2
TƯ TƯỞNG
ĐẶC THÙ
1. Thuyền
Ngài Huệ
Năng là vị Tổ Sư thứ năm của Thuyền Tôn Trung Hoa, như
vậy một trong những tư tưởng đặc thù của Ngài mà ta phải
nói trước hết, là Thuyền.
Thuyền
là gì? Nguyên trong toàn bộ Phật giáo, Thuyền là một hệ
thống phương pháp có tính cách thực tiễn từ đầu chí cuối,
nhắm mục đích làm cho “tâm nhất cảnh tánh”, nghĩa đơn
giản là chuyên nhất cho đến đồng nhất với đối tượng
mà trí mình quán sát. Trong những bước đầu tiên, và chỉ
những bước ấy mà thôi, Thuyền nhu cầu những điều kiện
cần thiết sau đây: ở một nơi thích hợp, điều hòa sự
ăn uống và cơ thể, quyết tâm và kiên nhẫn. Tổng hợp toàn
bộ của Phật giáo về Thuyền, ta có thể thấy những mục
phiêu đã tạo thành những đặc chất rõ rệt như sau: điều
hòa cơ thể và tâm lý thành một trạng thái không loạn động
một cách thụ động như sổ tức quán chẳng hạn; hướng
tâm lý tập thành và phát triển trong những đức lý như từ
bi quán chẳng hạn; hướng tâm trí về sự thật để chuyển
nếp sống phù hợp sự thật ấy như nhân duyên quán chẳng
hạn; cứu xét căn nguyên của các pháp mà thực chất chỉ
là các ý niệm biểu hiện, để thể nghiệm bản chất đồng
nhất và chân thật, như tứ như thật trí sắp lên–mục
phiêu này đã phá vớ lãnh vực của bản ngã; sau hết, thấu
hiểu được đặc tính và sự liên hệ của từng pháp một
và hoạt dụng được nó như pháp giới quán chẳng hạn. Điều
cần chú ý hơn nữa, là Thuyền, tức định, không phải tách
biệt và có trước hay sau huệ. Định và huệ vốn là 2 tâm
sở được áp dụng với một đối tượng: sự chuyên nhất
vào đối tượng ấy là định, sự quán sát đối tượng
ấy là huệ. Chỉ trong mục phiêu cơ bản của những bước
đầu tiên, mới thấy sự chuyên nhất phải đi trước mà
thôi. Thuyền, như vậy, có phải là một chương trình bắt
buộc không? Không. Bởi lẽ hoặc do một trình độ đặc biệt,
hoặc do người hướng dẫn đặc biệt, tuy trường hợp này
rất hiếm, mà Thuyền bước vào được ở đâu tốt ở đó.
Duy những kẻ thậm chí 4 thánh chủng–biết vừa đủ trong
sự ăn, mặc và ở, ham thích như một nhu cầu về sự làm
điều thiện–là điều kiện cơ bản mà cũng chưa có như
chúng ta, thì những mục phiêu của Thuyền phải thành một
chương trình mà không nên có cái cuồng vọng vượt bực.
Nói
đại lược về Thuyền rồi, bây giờ ta nói đến Thuyền
của Thuyền tôn. Thuyền ấy quả đã đến một cấp bực
không thấy. Ta có thể đặt vị trí mà không thấy nghi ngờ
mấy, khi nói Thuyền của Thuyền tôn là “tứ như thật trí”
sắp lên. Chính bởi lẽ đó, Thuyền ấy đi hẳn vào cương
vị “thuận theo tánh không loạn động của chân như”, và
những kẻ trình độ chưa thấu hay thiếu người dẫn đạo,
đều bị cái bệnh “cuồng thuyền” cả. Một điều nên
chú ý là vị tất những người được Thuyền của Thuyền
tôn đã qua hết thập-hồi- hướng và sắp hết da-hạnh-vị
để đương nổi Thuyền của tứ như thật trí sắp lên; mà
vì phước duyên thâm hậu, vì gặp được người dẫn đạo
mà Ngài Huệ Năng mệnh danh là đại thiện tri thức, thì muôn
một cũng có người có thể “nhất niệm tương ưng” hoát
nhiên khai ngộ, rồi khéo tự hộ niệm nên “niệm niệm tương
ưng”, thì trường hợp này chính là đa số các vị đắc
pháp trong Thuyền tôn, kiến tánh thành tổ sư đó. Nhưng “nhất
niệm tương ưng” thì đồng, mà chính vì “niệm niệm tương
ưng” bởi công phu “khéo tự hộ niệm”, nên sâu cạn không
phải không cách nhau cả trời vực.
Bây
giờ ta hãy lắng nghe Ngài Huệ Năng dạy về Thuyền của Thuyền
tôn. Trước hết, đây là danh hiệu của Thuyền, những danh
hiệu phù hợp với khế kinh: “Bát nhã tam muội là ly niệm.
Ly niệm là gì? là minh kiến tất cả pháp, tâm không nhiễm
trước”. “Các vị Thiện tri thức! Nhất hạnh tam muội
là nơi tất cả chỗ, không kể đi đứng nằm ngồi, thường
thuần nhất trực tâm. Thế nên kinh Tịnh danh có dạy “Trực
tâm là đạo tràng, trực tâm là tịnh độ”. Như vậy không
nên tâm hạnh quanh co, chỉ miệng nói chất trực; không nên
nhất hạnh tam muội mà không hành theo trực tâm. Chỉ và phải
thực hành trực tâm, nghĩa là đối với tất cả pháp đừng
có chấp trước. Người mê mờ chấp trước pháp tướng,
chấp nhất hạnh tam muội, bảo rằng hãy ngồi yên đừng
động đậy, đè nén không cho tâm niệm mống lên, rồi nói
đấy là nhất hạnh tam muội, thì hiểu như thế thật ra chỉ
làm cho mình đồng với loài vô tri giác, và đảo ngược lại,
chính nó làm trở ngại cho Thuyền đó”.
Thuyền,
tức định như vậy, liên quan với huệ như thế nào? Ngài
Huệ Năng dạy: “Định huệ là một, không phải hai. Định
là thể của huệ, huệ là dụng của định. Khi huệ thì định
ở nơi huệ, khi định thì huệ ở nơi định. Như thế đó
gọi là định huệ đẳng học. Các người học đạo đừng
nói định trước huệ sau, hay định sau huệ trước. Hiểu
như vậy là tách biệt pháp thể ra là hai ý niệm đối lập.
Rồi miệng nói thì hay mà trong tâm không quý gì cả, chỉ
có cái tiếng định huệ mà định huệ không đồng nhất.
Nếu tâm với miệng đều quý, trong ngoài là một, thì định
huệ đồng đẳng, điều ấy hãy tự ngộ mà tu hành, chứ
không ở nơi sự tranh luận. Tranh luận trước sau thì không
khác gì những kẻ mê mờ, không khử hết được cái niệm
hơn thua, như vậy chỉ tăng thêm ngã pháp và không thoát được
bốn tướng. Các vị Thiện tri thức! Định huệ như ánh sáng
cây đèn vậy: có đèn thì sáng, không đèn thì tối, cây đèn
là thể của ánh sáng, ánh sáng là dụng của cây đèn, danh
từ tuy hai mà bản thể chỉ có một. Định huệ cũng y như
vậy đó”.
Bản
chất của Thuyền như thế nào? Ngài Huệ Năng dạy: “Các
vị Thiện tri thức! Tọa thuyền là thế nào? Trong pháp môn
này, sự không chướng ngại, tức đối với tất cả cảnh
giới phân biệt không phát khởi, như vậy gọi là “tọa”,
tự tánh bất động gọi là “Thuyền”. Các vị Thiện tri
thức! Thuyền định là gì? Ngoài ly tướng là Thuyền, trong
không loạn là định. Ngoài mà trước tướng thì trong liền
loạn động, ngoài nếu ly tướng thì thì trong tâm liền không
loạn động. Bản tánh tự tịnh, tự định, chỉ vì phân
biệt và vướng mắc cảnh giới nên loạn động. Vậy nếu
đối cảnh mà tâm không loạn, đó mới thật là định. Các
vị Thiện tri thức! Kinh Bồ tát giới có dạy rằng: Ta vốn
nguyên tự tánh thanh tịnh. Vậy nên trong niệm niệm tự thấy
bản tánh thanh tịnh, tự tu tự hành thì tự thành Phật quả”.
Nói
tóm, Thuyền như vậy có thể nói vắn tắt là ly niệm, tức
thuận theo tự tánh bất động mà đối cảnh vô phân biệt.
Thuyền như vậy quả thật là quá khó và chính vì quá khó
mà quá dễ dàng bị lạm dụng, tạo thành những người mà
Thuyền tôn gọi là “cuồng thuyền” và sở tu của họ chỉ
là “thuyền bịnh”. Hạng này xưa không ít mà nay cũng không
phải không có. Đặc chất của họ là tự hào vô tướng,
là nói tánh mà thôi. Nhưng không biết họ sẽ nghĩ thế nào
khi nghe chính Ngài Huệ Năng–mà mặc nhiên họ tự cho là
đồ đệ của Ngài, đã thống trách như sau: “Thứ nhất
là đừng chấp không; cho dẫu không tâm tĩnh tọa thì cũng
là cái không vô ký đó”. “Lại có một hạng mê mờ không
tâm tĩnh tọa, trăm điều không nghĩ đến, bèn tự xưng là
đại; hạng người như vậy đừng bao giờ nói với họ, bởi
lẽ họ là tà kiến đấy”. “Nếu trăm điều không nghĩ,
tuyệt diệt tâm niệm, thì đấy là đảo ngược pháp lại
mà trói lấy mình, ấy là biên kiến”.
Thuyền
như vậy, tầm dụng tâm sơ đẳng khởi sự từ đâu? Bản
chất của Thuyền là “thường không nhiễm ô” nên khởi
sự là thuận ngôn, là tuyệt thị phi. Hãy nghe Ngài Huệ Năng
dạy: “Thuyền vốn không chấp tâm, không chấp sự thanh tịnh,
cũng không chấp sự bất động. Chấp tâm làm sao khi vọng
tâm chỉ như huyễn hóa. Còn sự thanh tịnh thì tự tánh vốn
thanh tịnh, chỉ vì vọng niệm khuất lấp chân như, vậy chỉ
ly niệm là tánh tự thanh tịnh, chứ nếu khởi tâm chấp thanh
tịnh thì đảo lại thành một thứ thanh tịnh hư vọng; nhưng
hư vọng vốn không thực thể, chính sự chấp trước là hư
vọng đó, vậy nên sự thanh tịnh vốn vô tướng, đừng nên
dựng lên tướng thanh tịnh nói đó là dụng công, làm như
vậy chỉ chướng ngại tự tánh, đảo lại, bị chính sự
thanh tịnh ràng buộc đó. Còn sự bất động mà muốn thực
tập, thì chỉ thấy mọi người mà đừng tìm thị phi thiện
ác của họ, ấy đó là tự tánh bất động, chứ nếu làm
như những kẻ mê mờ thì thân tuy không động mà mở miệng
là nói đến thị phi trưng đoản của kẻ khác, như vậy thực
là trái ngược đạo pháp”. “Vạn pháp ở cả nơi chân
tánh, nên sự dụng tâm là thấy điều ác cũng như điều
thiện của mọi người, tâm mình không làm theo cũng không
khước từ, không ghét bỏ cũng không thiên vị; không nhiễm
trước như hư không... Điều ấy người mê chỉ miệng nói,
kẻ trí thì tâm hành”.
Sau hết,
hã nghe Ngài Huệ Năng tổng kết về Thuyền: “Các vị Thiện
tri thức! Pháp môn này xưa nay vốn tôn chỉ là vô niệm, thể
tánh là vô tướng và căn bản là vô trú. Vô tướng là đối
cảnh mà ly cảnh. Vô niệm là niệm mà ly niệm. Vô trú là
bản tánh đối với hết thảy thiện ác cho chí thân thù,
ngay khi bị khiêu khích, châm biếm, khinh thường và chiếm
đoạt, đều không hết, không nghĩ đến sự trả đũa, tác
hại, niệm niệm không nghĩ đến đối tượng đã thấy nghe;
nếu niệm trước, niệm hiện tại, niệm sau, niệm niệm liên
tục, thì chính đó: sự ràng buộc lấy mình, vậy nên đối
cảnh không trú ở bằng niệm niệm liên tục, thì chính đó:
sự giải thoát; vì vậy, vô trú là căn bản của pháp môn
này. Các vị Thiện tri thức! Ly hết thảy các tướng gọi
là vô tướng, ly tướng là pháp thể thanh tịnh, nên lấy
vô tướng làm thể tánh. Các vị Thiện tri thức! Đối cảnh
tâm không nhiễm, gọi là vô niệm; nơi tâm niệm thường ly
cảnh, không đối cảnh sanh tâm, nếu chỉ trăm điều không
nghĩ, tuyệt bỏ cái niệm đi, thì một niệm tuyệt bỏ tức
là chết mất và thọ sanh ở chỗ khác, chính đó là sự lầm
lạc to lớn mà người học đạo phải suy nghĩ; và không thấu
hiểu được ý chỉ của pháp này mà tự lầm mình thì còn
khả thứ, nếu đem ra khuyến dụ người khác, thì thật mê
mờ mà không thấy lại còn phỉ báng cả kinh sách của Phật
nữa, bởi vậy lập vô niệm làm tôn chỉ. Các vị Thiện
tri thức! Bởi những kẻ mê mờ miệng nói kiến tánh mà đối
cảnh thì niệm, niệm tức tà kiến nổi lên, hết thảy trần
lao vọng tưởng đều phát sanh từ đó, mà tự tánh thì vốn
không có một pháp gì nắm được, nếu có một cái gì nắm
được mà nói họa phúc–thì họa là cố định không thể
sám hối trừ bỏ, phúc là cố định không thể phát sanh và
phát triển–chính đó là tà kiến, nên pháp môn này lập
vô niệm làm tôn chỉ. Các vị Thiện tri thức! Vô là vô cái
gì? Niệm là niệm cái gì? Vô là không có 2 ý niệm đối
lập, tức không có trần lao (nói tóm, không phân biệt). Niệm
là niệm bản tánh chân như. Chân như là thể của niệm, niệm
là dụng của chân như; niệm mà thuận dụng chân như tự
tánh, thì 6 căn tuy thấy nghe hay biết mà không nhiễm vạn
cảnh, chân tánh thường tự tại, thế nên khế kinh dạy rằng:
khéo nơi sự phân biệt các pháp, thì đệ nhất nghĩa không
loạn động”.
2. Kiến tánh
Nói
đến Thuyền là nói đến “kiến tánh”, một đặc trường
của Thuyền tôn. Vì vậy, xét về Thuyền của Ngài Huệ Năng
xong, ta hãy xét tư tưởng về “kiến tánh”của Ngài. Do
tư tưởng về Thuyền mà ta đã thấy ở trên, chúng ta có
thể thấy không phải kiến tánh mới có Thuyền, lại càng
không phải Thuyền đem lại sự kiến tánh. Chính Thuyền là
kiến tánh rồi đó. Tuy nhiên, trên cách trình bày cũng như
cái dụng nói theo danh từ, kiến tánh là căn bản mà Thuyền
là “khéo tự hộ niệm”, là phát tiển sự kiến tánh ấy.
Kiến
tánh, nghĩa đen là thấy tánh, diễn đạt thành từ ngữ thấy
bản tánh hay thấy tự tánh, hay rõ ràng hơn, thấy tự tánh
chân như. Điều phải tìm hiểu là thấy như thế nào? tánh
là gì?
Duy thức
học phân tích mỗi sự Biết, bao quát hết thảy thấy nghe
hay biết, có 3 giai đoạn–mặc dầu thực sự chỉ thoáng
cái là đủ cả: Trước tiên là tự tánh, nghĩa là chỉ biết
đối tượng mà thôi; kế đó là kế đạt, tức nhận định
tốt hay xấu; tiếp theo là tùy niệm, tức ý niệm ưa hay ghét.
Gia đoạn tốt hay xấu, ưa hay ghét là phiền não rồi đó.
Rồi ưa thì chiếm đoạt, ghét thì chống đối: hành động
như vậy gọi là nghiệp. Điều quan trọng trong sự phân tích
ấy. là để ta thấy rõ qu asát na tự tánh chỉ biết thuần
túy rồi, đến kế đạt tốt xấu và tùy niệm ưa ghét, là
căn cứ vào đâu mà tốt xấu ưa ghét? Chính là căn cứ vào
sở thích của mình mà thôi. Thế cho nên đối tượng đến
2 giai đoạn này không còn nguyên vẹn và chính xác của chân
tướng, mà thực sự là sở thích tạo nên hình ảnh riêng
biệt của sở thích: hình ảnh ấy càng hợp với sở thích
càng không có nơi chân tướng của đối tượng, mà chỉ được
kết hợp bởi tiếng gọi (danh) và ý niệm (tướng) mà thôi.
Do đó, sự Biết mất thăng bằng, rối loạn trong đời sống
phiền não. Đời sống ấy, như vậy, càng phù hợp sở thích
nghĩa là càng khía cạnh, thì càng xa chân tướng có tính cách
đơn thuần và toàn diện (nói theo chân lý) và chiếm đoạt
cho mình cái hợp sở thích đồng thời trút bỏ cho người
cái trái sở thích (nói theo luân lý). Đời sống ấy là đời
sống mê mờ.
Như
vậy, chính xác là sự Biết ở giai đoạn tự tánh vốn khôngtội
lỗi gì hết, nhất là cái Biết ấy rất chánh xác đối với
chân tướng của đối tượng, nên Duy thức học mệnh danh
là hiện lượng. Đối tượng của hiện lượng, như vậy,
là đối tượng đơn thuần và toàn diện, nguyên vẹn, đối
tượng ấy Duy thức học mệnh danh là tánh cảnh. Hiện lượng
và tánh cảnh như vậy là toàn diện của chân như mà danh
từ chánh xác gọi là ly ngôn pháp tánh. Hễ phản bản hoàn
nguyên, víu lấy hiện lượng và tánh cảnh như vậy, tức
là đời sống giải thoát đó.
Duy thức
học còn nói rõ ràng đệ lục thức là công thủ tội khôi
trong 2 đời sống đó. Nó mạnh nhất trong sự kế đạt và
tùy niệm, nhưng huệ tâm sở của nó nếu nhất niệm tương
ưng với hiện lượng, rồi khéo tự hộ niệm để niệm niệm
liên tục tương ưng, thì sẽ đến giai đoạn thuần hiện
lượng duyên chân như tánh cảnh, bấy giờ gọi là căn bản
vô phân biệt trí (bát nhã trí). Rồi do căn bản đó, tức
thuận tánh khởi dụng, muôn ngàn trí dụng hoạt dụng các
pháp, hoàn thành hậu đắc vô phân biệt trí.
HIểu
như vậy rồi, bây giờ nói cương vị của sự kiến tánh.
Cùng một nhận định với Duy thức học, Thuyền tôn cũng
phân tích sự Biết ra đệ nhất phong đầu, nghĩa đen là ngọn
núi thứ nhất và ngọn núi thứ hai, diễn đạt sự khó bám
víu của sự Biết. Đệ nhất phong đầu là tự tánh, đệ
nhị phong đầu là kế đạt và tùy niệm. Đệ nhị phong đầu
còn được gọi là tương tục tâm, một danh từ rất đúng
để diễn đạt cái tính cách thêm thắc, nối đuôi một cách
vô lý. Còn kiến tánh là đệ nhất phong đầu, chỉ hiện
lượng biết tánh cảnh. Như chúng ta đã được nghe, Ngài
Huệ Năng dạy điều này rất chính xác: “Niệm niệm không
nghĩ đến đối tượng đã thấy nghe; nếu niệm trước, niệm
hiện tại, niệm sau, niệm niệm liên tục không cắt đứt
(trong sự ưa ghét và chiếm đoạt chống đối), thì chính
đó: sự ràng buộc lấy mình; vậy nên đối cảnh không trú
ở bằng niệm niệm tương tục (mà chỉ niệm niệm tương
ưng với đệ nhất phong đầu một cách khéo tự hộ niệm)
thì chính đó: sự giải thoát”.
Như
vậy là ta có thể tạm chấm dứt ở đây lời tiểu dẫn
về kiến tánh. Nhưng trước khi chấm dứt, câu hỏi này tự
nhiên phải được đặt ra và giải đáp: Nếu sự kiến tánh
là đệ nhất phong đầu như vậy, thì đáng lẽ ai cũng sống
với nó trước khi đến đệ nhị phong đầu, nhưng tại sao
thấy có vẻ trái ngược, chúng ta chỉ sống với đệ nhị
phong đầu và chắc chắn là vì nó mà lấn át đệ nhất phong
đầu, làm cho ta không bám víu được? Đúng là như vậy. Đệ
nhị phong đầu tuy là “tương tục tâm” mà thôi, nhưng khốn
nỗi, lụy kiếp thiên sanh ta càng sống càng bồi đắp cho
nó, đến nỗi tập khí nó tạo thành sức mạnh lấn át và
khuất lấp đệ nhất phong đầu đi, làm cho ta hiện lượng
vẫn thường trú, bao giờ cũng có trước và là căn bản của
sự Biết, vậy mà cơ hồ như đối cảnh ta chỉ có và chỉ
sống với “tương tục tâm”. Và như đã nói tính chất
nó qua giai đoạn kế đạt và tùy niệm, “tương tục tâm”
tính chất của nó bao giờ đối cảnh cũng có 2 ý niệm đối
lập: nhìn một vật cũng như nghe một tiếng , hễ tốt thì
không phải xấu, xấu thì không phải tốt, trung tính thì không
tốt xấu. Bởi vậy, nỗ lực mà sống được với cái Biết
đơn thuần thì lần lần trừ được “tương tục tâm”
biểu hiện 2 ý niệm đối lập tạo ra bao nhiêu trần lao phiền
não ấy. Ngài Huệ Năng đã dạy: “Vô là không có 2 ý niệm
đối lập, tức không các trần lao”. Thấy cái sức mạnh
của đệ nhị phong đầu thì đáng sợ thật, nhưng thấu hiểu
đệ nhất phong đầu mới là căn bản thường trú, nên thật
chúng ta đã có một lòng tin kiên cố. Do đó, nếu trình độ
kém, nếu không gặp được đại thiện tri thức, nhưng y theo
vị thứ của Thuyền mà thực tập thì sự kiến tánh ta sẽ
đạt được một cách chắc chắn, mặc dầu không bằng và
không may mắn như những người trong muôn một, có một trình
độ lợi căn, có túc duyên thâm hậu, hoặc gặp được đại
thiện tri thức nên nhất niệm tương ưng, hoát nhiên khai ngộ.
Bây
giờ đến đây chúng ta đã có thể lắng nghe Ngài Huệ Năng
dạy về tư tưởng kiến tánh của Ngài. Trước hết, bản
tánh vốn thanh tịnh và kiến tánh mới thành Phật: “Các
vị Thiện tri thức! Tự tánh bồ đề bản lai thanh tịnh,
vận dụng tâm ấy tức nhiên thành Phật”. “Bồ đề vốn
không phải cây bồ đề, gương sáng cũng không phải đài
gương sáng, tự tánh bản lai không có một vậ tgì ô nhiễm,
thì lau chùi bụi bặm nơi chỗ nào?” Nhưng chính vì bản
tánh thanh tịnh, nên đối cảnh vô sở trú là kiến tánh,
thấy bản tánh đủ cả: “Đến câu ưng vô sớ trú nhi sanh
kỳ tâm, ngay nơi câu nói ấy tôi liền đại ngộ tất cả
vạn pháp không rời tự tánh, bèn bạch với Tổ Sư Hoằng
Nhẫn: đâu có dè tự tánh vốn tự thanh tịnh, vốn bất sanh
diệt, vốn tự viên mãn, vốn bất động chuyển, vốn sanh
vạn pháp!”. Và Ngài dẫn lời Phật dạy: “Kinh Bồ tát
giới có dạy: Ta vốn nguyên tự tánh thanh tịnh, vậy nên
trong niệm niệm tự thấy bản tánh thanh tịnh, tự tu tự
hành thì thành Phật quả”.
Bản
tánh là như vậy, thì cần chi phải dụng công tu chứng? Câu
hỏi này thật là định lý, không những của Thuyền tôn mà
còn là của toàn bộ Phật pháp đối với bản tánh, một
câu nói được Ngài Huệ Năng nhận định là kiến tánh: “Tu
chứng tức bất vô, nhiễm ô tức bất đắc”. Cần phải
tu chứng nhưng thực sự thì sự nhiễm ô vốn không thực
thể, chính vì nhiễm ô vốn không thực mà phải tu chứng
bản tánh thanh tịnh và nhất là có thể tu chứng được.
Ở một giai đoạn tu chứng sâu hơn, câu ấy lại có nghĩa
tu chứng là phải niệm niệm tương ưng với đệ nhất phong
đầu (bản tánh thanh tịnh) vì lẽ đệ nhất phong đầ ubản
lai vốn không có, không bị sự ô nhiễm của đệ nhị phong
đầu; đệ nhị phong đầu thực sự chỉ là một trạng thái
rối loạn như mắt bị quáng mà thôi, không phải sự quáng
ấy có thực ngoài con mắt.
Bản
chất của kiến tánh là gì? Kiến tánh là thế nào? Hãy nghe
Ngài Huệ Năng dạy: “Nơi tất cả chỗ, trong tất cả thời,
phải niệm niệm không ngu, thường làm theo trí tuệ, như thế
tức là hạnh bát nhã đó”. “Không vướng không khởi mê
vọng, vận dụng tánh chân như của mình, dùng trí tuệ quán
chiếu, đối với tất cả các pháp không lấy không bỏ, ấy
đó: kiến tánh tác Phật”. Kiến tánh, như vậy, là cần
phải vượt trên lãnh vực của danh từ và ý niệm, thể nghiệm
chân tướng đơn thuần và toàn diện: “Phải biết bản tánh
tự có cái trí bát nhã và tự dùng trí ấy mà thường thường
quán chiếu, chứ không liên hệ đến văn tự”. Bởi vậy,
đây là lời dạy quan trọng hết sức cho sự kiến tánh: “Chỉ
ở nơi tự tâm thường phát khởi chánh kiến làm cho trần
lao phiền não không thể nhiễm ô, ấy tức là kiến tánh”.
Cho nên: “Các vị Thiện tri thức! Việc chánh của chúng ta
là phải từ tự tánh mà khởi dụng, trong tt cả thời niệm
niệm tự tịnh tâm mình, tự tu tự hành để thấy đức
Phật của tự tâm; phải tự hóa độ theo tự tánh và phải
tự tu theo giới pháp của tự tánh mới được”. Nói tóm,
“Ngu mê tạo tội là tự mở tri kiến chúng sanh ra đó, mà
chánh tâm quán chiếu tự tánh, bỏ ác làm lành là tự mở
tri kiến chư Phật vậy; phải niệm niệm mở tri kiến chư
Phật mà đừng khai tri kiến chúng sanh”.
Hễ
kiến tánh thì tự cụ túc hết thảy công đức và diệu dụng:
“Phải dùng đại trí tuệ đả phá ngũ uẩn phiền não trần
lao, tu hành như vậy quyết định biến tham sân si thành giới
định huệ, như vậy từ một bát nhã trí sanh tám vạn bốn
ngàn trí, vì người đời có bốn vạn tám ngàn trần lao,
nếu không trần lao ấy tức là trí huệ thường hiện, không
ly tự tánh”. “Thường kiến bản tánh thì chân thật diệu
dụng, đó gọi là công đức”. “Người kiến tánh thì cũng
lập được–tức lập tất cả điều thiện, phá cũng được–tức
phá hết thảy điều ác, khứ lai tự tại, không vướng mắc,
không trở ngại, tùy trường hợp mà hoạt dụng, theo ngữ
khí mà đối đáp, phổ hiện diệu dụng mà không ly tự tánh”.
Nói tóm, “tự tâm thường sanh trí huệ, không rời tự tánh
tức là phước điền”, nên điều tối kỵ và tối thận
trọng, là “Các người cẩn thận, đừng quán sự yên tĩnh
và làm trống không tâm mình; tâm tánh vốn thanh tịnh, không
có chi đáng giữ, cũng không có chi cần bỏ; hãy nỗ lực
và hãy tùy duyên hoằng dương đạo pháp và giáo hóa quần
sanh”.
Kiến
tánh, như vậy, tuy không phải cầu ở người khác, nhưng sự
dẫn đạo của các vị Đại thiện tri thức là yếu tố quan
trọng. “Trí Bát nhã của bồ đề là trí mà người đời
ai cũng vốn tự có cả, chỉ vì tâm mê mờ không thể tự
ngộ, nên phải nhờ các vị Đại thiện tri thức chỉ thị
dẫn đạo làm cho kiến tánh”. “Cái trí Bát Nhã vốn có
thì đâu có khác gì với kẻ đại trí, vậy mà vì lẽ gì
nghe pháp không tự khai ngộ? Ấy là bởi vì tà kiến nặng
nề, phiền não quá sâu, khác nào thái dương bị mây lớn
che khuất, nếu không được luồng gió mạnh thổi bạt đi
thì ánh sáng thái dương ấy không thể hiện ra được”.
Vậy nên “người ngu học hỏi người trí, người trí thuyết
pháp cho người ngu, người ngu hoát nhiên khai ngộ thì cùng
với người trí không khác biệt gì hết”. Sau hết, muốn
kiến tánh “thì phải tu hạnh bát nhã, trì tụng Kinh Kim Cang,
tức được kiến tánh”.
Một
khi kiến tánh thì đương xứ đại dụng: “Các vị Thiện
tri thức! Toàn thể trí bát nhã đều từ tự tánh phát sanh,
không phải đâu ở ngoài đem vào: vận dụng tâm tánh như
vậy mà đừng lầm đi, thì gọi là chân tánh tự dụng, một
chân thật tất cả đều chân thật. Tâm lượng chỉ dung đại
sự, không thể đi theo đường nhỏ”. “Minh kiến tâm tánh,
tâm không nhiễm trước, như vậy, dùng ra thì khắp tất cả
mà không trú ở vướng mắc một chỗ nào: Thanh tịnh tự
tâm thì xuất 6 thức ra 6 căn mà đối với 6 trần vẫn không
nhiễm, không tạp, khứ lai tự tai, thông dung vô ngại”. “Niệm
mà thuận dụng chân như tự tánh thì 6 căn tuy thấy nghe hay
biết mà không nhiễm vạn cảnh, chân tánh thường tự tại,
thế nên khế kinh dạy rằng: khéo nơi sự phân biệt các pháp
thì đệ nhất nghĩa không loạn động”.
Bởi
vậy, “Nhược năng tỏa mộc xuất hỏa, ứ nê định sanh
hồng liên: nếu nỗ lực kéo cây ra lửa thì bùn lầy nhất
định mọc lên sen hồng” và đối với sự kiến tánh, nên
“phát nguyện thọ trì như thờ phụng chư Phật vậy, chung
thân không lùi bước”, bởi lẽ “minh kiến tâm tánh mới
gọi là Bồ tát”.
3. Đàn dương
(gồm 4 kỳ án)
Bây
giờ ta cứu xét đến tư tưởng của Ngài Huệ Năng về phương
diện “đàn dương”, nghĩa là hạ thấp giá trị của việc
này, đề cao giá trị của việc nọ. Điều này thực là quan
trọng. Ngày xưa Phật thuyết pháp có 4 nguyên tắc tất đàn,
trong đó có cái nguyên tắc vị nhân, thí dụ cũng đồng một
hạnh bố thí mà đối với người cần đề cao thì Phật
đề cao mà đối với người cần hạ thấp thì Phật hạ
thấp. Điều quan trọng là phải biết rõ ai là người đáng
đề cao, ai là người cần hạ thấp, và đề cao, hạ thấp
phù hợp với ích lợi mà ý mình định hướng dẫn họ. Như
vậy, không bao giờ ta nên cho là định lý trong sự đề cao
hay sự hạ thấp, mà phải hiểu cái giá trị qua một không
gian và thời gian nào đó, nghĩa là chỉ đối với một hay
một nhóm người. Và chính vì vậy, ngoài những nguyên tắc
diễn tả những giá trị phổ thông (1 tất đàn) và giá trị
chân lý (2 tất đàn), nguyên tắc vị nhân (3 tất đàn) này
phối hợp với nguyên tắc đối trị (4 tất đàn) làm cho
Phật giáo thành những diệu dụng linh động vô cùng vô tận,
không những cho một thời và một nơi, mà cho tất cả và
hết thảy.
Ngài
Huệ Năng cũng đã áp dụng được nguyên tắc vị nhân tất
đàn. Rồi chúng ta sẽ thấy, qua tài liệu đã ghi lại, Ngài
đàn dương những việc gì, nhưng ta cần phải hiểu cái giá
trị của những việc ấy ngay ở đây, đúng như lời Ngài
đã nói, những việc ấy chỉ “tùy phương cởi mở” mà
thôi. Và chính vì vậy mà có giá trị. Rất kỵ ở chỗ nếu
ta lầm cho đấy là những định lý rồi khuôn theo mà đề
cao không nhằm người, hạ thấp không phải lúc, thì đúng
như Phật dạy, là làm cho sữa đề hồ biến thành thuốc
độc.
Những
sự đàn dương trong đời Ngài Huệ Năng không ít. Nổi nhất,
như chúng ta đã thấy và sẽ còn thấy, là thống trách sự
đại ngôn, không ngôn, phải trái, và chấp không. Nhưng ở
đoạn này chúng ta chỉ nên và cần phải cứu xét đến 4
việc mà do sự làm cho nặng nề lên củ người sau, cả 4
việc biến thành những kỳ án thực sự.
1.– LY VĂN
TỰ
Việc
trước hết là vấn đề ly văn tự, nói xác thực là không
biết chữ chứ không phải không lập văn tự. Tuy nhiên, vấn
đề này thực Ngài Huệ Năng đã hạ thấp nhiều hơn đề
cao. Nói đề cao thì quả có đó, bởi vì chính tự Ngài, Ngài
nói đến nỗi ngôn ngữ Ngài cũng không đúng (vì sanh trưởng
ở Lãnh Nam); bởi vì chính Ngài lấy cái thân một người
quê mùa bán củi mà kiến Tánh tác Tổ; chính Ngài 3 phen nhờ
người khác đọc cho nghe mà hiểu về bài kệ của Ngài Thần
Tú, về kinh Niết Bàn và về kinh Pháp Hoa; cũng chính Ngài
nói “Chư Phật diệu lý phi quan văn tự” và “Bản tánh
tự có trí bát nhã, tự dùng trí ấy thường thường quán
chiếu mà không cần văn tự”. Nhưng chỉ có bao nhiêu đó
mà thôi, không hơn cũng không kém. Ở đây cũng nên xác nhận
Ngài Huệ Năng quả không biết chữ thật, bởi vì ai đã đọc
nguyên văn kinh Pháp bảo đàn mới thấy thuần những ngữ
khí “thuyết thông bởi tôn thông” (nói năng thu suốt vì
đã thấu suốt tôn chỉ). Ngày nay có người đoán định Ngài
biết chữ vì thấy Ngài có dẫn kinh, nhưng cứu xét kỹ, cũng
chính vì sự dẫn kinh ấy mà chứng minh Ngài không biết chữ.
Trước sau, toàn kinh Pháp bảo đàn–mà ta đã thấy và sẽ
còn thấy phù hợp với đa số kinh luận chánh yếu của Đại
thừa–chỉ là “thuyết thông” mà dẫn kinh vẻn vẹn có
5 lần: 2 lần dẫn câu “ta vốn nguyên tự tánh thanh tịnh”
của Bồ tát giới kinh, tức kinh Phạm võng, và “hoát nhiên
khai ngộ, được lại tịnh tâm”, “trực tâm là đạo tràng”
và “khéo nơi sự phân biệt các pháp thì đệ nhất nghĩa
không loạn động” của kinh Tịnh danh tức kinh Duy Ma.
Đề
cao chỉ có thế mà thôi, nhưng sự ly văn tự quả thật đã
được Ngài Huệ Năng hạ thấp giá trị không ít. Sự thật
hiển nhiên là ngữ khí suốt đời Ngài tuy không hạ thấp
nhưng tuyệt nhiên không đề cao gì hơn sự ly văn tự cả.
Ngược lại, toàn diện ngữ khí ấy chỉ bộc lộ tính cách
thuyết thông của tôn thông, là “tùy phương cởi mở: tùy
trường hợp mà hoạt dụng, tùy ngữ khí mà đối đáp”.
Rồi chính Ngài nói: “Tôi truyền tâm ấn của Phật, đâu
dám nói trái với khế kinh của Ngài”. Và thống trách: “Những
kẻ chấp không–đúng là những kẻ tự bảo chỉ Tánh
mà không Tướng đó–phỉ báng kinh Phật, động miệng là
nói không dùng văn tự. Nhưng nếu không dùng văn tự thì cũng
không dùng ngôn ngữ mới phải, nhưng chính ngôn ngữ ấy là
tướng của văn tự rồi đó. Họ lại còn bảo đạo không
lập văn tự, thì chính 2 chữ không lập cũng là văn tự mà
là văn tự nặng nề. Họ thấy ai nói thì chê ngay là vướng
mắc văn tự. Nhưng các người phải biết mình tự làm cho
mình mê mờ thì điều ấy miễn nói, chứ lại còn phỉ báng
kinh Phật dạy nữa. Các người không được phỉ báng kinh
Phật dạy, vì như thế thì tội lỗi và những sự chướng
ngại bởi tội lỗi ấy gây ra, sẽ vô số”. Đặc biệt
là những lời mà kinh Pháp bảo đàn đã nêu lên cái tiêu
đề phú chúc; hãy chiêm nghiệm học tập cho kỹ những lời
ấy, được dịch ngay sau đây, để thấy thái độ của Ngài
Huệ Năng với pháp tánh và pháp tướng, với văn tự và ly
văn tự, với thuyết pháp và không thuyết pháp: “Một ngày
nọ, Ngài Huệ Năng gọi tất cả các vị đệ tử đã đắc
pháp lại, dạy rằng: Các ông không giống với những người
khác; sau khi ta mất, hãy mỗi người đi giáo hóa một nơi.
Đây, ta chỉ cho các ông cách thuyết pháp để khỏi mất tôn
chỉ. Hãy cử lên 3 khoa pháp môn và hoạt dụng 36 thứ đối
lập, rồi hoặc đề cao hoặc hạ thấp, đều thoát ly hai
ý niệm cực đoan, thuyết nhất thế pháp mà đừng ly tự
tánh. Gặp ai hỏi pháp, thì họ nói gì ta cũng biết là bao
hàm những pháp đối lập, và rốt cuộc tổng quát trong 3
khao pháp môn cả. Ba khoa pháp môn là 5 ấm, 12 nhập và 18 giới.
Riêng 18 giới gồm 6 căn, 6 cảnh và 6 thức: tự tánh bao hàm
vạn pháp mệnh danh là tạng thức, khởi tư lượng thành chuyển
thức phát hiện 6 thức, xuất 6 căn, duyên 6 cảnh. Mười tám
giới như vậy đều là tự tánh khởi dụng đó: tự tánh
nếu tà thành 18 tà, tự tánh nếu chánh thì thành 18 chánh,
và tà dụng là chúng sanh mà chánh dụng tức Phật dụng. Nhưng
dụng ấy biểu hiện ở đâu? Biểu hiện nơi những pháp đối
lập vốn cũng do tự tánh mà có. Những pháp đối lập nhau
ấy, ngoại cảnh có 5, là trời với đất, mặt trăng với
mặt trời, sáng và tối, âm với dương, nước với lửa;
pháp tướng do ngôn ngữ diễn đạt có 12; ngôn ngữ với các
pháp, có với không, có sắc với không sắc, có tướng với
không tướng, hữu lậu với vô lậu, sắc với không, động
với tĩnh, thanh với trọc, phàm với thánh, tăng với tục,
già với trẻ, lớn với nhỏ; dụng trực tiếp của tự tánh
có 19:sở trường với sở đoản, tà với chánh, ngu độn
với khôn ngoan, mê mờ với giác ngộ, loạn với định, hiền
từ với độc ác, giới hạnh với tội lỗi, ngay thẳng với
cong queo, thật với dối, hiểm hóc với ngay thẳng, phiền
não với bồ đề, thường với vô thường, thương xót với
tàn hại, mừng với giận, phóng xả với keo lẫn, tiến với
thoái, sanh với diệt, pháp thân với sắc thân, hóa thân với
báo thân. Tổng cộng tất cả 36 thứ đối lập, nếu lý giải
mà hoạt dụng, tức là đạo pháp đó; bao gồm hết thảy
kinh pháp, hoặc hạ thấp hoặc đề cao, thoát ly 2 ý niệm
đối lập, xứng tánh hoạt dụng, nói năng với người; ngoài
đối cảnh mà ly cảnh, trong biết không mà rời không, nếu
vướng cảnh thì tà kiến được nuôi dưỡng, nếu nắm không
thì vô minh được tăng thêm. Người chấp không có cái tội
phỉ báng kinh sách, mở miệng là nói không dùng văn tự. Đã
nói không dùng văn tự thì đáng lẽ cũng đừng nói năng.
Chính nói năng là tướng của văn tự rồi đó. Nói đạo
không lập văn tự thì chính 2 chữ không lập cũng là văn
tự vậy. Rồi thấy người nói thì phỉ báng, bảo rằng thế
là vướng mắc văn tự. Nhưng các ông phải ý thức rằng
tự mê thì miễn nói, đằng này lại phỉ báng kinh Phật nữa.
Nhưng không được phỉ báng kinh Phật dạy, vì như thế tội
chướng vô số. Còn ngoài đối cảnh trước tướng, bày ra
các phương thức để cầu sự chân thật, hoặc mở ra đủ
các đạo tràng để bình nghị nhược điểm của lý lẽ có
không, những người như vậy mấy kiếp cũng không thể kiến
tánh, bảo tu thì làm cho người bị cái nạn “trăm điều
không nghĩ”, bít lấp cả tự tánh, bảo đừng tu thì làm
người cho bùng dậy tà niệm. Vậy các ông phải “như pháp
tu hành” và thật hành “vô trú tướng pháp thí”. Nếu
các ông thể ngộ được những lời tôi dạy đây, y theo đó
mà giảng nói, y theo đó mà hoạt dụng, y theo đó mà thực
hành, y theo đó mà làm việc, thì tức là không đánh mất
tôn chỉ. Ai hỏi các ông, hỏi có thì đem không ra, các thức
khác cũng vậy, làm cho họ nhận thấy được 2 ý niệm đối
lập, thật sự, chỉ là đối đãi với nhau, nghĩa là
nhờ không mà có, nhân đó phát minh pháp tánh trung đạo”.
2.– TÂY
PHƯƠNG TỊNH ĐỘ
Bây
giờ tới vấn đề “Tây phương tịnh độ”. Tây phương
tịnh độ là một pháp môn căn cứ kinh Di Đà mà thiết lập.
Pháp môn ấy chứng minh đức Phật Di Đà và thế giới Cực
Lạc là biểu tướng thanh tịnh của tâm tánh (cũng như hết
thảy mười phương quốc độ đều là biểu tướng của tâm
tánh ấy); nếu cái dụng tư duy của tâm tánh được đồng
nhất (bất loạn) với danh hiệu đức Phật Di Đà, một danh
hiệu biểu hiện tất cả đức lý của tâm tánh, thì sẽ
vãng sanh, nói cho đúng, là sẽ hiện bày quả báo của thế
giới Cực Lạc; mà chúng ta rất cần phải cầu nguyện vãng
sanh Cực Lạc, vì lẽ ở đấy là một hoàn cảnh làm cho ta
“không còn thoái chuyển” nữa đối với trí giác Vô thượng
của Phật, do vậy, sẽ tùy ý hiện thân trở lại hóa độ
vô lượng chúng sanh, hoàn thành trí giác ấy.–Phương pháp
vãng sanh Cực Lạc, như vừa nói, trước tiên và đơn giản
nhất là “chấp trì danh hiệu của đức Phật Di Đà” để
thanh tịnh tự tâm làm cho tâm được “nhất tâm bấn loạn”,
đồng thời phải thật hành 3 loại phước đức phụ thuộc,
bao gồm mọi việc làm có tính cách phát triển trí huệ hiểu
biết Phật pháp và nỗ lực ích lợi thiết thực cho mọi
người theo khả năng. Tiểu dẫn như vậy cũng đã thừa đủ
để thấy “Tây phương Cực Lạc” đơn giản còn hơn Thuyền
là một, hết thảy mọi trình độ đều thật hành được
nghĩa là không có tính chất lộng hiểm là hai.
Nhưng
cái ưu điểm thứ hai này lại sanh ra một cái tệ, là ai cũng
thật hành được nên sự phổ biến tạo thành tình trạng
hời hợt. Cũng hệt như tính chất quá cao của Thuyền bị
lạm dụng thành bọn “cuồng Thuyền” vậy. Tình trạng hời
hợt về sự tu tịnh độ thật là chán ngán. Nhất là nếu
tình trạng ấy đi song song với “cuồng Thuyền” nữa, thì
thật đã thành vấn đề. Tình trạng ấy như thế nào? Ai
cũng là “Lâm Tế chánh tông” và “Nam Mô A Di Đà Phật”
từ lâu đã là tiếng chào nhau. Vậy mà Thuyền thì không biết
tâm tánh là gì, Tịnh thì chẳng nghĩ đến sự tịnh tâm,
khiến cho hiện trạng Phật giáo phổ biến đến mức chót
nhưng sự hoạt dụng trong đời sống thiếu vẫn cứ thiếu.
Chính
vì lẽ đó, ta đã thấy Ngài Huệ Năng thống trách rất nhiều
“cuồng Thuyền” và đối với sự niệm Phật hời hợt,
không biết đến sự tịnh tâm (nhất tâm bấn loạn), Ngài
muốn chấm dứt. Thái độ của Ngài là chưa nên nói đến
việc vãng sanh tịnh độ, vì đó chỉ là cái quả; điều
quan trọng là phải chú ý cái nhân: phải tịnh tâm. Mà tâm
tịnh thì độ tịnh. Nên thái độ và phương pháp của Ngài
là hạ thấp cái quả mà đề cao cái nhân, để cảnh giác
mọi người niệm Phật chú ý cái nhân ấy, nghĩa là phải
niệm Phật một cách nhất tâm bất loạn, chứ không thể
hời hợt mà mong vãng sanh Cực Lạc được. Thái độ này
lại còn có cái ý niệm kiến thiết “nhân gian tịnh độ”,
lưu ý những người niệm Phật phải chấp trì hồng danh của
Phật để thanh tịnh tự tâm và phải thực hành 3 loại phước
đức phụ thuộc như đã nói để thanh khiết hóa xã hội
mình đang sống, chính đó là “thực chứng tịnh độ”,
cái nhân để “vãng sanh tịnh độ”. Ta hãy nghe lời Ngài
nói sau đây: “Người ngộ giáo lý tịnh độ thì tự tịnh
tâm mình, nên Phật có dạy rằng tùy tâm mình thanh tịnh thì
quốc độ thanh tịnh”. “Người ngộ giáo lý tịnh độ
thì ở đâu cũng là một, nên Phật dạy tùy sở trú xứ hằng
an lạc; cho nên tâm địa chỉ không có các điều bất thiện
thì Tây phương Cực Lạc cách đây không xa. Nếu lòng ấp
ủ những điều bất thiện thì niệm Phật vãng sanh sao được,
vậy nên nay tôi khuyên các vị Thiện tri thức hãy trước
hết trừ khử 10 điều ác, niệm niệm kiến tánh, thường
hành sự ngay thẳng, thì trong khoảnh khắc thấy được Di
Đà Từ Tôn”. “Không đoạn thập ác thì Phật nào đến
rước, không ngộ niệm Phật mà cầu sanh Tây phương thì Tây
phương đường xa biết ngần nào”. “Tự tánh mê là chúng
sanh, tự tánh ngộ là Phật đà. Tánh từ bị là Quán Âm,
tánh hỷ xả là Thế Chí, tánh năng tịnh là Thích Ca, tánh
bình trực là Di Đà, tánh nhân ngã là tu di, tánh tà vạy là
bể cả, tánh phiền não là sóng gió, tánh độc hại là cá
dữ, tánh dối trá là quỷ thần, tánh trần lao là ếch nhái,
tánh tham sân là địa ngục, tánh ngu si là súc sanh, vậy nếu
trừ nhân ngã thì khuynh đảo núi tu di, bỏ tà vạy thì vơi
cạn nước bể cả, phiền não không thì sóng gió tắt, độc
hại hết thì thú dữ tan, bấy giờ giác tánh của tâm địa
phóng đại quang minh, chiếu phá tâm độc, làm cho hết thảy
các tội địa ngục nhất thời tiêu diệt, “như vậy là
trong ngoài trong suốt như cảnh giới tây phương” (tức tạo
thành nhân gian tịnh độ). Nếu không tu như vậy, làm sao đến
đó” (tức nếu không tạo thành nhân gian tịnh độ thì làm
sao vãng sanh tây phương thế giới). “Các vị Thiện tri thức!
Nếu muốn tu hành như vậy thì tại gia cũng được, không
cần ở chùa: chỉ tâm thanh tịnh là tự tánh tây phương đó!
Hãy nghe bài kệ của tôi sau đây:
Tâm mà bình
là giữ giới đó,
Hạnh mà
thẳng là tu thuyền vậy,
Ân thì hiếu
dưỡng cha mẹ,
Nghĩa thì
thương mến anh em,
Nhượng
thì hòa mục tất cả,
Nhẫn thì
việc ác không thể náo động,
Nếu kéo
cây ra lửa được,
Thì bùn
lầy quyết định mọc sen hồng!
Coi lời
cay đắng là thuốc hay,
Biết tiếng
trái tai là lời trung thật.
Hễ cải
quá thì trí huệ phát hiện,
Chứ ấp
ủ sự xấu xa thì trong tâm nhất định không hiền.
Phải làm
sự ích lợi như là nhật dụng thường lệ vậy,
Chứ thành
đạo không phải chỉ do sự bỏ tiền ra!
Hãy hướng
vào trong tâm mà tìm trí giác bồ đề,
Chứ hướng
ngoại cầu sự huyễn hoặc một cách lao nhọc mà chi!
Thực hành
y như thế này,
Tịnh độ
ở ngay trước mắt.
3.–NGÀI
THẦN TÚ
Bây
giờ đến câu chuyện Ngài Thần Tú, một câu chuyện khá quan
trọng về phương diện nhân cách, nhất là tâm lượng gương
mẫu của người xuất gia.
Câu
chuyện như thế này, tổng kết theo những điều mà ta đã
thấy rải rác ở trước. Nguyên Ngài Thần Tú là thủ chúng
của Ngài Ngũ Tổ Hoàng Mai, còn Ngài Huệ Năng là người đắc
pháp. Cả hai Ngài không có điều gì gọi là xấu đối với
nhau. Chỉ đứng trên phương diện những điều giảng dạy,
Ngài Huệ Năng nhận định pháp của Ngài Thần Tú là tiếp
độ những người tiệm ngộ. Nhưng từ đó cho đến ngày
nay hễ nói đến một trong hai Ngài, ai cũng có cảm giác Ngài
Thần Tú không xứng đáng.
Sự
thật, như ta đã thấy, thì điều ấy cần phải xét lại.
Cố nhiên, nếu đối với những người đốn ngộ thì pháp
của Ngài Thần Tú (ta được thấy qua bài kệ Ngài đã làm
và giới định huệ mà Chí Thành thuật lại) không thể tiếp
độ họ được. Lại cũng cố nhiên, nếu xét trình độ giác
ngộ thì Ngài Thần Tú đang ở da-hạnh-vị là cùng. Nhưng
đứng về phương diện nhân cách thường tình mà xét, thì
quả thật hai Ngài đã xứng đáng với nhau, và quan trọng
nhất, là tuy chưa kiến tánh mà phong độ và tâm lượng của
Ngài Thần Tú–mà ta thấy được qua chính lời Ngài Huệ
Năng tự thuật và những điều chính Pháp Hải, người chép
lời Ngài Huệ Năng thành kinh Pháp bảo đàn, ghi lại–thật
đáng làm gương mẫu cho ta, những kẻ chưa giác ngộ và thói
thường là “kiến tha thắng sự, tâm sanh tật đố” (thấy
ưu điểm của người, lòng nổi đố kỵ). “Từ khi Nam Bắc
phân hóa, thì các Ngài (Thần Tú và Huệ Năng) chủ trì 2 bên
bỏ hết bĩ ngã”. “Năm Thần Long nguyên niên, hoàng đế
nhà Đường hạ chiếu như sau: Trẫm thỉnh An đại sư và
Tú đại sư cúng dường trong cung và mỗi khi vạn việc hơi
rảnh thì Trẫm hỏi đạo lý nhất thừa cũng hai Ngài. Hai
Ngài thôi nhượng rằng: Nam phương có Ngài Huệ Năng là người
mật thọ y pháp của Tổ Sư Hoằng Nhẫn, truyền tâm ấn của
Phật, hoàng thượng nênthỉnh Ngài mà hỏi”. Cách nay trên
một ngàn hai trăm năm, trước mặt vua chúa như vua chúa Tàu,
mà thôi nhượng người khác như vậy, cái lượng đó mới
hy hữu làm sao! Nhưng chưa hết đâu; ta còn được biết: “Đồ
chúng của Ngài Thần Tú thỉnh thoảng chê Nam tôn rằng Tổ
Sư không biết một chữ thì có sở trường gì. Ngài Thần
Tú nghe vậy, bảo rằng: Ngài Huệ Năng được vô sư trí,
thâm ngộ thượng thừa, ta thiệt không bằng. Huống chi Thầy
ta là Tổ Sư thứ năm đã đích thân, truyền phú y pháp cho
Ngài thì há phải Ngài không có gì. Ta hận không thể đi xa
thân cận Ngài Huệ Năng, ngồi đây mà nhận sự trọng đãi
của quốc gia một cách vô ích. Vậy các người đừng lưu
luyến ở đây, hãy qua Tào Khê bái yết Ngài để giải quyết
đời mình. Bảo đồ chúng như vậy rồi, một ngày nọ Ngài
Thần Tú sai một người môn đồ tên là Chí Thành ra đi, với
những lời căn dặn như sau: Ông thông minh nhiều trí, hãy
vì ta đến Tào Khê nghe pháp, nghe được điều gì thì hết
lòng ghi nhớ để về nói lại cho ta”. Một người chưa giác
ngộ mà tâm lượng và phong độ đến như vậy, thực hết
lời tán dương. Cho nên ta không lấy làm lạ khi thấy Ngài
Thần Tú không được đắc pháp mà đạo tràng của Ngài vẫn
thạnh hành như Ngài Huệ Năng, đến nỗi đương thời ai cũng
bảo “Nam thì Năng, Bắc thì Tú” và Pháp Hải ghi rằng “Hai
tôn đều thạnh”.
Bây
giờ ta thảo luận về pháp của Ngài Thần Tú. Trước hết,
chính Ngài Huệ Năng thuật cho ta biết Ngài Thần Tú không
hề có tâm lý vọng cầu tổ vị: “Ngài Thần Tú suy nghĩ:
nếu ta mong được ngôi vị tổ sư thì thế là tâm lý bất
thiện, có khác chi đem tâm niệm phàm phu chiếm đoạt địa
vị bực thánh”. “Ngài Thần Tú bạch với Tổ Sư Hoàng
Mai rằng: bài kệ con làm ra, con không dám cầu tổ vị, con
chỉ xin Ngài từ bi xét cho con coi có chút trí huệ nào không
mà thôi”. Nhưng bài kệ của Ngài Thần Tú làm ra không phải
không có giá trị, nhất là đối với chúng ta. Nếu nói đốn
ngộ, kiến tánh, thì bài kệ của Ngài Thần Tú chưa có trình
độ ấy thật. Nhưng muốn được sẽ đốn ngộ, sẽ kiến
tánh, thì bài kệ ấy thật là hợp cơ. Những lời của Ngài
Hoàng Mai nói sau đây, thật sự không phải là đánh lạc đồ
chúng: “Quan Cung phụng, thôi, đừng vẽ lên vách này những
bức vẽ để lưu truyền cúng dường nữa. Thật là phiềnông
từ xa đến đây. Nhưng trong kinh có dạy: phàm các hình tướng
đều là hư vọng. Vậy chỉ nên giữ bài kệ này lại trên
vách cho mọi người thọ trì. Y theo bài kệ này mà tu thì
khỏi sa vào ác đạo. Y theo bài kệ này mà làm thì được
đại lợi ích. Nói rồi, Ngài lại dạy đồ chúng hãy thắp
hương mà kính lễ và trì tụng bài kệ ấy thì sẽ được
kiến tánh”. Nội dung bài kệ ấy xin nhắc lại với sự
phiên dịch như sau: “Thân như cây bồ đề, tâm giống đài
gương sáng, Thường thường siêng lau chùi, đừng để dính
bụi nhơ”. “Thường thường siêng lau chùi”, đó là cái
công phu mà nếu ta xao lãng, nhất là cho không đáng chú ý
bằng bài kệ của Ngài Huệ Năng, thì hỡi ơi, cái căn bản
đã mất rồi vậy!
4.–LƯƠNG
VŨ ĐẾ
Bây
giờ đến cái kỳ án cuối cùng, và thực sự là một kỳ
án, ấy là việc Lương vũ đế. Nếu một trường hợp nào
đó cần lắm, chúng ta nên nghiên cứu rất kỹ về nhà vua
này. Hiện giờ chỉ nói vắn tắt rằng Lương vũ đế đã
được sư đồ Ngài Thái Hư phát giác là A dục vương của
Trung Hoa mà có hơn chứ không kém. Với cái tín niệm “Thắng
lợi chân chính là ở Phật Giáo chứ không phải vũ khí”,
Lương vũ đế là con người mà “duy kẻ nào làm được những
điều không ai làm nổi mới biết được”. Mà quả như vậy.
Căn cứ những tài liệu xác thiệt như là hồ sơ lưu chiếu
của Quảng hoằng minh tập, mà tác giả là Ngài Đạo Tuyên,
đã thu thập rất nhiều, thì nhà vua này đã làm được những
việc hộ pháp không ai làm nổi thật. Điều quan trọng, là
không phải Lương vũ đế chỉ tạo tự độ tăng mà thôi
đâu. Con người ấy, tất cả pháp hạnh đều tinh tấn đều
đặn. Nhất là phương diện lý giải và thể ngộ Phật Pháp
mà văn bút nhà vua còn rõ ràng, thì thực quá cái mức mà
ta có thể nghĩ đến. Và, kỳ thay, Lương vũ đế rất phù
hợp với Ngài Huệ Năng về phương diện này. Ngài Huệ Năng
kiến tánh từ Kinh Kim Cang, thì với Kinh ấy, Lương vũ đế
viết:
“Đức Như
Lai nói pháp bát nhã thật là pháp vô tướng nhiệm mầu, kinh
trí tuệ sâu xa, hiểu với ý niệm có đã sai, mà tìm bằng
ý thức không càng trái. Kinh Kim Cang Bát nhã diễn đạt pháp
tánh ly sanh diệt, tuyệt trong ngoài; phá rồi phá nữa, cũng
không được cái chân của kinh ấy, không rồi không nữa,
cũng chưa tỏ chỗ diệu của kinh ấy. Chân đế tục đế
qua hết, pháp tánh pháp tướng siêu việt, tự tâm thể chứng
mới là pháp Kim Cang. Thế nên Vô ngôn đồng tử được lẽ
nhiệm mầu của sự vô ngôn, Bất thuyết bồ tát thấy chỗ
sâu xa của sự bất thuyết. Đệ tử học tập chân không,
tu hành trí huệ, sớm ngộ đạo vô thượng, khắc kỷ mà
phụng hành, nên hằng sa chúng sanh đều là pháp lữ, vi trần
thế giới đều là đạo tràng”. Đấy là trích dịch lời
Lương vũ đế bạch Phật khi lễ tụng kinh Kim Cang. Hành và
giải kinh Kim Cang đến cái độ xem ai cũng là bạn tu hành,
đâu cũng là nơi hành đạo, thì không phải là chỗ mà tư
nghị đạt thấu. Rồi đây là kiến địa của Lương vũ đế
mà ta có thể nói là kiến tánh được, qua bài Tịch nghiệp
phú, trong đó có đoạn:
... (phần
này sách gốc là chữ Hán)
Kiến địa
và văn bút thế này, thực đáng mang lời nói đầu trong đó
có câu: “Duy người nào làm được những việc không ai làm
nỗi mới biết được tâm tôi. Tôi lánh phòng thất, không
ăn cá thịt, bịnh thường tự chữa, trên bốn mươi năm như
vậy. Không ăn sinh vật, cũng không sát hại, ngoại chướng
không nạp, nội dục không còn, trừ được 2 thứ này nên
tâm ý khai thông, mới tự giác ngộ phiền lụy phát sinh từ
đâu”.
Chỉ bấy
nhiêu thôi, cũng đủ để thấy Lương vũ đế không phải
chỉ tạo tự độ tăng, nhất là không thể nào có cái phong
độ quái gỡ là đem việc ấy hỏi công với người. Vậy
nhưng câu chuyện thông thường được nghe thì như sau: “Lương
vũ đế hội kiến Đức Bồ Đề Đạt Ma, hỏi rằng trẫm
một đời tạo tự độ tăng, có công đức gì không? Đức
Đạt Ma trả lời không có công đức gì cả”.
Câu chuyện
này nếu không phải dụng ý đề cao việc kiến tánh mà giả
thiết ra, nếu không vì một bối cảnh nào khác, thì cũng
chỉ là phong độ của Lương vũ đế khi mới hành đạo là
cùng. Nhưng đến Ngài Huệ Năng, Ngài vẫn mượn câu chuyện
ấy để đề cao việc kiến tánh mới là công đức: “Làm
những việc như trên (tạo tự độ tăng) là cầu phước,
không phải công đức. Tự tánh kiến lập vạn pháp mới là
công, tâm thể ly niệm mới là đức”. Đúng như vậy, nhất
là sự đề cao này đối với những kẻ bôn ba vì hình thức
mà quên mất nội dụng. Tuy nhiên, điều ấy có những chỗ
cần xét lại, nhất là trường hợp Phật giáo ngày nay.
Trước hết,
quần chúng ngày nay phước đức còn chưa làm nổi, có đâu
nói đến công đức. Vậy đề cao công đức chỉ làm cho họ
có cớ đánh lãng phước đức mà thôi. Trên mặt giáo lý,
phước đức ấy chính là da hạnh mà cũng là diệu dụng của
sự kiến tánh đó. Vậy cái tính cách sẽ được kiến tánh
của phước đức, đối với quần chúng, bao giờ cũng phải
được đề cao.
Thứ đến,
chúng ta phải ý thức rằng, xưa và nay, nhất là ngày nay,
hình thức, nhất là hình thức có nội dung, như tự viện
có quy cũ, tăng sĩ có phong độ, chính là nơi quy tụ tín tâm
và nuôi dưỡng tín tâm ấy. Vậy hạ thấp giá trị của hình
thức phải rất có ý thức, tức là chỉ nên và rất phải
hạ thấp giá trị đối với những hình thức thiếu nội
dung cần thiết và tệ hơn nữa, lại chứa đựng một nội
dung phi chánh pháp. Nếu không có ý thức đó thì vô tình trúng
mưu của ngoại đạo vậy.
Sau hết,
trong hoàn cảnh của Phật giáo bây giờ, rõ ràng bao nhiêu
tính chất thời đại đang lăm le khuynh loát tinh thần bất
biến của Phật giáo đó. Vậy hình ảnh hộ trì chánh pháp
như Lương vũ đế, một sự hộ trì cả hình thức, giới
luật lẫn giáo lý, thật đáng làm cho tỏ rạng lên.
4. Phật tánh
Đáng lẽ
tư tưởng đặc thù của Ngài Huệ Năng đối với Phật tánh,
phải được sắp lên hàng đầu, hoặc là ngay sau tư tưởng
kiến tánh đã phải thảo luận đến. Nhưng chính vì muốn
chứng tỏ Phật tánh là tư tưởng huyết mạch của tất cả
cuộc đời và tư tưởng của Ngài Huệ Năng, kể cả tư tưởng
căn bản và tư tưởng đặc thù, nên chúng tôi để sau hết,
với dụng ý lấy tư tưởng Phật tánh làm tư tưởng tổng
kết. Cũng phải nói thêm rằng, khi chúng tôi nói tư tưởng
Phật tánh là huyết mạch, là bao trùm cả cuộc đời Ngài
Huệ Năng, điều ấy thật là đương nhiên và kỳ diệu.–Đương
nhiên, vì lẽ đến như Đức Phật đi nữa, từ khi phát tâm
tới khi giác ngộ cũng chỉ là Phật tánh biểu hiện. Kỳ
diệu, vì lẽ cuộc đời Đức Phật là cuộc đời “khai
thị Phật tri kiến (Phật tánh) cho chúng sanh ngộ nhập”
và kết thúc bằng kinh Pháp Hoa và kinh Niết Bàn cũng đề
cao lên tột bực cái Phật tánh ấy; thì Ngài Huệ Năng cũng
đã làm được như vậy trong phạm vi của Ngài, khi đáp lại
câu hỏi “để lời chỉ giáo gì lại cho những người mê
mờ sau này được thấy Phật tánh”, Ngài nói: “Nếu biết
rõ về chúng sanh tức là thấy được Phật tánh”. Như vậy
cũng chưa đủ đâu. Đặc trường của Thuyềntôn mà Ngài
Huệ Năng là kỳ nhân trong đó, là nói và chỉ nói sự kiến
tánh. Mà kiến tánh, đến Ngài Huệ Năng, thật sự là kiến
Phật tánh chứ không chi khác.
Vậy Phật
tánh là thế nào? Phật là giác, tánh có 2 nghĩa, hoặc là
thể tánh, hoặc là khả năng giác ngộ, gọi là Phật tánh.
Cắt nghĩa như vậy chưa đủ. Hãy đi sâu thêm nữa.
Như trước,
trong khi cắt nghĩa bồ đề tâm, đoạn thứ 3 đã nói bồ
đề chính là cái “đặc tánh tri giác” chung của hết thảy
tâm vương và tâm sở, và cái căn bản làm cho đặc tánh tri
giác ấy phát triển chính là huệ tâm sở. Chính cái đặc
tánh tri giác trong đó có huệ tâm sở, là khả năng giác ngộ,
là Phật tánh đó. Đặc tánh tri giác là khả năng giác ngộ,
là vì tri giác ấy chỉ có biết, cái biết ấy nghịch dụng
thì biết sai (mê) mà thuận dụng thì biết đúng (ngộ), y
như sự chỉ tỏ là đặc tính của cánh tay, nhưng chỉ xuống
thì gọi là ngược mà chỉ lên gọi là xuôi. Vậy chính khi
cái tay chỉ xuống biết rằng nó có cái khả năng chỉ lên,
chính do sự biết sai của đặc tánh tri giác mà biết nó có
thể biết đúng, có thể giác ngộ, có thể trở thành trí
giác vô thượng của Phật.
Nhưng đặc
tánh tri giác là năng y, bản thể sở y của đặc tánh tri
giác chính là chân như, nghĩa thứ 8 của bồ đề. Chân như
là bản thể nên tức tất cả mà ly hết thảy. Nghịch với
chân như mà sống (nghịch dụng) là mê, thuận với chân như
mà sống (thuận dụng) là ngộ.
Như vậy,
nói Phật tánh ám chỉ khả năng giác ngộ là nói tri giác,
nói Phật tánh ám chỉ bản tánh thanh tịnh là nói chân như.
Mà chân như là sở y, tri giác là năng y, nên thật ra chỉ
là một mà thôi. Người học giáo lý, phải nắm cái lý do
này để mà hiểu về Phật tánh, nếu không, khi thấy nói
như là tri giác, khi thấy nói như là chân như, rồi mang nhiên
không hiểu đích Phật tánh là gì.
Bây giờ
ta hãy lắng nghe Ngài Huệ Năng phát biểu tư tưởng đặc
thù của Ngài về Phật tánh. Tư tưởng đặc thù ấy nhấn
mạnh chính khả năng mê là khả năng ngộ, kỳ dị hơn nữa,
chính những sự dụng của mê cũng là yếu tố để ngộ,
thí dụ thân tâm ta đây vốn là tội lỗi đó, nhưng thuận
dụng thì chúng lại là công cụ thực hiện pháp thân công
đức. Xác nhận này thật phù hợp lời Phật đã dạy trong
kinh Pháp Hoa: “Phật chủng tùng duyên khởi, thị cố thuyết
nhất thừa”. Những lời Ngài Huệ Năng phát biểu sau đây
có một ý nghĩa đặc biệt nữa, khi nó là những lời cuối
cùng của đời Ngài mà kinh Pháp bảo đàn đã ghi:
“Qua ngày
mồng 3 tháng 8, tại chùa Quốc Ân, sau khi dự trai tăng xong,
Ngài Huệ Năng bảo đồ chúng: Các ông ngồi lại đây để
tôi từ biệt. Pháp Hải bèn bạch rằng: Tổ Sư lưu giáo pháp
gì để cho những người mê mờ thấy được Phật tánh? Ngài
Huệ Năng dạy rằng: Các người hãy nghe cho kỹ những lời
ta nói đây! Những người mê muội nếu biết rõ chúng sanh
tức là thấy được Phật tánh; nếu không biết chúng sanh
thì vạn kiếp tìm Phật cũng không gặp. Nay tôi dạy các người:
“Hễ biết được chúng sanh của tự tâm thì thấy được
Phật tánh của tự tâm: muốn tìm thấy Phật phải biết rõ
chúng sanh”. Chúng asnh mê Phật tánh, không phải Phật tánh
làm mê chúng sanh. Tự tánh mà ngộ được thì chúng sanh là
Phật, tự tánh hiểm tà thì Phật là chúng sanh. Các người
nếu tâm hiểm hóc thì Phật khuất trong chúng sanh, mà nhất
niệm chánh trực thì chúng sanh thành Phật. Tâm ta tự có Phật
tánh, Phật tánh ấy mới làm một đức Phật; nếu tâm tự
nó không có Phật tánh thì tìm cách nào làm một đức Phật
được? Nên tự tâm là Phật, điều đó các người đừng
hồ nghi. Tôi để lại cho các người một bài kệ (mà nguyên
văn đã trích ra ở chương 1). Về sau, ai thể nhận được
ý tứ của bài kệ, thì người ấy tự thấy được tâm tánh,
tự thành một đức Phật:
Chân như
của tự tánh là đức Phật chân thật,
Còn tà kiến
tam độc thật ma vương;
Khi tà kiến
thì ma vương chiếm nhà cửa,
Mà chánh
kiến thì lúc ấy Phật ngự trong nhà.
Trong tự
tánh mà tà kiến thì tam độc phát sanh,
Ấy là ma
vương qua lại trong nhà cửa;
Nếu chánh
kiến, thì tam độc tự trừ khử,
Thế là
ma biến thành Phật mà không ngờ gì nữa.
Pháp thân,
báo thân và cả hóa thân nữa,
Bản lai
chỉ là một thân này mà thôi,
Vậy nên
nếu ai hướng về trong tự tánh mà thấy được,
Thì đấy
là cái nhân thành tựu trí giác bồ đề của Phật.
Vốn bởi
thân này mà phát giác ra tánh thanh tịnh,
Vậy nên
tánh thanh tịnh vốn ở trong thân này đây,
Và tánh
ấy điều khiển thân này hành theo chánh đạo,
Thì đương
lai thật viên mãn vô cùng tận.
Tánh tội
lỗi vốn là tánh thanh tịnh,
Cho nên phải
biết tự tánh ấy vốn ly ngũ dục,
Thoáng thấy
tánh ấy tức là chân đó.