Mục lục
Chương 1: HÀNH TRẠNG
1. Sự đắc pháp
2. Ngày cuối cùng
3. Cơ hóa độ
Chương 2: TƯ TƯỞNG
1. Tư tưởng căn bản
2. Tư tưởng đặc thù
3. An lạc hạnh
Chương 3: TỔNG KẾT
Tổng Kết

 

cx
NGÀI HUỆ NĂNG
Thích Trí Quang
CHƯƠNG I
HÀNH TRẠNG

1
SỰ ĐẮC PHÁP

Nói đến sự đắc pháp của Ngài Huệ Năng, không chi bằng trích dịch nguyên văn kinh Pháp bảo đàn. Nguyên văn ấy, quý ở chỗ chính là lời Ngài Huệ Năng đã tự thuật, trong đó bộc lộ được hết bản sắc của Ngài. Xin nhấn mạnh điều đó, vì cái bản sắc hoàn toàn của Ngài Huệ Năng thật đã được thể hiện trong những lời Ngài tự thuật sau đây, tại giảng đường chùa Đại Phạn, Thiều Châu:

- Các vị Thiện tri thức! Tự tánh bồ đề bản lai thanh tịnh, vận dụng tâm ấy tức nhiên thành Phật.

- Các vị Thiện tri thức! Xin nghe hành trạng và cái ý sự đắc pháp của tôi. Thân phụ tôi nguyên quán ở Phạm Dương, sau thiên qua Lãnh Nam, làm kẻ thường dân của Tân Châu. Tôi sinh ra đã bất hạnh, cha lại mất sớm, còn một mẹ già dời qua Nam Hải, khốn khổ nghèo nàn, nên tôi làm nghề bán củi  chợ. Một hôm, có một người mua củi, bảo tôi gánh đến nhà, khách lấy củi, tôi được tiền rồi, bước ra cửa thì nghe một người tụng kinh. Vừa nghe lời kinh, tâm tôi đã khai ngộ, nên hỏi người ấy tụng kinh gì? Người ấy cho biết tụng kinh Kim Cang. Tôi lại hỏi Ngài ở đâu và ai dạy tụng Kinh ấy ? Người ấy trả lời: Tôi ở chùa Đông Thuyền, huyện Hoàng Mai, thuộc xứ Kỳ Châu. Chùa ấy do tổ sư thứ năm là Ngài Hoằng Nhẫn làm chủ giáo hóa cho môn nhân trên ngàn người. Tôi bái thọ Kinh này ở đấy. Tổ sư khuyên tại gia cũng như xuất gia, chỉ thọ trì kinh Kim Cang là kiến tánh thành Phật.

Tôi nghe những lời ấy cảm biết mình có túc duyên, lại nhờ có một người cho mười lạng bạc, khiến tôi sắp đặt cho mẹ già mà tìm đến yết kiến Tổ sư. Tôi sắp đặt cho mẹ già rồi, tức thì từ biệt. Không quá một tháng, tôi đã đến Hoàng Mai, đãnh lễ Tổ sư. Tổ sư hỏi: Ngươi ở đâu? Đến đây muốn gì? Tôi thưa: Con là kẻ thường dân ở Lãnh Nam, từ xa đến đây đãnh lễ Ngài, lòng chỉ cầu làm Phật mà không muốn một điều gì khác. Tổ sư dạy: Ngươi là người Lãnh Nam, lại là kẻ quê mùa, thì làm sao mà làm Phật được? Tôi bạch: Con người có nam có bắc, nhưng Phật tánh vốn không bắc không nam; cái thân quê mùa, không giống với thân của Tổ sư, nhưng Phật tánh thì có gì khác biệt ?

Tổ sư còn muốn nói với tôi nữa, nhưng thấy đồ chúng đứng cả hai bên, nên bảo tôi hãy theo chúng mà làm việc. Tôi thưa: Huệ Năng con xin kính bạch Tổ sư, tự tâm con thường sanh trí tuệ, không rời tự tánh ấy tức là công đức, vậy Ngài dạy con làm những việc gì ? Tổ sư dạy rằng: kẻ quê mùa này thật là lợi căn, thôi, ngươi đừng nói nữa, hãy xuống nhà dưới mà làm việc. Tôi vâng lời xuống nhà dưới, có một vị hành giả bảo tôi bửa củi và giã gạo. Hơn tám tháng, một hôm Tổ sư bỗng xuống gặp tôi, bảo rằng: Ta biết kiến địa của con có thể dùng được, nhưng sợ có kẻ ác tâm hại con, con hay chăng? Tôi bạch rằng: Con cũng biết ý của Tổ sư nên không dám đi qua trước thuyền đường, sợ mọi người hay biết.

Một ngày nọ, Tổ sư kêu hết thảy môn đồ lại, bảo rằng: Người đời sinh tử là đại sự, các người suốt ngày cầu phước mà không cầu thoát ly sanh tử, các người đâu biết tự tánh nếu mê thì phước nào cứu được ! Vậy các ngươi hãy đi ra, y theo tánh bát nhã của tự tâm mà làm mỗi người một bài kệ cho tôi xem. Ai ngộ được thì tôi sẽ phú y pháp cho, làm vị tổ sư thứ sáu. Ra ngay và làm nhanh lên, không được suy tưởng, suy tưởng tức không trúng. Người kiến tánh thì nói ra là kiến tánh tức thì. Người như thế thì cho dẫu lúc ở trong chiến trận cũng vẫn kiến tánh.

Mọi người nghe Tổ sư dạy như thế, phụng mạng mà ra, nhưng lại bảo nhau: Chúng ta miễn làm kệ; thượng tọa Thần Tú hiện làm giáo thọ cho chúng ta, thế nào người cũng được Tổ sư phú y pháp, sau này chúng ta chỉ nương dựa nơi người là được. Phần thượng tọa Thần Tú thì người nghĩ rằng mọi người không trình kệ là vì họ nghĩ có ta là vị giáo thọ của họ, nên ta phải làm kệ trình lên Tổ sư. Ta không trình kệ thì Tổ sư làm sao biết kiến giải của ta sâu hay cạn. Ý ta trình kệ là để cầu pháp, chứ trình kệ để được làm tổ sư thì có khác chi đem tâm niệm phàm phu chiếm đoạt địa vị bực thánh. Nhưng không trình kệ thì không thể đắc pháp. Thiệt là khó nghĩ.

Trước thuyền đường của Tổ sư có dãy nhà ba gian. Tổ sư ý muốn nhờ quan Cung phụng là Lô Trân vẽ những bức họa theo kinh Lăng Già và những đồ biểu về hệ thống đắc pháp của năm vị Tổ sư để lưu truyền cúng dường. Thượng tọa Thần Tú làm kệ xong rồi, mấy phen muốn đem trình Tổ sư, nhưng mỗi lần đi đến dãy nhà ấy thì trong lòng lại hồi hộp, toát mồ hôi khắp mình, nên trình không được. Qua 4 ngày và 13 lần như vậy mà việc trình kệ vẫn không xong. Thượng tọa Thần Tú bèn suy nghĩ: Hãy viết lên vách nhà ấy cũng được. Rồi Tổ sư thấy, nếu Ngài bảo được thì ta ra đãnh lễ và bạch Ngài kệ ấy ta làm, còn nếu Tổ sư bảo không được thì ta phải tự thấy uổng phí bao năm ở đây mà chưa thấy đạo. Nghĩ vậy rồi, canh ba đêm ấy, Thượng tọa Thần Tú không cho ai hay, tự cầm đèn viết bài kệ của mình đã làm lên vách chái phía nam. Bài kệ ấy như sau:
Thân thị Bồ Đề thọ,
Tâm như minh cảnh đài
Thời thời cần phất thức
Vật sử nhá trần ai.

(Thân là cây bồ đề
Tâm như đài gương sáng
thường hãy siêng lau chùi
Chớ để bụi dơ bám).

(Theo bản dịch Kinh Pháp Bảo Đàn, do Trí Hải dịch)

Viết xong, Thượng tọa về phòng, không ai hay biết. Thượng tọa lại nghĩ: Như Tổ sư thấy bài kệ ấy mà hoan hỷ thì ta có nhân duyên đắc pháp, còn nếu Ngài bảo không được htì ấy là tự ta mê muội, nghiệp cũ sâu dày, nên không đáng đắc pháp. Suy nghĩ như vậy cho đến canh năm, nằm ngồi không yên.

Phần Tổ sư, từ lâu đã biết Thượng tọa Thần Tú chưa kiến tánh được. Sáng ngày hôm ấy, Ngài cho mời ông Lô Trân đến để nhờ vẽ lên vách những bức họa đã định, bỗng thấy bài kệ, Ngài liền bảo: Quan Cung phụng, thôi, đừng vẽ nữa, thật là phiền cho ông từ xa đến đây. Nhưng trong kinh có dạy: phàm các hình tướng đều là hư vọng. Vậy chỉ nên giữ bài kệ này lại cho mọi người thọ trì. Y theo bài kệ này mà tu thì khỏi sa vào ác đạo. Y theo bài kệ này mà làm thì được đại lợi ích. Nói rồi, Ngài lại dạy đồ chúng hãy thắp hương mà kính lễ và trì tụng bài kệ ấy, ai cũng khen là rất quí báu. Canh ba, Tổ sư gọi Thượng tọa Thần Tú vào thuyền đường, hỏi: Bài kệ ấy ông làm đó chưa kiến tánh; ông mới đến cửa ngoài, chưa vào cửa trong. Đem kiến giải ấy tìm Vô thượng bồ đề thì thật chưa được. Vô thượng bồ đề là ngay nơi một lời nói thấy được bản tâm, kiến được bản tánh, bất sanh bất diệt; bất cứ lúc nào, niệm niệm tự thấy; vạn pháp viên dung, một chân tất cả đều chân. Vạn pháp tự như như, tâm như như là chân thật; kiến giải như vậy là thấy được tự tánh của Vô thượng bồ đề. Ông hãy ra suy nghĩ trong một vài ngày, làm một bài kệ nữa đem vào cho tôi, tôi xem nếu ông nhập môn được thì sẽ phú y pháp cho ông.

Thượng tọa Thần Tú đãnh lễ và lui ra. Qua mấy ngày làm kệ cũng không thành, trong tâm hồi hộp, tư tưởng bất an như người ở trong mộng, đi đứng không vui.

Hai ngày sau, một đạo đồng ngang qua chỗ giả gạo, xướng tụng bài kệ của Thượng tọa Thần Tú. Tôi mới nghe, biết liền bài kệ ấy chưa kiến tánh. Tuy tôi chưa được mong ơn Tổ sư chỉ dạy, nhưng đã biết ý chỉ của Ngài. Tôi hỏi đạo đồng: tụng bài kệ gì đó ? Đạo đồng bảo: Cái anh quê mùa này, anh không biết Tổ sư có dạy người đời sanh tử là đại sự, muốn truyền phú y pháp nên Tổ sư bảo đồ chúng mỗi người làm một bài kệ để Tổ sư xem, nếu ai ngộ được tâm tánh thì Ngài phú y pháp cho để làm vị Tổ sư thứ sáu. Thượng tọa Thần Tú viết lên vách chái nhà phía nam, bài kệ “vô tướng” mà Thượng tọa đã làm nên Tổ sư dạy mọi người phải tụng bài kệ ấy mà tu thì khỏi đạo ác đạo, y theo bài kệ ấy mà làm thì được đại lợi ích. Tôi thưa đạo đồng: Thưa thượng nhân, tôi đạp chày giả gạo đã hơn 8 tháng nay, chưa bao giờ dám đến trước thuyền đường, xin thượng nhân dẫn tôi đến trước bài kệ để được lễ bái. Đạo đồng dẫn tôi đến, lạy xong, tôi nói: Huệ Năng tôi không biết chữ, xin thượng nhân đọc cho. Bấy giờ đứng ở đấy có quan biệt giá Giang Châu, họ Trương, tên Nhật Dụng, liền cao tiếng đọc lên. Tôi nghe rồi, thưa rằng tôi cũng có một bài kệ, kính nhờ quan Biệt giá viết giúp. Quan Biệt giá kinh ngạc: Anh mà cũng biết làm kệ sao, thật là việc hiếm có! Tôi thưa rằng: Muốn học đạo Vô thượng bồ đề thì chớ khinh kẻ sơ học; người thấp nhất có thể có tài trí cao nhất, còn người cao nhất cũng có thể không có trí tuệ gì cả! Quan Biệt giá nói: Anh hãy đọc bài kệ lên, tôi viết cho anh; nếu anh đắc pháp thì trước hết phải độ cho tôi, xin đừng quên lời. Tôi bèn đọc rằng:

Bồ đề bản vô thọ
Minh cảnh diệc phi đài
Bản lai vô nhất vật
Hà sứ nhá trần ai.

(Bồ đề vốn không cây
Gương sáng cũng không đài
Xưa nay không một vật
Thì bụi bám vào đâu).

(Theo bản dịch Kinh Pháp Bảo Đàn, do Trí Hải dịch)

Bài kệ viết xong, mọi người đều kinh ngạc, bảo nhau: Kỳ thay, chúng ta không nên lấy hình dạng mà coi người; chúng ta đâu được phép sai khiến mãi vị Bồ Tát xác phàm này! Tổ sư nghe thấy mọi người kinh quái như vậy, sợ có kẻ ác tâm làm hại, nên ra lấy giày chà bài kệ đi mà bảo rằng: Bài này cũng chưa phải kiến tánh. Mọi người đều cho là phải.
Hôm sau, Tổ sư kín đáo đi xuống nhà dưới, thấy tôi nai lưng giả gạo, bảo rằng: Người cầu đạo phải như vậy đó. Lại hỏi gạo đã trắng chưa? Tôi bạch rằng gạo trắng đã lâu rồi, chỉ thiếu cái sàng nữa mà thôi. Tổ sư bèn lấy gậy gỏ nơi cối 3 lần rồi bỏ đi lên. Tôi hội ý, canh ba đêm ấy vào thuyền thất của Tổ sư. Tổ sư bèn lấy ca sa choàng lên mình tôi, không cho ai thấy, rồi giảng cho tôi nghe bản kinh Kim Cang. Khi Tổ sư giảng đến câu: “ưng vô sở trú nhi sanh kỳ tâm” ngay nơi câu ấy, tôi tức thì đại ngộ hết thảy vạn pháp không rời tự tánh, bèn bạch với Tổ sư: Đâu có dè tự tánh vốn tự thanh tịnh, vốn bất sanh bất diệt, vốn tự viên mãn, vốn bất động chuyển, vốn sanh vạn pháp! Tổ sư biết tôi đã ngộ bản tánh, bèn dạy rằng: Không biết tự tâm thì học đạo vô ích; nếu biết tự tâm, thấy tự tánh, thì đấy chính là kẻ đại trượng phu!

Thế là canh ba đắc pháp, không một ai hay. Tổ sư truyền thọ đốn giáo và y bát cho tôi và dạy rằng: Ông là vị Tổ sư thứ sáu, hãy khéo tự hộ niệm, quảng độ chúng sanh, lưu truyền đạo pháp cho tương lai, đừng để bồ đề tuyệt chủng. Hãy nghe bài kệ của ta đây:

Hữu tình lai hạ chủng,
Nhơn địa quả hườn sanh,
Vô tình diệc vô chủng,
Vô tánh diệc vô sanh.

(Hữu tình được gieo giống,
Nhơn gieo quả ắt sanh,
Vô tình thì vô chủng,
Vô tánh cũng vô sanh).

(Theo bản dịch trong Kinh Pháp Bảo Đàn–Thích Duy Lực)

Tổ sư lại dạy rằng: Xưa kia, khi Đạt Ma Tổ sư đến quốc độ này thì mọi người chưa ai tin, nên truyền ca sa để làm tín thể, đời đời tiếp thọ. Nhưng đạo pháp là lấy tâm truyền tâm làm cho tự ngộ tự biết. Từ xưa, chư Phật duy truyền bản thể, chư Tổ mật phú bản tâm, còn ca sa là cái gốc của sự tranh chấp, vậy đến ông là đình chỉ. Nếu ông truyền phú ca sa ấy nữa thì tánh mạng ông chỉ như sợi tơ. Ông nên đi khỏi chỗ này cho mau, không thì có kẻ làm hại. Tôi thưa: Con nên đi về xứ nào? Tổ sư dạy: “Phùng Hoài tắc chỉ, ngộ Hội tắc tàng” (Gặp đất Hoài thì dừng, gặp đất Hội thì ẩn). Canh ba đêm ấy, lãnh y bát xong, Tổ sư đưa đến bến Cửu Giang, bảo tôi lên thuyền, tôi liền cầm lấy chèo; Tổ sư bảo: Để Ta độ ông qua sông. Tôi bạch: Khi con mê thì Tổ sư độ con, nay con ngộ rồi thì con phải tự độ; cái tiếng hóa độ tuy một mà cách dùng thì khác nhau. Huệ Năng con sanh ra ở chỗ biên địa, đến nỗi tiếng nói cũng không đúng; nay mong ơn Tổ sư phú pháp khiến con được liễu ngộ rồi, thì con phải tự tánh tự độ. Tổ sư dạy rằng: Phải, phải! Sau này đạo pháp do ông mà đại thạnh hành đó. Ông hãy đi đi. Gắng đi cho mau về hướng Nam. Nhưng đừng nói ra sớm quá kẻo cái nạn của đạo pháp nổi lên.

Tôi lạy từ Tổ sư rồi, đi về phía Nam, hai tháng thì đến núi Đại dũ. Còn Tổ sư trở về, đến mấy ngày không ra giảng đường, đồ chúng nghi ngờ, mới vào bạch hỏi: Ngài đau yếu ra sao? Tổ sư trả lời: Ta không đau ốm gì, nhưng y pháp của ta đã đi về phía Nam rồi. Đồ chúng hỏi: Ai là người được Ngài truyền thọ cho, Ngài dạy: Huệ Năng, con người ấy được đó! Bấy giờ đồ chúng mới hay sự đắc pháp của tôi, và những kẻ muốn chiếm đoạt y bát đuổi theo vài trăm người, chạy trước những người này là một thầy họ Trần, tên Huệ Minh, vốn là tứ phẩm tướng quân nên tánh hạnh hung hăng, quyết ý tầm nã tôi. Khi Huệ Minh đuổi kịp, tôi liền để y bát xuống, ẩn mình trong đám cỏ rậm. Huệ Minh đến, cố sức xách lên mà y bát vẫn không lay động, mới gọi to lên rằng: Hành giả, Hành giả, tôi đến đây là vì đạo pháp chứ không vì y bát. Tôi liền bước ra ngồi trên phiến đá, Huệ Minh đãnh lễ và bạch rằng: Xin Hành giả thuyết pháp cho tôi. Tôi bảo: Nếu ông vì đạo pháp mà đến đây, thì hãy lắng lòng mình xuống, đừng mống lên một ý niệm gì khác, tôi sẽ nói cho. Qua một lát, tôi nói: Không nghĩ thiện, không nghĩ ác, chính trong lúc đó cái gì là bản lai diện mục của Thượng Tọa Huệ Minh vậy? Ngay dưới câu hỏi ấy Huệ Minh đại ngộ. Lại hỏi ngoài ra lại còn có mật ý gì nữa; nếu ông tự phản chiếu thì mật ý chính ở nơi ông. Huệ Minh thưa rằng: Minh này tuy ở Hoàng Mai mà thật chưa biết diện mục của mình, bây giờ được Ngài chỉ thị thật như kẻ uống nước, nóng hay lạnh tự mình biết lấy, nên Hành giả chính là đức thầy của Huệ Minh vậy. Tôi nói: Nếu ông được như vậy thì chính là cùng tôi tôn thờ Tổ sư Hoàng Mai đó; ông hãy khéo tự hộ trì. Huệ Minh lại hỏi tôi từ nay về sau ông nên đi về đâu, tôi bảo: “Phùng Viên tắc chỉ, ngộ Minh tắc cư”(Gặp Viên thì dừng, gặp Minh thì ở), Huệ Minh liền lạy từ. Về đến chân núi, Huệ Minh gọi tất cả những người đuổi theo lại, bảo rằng đã đến chỗ cao ghềnh kia rồi mà không thấy một dấu vết gì, thôi, hãy tìm qua một đường khác. Những người ấy cho là phải. Sau này Huệ Minh đổi tên mình là Đạo Minh, ý muốn tránh chữ thứ nhất của Thầy.

 Phần tôi, đi đến Tào Khê lại bị kẻ ác tâm tìm nã nữa, nên lánh sang ở với nhóm người đi săn ở đất Tứ Hội trong 15 năm. Trong thì gian ấy thỉnh thoảng tùy tiện thuyết pháp cho những người đi săn và được họ hay bảo tôi giữ lưới nên thấy con vật nào mắc vào thì thả hết. Ăn thì tôi kiếm rau bỏ vào một nồi mà nấu kẻo họ nghi, và nếu bị hỏi thì tôi nói: chỉ xin ăn rau bên thịt mà thôi.

 Một ngày nọ tôi nghĩ đã đến lúc ra hoằng dương đạo pháp, không nên lánh mình mãi ở đây, nên đi đến chùa Pháp Tánh ở Quảng Châu, nhằm lúc Ấn Tôn pháp sư đang giảng kinh Niết Bàn. Bấy giờ nhân có 2 vị xuất gia thảo luận với nhau về sự lay động của cái phan, một người nói gió động, một người nói phan động, thảo luận không ngừng, tôi mới bước tới, nói không phải gió động, cũng không phải phan động mà do các Nhân giả tâm động. Ai nghe cũng kinh ngạc. Ngài Ấn Tôn liền mời tôi ngồi chỗ trên hết và cật vấn áo nghĩa. Thấy tôi nói năng giản dị, nghĩa lý xác đáng mà không cần văn tự, Ngài Ấn Tôn nói: Hành giả nhất định không phải là kẻ tầm thường; từ lâu tôi nghe y pháp của Tổ sư Hòang Mai đã đi qua phía Nam, có phải Hành giả là người được truyền thọ chăng? Tôi nói không dám. Ngài Ấn Tôn liền làm lễ và bảo tôi đưa y bát đã được truyền thọ ra cho đại chúng chiêm bái. Ngài Ấn Tôn lại hỏi: Khi Tổ sư Hoàng Mai phú chúc cho Ngài thì chỉ thị những gì? Tôi đáp: Ngài không chỉ thị gì cả; Ngài nói kiến tánh mà không nói đến cái tên thuyền định và cái tên giải thoát. Ngài Ấn Tôn hỏi tại sao không nói đến thuyền định và giải thoát? Tôi đáp: Vì đây là những pháp “hai” mà Phật pháp là “không phải hai”. Ngài Ấn Tôn lại hỏi: Phật pháp không phải hai là thế nào? Tôi đáp: Như Phật tánh được Phật thuyết minh trong kinh Niết Bàn mà Ngài đang giảng, là pháp không phải hai. Thí dụ khi Ngài Cao Quý Đức Vương Bồ Tát hỏi Phật: Những kẻ cực ác đoạn các thiện căn mà có đoạn được Phật tánh không? Phật dạy: Thiện căn có hai, có thứ thường, có thứ vô thường; nhưng Phật tánh không phải thường, không phải vô thường, thế nên không thể đoạn được: đấy là cái nghĩa không phải hai. Lại như thiện và bất thiện là hai, mà Phật tánh không phải thiện và bất thiện nên gọi không phải hai. Uẩn với giới cũng vậy, kẻ phàm phu thấy ra hai cả, còn trí giả thể nghiệm thì là bất nhị: Tánh bất nhị ấy là Phật tánh.

Ngài Ấn Tôn nghe xong, hoan hỷ chấp tay mà nói: Tôi giảng như ngói gạch, còn Nhân giả nói thật vàng ròng. Thế rồi làm lễ thế phát cho tôi, nguyện thờ tôi làm thầy. Bây giờ, sau bao nhiêu gian khổ, tánh mạng như sợi tơ treo, tôi mới ở dưới cây Bồ đề của chùa Pháp Tánh  khai thị “pháp môn Đông Sơn”, tức đạo pháp mà Tổ sư Hòang Mai đã truyền thọ.
 
 
 

 
c

Nguồn: www.quangduc.com

Về danh mục

Nhà Cơm gạo lứt trộn nấm Đặt gánh nặng xuống Người mang nhóm máu nào có nguy cơ tim cái vỏ ốc Hoi tức Những bữa cơm muộn ç¾ vi tẠn ấm gia テス tinh thần tuệ giác văn thù phần 2 chùa hoằng pháp tp hồ chí minh phat nhìn lại về ý niệm vô thường nhân Đà Nẵng Tưởng niệm húy nhật cố cấu ånh bình Thêm nhiều công dụng của thiền được Tượng đài Thái hậu Ỷ Lan Tôn vinh tp vẻ đẹp huy hoàng và tráng lệ của cố thừa Do 隨佛祖 To co Ngủ ít làm tăng nguy cơ bệnh tim chương viii thời kỳ đầu của phật Vipassana phát già Sinh tố bơ Ä Æ Vì sao nên ăn rau cải xoăn Tin Huyền Quang Đệ tam Tổ và những câu chúng Trường ç Š bản x chăm sóc người bệnh có phước báu gì lơi PhÃp bắt cõi 5 tan o thai lan hỡi Thủy sám