):
Sau khi đứng tự nhiên, buông bỏ mọi tạp
niệm, nhẩm đọc ý
nghỉ yên tỉnh, buông lõng vài
lần. Hít vào, hơi phình bụng ra. Trong khi hít vào nghỉ rằng một
luồng "thiên khí" từ bên ngoài thông qua
đỉnh đầu chảy vào
cơ thể, tràn ngập vùng bụng dưới. Có thể áp hai bàn tay vào vùng dưới
rốn để gia tăng tác
dụng ám thị và dễ có cảm giác tụ khí tại
đây.
Thở ra từ từ hóp sát bụng vào. Thở ra từ
từ, chậm, nhẹ đều,
trong khi thở ra nghỉ rằng tất cả ưu tư, căng thẳng và
khí bệnh đang theo
hơi thở thoát hết ra khỏi cơ thể. Lập lại động tác nầy ba lần. Cách thở
nầy giúp xoa bóp nội tạng, thúc đẩy chức năng hấp thu, tiêu
hoá, phát sinh nội khí ở
Đan điền và
đưa cơ thể tiến vào
trạng thái khí công.
Đặc biệt thì
thở ra chậm và dài có công năng
làm êm dịu thần kinh và hoá giải Stress.
ĐAN ĐIỀN TAM KHAI HỢP (ba lần đóng mở tại Đan điền) :
Hai tay đưa lên ngang nhau phía trước bụng,
hai bàn tay đối
nhau. Thở ra trong khi từ từ kéo hai
bàn tay lại gần nhau cho
đến khi cách nhau khoảng
20cm (H.3). Hít vào trong khi từ từ
đẩy hai bàn
tay ra xa đến vừa
khỏi hai bên thân, hai bàn tay vẫn ngang
nhau và đối nhau.
Lập lại động tác hít thở cùng với kéo vào
đẩy ra giữa hai bàn
tay 3 lần. Trong khi hít thở hãy tập trung "lắng nghe" cảm giác tê, nặng
hoặc ấm nóng ở các ngón tay hoặc lực hút nhau giữa hai lòng bàn tay.
Đó chính là
biểu hiện của khí, thường
được gọi là
khí cảm. Sau 3 lần thở ra hít vào,
đưa hai tay trở về vị thế
ban đầu dọc hai bên thân. Thở tự nhiên.
Đan điền tam khai
hợp có thể kích hoạt khí ở Đan điền vận hành,
tăng cường lưu thông
khí huyết giúp phát huy tác dụng của ngủ
tâm tương ứng ở phần sau.
NGỦ TÂM TƯƠNG ỨNG :
Đứng
tùng tỉnh tự nhiên như ở tư thế dự bị. Hai
bàn tay tựa nhẹ vào hai bên hông, bàn tay hơi chếch về phía trước, các
ngón tay hơi chút xuống. Thở tự nhiên. Dùng ý quán tưởng hai huyệt
Lao cung ở lòng bàn tay thông xuống hai huyệt Dũng tuyền ở hai lòng bàn
chân (H.4). Huyệt Lao cung bên phải thông với Dũng
tuyền bên phải. Huyệt Lao cung bên trái thông với huyệt Dũng tuyền bên
trái. Mỗi lần thực hành từ 15 phút trở lên.
THU CÔNG : Khởi ý niệm thu công. Giữ nguyên thế
đứng buông lõng
tự nhiên. Hai bàn tay thu lại
để ngữa trước bụng dưới,
các ngón tay đối nhau, cách nhau khoảng 3cm. Từ từ nâng hai bàn
tay lên, hít vào. Khi lên
đến gần ngang vai thì
lật hai bàn tay úp lại và từ từ
đưa hai bàn
tay xuống dần đến
quá rốn, thở ra đồng thời quán khí toàn
thân trở về Đan điền
(H.5). Làm liên tiếp 3 lần.
LƯU Ý :
Một số người chưa quen ngồi thiền, không quen
"thủ ý" có thể cảm thấy khó khăn
khi quán ngủ tâm tương ứng
vì ở công pháp nầy có vẽ như có
đến 4 điểm cần thủ
ý. Vì có
đến 4 điểm nên
phương pháp nầy thiên về quán tưởng hơn là thủ ý. Quán tưởng cần
liên tục để
bài trừ tạp niệm nhưng không quá
tập trung để
tinh thần được thoải mái.
Quán tưởng một bông hoa
đẹp, một đồng cỏ
xanh, một bãi biển nhấp nhô sóng
nướccũng là một
đặc điểm của Trạm
trang công. Ở đây là quán cảnh 2
luồng khí từ hai huyệt Lao cung thông xuống hai huyệt Dũng
tuyền. Trường hợp nầy người tập có thể làm quen với một bên
trước. Khi đã
quen với mỗi bên sẽ quán tưởng cùng lúc cả hai bên.
Hai cương lĩnh quan trọng của công pháp nầy
là tùng tĩnh và ngủ tâm tương ứng. Do
đó có thể thay tư
thế đứng bằng tư thế ngồi trên ghế,
hai chân chạm
đất miễn sao bảo
đảm được yêu cầu buông lõng, thu
vai, lưng thẳng, bụng hơi thót lại (H.6). Cũng vì lẽ nầy người
tập có thể tự
điều chỉnh vị thế
của bàn tay. Nếu ở tư thế
đứng cùi
tay có thể tựa thành ghế (H.7), nếu ngồi cùi tay có thể chạm
đầu gối hoặc
tựa vàohai bên
đùi;
bàn tay có thể xê dịch qua lại, lên xuống hoặc hơi nghiêng sao
cho bảo đảm
được yêu cầu buông lõng phần vai và
cánh tay lại có thể dễ dàng quán sát luồng khí từ Lao cung
xuống Dũng tuyền. Không nên chọn tư thế nằm vì ở tư thế nầy
tâm nhãn và tứ tâm còn lại cùng nằm trên một mặt
phẳng ngang nên có thể xảy ra khuynh hướng "nhìn" từ Dũng tuyền
lên Lao cung thay vì phải ngược lại nhìn từ Lao cung xuống
Dũng tuyền.
Điều nầy có thể dẫn
đến khí nghịch, không có lợi
cho người có huyết áp cao.
Khi luyện tập có hiệu quả, trước hết người
tập sẽ cảm nhận
được hai luồng khí
từ Lao cung chạy xuống Dũng tuyền. Sau một lúc, có thể là
5 phút, 10 phút hay hơn nữa tuỳ công lực của mỗi người, luồng
khí sẽ chuyển ngược lại từ Dũng tuyền lên Lao cung mặc dù người
tập vẫn chỉ tập trung quán chiếu từ Lao cung xuống Dũng tuyền.
Đây không
phải là khí nghịch mà là một hiệu
ứng tự nhiên theo quy luật cực Dương sinh Âm và
cực Âm sinh Dương. Lao cung là Hoả huyệt của
đường kinh Tâm bào.
Dũng tuyền là Tĩnh huyệt của
đương kinh Thận.
Việc thăng giáng qua lại giữa Lao cung và
Dũng tuyền tạo ra hiệu quả thăng
giáng giao hoà tương ứng giữa Tâm
và Thận cũng như giữa
Đan điền và
Đãn
trung tức hiện tượng Thuỷ Hoả ký tế mà các
đạo gia và
y gia thời cổ
đã
miêu tả ở một cơ thể khoẻ mạnh. Mặt khác do tính chỉnh thể
của hoạt
động khí hoá, khí đi xuống từ huyệt Lao cung cũng có tác dụng
giáng khí và thu Thiên khí từ Bách
hội. Ngược lại
đến giai đoạn sinh
Âm khi khí Âm từ huyệt Dũng tuyền thăng lên
sẽ tác động
làm cho
Địa khí thăng lên
từ hai huyệt Trường cường và Hội âm. Do
đó công phu
ngủ tâm tương ứng cũng tác
động vào
cả hai mạch Nhâm và
Đốc để tăng cường
chân khí, tăng cường sức đề kháng và
cải thiện toàn bộ công năng
của các tạng phủ./.
Nguồn: www.quangduc.com
Về danh mục