Mục Lục Quyển Trung.
Phần Thứ 1.
Phần Thứ 2.
Phần Thứ 3.
Phần Thứ 4.

 
.
NHỮNG ĐOÁ HOA THIỀN
Dịch gỉa: Dương Đình Hỷ
Phước Quế Publications, Arlington, USA 2003
Mục Lục.
Quyển Thượng.
Quyển Trung.
Quyển Hạ.
Quyển Chung.
NHỮNG ĐOÁ HOA THIỀN
禪 之 花
QUYỂN TRUNG

1012.  Gập hổ không?
Hoàng Bá từ ngoài về, Bách Trượng hỏi:
- Ngươi đi đâu về?
- Hái nấm ở chân núi Đại Hùng về.
- Có thấy hổ không?
Hoàng Bá giả làm tiếng hổ gầm. Bách Trượng lấy tay giả bộ cầm búa chém hổ. Hoàng Bá hươi tay đánh cho Bách Trượng một chưởng. Bách Trượng lớn tiếng cả cười.
Ngày hôm sau, Bách Trượng thượng đường bảo với đại chúng rằng:
- Dưới núi Đại Hùng có một con hổ, các ngươi phải cẩn thận đề phòng, lão tăng đã bị nó ngoạm một miếng đấy. 
 (Thiền ChiHoa)
Con hổ của Bách Trượng là để chỉ tự tánh. Hoàng Bá đã hiểu ý Bách Trượng nên không trực tiếp trả lời (Vì tự tánh không thể dùng lời mà tả được), mà giả tiếng hổ gầm hàm ý đã ngộ tự tánh. Bách Trượng giả vờ đánh, Hoàng Bá giả vờ đỡ đều là biểu lộ chấp nhận hành động của đối phương. Cái cười của Bách Trượng mới bao hàm nhiều ý nghĩa làm sao!

1013.  Cán dao có công dụng gì?
Có một ngày, Thạch Thất theo Thạch Đầu lên núi chơi. Thạch Đầu nói:
- Đằng trước có cái cây ngăn cản không nhìn được, mau giúp ta chặt đi.
- Đưa dao đây.
Thạch Đầu rút dao ra hướng lưỡi dao về phía Thạch Thất.
- Không phải đầu này, đầu có cán kia.
- Cán có ích gì?
Ngay lúc đó Thạch Thất đại ngộ. 
 (Thiền Chi Hoa)
Thạch Đầu kêu Thạch Thất chặt cây ngăn thị tuyến, ám chỉ trừ bỏ những ràng buộc của Tâm thì tâm sẽ trở lại thanh tịnh. Khi Thạch Thất yêu cầu đưa phía cán dao, Thạch Đầu hỏi, “Cán có ích gì?” ám chỉ bản thể giới. Lời cùng, ý tuyệt, còn chấp “cán” thì làm sao đạt tới cảnh giới này được?

1014.  Ai ở trong giếng?
Có ông tăng hỏi Thạch Sương:
- Ý của tổ sư từ Tây sang là gì?
- Giả như có người rớt xuống giếng sâu ngàn thước, ngươi không dùng giây mà cứu được hắn ra thì ta sẽ bảo cho ngươi biết ý của tổ sư từ Tây sang là gì!
- Gần đây ở Hồ Nam có Xướng hòa thượng cũng hệt như thiền sư, giảng Đông, giảng Tây.
Thạch Sương kêu Ngưỡng Sơn đuổi ông tăng ra.
Ngưỡng Sơn hỏi Đam Nguyên:
- Cứ ý thiền sư thì làm sao cứu được người ở trong giếng?
- Đồ ngốc, ai ở trong giếng?
Ngưỡng Sơn lại hỏi Quy Sơn:
- Làm sao để cứu được người ở trong giếng?
Quy Sơn lớn tiếng gọi:
- Huệ Tịch.
- Dạ.
Quy Sơn nói:
- Đã ra rồi!
Về sau Ngưỡng Sơn kể lại câu chuyện này cho đại chúng nghe và nói:
- Ta tại Đam Nguyên đắc danh, tại Quy Sơn đắc địa! 
 (Thiền Chi Hoa)
“Ta tại Đam Nguyên đắc danh” là chỉ lý ngộ. Câu của Đam Nguyên, “Ai ở trong giếng?” đả phá sự chấp trước của Ngưỡng Sơn làm cho Ngưỡng Sơn hiểu rằng tự tánh không bị trói buộc bởi không, thời gian. “Tại Quy Sơn đắc địa” là chỉ sự chứng ngộ. Khi nghe Quy Sơn kêu tên mình bèn lên tiếng dạ, lập tức hiểu rằng cái tâm ấy đã ra khỏi giếng. Chân Tâm là như như bất động ở khắp nơi, không bị ra vào, trong, ngoài, cùng những quan niệm về thời, không gian giới hạn. Chính là “Mười đời xưa nay, đầu cuối chẳng rời đương niệm, vô biên sát thổ, ta người chẳng cách một sợi lông.”

1015.  Biện luận về ngón tay và mặt trăng.
Có ông tăng hỏi Pháp Nhãn:
- Đệ tử không hỏi ngón tay mà muốn hỏi mặt trăng là cái gì?
- Ngươi không hỏi ngón tay, vậy ngón tay là gì?
Lúc đó, có một ông tăng khác hỏi:
- Đệ tử không hỏi mặt trăng mà muốn hỏi ngón tay là cái gì?
- Mặt trăng.
Ông tăng phản đối:
- Đệ tử hỏi ngón tay sao sư phụ lại đáp mặt trăng?
- Đó là vì ngươi hỏi ngón tay. 
(Thiền Chi Hoa)
Nhân lúc trước có người hỏi Pháp Nhãn, “Thế nào là tâm của cổ Phật?” Pháp Nhãn đáp, “Có lòng từ bi hỉ xả là tâm của cổ Phật.” Lời đáp tâm của cổ Phật và lời đáp ngón tay và mặt trăng đều là lấy dụng làm thể. Hỏi mặt trăng đáp ngón tay, ngón tay chỉ là để chỉ phương hướng mà thôi, không phải là tự tánh chân thật vì tự tánh chân thật không có sở tại. Hiện tượng thấu xứ tức bản thể, bản thể hiện xứ tức hiện tượng. Thể không ly dụng, dụng không ly thể, thể dụng chẳng hai. Hỏi ngón tay đáp mặt trăng giả như hỏi mặt trăng nhất định đáp ngón tay. Ngón tay và mặt trăng đều là thế pháp, giả danh mà an lập; nhưng ở tự tánh thì lại không có sự phân biệt.

1016.  Một mình trên núi.
Có một ông tăng hỏi Triệu Châu:
- Khi một mình ở trên núi thì cảm thấy thế nào?
- Ta không trả lời ngươi.
- Tại sao vậy?
- Vì sợ ngã lăn trên đất. 
(Thiền Chi Hoa)
Núi (cô phong) là chỉ bản thể giới vượt trên năng sở đối đãi không thể dùng lời mà nói! “Ngã lăn trên đất” là chỉ hiện tượng giới. Ta không thể dùng ngôn ngữ để nói về bản thể giới đuợc, vì ngôn ngữ đã có sai biệt, năng sở tương đối, do đó Triệu Châu mới nói, “Sợ ngã lăn trên đất” để chỉ rằng ở bản thể giới phải quên lời, tuyệt ý vậy.

1017.  Tự tánh thần châu.
Có một lần đức Thế Tôn lấy một viên “tùy sắc ma ni châu” cho năm thiên vương xem và hỏi rằng:
- Viên bảo châu này mầu gì?
Năm vị thiên vương, mỗi người đều nói một mầu khác nhau. Đức Phật thâu viên bảo châu lại và giơ bàn tay ra hỏi rằng:
- Viên bảo châu này có mầu gì?
Các thiên vương đáp:
- Bạch đức Thế Tôn, trong tay người không có châu thì làm sao có mầu gì?
Đức Thế Tôn bèn nói rằng:
- Các ngươi thực là mê muội, khi ta lấy viên bảo châu cho các ngươi xem, các ngươi mỗi người đều nói khác nhau: Xanh, vàng, trắng, đỏ. . . không người nào nói giống nhau. Nhưng lúc ta lấy viên chân bảo châu triển thị ra thì các ngươi lại không biết, Ngộ đạo lại khó như vậy sao?
Ngay chính lúc đó năm vị thiên vương đều giác ngộ. 
 (Thiền Chi Hoa)
Chân bảo châu dụ cho tự tánh. Tự tánh thần châu có tánh quang minh, thanh tịnh bất động… nhưng có dạng thức nào? Nói giống một vật nào là cũng không trúng. Đó là chỗ khó khăn vậy! Bởi vì nếu có thể trình hiện thì chỉ làm cho rối mắt. Không phải là bản thân của tự tánh thần châu vì tự nó không có pháp nào trình hiện cũng không thể nào trình hiện được. Đó mới thật là tự tánh thần châu.

1018.  Sa di có chủ.
Ngưỡng Sơn tham phỏng Quy Sơn.
Quy Sơn hỏi:
- Ngươi là sa di có chủ hay là sa di vô chủ?
- Có chủ.
- Chủ ở đâu?
Ngưỡng Sơn từ tây chạy sang Đông, sau đó đứng yên. Quy Sơn rất tán thưởng.
 (Thiền Chi Hoa)
“Chủ” đây là chỉ tự tánh. Quy Sơn biết Ngưỡng Sơn đã hiểu nhưng muốn cho chắc nên hỏi thêm,” Chủ ở đâu?” Ngưỡng Sơn biết ở đâu là trỏ không gian, không diễn tả được bản chất của tự tánh, do đó, không mở miệng mà đi từ Tây sang Đông, rồi đứng yên, tỏ rằng tự tánh ở khắp nơi và động tĩnh là một, không dùng lời mà nói được. Kinh Duy Ma Cật có nói, “Đến chẳng đến, đi chẳng đi! Vì sao?  Vì đến chẳng biết từ đâu đến, đi chẳng biết đi về đâu.”  Chính là miêu tả rất đúng tính chất của tự tánh.

1019.  Đường Thạch Đầu trơn lắm.
Ẩn Phong đến từ biệt Mã Tổ. Mã Tổ hỏi:
- Ngươi định đi đâu?
Ẩn Phong đáp:
- Đệ tử định đến thăm Thạch Đầu.
Mã Tổ nói:
- Cẩn thận đường Thạch Đầu trơn lắm đấy!
- Sư phụ đừng ngại, đệ tử có mang theo gậy trúc, phùng trường tác hí, ứng phó được mà!
Đến nơi, đi diễu quanh thiền sàng một vòng, chống gậy đứng mà hỏi tông chỉ của Thạch Đầu là gì? Thạch Đầu không nhìn Ẩn Phong ngẩng đầu lên mà than dài:
- Trời xanh! Trời xanh!
Ẩn Phong không lời đối lại, về thuật cho Mã Tổ nghe.Mã Tổ nói:
- Ngươi đến hỏi lại, đợi Thạch Đầu trả lời thì ngươi hứ hai tiếng.
Ẩn Phong quay lại và cũng làm như cũ nhưng khi hỏi lại thì Thạch Đầu không nói nữa mà chỉ hứ hai tiếng. Ẩn Phong lại không lời đối được về kể cho Mã Tổ nghe. Mã Tổ nói:
- Ta đã chẳng bảo ngươi trước là gì: “Đường Thạch Đầu trơn lắm!”
 (Thiền Chi Hoa)
Câu của Mã Tổ, “Đường Thạch Đầu trơn lắm” là chỉ cơ phong của Thạch Đầu rất lợi hại, không dễ đối phó. Ẩn Phong tự thị thông minh, có mang theo gậy trúc không sợ đường trơn. Khi hỏi tông chỉ của Thạch Đầu, Thạch Đầu trả lời, “Trời xanh!” có thể giải thích là hư không (thiền gia thường lấy trời, đất để trỏ hư không), là chỉ tự tánh; có ý nói tông chỉ, mục đích của người tu là chứng ngộ chân như bản tánh. Hiển nhiên là Ẩn Phong không hiểu ý của Thạch Đầu nên khi Thạch Đầu nói, “Trời Xanh!” là dùng ngôn ngữ, là chấp tướng do đó Mã Tổ dạy Ẩn Phong dùng tiếng hứ mà đáp, có ý bảo còn chấp. Đồng thời, tiếng hứ đồng thanh với tiếng hư vừa đại biểu hư không mà cũng không phải là ngôn ngữ. Chẳng ngờ Thạch Đầu biết đối phương có chuẩn bị bèn chiếm tiên cơ hứ trước hai tiếng. Ẩn Phong vô pháp mở miệng. Quả nhiên, câu nói của Mã Tổ đã ứng nghiệm, “Đường Thạch Đầu trơn lắm!”

1020.  Con chó không có Phật tánh.
Có ông tăng hỏi Triệu Châu:
- Con chó có Phật tánh không?
- Không!
- Những loài xuẩn động hàm linh đều có Phật tánh, tại sao con chó lại không có?
- Vì có nghiệp thức.
Lại có ông tăng khác hỏi:
- Con chó có Phật tánh không?
- Có.
- Tại sao phải làm thú?
- Biết mà cứ làm! 
 (Thiền Chi Hoa)
Với cùng một câu hỏi, cách trả lời của Triệu Châu lúc nói có, lúc nói không theo lẽ đương nhiên là đầy mâu thuẫn. Nhưng tại sao lại có sự mâu thuẫn khó hiểu ấy? Đứng trên lập trường của Triệu Châu thì lại chẳng có gì là mâu thuẫn cả. Vì đây là tùy cơ mà đáp, không cốt trả lời mà là làm cho khởi nghi tình rồi do giải được nghi tình mà ngộ. Nếu lấy chữ “không” của Triệu Châu mà giải là không tứ đức (thường, lạc, ngã, tịnh) và chữ “có” là tất cả đều có Phật tánh thì cũng được vì con chó có nghiệp thức thành ra bốn đức không hiện; tuy chó có Phật tánh nhưng mà vì “biết mà cứ làm” tạo ra những ác nghiệp cho nên phải làm kiếp chó. Chữ “không” này của Triệu Châu quả là độc sáng, nó chính là sinh mạng, là tông chỉ của thiền sư vậy.

1021.  Mây trên trời xanh, nước trong bình.
Lý Cao rất ngưỡng mộ phong thái và trí tuệ của Dược Sơn bèn tìm vào núi bái phỏng. Tới nơi chỉ thấy Dược Sơn cầm sách đứng dưới tùng cây chăm chú đọc hầu như không thèm để mắt tới Lý Cao. Lý Cao thấy Dược Sơn mục hạ vô nhân, nổi giận nói rằng:
- A! Gập mặt chẳng như nghe danh.
Nói rồi phất tay áo định đi. Chính lúc đó, Dược Sơn bỏ sách xuống, mỉm cười mà rằng:
- Xin hỏi tiên sinh vì sao trọng tai mà khinh mắt vậy?
Lý Cao không hiểu lời nói bóng gió của Dược Sơn, bèn hỏi:
- Xin hỏi đại sư thế nào là Đạo?
Dược Sơn giơ tay chỉ lên trời, rồi lại chỉ xuống đất hỏi:
- Ngươi hiểu không?
- Không hiểu.
Dược Sơn nói:
- Mây trên trời xanh, nước trong bình.
Lý Cao nghe rồi lập tức đại ngộ, bỏ ngay thái độ khinh mạn, cung kính bái tạ Dược Sơn, và làm ngay một bài kệ dâng lên Dược Sơn đại ý, “Đại sư tu luyện thân hình như con hạc, đọc sách dưới gốc tùng, khi tôi đến hỏi Đạo ngài, đại sư chỉ đơn giản đáp, “Mây trên trời xanh, nước trong bình.”
Bài kệ của Lý Cao:
練 得 身 形 似 鶴 形
Luyện đắc thân hình tự hạc hình
千 株 松 下 兩 函  經
Thiên châu tùng hạ lưỡng hàm kinh
我 來 問 道 無 餘 說
Ngã lai vấn đạo vô dư thuyết
雲 在 青 天 水 在 瓶
Vân  tại thanh thiên thủy tại bình
Luyện  được  thân  hình  giống  nhạn  hình
Dưới  tùng  ngàn  gốc  hai  hòm  kinh
Ta  tìm  hỏi  Đạo  không  lời  khác
Mây ở  trời  xanh,  nước  trong  bình.
 (Thích Thanh Từ dịch)
 (Thiền Chi Hoa)
Mây trên trời xanh không biết có trời. Nước ở trong bình không biết có bình tự do, tự tại chẳng bị trói buộc. Đó chính là bản chất của Đạo. Vạn vật trong vũ trụ cũng đều thế cả không phân biệt cao hay thấp giống như câu của Lục Tượng Sơn:” Đạo ở khắp thiên hạ, không chỗ nào là thiếu cả.”

1022.   Muỗi đốt trâu sắt.
Dược Sơn hỏi Thạch Đầu:
- Đệ tử đối với tam thừa thập nhị phân giáo có chỗ hiểu được, nhưng đối nam phương,”Chỉ thẳng tâm người, thấy tánh thành Phật” thì vẫn chưa hiểu, mong sư phụ lượng cả từ bi giảng giải cho.
Thạch Đầu trả lời:
- Khẳng định không trúng, phủ định cũng không trúng; khẳng định và phủ định đều chẳng trúng, lúc đó ngươi phải làm sao?
Dược Sơn hoang mang chẳng biết đáp làm sao.
Qua một lúc, Thạch Đầu lại nói:
- Nhân duyên của ngươi chẳng phải tại đây, mau đi kiếm Mã Tổ đại sư.
Dược Sơn nghe lời đi kiếm Mã Tổ và cũng nêu lên cùng câu hỏi.
Mã Tổ đáp:
- Ta có lúc kêu hắn nhướng mày chớp mắt, có lúc không kêu hắn nhướng mày chớp mắt. Có lúc hắn tự nhướng mày chớp mắt, có lúc không. Ngươi giải thích thế nào?
Dược Sơn nghe tới đó liền giác ngộ hướng về Mã Tổ mà lạy tạ.Mã Tổ hỏi:
- Ngươi hiểu thế nào mà lạy ta?
- Đệ tử ở nơi Thạch Đầu giống như con muỗi mà đốt trâu sắt vậy! 
 (Thiền Chi Hoa)
Lời nói của Thạch Đầu và Mã Tổ tuy khác nhau nhưng cùng một ý nghĩa. Câu của Mã Tổ:”Ta có lúc kêu hắn nhướng mày chớp mắt” là khẳng định không trúng của Thạch Đầu; “Có lúc không kêu hắn nhướng mày chớp mắt” là phủ định không trúng của Thạch Đầu; “Có lúc hắn tự nhướng mày chớp mắt, có lúc không” là khẳng định và phủ định đều không trúng của Thạch Đầu.
Hắn chính là tự tánh. “Muỗi đốt trâu sắt” là chỉ Dược Sơn tại Thạch Đầu không liễu giải được mà chỉ đốn ngộ được nhờ nghe Mã Tổ.

1023.   Mặt mũi lúc chưa sanh.
Hương Nghiêm tham phỏng Quy Sơn. Quy Sơn nói:
- Ta nghe nói lúc ngươi ở với Bách Trượng, hỏi một đáp mười, hỏi mười đáp trăm, vì ngươi thông minh lanh lợi. Nay sinh tử là việc lớn, ta hỏi ngươi lúc cha mẹ chưa sanh ra thì mặt mũi ngươi như thế nào?
Câu hỏi này làm Hương Nghiêm không biết đâu mà đáp. Về phòng, đem những sách vở thường đọc, giở xem từng quyển hy vọng tìm lời giải đáp mà không thấy. Nhân đó cảm khái mà nói rằng, “Bánh vẽ trong sách không làm thỏa mãn cơn đói của ta”.
Do đó, yêu cầu Quy Sơn giải thích bí mật.
Quy Sơn từ chối:
- Giả sử nay ta giải thích cho ngươi, tương lai ngươi sẽ mắng chửi ta; vả lại những kiến giải của ta không quan hệ gì đến ngươi cả.
Hương Nghiêm cực kỳ thất vọng đem hết sách vở ra đốt, phẫn hận mà rằng:
- Ta là gã chẳng ra gì, học Phật chẳng nổi chỉ nên làm một vị tăng hóa duyên khất thực mà thôi!
Bèn từ biệt Quy Sơn, vân du khắp nước. Khi tới Nam Dương bèn đi tham bái di tích của Huệ Trung quốc sư và tạm trú ở đó. Một ngày kia, chính lúc đang rẫy cỏ, bẩy một hòn gạch văng lên, chạm vào cây tre kêu thành tiếng. Tiếng động ấy bỗng nhiên đưa Hương Nghiêm vào ngộ cảnh. Hương Nghiêm bèn về phòng tắm gội sạch sẽ, đốt hương hướng vào quãng không và nói:
- Sư phụ, ơn huệ của người còn lớn hơn ơn cha mẹ sinh thành, nếu sư phụ giảng cho con lúc đó thì con đâu có ngày nay.
Hương Nghiêm cảm kích làm một bài kệ dâng Quy Sơn như sau:
一 擊 忘 所 知
Nhất kích vong sở tri
更 不 假 修 持
Cánh bất giả tu trì
動 容 揚 古 路
Động dung dương cổ lộ
不 墮 悄 然 機
Bất đọa tiễu nhiên cơ
處 處 無 蹤 跡
Xứ xứ vô tung tích
聲 色 外 威 儀
Thanh sắc ngoại uy nghi
諸 方 達 道 者
Chư phương đạt đạo giả
咸 言 上 上 機
Hàm ngôn thượng thượng cơ
   香 嚴 智 閑
   Hương Nghiêm Trí Nhàn
Tiếng  dội  lùm  tre  quên  sở  tri
Có  gì  đối  trị  giả  tu  trì
Đổi  thay  thần  sắc  nêu  đường  cổ
Nếp  cũ  tiêu  điều  chẳng  trệ  si
Chốn  chốn  dạo  qua  không  dấu  vết
Sắc  thanh  nào  nhiễm  được  uy  nghi
Mười  phương  đạt  giả  đều  như  vậy
Tối  thượng  là  đây  biết  nói  gì?
 (Trúc Thiên dịch)
 (Thiền Chi Hoa)
Ngôn ngữ là công cụ để chuyển đạt ý thức, nhưng dùng ngôn ngữ để diễn đạt tự tánh thì không thể được. Do đó, thiền gia không dùng ngôn ngữ để giải thích, chỉ cố làm sao cho người ta khởi nghi tình, thâm nhập tham cứu. Mục đích là xóa bỏ mọi chấp trước (bao quát tất cả những kinh nghiệm nghe, thấy) mà có thể chứng được tự tánh. Cũng như trường hợp của Hương Nghiêm nghe tiếng động của hòn gạch va vào cây tre mà giác ngộ tự tánh không bị câu thúc bởi hình thể, không, thời gian. Quy Sơn không chịu giảng ra, không phải là không giảng ra được mà là sợ làm dứt đoạn huệ mạng của Hương Nghiêm, muốn để tự Hương Nghiêm  theo thiền cơ mà ngộ chân như tự tánh. Do đó, Hương Nghiêm tắm gội sạch sẽ, đốt hương mà lạy tạ sư phụ cũng chẳng phải là lạ.

1024.  Chẳng nghĩ  thiện, chẳng nghĩ ác.
Lục tổ Huệ Năng tiếp thu y bát từ Ngũ tổ bí mật rời bỏ Đông Sơn, sợ đồ chúng của Thần Tú đuổi theo. Trần Huệ Minh là quân nhân xuất thân, cước bộ rất mau, tánh tình rất thô bạo, đuổi kịp Huệ Năng. Thấy Huệ Minh tới, Huệ Năng đưa y bát cho Huệ Minh.
Huệ Minh không nhận nói:
- Tôi tới đây không phải vì y bát mà là cầu pháp.
- Nếu ông muốn cầu pháp thì trước hết hãy dẹp hết ngoại duyên tư niệm, ta sẽ vì ông mà nói pháp.
Huệ Minh lạy tạ. Lúc đó Huệ Năng nói:
- Không nghĩ thiện, không nghĩ ác, chính ngay khi ấy thế nào là bản lai diện mục của Minh thượng tọa?
Huệ Minh nghe rồi đại ngộ bèn quay trở lui. 
 (Thiền Chi Hoa)
Quan niệm thiện ác là quan niệm thị phi (phải, trái). Loại quan niệm này là do thức tâm sinh ra. Lục tổ bảo Huệ Minh không nghĩ thiện và ác là để trừ thức tâm mà đạt tới tự tánh. Vì tự tánh vượt trên tất cả hiện tượng nên không dùng khẳng định mà hình dung vì như vậy là chấp có, cũng không dùng phủ định vì như vậy là chấp không, rơi vào đoạn diệt.

1025.  Chẳng có thánh gì cả.
Đạt Ma tổ sư năm 527 đến miền nam Trung Quốc nhận lời mời của Lương Võ Đế ghé qua Nam Kinh.Lương Võ Đế hỏi:
- Từ khi trẫm lên ngôi, lập nhiều chùa chiền, in nhiều kinh sách, cấp dưỡng tăng ni, vậy có công đức gì không?
- Không.
- Tại sao không?
- Vì những việc bệ hạ làm đó, chỉ là quả báo nhỏ của thế tục không phải là chân công đức.
- Vậy sao, còn chân công đức là thế nào?
- Chân công đức là trí tuệ tối viên mãn, tối dung thông; bản thể của nó là không tịch, bệ hạ không thể dùng phương pháp thế tục mà đạt được.
- Thế nào là thánh?
- Là hoàn toàn không, trong cái thế giới không đó, không có cái gì là thánh cả!
- Không có thánh sao, vậy người là ai?
- Không biết. 
 (Thiền Chi Hoa)
Căn bản của công án này là câu “Chẳng có thánh gì cả” (quách nhiên vô thánh). Phật pháp phân làm chân, tục nhị đế. Lương Võ Đế hỏi là hỏi nghĩa của Chân đế. Đạt Ma đáp là tự chứng cảnh giới, vượt trên cả Chân Tục nhị đế là cảnh giới niết bàn tuyệt đối. Do đó, Lương Võ Đế không hiểu cũng chẳng có gì là lạ, vì trong cảnh giới “quách nhiên vô thánh” vượt ngoài tất cả phàm thánh, mê ngộ, phải trái; được mất là cảnh giới tự tại vô ngại. Do đó, căn bản của thiền là truyền ngoài giáo lý, không thể dùng lời mà giảng cho hiểu thế nào là thánh đế được.

1026.  Tất cả hiện thành.
Có lần La Hán hỏi Pháp Nhãn:
- Người từng nói tam giới duy tâm, vạn pháp duy thức; giờ xin hỏi hòn đá ở trước sân kia là ở trong tâm hay ở ngoài tâm?
- Ở trong tâm.
- Tại sao ngươi lại đem khối đá lớn kia ném vào trong tâm vậy?
Câu nói này làm cho Pháp Nhãn khốn quẫn, quyết tâm nhờ La Hán giải đáp. Mỗi ngày đều đưa những lời đáp mới, La Hán đều nói:
- Phật pháp chẳng phải như vậy.
Cuối cùng Pháp Nhãn chỉ còn cách thưa với La Hán rằng:
- Đệ tử đã cùng lời, tuyệt lý rồi.
- Nếu lấy Phật pháp mà nói tất cả đều hiện thành vậy!
Nghe câu nói đó Pháp Nhãn hoát nhiên đại ngộ. 
(Thiền Chi Hoa)
“Tất cả hiện thành” là chỉ chúng sinh đều có Phật tánh hay “Phiền não tức Bồ Đề.” “Sinh tử tức Niết Bàn” dụng tức là thể. Phật tánh vốn không trong ngoài, hòn đá là Phật tánh hiển lộ sao lại phân biệt trong tâm, ngoài tâm? Tinh thần của thiền là vượt ngoài cả Dụng lẫn Thể. Về sau Pháp Nhãn làm phương trượng thường nói với đệ tử rằng, “Xưa nay thực thể vốn hiện thành ngay trước mắt chỉ vì bị các ngươi biến thành danh tướng vậy.” 

1027.  Xả thức, dụng căn.
Có ông tăng hỏi Pháp Nhãn:
- Dùng phương pháp nào để phát lộ tự kỷ mà cùng với Đạo hợp nhất?
Pháp Nhãn hỏi lại:
- Ngươi lúc nào phát lộ tự kỷ mà không cùng với Đạo hợp nhất?
Ông tăng lại hỏi:
- Lúc sáu thức không ngộ âm của chân lý thì làm sao?
Pháp Nhãn đáp:
- Đó chẳng qua như bầy gia thuộc của ngươi thôi!
Và hỏi lại:
- Ngươi nói sáu thức không thể tri âm là nói tai hay nói mắt? Nếu quả có chân lý thì đâu có thể vì sáu thức không biết mà không có chân lý đâu? Cổ nhân từng nói “Lìa thanh sắc chấp thanh sắc, lìa danh tự chấp danh tự” là ý đó. 
 (Thiền Chi Hoa)
Công án này nêu lên hai vấn đề:
Vấn đề một: Người ngộ đạo có sinh hoạt khác thường không? Câu trả lời của Pháp Nhãn nhận định rằng, “Thấy núi vẫn là núi, sông vẫn là sông” đều là Đạo, Đạo không ngoài sinh hoạt hàng ngày.
Vấn đề hai: Thức tâm sinh diệt và tự tánh vô sinh diệt không khế hợp thì sao? Chúng ta trong sinh hoạt hàng ngày vọng tưởng quá nhiều nên tự tánh bị mê mờ nên có thể “tu” nhưng không thể “ngộ.” Đức Phật lúc giác ngộ dưới gốc Bồ Đề có nói rằng, “Kỳ thay! Kỳ thay! Đại địa chúng sinh đều có như lai trí tuệ đức tướng nhưng vì vọng tưởng chấp trước nên không chứng đắc.  Nếu lìa vọng tưởng thì nhất thiết trí, tự nhiên trí, vô sư trí, tự nhiên hiện tiền.” “Bầy gia thuộc” là chỉ lục căn, nếu biết dùng lục căn thì lục thức sẽ giúp chúng ta liễu giải tự tánh. (Kinh Lăng Nghiêm: Xả thức dụng căn) Vì lục thức phải nghe lệnh của chủ nhân tự tánh. Chỉ cần không sinh niệm phân biệt tùy duyên mà hành động thì tất cả đều là Đạo không có gì gọi là Thể, là Dụng nữa.

1028.   Diệu dụng của chữ vô.
Đạo Thụ là môn đồ của Thần Tú, cùng vài vị học tăng trú ở trên núi. Có một vị quái nhân thường xuất hiện, có thể tùy ý hóa thành Phật, Bồ Tát, La Hán, hoặc phóng thần quang hoặc thanh âm làm cho đồ đệ của Đạo Thụ rất kinh khủng, không biết vị quái nhân ở đâu đến mà có quyền phép như vậy? Vị quái nhân tác quái mười năm rồi bỗng nhiên một hôm biến mất, không thấy xuất hiện nữa.
Đạo Thụ bảo môn đồ rằng:
- Vị thuật sĩ này dùng trăm kế, ngàn phương mà lừa dối người; phương pháp đối phó của ta là chỉ không nghe, không thấy nên hắn đã dùng hết cách mà cũng chẳng ăn thua gì!
 (Thiền Chi Hoa)
Thuật sĩ dùng hình tướng lừa dối đại chúng, giả như Đạo Thụ cũng dùng hình tướng ứng phó thì không thể thắng được vì cảnh chẳng bao giờ ngưng. Phương pháp của Đạo Thụ là không nghe, không thấy nên vượt cả hình tướng khiến cho thuật sĩ cùng đường mà phải đi. Đạo Thụ chỉ dùng chữ “Vô” mà chế chữ “Hữu”. Bởi vì bất luận chữ hữu rộng lớn như thế nào, bền vững như thế nào cũng còn giới hạn, còn chữ vô thì lớn không ngoài, nhỏ không trong, giải trừ mọi chấp trước, vi diệu vô cùng, đó chính là ứng dụng chữ “không” của nhà Phật đối cảnh không chấp nên không bị vướng mắc vào cảnh mà thắng được cảnh vậy.

1029.   Rửa bát.
Có ông tăng bạch với Triệu Châu:
- Đệ tử mới đến thiền viện, xin sư phụ chỉ điểm.
Triệu Châu hỏi:
- Ăn cháo chưa?
- Ăn rồi!
- Vậy, rửa bát đi.
Ông tăng lập tức lạy tạ. 
 (Thiền Chi Hoa)
“Bát” chỉ tự tánh, tự tánh không để vật nào dính vào. Câu hỏi của Triệu Châu, “Ăn cháo rồi chưa?” “Rồi” và “Chưa” đều là biên kiến, phải trừ bỏ biên kiến đối đãi thì mới chứng được tự tánh. Vì vậy Triệu Châu mới khuyên đi rửa bát.

1030.  Vô vị chân nhân.
Một lần tại pháp hội, Lâm Tế nói với đại chúng rằng:
- Trong thịt đỏ của các ngươi có một vị vô vị Chân Nhân thường ra vào, mà các ngươi chẳng biết. Kẻ chứng hãy thử coi.
Lúc đó có một ông tăng bước ra hỏi:
- Vô vị chân nhân là gì?
Lâm Tế từ thiền sàng nhẩy xuống túm lấy ông tăng:
- Nói đi, nói đi!
Chính lúc ông tăng này mở miệng định nói, Lâm Tế đẩy ông ra và nói:
- Cái que cứt khô có phải là vô vị chân nhân không? 
 (Thiền Chi Hoa)
Vô vị chân nhân là chỉ Phật tánh, là cái chân ngã không đầu, không cuối, chẳng sanh, chẳng diệt, vượt cả thời, không  gian cùng với Đạo hợp nhất. Tự tánh chân như không thể nói ra được. Lâm Tế vì muốn tiếp dẫn học nhân dùng “Vô vị chân nhân” để biểu thị. Ông tăng đã hiểu rõ ý. Lâm Tế biết vậy nhân cơ hội trắc nghiệm ngộ cảnh của ông, muốn ông tự giải đáp. Khi ông tăng mở miệng định nói, Lâm Tế sợ ông lạc vào tâm thức nói ra cái không thể nói, nên đẩy ông ra ngăn không cho nói. Động tác này là tác phong nhất quán của thiền gia. Sau, Lâm Tế lại lấy que cứt khô mà dụ cho “vô vị chân nhân” , chỉ phàm thánh bình đẳng, chúng sinh đều có Phật tánh. Thật là một mũi tên mà bắn hai chim vậy.

1031.  Vô Tình thuyết pháp.
Động Sơn khi mới gập Vân Nham hỏi rằng:
- Vô tình thuyết pháp ai nghe được?
Vân Nham lập tức trả lời:
- Vô tình nghe được.
- Thiền sư nghe được chăng?
- Giả sử ta nghe được, ta đã được pháp thân, lúc đó ta thuyết pháp ngươi không nghe được.
Động Sơn không hiểu hỏi lại:
- Vì sao đệ tử không nghe được?
Vân Nham đưa phất trần lên hỏi:
- Ngươi nghe không?
- Không nghe.
- Ta thuyết pháp ngươi còn không nghe ra, nói chi đến vô tình thuyết pháp?
- Vô tình thuyết pháp là do đâu?
- Trong kinh A Di Đà chẳng có nói: “Nước, chim, cây rừng đều niệm Phật, niệm pháp sao? “
Nghe lời đó Động Sơn khai ngộ bèn làm bài kệ sau:
也 大 奇 也 大 奇 
Dã đại kỳ dã đại kỳ 
無 情 說 法 不 思 議
Vô tình thuyết pháp bất tư nghì
若 蔣 耳 聽 終 難 會
Nhược tương nhĩ thính chung nan hội
眼 處 聞 聲 方 得 知
Nhãn xứ văn thanh phương đắc tri.
Thật  cũng  lạ  thay,  thật  cũng  lạ!
Vô  tình  nói  pháp,  nghĩ  không  ra
Dùng  đến  tai  nghe  càng  chẳng rõ
Lấy  mắt  mà  nghe  mới  hiểu  a!
                                                                           (Thiền Chi Hoa)
Tai thì nghe được thanh trần, mắt thì nhìn được sắc trần; ở đây mắt nghe được thì thanh này không phải là thanh trần mà là tự tánh. Mắt này không phải mắt thịt mà là mắt Đạo.Tự tánh ở khắp mọi nơi, có mắt Đạo thì có thể nghe thanh của tự tánh. Người khác vật vì có ngôn ngữ để diễn đạt tư tưởng. Vật vô tình không có ngôn ngữ, dĩ nhiên không có tư tưởng làm sao có thể thuyết pháp? Nhân vì hữu tình và vô tình đều có cùng một thể tự tánh. Chỉ cần nhìn thấu suốt tự tánh của sự vật là có thể xúc động linh cơ mà khai ngộ. Tô Đông Pha có thơ rằng:”Tiếng suối reo chính là tướng lưỡi rộng dài, Mầu sắc núi chẳng phải là không thân thanh tịnh.”  Do đó, vô tình thuyết pháp không phải là vọng ngữ vậy.

1032. Tâm là Phật.
Vô Nghiệp bình thời nghiên cứu luật tạng rất thâm sâu. Lúc mới gập Mã Tổ, Mã Tổ thấy tướng mạo mạnh mẽ, to lớn bèn nói:
- Bên ngoài đường đường mà bên trong chẳng có Phật!
Vô Nghiệp cung kính quỳ xuống thưa rằng:
- Con từng nghiên cứu tam thừa có chỗ sở đắc, nhưng đối với chủ trương của thiền tông, “Tức tâm. Tức Phật” thì vẫn chưa hiểu. 
- Ta bảo cho ngươi biết chính cái tâm chưa hiểu được đó là Phật chứ không có cái gì khác.
Vô Nghiệp vẫn không hiểu, bèn hỏi tiếp:
- Xin hỏi ý của tổ sư từ Tây sang là gì?
Mã Tổ trợn mắt:
- Vị đại đức này thực mê mờ quá, mau đi đi, lúc khác lại.
Chính lúc Vô Nghiệp định đi, Mã Tổ ở phía sau lưng quát lớn:
- Đại đức!
Vô Nghiệp quay đầu lại. Mã Tổ bèn hỏi:
- Là cái gì? 
Nghe lời nói đó Vô Nghiệp bèn lạy tạ. 
 (Thiền Chi Hoa)
Tâm, Phật, chúng sinh không sai khác. Vô Nghiệp không hiểu rõ ý đó. Vì tự tánh không thể nói, chỉ có thể dùng cơ duyên xảo diệu mà tiếp dẫn. Mã Tổ kêu lớn, “Đại Đức!” Vô Nghiệp ngoảnh đầu lại. Ai nghe tiếng kêu? Ai ngoảnh đầu lại? Đó chẳng phải hoàn toàn do tự tánh của Vô Nghiệp đó sao? Chỉ một tiếng quát của Mã Tổ đã làm Vô Nghiệp ngộ được cái diệu dụng của tâm vậy.

1033.  Chuột thuyết pháp.
Thị lang Vương Công Tông Mộc nói với Liên Trì rằng:
- Nửa đêm, chuột kêu chít chít không ngừng, giảng hết cả bộ kinh Hoa Nghiêm.
Liên Trì nói:
- Ngay chính lúc đó, con mèo đột nhiên xuất hiện, biết phải làm sao?
Tông Mộc im lặng. Liên Trì bèn tự trả lời:
- Pháp sư chạy đi, lưu lại giảng án.
Sau đó lại làm một bài kệ như sau:
老 鼠 喞 喞 華 嚴 歷 歷
Lão  thử  tức  tức hoa nghiêm lịch lịch
奇 哉 王 侍 郞 卻 被 畜
Kỳ tai Vương thị lang khước bị súc 
生 惑 
sanh hoặc 
猫 兒 突 出 畫 堂 前 
Miêu nhi đột xuất hoạch đường tiền 
床 頭  說 法 無 消 息 
Sàng đầu thuyết pháp vô tiêu tức 
無 消 息 大 方 廣 佛 華
Vô tiêu tức đại phương quảng Phật hoa
嚴 經 
Nghiêm kinh 
世 主 妙 嚴 品 第 一 
Thế chủ diệu nghiêm phẩm đệ nhất 
Giảng  Hoa  Nghiêm  chuột  kêu  chút  chít 
Đã  làm   mê  hoặc  Vương  thị  lang
Một  chú  mèo  bỗng  nhiên  xuất  hiện 
Đâu  người  nói  pháp  nơi  đầu  giường
Và  đâu  phẩm  thế chú  diệu  nghiêm
Của  Đại  phương  quảng  Phật  Hoa  Nghiêm.
(Ngộ Không dịch)
(Thiền Chi Hoa)
Do tiếng kêu, “Chít, chít” của con chuột, có thể thể hội một bộ kinh Hoa Nghiêm; Tông Mộc tâm theo vật mà chuyển bị súc sinh sở hoặc. Người tu nếu đạt đến “tùy duyên bất biến, bất biến tùy duyên” thì đạt được tâm cảnh vật ngã là một. Nếu tùy duyên mà biến thì tâm có sở trụ không đạt được “Ưng vô sở trụ, nhi sanh kỳ tâm” của cảnh giới giác ngộ. Tâm trụ thì không linh, các pháp theo đó mà diệt. Như chuột thuyết pháp, con mèo xuất hiện, chuột bèn lẩn trốn. Tâm bị vật mà động, trí bị thức mà mê như vậy làm sao khai mở được Phật tri kiến? Vì vậy, muốn thành Phật, phải tu tâm kiến tánh, tu thiền cũng vậy, mà tu tịnh cũng vậy. Vương thị lang đêm nghe chuột thuyết pháp không phản hồi nghe tự tánh vì vậy không kiến tánh, do đó ngày càng rời xa Đạo. Chuyện nghe chuột thuyết pháp chỉ thành hý luận. Nếu có thể ngộ, một niệm phản tỉnh thì một mầu sắc, một mùi hương đều là trung Đạo, tiếng gió, tiếng mưa chẳng phải là không diệu đế.

1034.  Thế nào là Chánh Nhãn.
Có lần Triệu Châu định lên Ngũ Đài sơn thăm chùa Thanh Lương là đạo trường của Bồ Tát Văn Thù. Có ông tăng nghe Triệu Châu định đi chùa Thanh Lương bèn làm bài kệ sau, trao cho Triệu Châu:
何 處 清 山 不 道 場
Hà xứ thanh sơn bất đạo tràng
何 須 策 杖 禮 清 凉
Hà tu sách trượng lễ thanh lương
雲 中 縱 有 金 毛 現
Vân trung túng hữu kim mao hiện
正 眼 觀 時 非 吉 祥
Chánh nhãn quán thời phi cát tường
Chỗ  nào  núi  xanh  chẳng  đạo  trường
Việc  gì  chống  gậy  lễ  Thanh  Lương
Trong  mây  dầu  có  Kim  Mao  hiện
Chánh  Nhãn  nhìn  xem  chẳng  cát  tường.

Triệu Châu bèn hỏi lại một câu:
- Thế nào là Chánh Nhãn?
Ông tăng không lời đáp lại. Do đó Triệu Châu vẫn cứ đi. 
 (Thiền Chi Hoa)
Ông tăng làm bài kệ cho rằng Triệu Châu chưa lìa được quan niệm về Không Gian và Ảnh Tượng. Vì pháp thân Phật ở khắp nơi, chỉ cần tâm niệm chúng ta thanh tịnh thì có thể cảm ứng được; việc gì phải chấp tượng Phật do bùn đắp nên mà phải đi Ngũ Đài Sơn để lễ bái? Triệu Châu biết ông tăng có tri kiến như vậy mà vị tất đã có ngộ cảnh; còn ông tăng không biết Triệu Châu chính là người có Chánh Nhãn. Một người có Chánh Nhãn đương nhiên không bị thời, không gian và ảnh tượng ngăn trở, nhưng cũng không phủ định sự tồn tại của mọi tướng. Ông tăng làm bài kệ trước hết đã có quan niệm về Thanh Sơn, đạo trường Kim Mao (viết tắt của Kim Mao Sư Tử: chỉ trí tuệ), Cát Tường (viết tắt của Diệu Cát Tường, chỉ Bồ Tát Văn Thù), Chánh Nhãn. Như vậy là đã chấp tướng rồi, làm sao kiến tánh được? Kinh Kim Cương có nói, “Nếu thấy các tướng là không tướng thì thấy Như Lai.” Do đó, ông tăng bị Triệu Châu hỏi lại một câu đã không lời đáp lại. Nhìn bánh vẽ không làm cho no. Chỉ những người đã vào được bể trí tuệ chân như thì đối với bản thân mới có thọ dụng chân chính vậy.

1035.  Đỉnh núi không mây vờn
           Lòng sóng,  bóng trăng rơi.
Từ Minh hỏi Thúy Nham:
- Đại ý Phật pháp là gì?
Thuý Nham đáp:
Đỉnh  núi  không  mây  vờn
Lòng  sóng,  bóng  trăng  rơi. 
- Đầu tóc bạc trắng, răng rụng cũng nhiều rồi mà còn kiến giải như vậy, ngươi làm sao mà phá vòng sinh tử? 
Thúy Nham kinh sợ, khẩn khoản cầu Từ Minh chỉ bảo. Từ Minh nói:
- Ngươi hỏi lại đi. 
Thúy Nham hỏi lại:
- Thế nào là đại ý của Phật pháp?
Từ Minh đáp:
Đỉnh  núi  không  mây  vờn,
Lòng  sóng,  bóng  trăng  rơi.
 (Thiền Chi Hoac)
“Đỉnh núi không mây vờn” là chỉ chân không, là lý pháp giới. “Lòng sóng, bóng trăng rơi” là chỉ diệu hữu, là lý sự pháp giới. Toàn câu là để chỉ Chân Không Diệu Hữu. Cũng tương tự như Tâm Kinh có nói, “Sắc tức thị không, không tức thị sắc.” Nếu có người trần thuật ngộ cảnh của mình cho thiền sư, thiền sư sẽ khảo nghiệm xem có ngộ thật không. Nếu học nhân nói đúng, thiền sư sẽ cố ý nói là không đúng khiến học nhân nghi ngờ; sau đó mới bảo học nhân hỏi lại. Rồi sau đó trả lời bằng chính câu nói của học nhân làm cho học nhân hết nghi hoặc mà thêm lòng tự tín.

1036.  Ly khai hai bên.
Để khảo nghiệm tăng đồ, Hương Nghiêm Trí Nhàn nêu ra vấn đề như sau:
- Người cầu Đạo giống như một người dùng răng cắn vào cành cây, mình lơ lửng giữa trời. Bên dưới có người đặt câu hỏi, “Ý của tổ sư từ Tây sang là gì?” Nếu không đáp là không biết, nếu mở miệng đáp thì sẽ rơi xuống mà chết. Xin hỏi phải làm sao?
Lúc đó Hổ Đầu Chiêu hòa thượng cũng có mặt bèn đứng dậy thưa:
- Không hỏi lúc đã ở trên cây, xin hỏi lúc chưa trèo lên cây thì thế nào?
Hương Nghiêm nghe rồi ha hả cười lớn. 
 (Thiền Chi Hoa)
Phàm nhân chúng ta tâm động thì niệm sanh, Vọng tưởng chấp trước nên bị lạc vào biên kiến. Yếu chỉ của thiền là trừ khử biên kiến. Chúng ta vỉ sao không chứng được trí tuệ Như Lai? Chỉ bởi vì Vọng và Chấp vậy. Mà Vọng và Chấp là do tâm động mà sanh.  Hương Nghiêm có ý giúp đồ đệ tự phá biên kiến. Trong công án trên trả lời hay không trả lời đều là biên kiến; chẳng bằng hỏi lúc chưa trèo lên cây thì sao? Đó chính là đã chứng được bản lai diện mục. Phương pháp này đi thẳng vào tâm trách chi Hương Nghiêm chẳng cười lớn sao được.

1037.  Thể hội đại Đạo.
Có người hỏi Mã Tổ:
- Vì sao thiền sư nói: “Tức tâm, tức Phật.”?
- Để dỗ con nít khỏi khóc!
- Đứa trẻ ngưng khóc rồi làm sao?
- Bảo nó: “Phi tâm, phi Phật.”
- Ngoài hai phương pháp trên còn phương pháp nào để tiếp dẫn người tu chăng?
- Bảo cho hắn biết hắn không phải là “vật.”
- Còn người đã giác ngộ thì sao?
- Cứ theo tự tâm mà thể hội đại Đạo. 
 (Thiền Chi Hoa)
Câu đáp thứ nhất là đối với những người chấp không, dùng khẳng định mà khai thị.
Câu đáp thứ hai là đối với những người chấp có dùng phủ định mà khai thị.
Câu đáp thứ ba là đối với những người chấp không và có. Phải loại trừ mọi chấp trước.
Câu thứ tư là đối với những người đã ngộ rằng không và có không phải là hai, giúp cho ngưòi này giữ được ngộ cảnh.
Nói một cách tổng quát, Phật pháp không có một pháp nhất định, mục đích là làm sao cho chúng sinh khai thị mà ngộ được cái “Phật tri kiến” vậy.

1038.   Không ra không vào.
Có vị giảng sư đến hỏi Mã Tổ:
- Không biết Thiền tông chuyên tu pháp nào?
Mã Tổ không trực tiếp trả lời mà hỏi ngược lại:
- Ngươi chuyên tu pháp nào?
- Nói ra thì hổ thẹn, bần tăng đã giảng ngoài hai chục bộ kinh.
- Thật là sư tử hống.
- Không giám!
Mã Tổ bèn giả tiếng sư tử gầm lên. Hòa thượng nói:
- Đó cũng là pháp.
- Pháp gì vậy?
- Sư tử ra khỏi hang.
Mã Tổ lại im lặng không nói. Hòa thượng nói:
- Đó cũng là pháp.
- Pháp gì vậy?
- Sư tử ở trong hang.
Mã Tổ hỏi:
- Không ra, không vào là pháp gì vậy?
Hòa thượng không có lời nào đáp lại được. 
(Thiền Chi Hoa)
Tiếng gầm là một pháp sinh diệt. Khi gầm lên chỉ sư tử ra khỏi hang, khi im lặng chỉ sư tử vào trong hang. Cả hai (ra, vào) đều là loại tướng động. Nếu tâm có khởi cầu tĩnh thì tức là đã động rồi. Câu Mã Tổ hỏi: “Không ra, không vào là pháp gì?” chỉ cảnh giới vượt ngoài cả động lẫn  tĩnh. Nhưng vì hoà thượng chỉ hiểu có một mặt động không hiểu rằng chân tâm thì động tĩnh là một cho nên không đáp được. “Động tĩnh là một” không thể dùng lý mà ngộ được, lại càng không thể dùng lời mà giảng ra được, chỉ có thực chứng.

1039.  Ai là người sau?
Đạo Ngộ hỏi Thạch Đầu:
- Nếu siêu thoát định, tuệ. Xin hỏi sẽ bảo kẻ khác cái gì nữa?
- Ta vốn không có nô lệ, nói gì đến siêu thoát.
Đạo Ngộ buồn phiền hỏi:
- Nói như vậy, ai mà hiểu nổi?
Thạch Đầu không trực tiếp trả lời mà hỏi lại:
- Ngươi hiểu chữ “Không” chăng?
- Đối với chữ “Không” đệ tử cũng có chỗ tâm đắc!
- A!Không ngờ ngươi là “Người phía bên kia”. 
Đạo Ngộ phản đối:
- Đệ tử không phải là “Người phía bên kia.”
Thạch Đầu cười mà rằng:
- Ta đã sớm biết cư xứ của ngươi.
Đạo Ngộ phẫn nộ:
- Sư phụ lấy chứng cứ gì mà vu khống cho đệ tử?
- Thân thể ngươi là chứng cứ.
- Cứ nói như vậy thì làm sao người sau hiểu đạo được?
Thạch Đầu hét lên:
- Ai là người sau?
Đạo Ngộ hoát nhiên đại ngộ. 
 (Thiền Chi Hoa)
Không có “nô lệ” đương nhiên đều là chủ nhân như vậy đương nhiên không phân biệt tự tha (ta, người). Đó là để đối lại với” kẻ khác” của Đạo Ngộ. Khi Đạo Ngộ nói, “Đệ tử không phải là ‘người phía bên kia’ ý nói mình không phải là tiểu thừa “không tông.” Đạo Ngộ đã không hiểu chữ “Không” của Thạch Đầu là một pháp chẳng lập, trong chữ không đó không có phân biệt tự tha. “Thân thể ngươi là chứng cứ” vì thân thể là do ảo mà có, cuối cùng cũng quay về không. Vì có thân thể nên có tự tha, thân thể diệt thì hoàn không, tự tha cũng không nốt. Vì người không có tự tha, đều là một thể tự tánh, tự giác tức giác tha, làm gì còn có người sau? Do đó Đạo Ngộ hoát nhiên khai ngộ.

1040.   Một trở về đâu?
Có ông tăng hỏi Triệu Châu:
- Vạn pháp trở về một, một trở về đâu?
Triệu Châu đáp:
- Ta tại Thanh Châu may một cái áo bông nặng bẩy cân rưỡi. 
(Thiền Chi Hoa)
Kinh Phật thường dùng một và nhiều để trỏ Thể và Dụng. Một là Thể và nhiều là Dụng. Vì bản thể chỉ có một cái tuyệt đối không tánh, mà Dụng thì có thiên biến vạn hóa. Câu đáp của Triệu Châu không phải là câu trả lời. Một cái áo bông là cái một, nặng bẩy cân rưỡi là cái nhiều. Một không lìa bẩy rưỡi, bẩy rưỡi không lìa một tức diễn cái ý một là tất cả, tất cả là một nếu theo câu hỏi của ông tăng thì câu đáp sẽ là, “Vạn pháp trở về một, một trở về vạn pháp”.

1041.  Con vịt trời của Bách Trượng.
Có lần Bách Trượng và sư phụ là Mã Tổ ra ngoài, thấy con vịt trời đang bay. Mã Tổ hỏi:
- Con gì vậy?
- Con vịt trời.
Mã Tổ hỏi:
- Bay đi đâu vậy?
- Đã bay đi rồi!
Mã Tổ đột nhiên lấy tay bóp mũi Bách Trượng.
Bách Trượng bị đau kêu lớn:
- Ái!
Mã Tổ nói:
- Ngươi nói đã bay đi rồi, nhưng cho tới giờ tất cả đều chả ở đây là gì?
Bách Trượng nghe câu nói đó, toàn thân xuất mồ hôi lạnh khai ngộ ngay chính lúc đó. 
 (Thiền Chi Hoa)
Đối với thiền gia thì mắt nhìn, tai nghe toàn là do tự kỷ. Vịt trời đang bay hay đã bay đi rồi đều là do mình. Mã Tổ nói: “Con gì” trực tiếp trỏ pháp không ẩn mật mà hiển lộ ngay trước mắt. Câu đáp của Bách Trượng “là con vịt” làm mất đi chân sinh mạng của “pháp.” Nếu do tự thể của Pháp mà nói con vịt trời là con vịt trời, hoặc ‘núi tự cao, biển tự sâu’ thì mới đúng. Còn nếu lấy con vịt trời làm cảnh thì ta đã phân ra chủ khách, trong ngoài. Nếu hiểu được rằng vạn cảnh đều do chân như thể hiện thì tâm cảnh chỉ là một. Mã Tổ muốn Bách Trượng hiểu đạo lý đó nên bóp mũi Bách Trượng làm Bách Trượng hiểu rằng tất cả khách quan đều do chủ quan triển khai, tất cả khách thể đều do chủ thể mà thành do đó chứng được thánh cảnh, “Một là tất cả, tất cả là một”. Nếu có chứng được cảnh giới này thì mới có thể tùy xứ mà phát triển tánh sáng tạo của mình được.

1042.  Hạt gạo này từ đâu tới?
Thạch Sương đang đong gạo tại kho, Quy Sơn đến nơi và nói:
- Cẩn thận, đừng làm hao gạo của thí chủ.
Thạch Sương hiểu nghĩa bóng, bèn trả lời:
- Không làm hao đâu!
Quy Sơn nhặt một hạt gạo rơi trên đất và nói:
- Ngươi nói không, vậy hạt gạo này từ đâu ra?
Thạch Sương không lời đáp lại. Quy Sơn lại nói:
- Đừng coi thường hạt gạo này, hàng trăm ngàn hạt gạo từ hạt này mà ra đó!
Thạch Sương hỏi:
- Hàng trăm ngàn hạt từ hạt này mà ra, nhưng chẳng biết hạt này từ đâu ra?
Quy Sơn ha hả cười lớn, trở về phương trượng thất. 
 (Thiền Chi Hoa)
Câu của Quy Sơn, “hàng trăm ngàn hạt từ hạt này mà ra” ý nói vạn pháp đều do tự tánh sinh ra. Câu của Thạch Sương, “Chẳng biết hạt này từ đâu ta?” là hỏi “Tự tánh từ đâu mà ra?” Quy Sơn biết Thạch Sương đã ngộ tự tánh là đệ nhất nguyên lý nên ha hả cười lớn. Quy Sơn không dùng phương pháp át (hét), bổng (đánh), từ những sự việc tầm thường Quy Sơn đã nhìn thấy những chỗ mà người thường không thể thấy, tuy là những lời bình thường nhưng mỗi lời đều là chân lý, thấm sâu vào tận xương tủy vậy.

1043.  Đầu Tạng trắng,  đầu Hải đen.
Có ông tăng hỏi Mã Tổ:
- Ly Tứ Cú, Tuyệt Bách Phi, xin hỏi” Ý của Tổ sư từ Tây sang là gì?”
- Hôm nay ta mệt lắm, không giải thích cho ngươi được, ngươi đi mà hỏi Trí Tạng.
Ông tăng đi  hỏi Trí Tạng, Trí Tạng hỏi lại:
- Sao ngươi không đi hỏi sư phụ?
- Chính sư phụ bảo đệ đi hỏi sư huynh. 
- Ta hôm nay nhức đầu lắm, không giải thích cho ngươi được, ngươi kiếm Hoài Hải mà hỏi.
Ông tăng này lại đi hỏi Hoài Hải. Hoài Hải đáp:
- Ta cũng chẳng biết.
Ông tăng này trở về thưa với Mã Tổ. Mã Tổ bèn nói:
- Đầu Tạng trắng, đầu Hải đen. 
 (Thiền Chi Hoa)
Trắng là “Minh Đầu Hợp”, đen là “Ám Đầu Hợp” đều là thuật ngữ của thiền gia. “Minh Đầu Hợp” chỉ Dụng, “Ám Đầu Hợp” chỉ Thể. Trí Tạng là Minh Đầu Hợp, vì nhức đầu nên không giải thích được, giả như nếu không bệnh thì sẽ trả lời, đó là thế pháp, là Dụng. Hoài Hải là “Ám Đầu Hợp, “Ta cũng chẳng hiểu” là chỉ tự tánh là Thể. Cứ như cách thấy của Hoài Hải thì “Ý của tổ sư từ Tây sang” vượt ngoài cả khẳng định và phủ định, không thể dùng ngôn ngữ mà diễn tả được, cũng như Lão Tử quan niệm “Đạo có thể gọi, thì không phải là Đạo thường, tên có thể gọi, thì không phải là tên thường” hoặc cảnh giới “được ý, quên lời” của Trang Tử.

1044.   Phật tánh ở mọi nơi.
Vân Môn khai thị đại chúng:
- Người niệm Phật nhiều như cát sông Hằng, nhưng có ai hiểu được Phật tánh ở đâu?
Rất lâu, đại chúng không ai đáp được, thiền sư vì đại chúng mà tự đáp:
- Đều khắp. 
 (Thiền Chi Hoa)
Câu đáp của Vân Môn có ý là Đạo không trụ tại một nơi nào nhất định mà ở khắp mọi nơi, cũng như Trang Tử cũng đã nói Đạo ở loài giun dế, ở cả cứt đái.

1045.  Cây  trà.
Có một lần, Ngưỡng Sơn theo Quy Sơn lên núi hái trà.
Quy Sơn nói với Ngưỡng Sơn:
- Chúng ta hái trà cả ngày mà chỉ phảng phất nghe thấy tiếng chứ không nhìn thấy hình thể.
Ngưỡng Sơn nghe rồi, dùng sức mà lay cây.
Quy Sơn thấy vậy nói:
- Ngươi chỉ thấy Dụng chứ không thấy Thể.
Ngưỡng Sơn hỏi:
- Sư phụ muốn thế nào?
Quy Sơn yên lặng không nói.
Ngưỡng Sơn lại nói:
- Sư phụ chỉ biết Thể chứ không biết Dụng.
Quy Sơn bèn nói:
- Ta đánh cho ngươi ba mươi gậy.
- Sư phụ đánh con, còn con thì đánh ai đây?
- Ta lại đánh ngươi ba mươi gậy nữa! 
 (Thiền Chi Hoa)
Ngưỡng Sơn lay cây để chỉ cái Động của Dụng. Quy Sơn yên lặng để chỉ cái Tịch Tĩnh của Thể. Ngưỡng Sơn vì Quy Sơn mà phá Thể, nhưng vì tự tánh không thể dùng lời mà nói, vì nói ra là chấp tướng. Do đó Quy Sơn đánh Ngưỡng Sơn ba mươi gậy. Ngưỡng Sơn nghĩ sư phụ đã nói ra Dụng thì sao mình lại không thể nói ra Thể. Già sử nói không trúng thì sư phụ cũng bị ăn gậy. Nhưng Ngưỡng Sơn không biết rằng Động mà nói ra thì không sai, nhưng Tịnh mà nói ra thì lại sai. Vì vậy Quy Sơn lại đánh cho Ngưỡng Sơn ba mươi gậy nữa.

1046.   Do sinh hoạt hàng ngày mà ngộ Đạo.
Long Đàm nói với Đạo Ngộ rằng:
- Từ ngày đệ tử đến đây chưa hề được nghe sư phụ chỉ dạy tâm yếu.
- Từ ngày ngươi đến đây không có lúc nào là ta không chỉ cho ngươi tâm yếu?
Long Đàm chẳng chịu lại hỏi:
- Sư phụ có chỉ cho con cái gì đâu?
Đạo ngộ đáp:
- Ngươi thử nghĩ lại mà xem: khi ngươi bưng trà lại, ta uống; khi ngươi bưng cơm lại, ta ăn; khi ngươi hành lễ, ta gật đầu. Đó không phải đều là chỉ thị tâm yếu cho ngươi sao? Tại sao lại bảo ta không chỉ?
Long Đàm cúi đầu suy nghĩ rất lâu, lúc đó Đạo Ngộ lại nói:
- “Ngộ tức chân ngộ, suy tưởng là sai.”
Nghe câu nói đó Long Đàm liền khai ngộ.
Lại hỏi:
- Làm sao giữ được ngộ cảnh này?
- Dễ dàng thôi, chỉ cần ngươi thuận theo tự tánh, giữ tâm bình thường, không phân phàm thánh là được.
 (Thiền Chi Hoa)
Tu đạo không cần người khác, chỉ cần trong sinh hoạt hàng ngày mà luyện tâm, lâu dần có thể tự ngộ. Khai ngộ cũng vậy, bảo trì ngộ cảnh cũng vậy. Đạo rất bình thường, không hề kinh thế hãi tục. Kinh Kim Cương có chép rằng: “Tới giờ độ thực, Đức Thế Tôn, sửa y, trì bát vào thành xá Vệ khất thực, khất thực rồi về chỗ ở độ thực, sau đó thâu y bát, rửa chân, ngồi thiền.” Cho chúng ta thấy rằng sinh hoạt của Phật tổ so với thường nhân cũng không khác. Sách Trung Dung có nói rằng: “Đạo không xa người, người vì Đạo mà xa người, không thể gọi là vì Đạo.” Cũng chính là ý này vậy.

1047.   Lễ Phật.
Có lần Hoàng Bá đến bái phỏng Diêm Quan thiền sư, vào chùa hướng về tượng Phật hành lễ. Lúc đó Đường Tuyên Tông đang làm sa di ở chùa, hỏi thiền sư rằng:
- Người cầu Đạo không chấp Phật, Pháp, Tăng, xin hỏi vì sao người lại hành lễ?
Hoàng Bá đáp:
- Ta vốn không chấp Phật, Pháp, Tăng, hành lễ chỉ là do tùy duyên mà thôi.
Tuyên Tông lại hỏi:
- Hành lễ có ích gì?
Hoàng Bá tiện tay tát cho Tuyên Tông một cái. Tuyên Tông kêu lên:
- Cái người này, sao lại thô lỗ như vậy?
Hoàng Bá lại hét lên:
- Đây là đâu ngươi biết không? Lại còn kêu thô với tế?
 (Thiền Chi Hoa)
Thiền tông không sùng bái ngẫu tượng, lại còn phá trừ quan niệm về ngẫu tượng, không thiếu những câu truyện thiền trong đó các thiền sư mắng Phật, mắng Tổ, đốt tượng . v. v. Nhưng những hành động đó đều là phương tiện để phá chấp cho học nhân, còn bình thường gập tượng Phật thì cũng cung kính lễ bái.  Hoàng Bá tát cho Tuyên Tông một cái là để giải trừ cái chấp của Tuyên Tông. “Ta là Hoàng Tử” nhưng Tuyên Tông không hiểu còn nói Hoàng Bá thô lỗ. Không biết rằng ở tự tánh làm gì có thô với tế, hơn nữa tu viện không phải là triều đình, sa di chẳng phải là Hoàng tử. 

1048.  Tổ sư thiền.
Một hôm Ngưỡng Sơn khảo nghiệm sư đệ là Hương Nghiêm Trí Nhàn, hỏi sư đệ gần đây tâm đắc như thế nào? Hương Nghiêm làm một bài kệ rằng:
去 年 貧 未 是 貧 
Khứ niên bần vị thị bần 
今 年 貧 始 是 貧 
Kim niên bần thủy thị bần 
去 年 貧 猶 有 卓 錐 之 地
Khứ niên bần do hữu trác trùy chi địa
今 年 貧 錐 也 無 
Kim niên bần trùy dã vô. 
Năm  ngoái,  nghèo  chưa  là  nghèo
Năm  nay,  nghèo  mới  là  nghèo. 
Năm  ngoái  nghèo,  còn  đất  để  cắm 
Năm  nay  nghèo,  không  cả  dùi  cắm.
Ngưỡng Sơn nghe rồi cười ha hả:
- Sư đệ, ta thừa nhận ngươi đã qua Như Lai Thiền, còn như Tổ Sư Thiền tưởng ngươi nằm mộng cũng chưa tới được.
Do đó Hương Nghiêm lại làm một bài kệ nữa:
我 有 一 機
Ngã hữu nhất cơ
瞬 目 是 伊
Thuấn mục thị y
若 人 不 會
Nhược nhân bất hội
別 喚 沙 彌
Biệt hoán sa di.
Ta  có  một  cơ
Chớp  mắt  là  y
Nếu  ngươi  chẳng  hiểu
Đừng  gọi  sa  di.

Nghe xong bài kệ, Ngưỡng Sơn rất cao hứng bèn đi báo cáo với Quy Sơn:
- Sư đệ đã đắc Tổ Sư Thiền. 
 (Thiền Chi Hoa)
Như Lai Thiền là chỉ tiệm tu, Tổ Sư Thiền là chỉ đốn ngộ. Bài kệ thứ nhất diễn tả cảnh giới Như Lai Thiền. Nghèo chỉ là Không. Năm ngoái đã tu tập được Nhân Không, vì vậy nói, “Năm ngoái nghèo, chưa là nghèo”, chưa đạt được chữ Không triệt để.Năm nay tu tập đến Pháp Không nên viết “Năm nay nghèo mới là nghèo”. Muốn tới cảnh giới này chỉ cần tu tập Giới, Định, Tuệ. Bài kệ thứ nhì cho thấy đã ngộ nhập Chân Ngã vượt ngoài tất cả những quan niệm về lý tính. “Cơ” là chỉ tự kỷ tâm linh, “Y” là chỉ chân ngã. “Chớp mắt là y” là trọng tâm của bài kệ, diễn tả sự đốn ngộ cảnh giới Chân Ngã, tức Tổ Sư Thiền.

1049.  Thì là cái đó.
Động Sơn, sau khi ngộ đạo, đến bái biệt lão sư Vân Nham, đề ra câu hỏi đã thắc mắc từ lâu:
- Sư phụ, giả sử trăm năm sau có người hỏi con có còn nhớ Chân Diện Mục của Thầy không thì phải đáp làm sao?
Vân Nham mỉm cười, nhìn Động Sơn, qua một lúc rồi nói:
- Thì là cái đó. 
 (Thiền Chi Hoa)
Cái đó, chính là cái Lục tổ Huệ Năng trong Pháp Bảo Đàn Kinh có nói qua:
Nào  ngờ  tự  tánh  vốn  không  sinh  diệt,
Nào  ngờ  tự  tánh  vốn  trọn  vẹn,
Nào  ngờ  tự  tánh  vốn  không  dao  động,
Nào  ngờ  tự  tánh  có  thể  sinh  ra  vạn  pháp!
“Cái đó” là tự tánh vượt ngoài cả phủ định và khẳng định, không có đối đãi chấp trước, là cái một, hễ nói ra là sai, chỉ dùng trực giác mà thể ngộ.

1050.  Hư không mất tiêu.
Thượng tọa Ngạn Minh là vị học thức quảng bác, có ký ức tốt, lại giỏi biện bác, nên có ý tự phụ. Một hôm đến bái phỏng Bảo An Huệ Minh thiền sư; thiền sư hỏi rằng:
- Càng nói nhiều lại càng xa Đạo, nay ta có một câu hỏi: ‘Lúc trước các Thánh nhân và các Tiên Đức còn có vị nào không ngộ chăng?’
Ngạn Minh đáp:
- Đã gọi là Thánh Nhân, Tiên Đức thì sao lại không ngộ được?
Huệ Minh nói:
- Một người trở về nguồn chân, thì mười phương hư không đều tiêu mất, nay Thiên Đài Sơn vẫn tồn tại, vậy là sao?
Ngạn Minh không sao đáp được. 
 (Thiền Chi Hoa)
“Một người trở về nguồn chân, mười phương hư không đều tiêu mất”, đây là lời kinh Lăng Nghiêm giảng giải tự chứng cảnh giới của tâm, không phải là chỉ ngoại cảnh của hiện tượng giới. Thiền là tự tu tâm tánh mình không phải là tu cho tha nhân, lại càng không phải là tu sơn hà đại địa của ngoại cảnh. Thiền tâm là vô tâm, không chấp một pháp. Nếu còn có một vi trần tại tâm thì không thể nào kiến tánh được. Khi đã đạt được tới cảnh giới một niệm chẳng sanh thì tâm đã vượt lên trên quan niệm về thời không, vật ngã năng sở. Mười phương hư không còn chẳng có, nói gì đến Thiên Đài sơn? Minh thượng tọa vì không thực ngộ, nên làm sao hiểu được điều đó.

1051.  Bặt đường suy nghĩ.
Chấn Lãng hỏi Thạch Đầu rằng:
- Tổ sư Đạt Ma từ Tây sang là có ý gì?
- Đi mà hỏi cây cột (lộ trụ)
- Đệ tử chẳng hiểu một tý gì?
- Ta cũng chẳng hiểu gì cả! 
 (Thiền Chi Hoa)
Câu của Thạch Đầu “Đi mà hỏi cây cột” là muốn đả phá sự hướng ngoại tìm cầu của Chấn Lãng, mà phải quay về quán chiếu tự tánh. Còn nếu cố chấp cứ theo cây cột mà cố giải thích thì càng chấp thêm không sao ngộ Đạo được. Mục đích của tổ Đạt Ma từ tây phương sang Trung thổ sợ rằng ngay chính ngài cũng chẳng rõ. Có thể là do nhiều nguyên nhân tụ họp mà thành, có thể là do lòng từ bi của Phật, có thể là do lòng từ bi của tổ Đạt Ma, hoặc do nhiều nguyên nhân khác nữa, tóm lại là điều không thể nghĩ bàn: nếu cố giải thì sai lầm vì vậy khi gập câu hỏi trên, các thiền sư đều tùy tiện dùng ngoại cảnh mà làm cho đứt đoạn sự suy nghĩ của đối phương.

1052.  Đại ý của Phật pháp.
Đạo Ngộ hỏi:
- Thế nào là là đại ý của Phật pháp?
Thạch Đầu đáp:
- Không đuợc, không biết.
- Trên đó còn gì nữa không?
- Trời cao chẳng ngăn ngại mây trắng bay. 
 (Thiền Chi Hoa)
Câu trả lời thứ nhất: Bác bỏ sự hướng ngoại tìm cầu.
Câu trả lời thứ hai: Phật pháp là viên dung vô ngại, tới đi tự như, tiêu dao tự tại.

1053.  Chém mèo.
Có một lần các tăng sĩ ở Đông đường và Tây đường vì một con mèo mà khởi sự tranh chấp. Khi Nam Tuyền biết chuyện túm lấy con mèo, nói với mọi người rằng:
- Các ngươi nói đúng, thì con mèo đuợc cứu, bằng không ta sẽ chém nó.
Mọi người yên lặng, không nói được lời nào. Do đó, Nam Tuyền chém con mèo thành hai đoạn. Khi Triệu Châu trở về, Nam Tuyền thuật lại đầu đuôi câu chuyện. Triệu Châu không nói một tiếng, tháo dép đội lên đầu đi ra. Nam tuyền bèn nói:
- Giả như lúc đó ngươi có mặt thì đã cứu được con mèo rồi.
 (Thiền Chi Hoa)
Từ bi vốn là căn bản của nhà Phật. Nam Tuyền lấy dao chém mèo thành hai đoạn khiến cho mọi người kinh hãi. Nam Tuyền bất mãn vì chư tăng là những người đã xuất gia mà lại tranh chấp một con mèo, do đó chém mèo chỉ dạy người xuất gia chân chính phải đoạn tuyệt trần thế. Chỉ có dùng phương pháp độc đáo ấy mới làm cho người ta chân chính hướng về tự do siêu nhiên. Triệu Châu đội dép lên đầu mà đi ra để chỉ không chấp thường lý là dép thì phải mang ở dưới chân. Nếu muốn siêu thoát thì phải bỏ hết mọi thị phi của trần thế.

1054.  Phá cả ba cửa.
Thắng Quang dùng cưa, cưa đôi một con giun đất hỏi thiền sư rằng:
- Hôm nay đệ tử cưa một con giun đất thành hai đoạn, hai đầu của nó đều động đậy, không biết tánh mạng của nó ở đầu nào?
Thần Lực cầm cưa lên hướng về đầu phía phải đập một cái, đầu phía trái đập một cái, vào khoảng giữa đập một cái, rồi ném cưa mà đi. 
 (Thiền Chi Hoa)
Công án này cho thấy thiền sư đả phá cả ba quan niệm không, hữu và trung.
Đập phải và trái đả phá không và hữu.
Đập giữa đả phá trung.
Ném cưa mà đi đả phá xong cả ba quan niệm.

1055.  Cốt tủy đạo Phật.
Hàn Dũ, bận rộn công vụ không thể đến tham phỏng thiền sư Đại Điên luôn. Một hôm gập thiền sư, thưa rằng:
- Đệ tử việc công bận rộn, xin lão sư chỉ điểm cho những điểm cốt yếu của Phật đạo.
Rất lâu, Đại Điên không nói. Hàn Dũ không biết là ý gì. Lúc đó Tâm Bình là thị giả của thiền sư, gõ xuống thiền sàng ba lần. Thiền sư hỏi:
- Làm gì vậy?
Tâm Bình đáp:
- Trước lấy định chế động, sau dùng trí nhổ lên.
Hàn Dũ nghe rồi hốt nhiên đại ngộ, cảm động nói:
- Thiền sư môn phong cao thâm, đến cả thị giả cũng đã nhập thủ. 
 (Thiền Chi Hoa)
Chúng sinh do chấp vọng tưởng, tạo nghiệp nên thọ khổ. Vô tận phiền não chướng ngại tự tánh làm cho chúng sinh không thể lìa khổ mà  được vui. Làm sao để phá những chướng ngại này mà tỏ ngộ đó là công phu tu trì. Tu trì là tu Giới, Định, Huệ để diệt Tham, Sân, Si. Hàn Dũ là văn nhân không thiếu Huệ, nhưng thiếu Định. Tâm Bình theo kinh Niết Bàn, tùy chứng mà cho thuốc. Do đó, muốn trừ tâm danh lợi của Hàn Dũ thì phải dùng Định Lực, sau đó dùng trí Huệ mà nhổ nó lên.

1056.  Triệu Châu cổ Phật.
Có ông tăng từ phương Nam lại bái phỏng Triệu Châu; kể lại đối thoại giữa Tuyết Phong và đệ tử. Đệ tử:
- Xin hỏi thế nào là hồ cũ, suối lạnh?
Tuyết Phong nói:
- Như ngươi trợn mắt nhìn mà không thấy đáy.
Đệ tử hỏi:
- Người uống nước thì sao?
Tuyết Phong đáp:
- Hắn không dùng miệng uống.
Triệu Châu nghe rồi, bèn có ý khôi hài mà rằng:
- Nếu không dùng miệng mà uống thì dùng mũi chăng?
Ông tăng không phục nói rằng:
- Vậy sao? Thiền sư thử nói xem thế nào là hồ cũ, suối lạnh?
Triệu Châu đáp:
- Vị đạo rất khổ.
Ông tăng lại hỏi:
- Người uống nước thì sao?
Triệu Châu đáp:
- Chết cho rồi!
Tuyết Phong nghe đoạn đối thoại trên tán thán rằng:
- Thật là cổ Phật! Cổ Phật!
Danh xưng “Triệu Châu cổ Phật” chính là do công án này. 
 (Thiền Chi Hoa)
“Hồ cũ, suối lạnh” là muốn hỏi thế nào là Đạo?
“Vị Đạo rất khổ”: nếu như ngươi muốn cầu Đạo thì phải trải qua nhiều rèn luyện nghiêm khắc để đạt tới cảnh giới quên vật, quên mình, phải chịu khổ trong khổ, chết đi sống lại.

1057.  Truyền y bát.
Đạt Ma có lần chiêu tập đệ tử lại, bảo họ tự mình phát biểu sự thể hội ngộ cảnh. Đạo Phó thưa rằng:
- Như chỗ con thấy thì văn tự không nên chấp trước hay xả bỏ mà nên coi như một công cụ để cầu Đạo.
Đạt Ma nói:
- Ngươi được phần da của ta.
Có một nữ ni nói:
- Như chỗ con hiểu thì giống như ngài Khánh Hỷ thấy quốc độ của Phật A Xúc một lần rồi không thấy nữa.
Đạt Ma nói:
- Ngươi được phần thịt của ta.
Lại có một vị tên là Đạo Dục nói:
- Tứ đại (đất, nước, gió, lửa) là không, ngũ uẩn (sắc, thọ, tưởng, hành, thức) cũng là không, cứ chỗ con thấy thì chính cái thế giới này, một pháp cũng chẳng có.
Đạt Ma nói:
- Ngươi được phần xương của ta.
Sau cùng Huệ Khả bước ra Hành lễ rồi đứng yên không động. 
Đạt Ma nói:
- Ngươi được phần tủy của ta.
Do đó, mang y bát truyền cho Huệ Khả. 
 (Thiền Chi Hoa)
Tự tánh không thể nói ra lời được; vì dùng lời nói tức là có đối đãi là thế pháp không phải là tự tánh. Kinh Pháp Hoa nói rằng: “Chư pháp tịch diệt tướng, bất khả dĩ ngôn tuyên.” Huệ Khả sau khi hành lễ đứng bất động tỏ ý Thể Dụng chẳng hai, là cảnh giới tối cao vì vậy mà được truyền y bát.

1058.   Đổ nước trong bình.
Có một lần Ẩn Phong đến bái phỏng Nam Tuyền, gập đúng lúc mọi người đang tham thiền. Nam Tuyền chỉ cái bình nước nói với đại chúng rằng:
- Bình đồng là cảnh, trong bình có nước, ai có thể không làm động cảnh mà mang nước ra cho lão tăng?
Ẩn Phong không nói một tiếng, dốc ngược bình nước ngay trước mặt Nam Tuyền. Nam Tuyền chỉ còn cách ngăn lại. 
 (Thiền Chi Hoa)
Bình là cảnh, nước cũng là cảnh. Nếu đã không động đến cảnh (bình) thì cũng không thể động đến cảnh (nước). Nam Tuyền cố ý dùng mâu thuẫn này để khảo nghiệm đại chúng. Hành động của Ẩn Phong tỏ rằng Ẩn Phong đã vượt lên cả động lẫn tịnh cho nên không bị động tướng mê hoặc.

1059.   Hai hổ cắn nhau.
Hàn lâm học sĩ Dương Đại Niên đáo nhiệm Nhữ Châu đến bái phỏng Hữu Liễn thiền sư. Hai người nói chuyện cho tới tối mịt. Hữu Liễn hỏi:
- Đạo hữu có tranh luận về Phật pháp với ai không?
- Đệ tử có hỏi thiền sư Vân Môn :  “ Lúc hai hổ cắn nhau thì thế nào? ” Vân Môn đáp “Hợp thành một tướng”. Còn đệ tử thì đáp “Tôi chỉ xem thôi”. Không biết thiền sư có diệu pháp gì khác chăng?
- Lão tăng không giống các vị.
Đại Niên nói:
- Xin thử nói xem.
Hữu Liễn lấy hai tay bịt mũi:
- Súc sinh này càng lúc càng nồng.
Dương Đại Niên tức thời khai ngộ. 
 (Thiền Chi Hoa)
Hai hổ tượng trưng cho nhị biên đối đãi. Câu của Vân Môn là để phá nhị biên. Câu của Đại Niên tuy không lạc vào hai bên nhưng không phản hồi tự tâm để thân thiết thể nghiệm. Câu của Hữu Liễn chỉ sự thể hội tự kỷ tâm tánh hoạt bát tự tại, tức là đạt tới cảnh giới “Tri vọng tức ly, ly tức Bồ Đề” vậy.

1060.   Nhiệm vụ của thiền sư.
Thạch Đầu lúc mới đến gặp Thanh Nguyên, Thanh Nguyên hỏi rằng:
- Phải ngươi từ Tào Khê (chỉ Huệ Năng) đến không?
Sau đó lại hỏi:
- Lúc ngươi chưa đến Tào Khê, ngươi mang gì theo?
- Lúc con chưa đến Tào Khê, con cũng chẳng thiếu gì!
- Đương nhiên là vậy, nhưng sao ngươi lại đến Tào Khê?
- Nếu con không đến Tào Khê làm sao con biết là con không thiếu gì.
 (Thiền Chi Hoa)
Câu đáp cuối của Thạch Đầu cho chúng ta biết thiền sư đã thấy được bản lai diện mục do sự chỉ điểm của Huệ Năng. Do công án này chúng ta biết được một điều, đó là thiền sư không cung cấp cho chúng ta một cái gì, mà chỉ trợ giúp chúng ta quan sát nội tâm. Những giáo huấn chí diệu của các ngài là môi giới giúp cho chúng ta khai ngộ.

1061.   Bí mật công khai.
Hoàng Long thiền sư và thi sĩ Hoàng Sơn Cốc giao du rất thân. Hoàng Sơn Cốc hỏi Hoàng Long có mật pháp gì trao truyền không? Hoàng Long đáp:
- Khổng Tử đã chẳng nói qua “Một chữ, ta cũng chẳng dấu ngươi” sao?
Đúng lúc Hoàng Sơn Cốc định trả lời, Hoàng Long nói:
- Không phải, không phải.
Làm cho Hoàng Sơn Cốc chẳng hiểu gì cả.
Lại một hôm, Sơn Cốc theo Hoàng Long đi lên núi chơi, thấy hoa Quế nở đầy, Hoàng Long bèn hỏi:
- Ngươi thấy mùi hoa quế không?
Sơn Cốc đáp:
- Có.
Hoàng Long lại nói:
- Ngươi thấy đó, ta chẳng có điểm nào dấu ngươi cả!
Sơn Cốc liền đại ngộ nói:
- Thiền sư thật là lão bà tâm thiết.
Hoàng Long cười mà rằng:
- Ta chỉ hy vọng ngươi mau về nhà. 
 (Thiền Chi Hoa)
“Nhà” là chỉ bản lai diện mục, kinh Lăng Nghiêm gọi là tánh “diệu chân như”. Kinh Hoa Nghiêm gọi là “nhất chân pháp giới”. Thiền gia gọi là “chủ nhân ông” hoặc “chánh pháp nhãn tạng.” Danh xưng tuy khác nhau nhưng bản chất thì đồng. Trăng thu, hoa xuân, thanh sơn, lục thủy, tất cả đều hiện thành ngay trước mặt, Đạo ở ngay đó, không đâu không có, làm gì có bí mật? Sơn Cốc không hiểu, bỏ gốc tìm ngọn, tìm cầu pháp môn bí mật, cho nên Hoàng Long muốn Hoàng Sơn Cốc ở trong bản tánh của hương hoa quế mà lãnh ngộ “đạo pháp tự nhiên” của Lão Tử phát hiện tự tánh chân ngã mà về “nhà.”

1062.   Mượn chuyện để dạy Đạo.
Có một lần Quy Sơn đang đứng hầu sư phụ là Bách trượng. Bách Trượng bảo Quy Sơn bới trong lò xem có lửa không? Quy Sơn bới rồi thưa rằng không có. Bách Trượng thân đến lò bới sâu tìm được một điểm lửa nhỏ, bèn thổi cho cháy bùng lên rồi nói với Quy Sơn rằng:
- Đây chẳng phải là lửa sao?
Quy Sơn nghe câu nói đó hốt nhiên đại ngộ. Muốn làm một vị thiền sư thì phải quan sát kỹ lưỡng.
 (Thiền Chi Hoa)
Bách Trượng mượn một điểm lửa nhỏ để thuyết minh chúng sinh đều có Phật tánh linh minh bất muội. Phật tánh này chúng ta phải tự mình thể nghiệm, thực chứng mới thấy được. Công phu càng thâm thì ngộ càng sâu. Huống hồ hiện tượng giới và bản thể giới tuyệt đối đều là một, cũng như “diệu” và “kiếu” của Lão Tử đều là “Huyền Đồng nhất thể”.

1063.   Phúc Thuyền.
Có ông tăng đến tham phỏng Tuyết Phong. Tuyết Phong hỏi:
- Ngươi từ đâu tới?
- Phúc Thuyền.
- Bề sinh tử còn chưa vượt, đến Phúc Thuyền làm gì?
Ông tăng không hiểu ý Tuyết Phong trở về thuật lại cho Phúc Thuyền. Phúc Thuyền nói:
- Sao ngươi không nói: “Đệ tử đã vượt qua sinh tử rồi!”
Do đó ông tăng đem lời chỉ dẫn của Phúc Thuyền mà trả lời Tuyết Phong. Tuyết Phong bèn nói:
- Đây nhất định không phải là ngươi nói, mà là chính sư phụ ngươi bảo ngươi nói thế!Đây ta có 20 gậy nhờ ngươi chuyển cho Phúc Thuyền. Ngoài ra còn 20 gậy dành riêng cho ta. Chuyện này không liên can gì đến ngươi cả.! 
 (Thiền Chi Hoa)
Câu của Tuyết Phong có ý “Cầu sinh thoát tử” là hãy còn biên kiến, phải làm sao vượt lên sinh tử, sinh tức vô sinh chính như kinh Duy Ma Cật nói “Bồ Tát bất tận hữu vi, bất trụ vô vi”. Câu của Phúc Thuyền đương nhiên siêu thoát nhưng đệ nhất nghĩa đế không thể dùng lời mà nói ra; vì vậy Tuyết Phong và Phúc Thuyền đều phải ăn gậy.

1064.  Chính là thế đó.
Có ông tăng hỏi Đạo Thông:
- Thế nào là gió đen thổi vào buồm, đưa thuyền đến La sát quỷ quốc?
- Bá ngọ! Hỏi chuyện này làm gì?
- Ông tăng biến sắc. Thiền sư chỉ vào ông và nói:
- Là thế đó! 
 (Thiền Chi Hoa)
Câu hỏi của ông Tăng xuất phát từ kinh Pháp Hoa. “Gió đen” là chỉ sự nóng giận. “Thuyền” chỉ con người. Có người nổi nóng giết người, đốt nhà, tự mình làm cho mình sa địa ngục. Đạo Thông không trả lời ngay vào câu hỏi mà dùng câu chửi khiến ông tăng nổi giận mà tự tỉnh ngộ. “Tâm khởi một niệm sân, thì trăm vạn chướng ngại tới!” và cũng là để giải đáp cho câu hỏi của ông tăng. Thật là kỳ diệu vậy! 

1065.  Ba loại cảnh giới
Lỗ Tổ nâng ly trà lên nói rằng:
- Lúc thế giới chưa thành thì đã có cái này.
Nam Tuyền:
- Ngày nay, người ta chỉ biết có cái này mà không biết thế giới.
Quy Tông:
- Đúng vậy.
Nam Tuyền:
- Sư huynh không tán đồng lối kiến giải đó sao?
Quy Tông nâng ly trà lên:
- Lúc thế giới chưa thành nói có cái này sao?
Nam Tuyền lấy tay vả vào miệng cười mà đi ra. Quy Tông đứng bên giơ tay làm như tiếp chưởng của Nam Tuyền coi bộ rất mãn ý. 
 (Thiền Chi Hoa)
“Cái này” là chỉ tự tánh. Câu của Lỗ Tổ chỉ rằng còn chấp tự tánh. Câu thứ nhất của Nam Tuyền dùng hiện tượng giới diệu hữu để phá cái chấp bản thể (chân không) của Lỗ Tổ. Câu thứ nhất của Quy Tông đồng ý với Nam Tuyền tức là khẳng định cảnh giới diệu hữu, như vậy là cũng chấp diệu hữu, chẳng khác gì sai lầm của Lỗ Tổ. Câu thứ nhì của Nam Tuyền đề tỉnh Quy Tông không nên chấp vào hiện tượng giới. Quy Tông lãnh hội rất mau, nên câu thứ nhì của Quy Tông phủ nhận diệu hữu mà tiến vào cảnh giới Trung Đạo. Nam Tuyền dùng tay vả vào miệng ám chỉ bản thể tuyệt đối không thể dùng lời mà diễn tả mà chỉ tự mình thể ngộ. Quy Tông hiểu ý của Nam Tuyền nên giơ tay tiếp chưởng.

1066.  Dùng đây,  lìa đây. 
Bách Trượng đến tham phỏng Mã Tổ, Mã Tổ đưa mắt nhìn cây phất tử treo ở góc thiền sàng. Bách Trượng nói:
- Dùng đây, lià đây (ngay lúc dùng, ly khai dùng).
Mã Tổ nói:
- Về sau ngươi mở miệng lấy gì bảo người?
Bách Trượng nắm lấy phất tử dựng đứng lên. Mã Tổ nói:
- Dùng đây, lìa đây.
Bách Trượng treo phất tử về chỗ cũ. Mã Tổ hét lên một tiếng lớn, Bách Trượng bị ù tai đến ba ngày.
 (Thiền Chi Hoac)
Câu Mã Tổ, “Về sau ngươi mở miệng lấy gì bảo người?” là chỉ thể dụng hai bên làm sao dạy người. Bách Trương dựng phất tử lên chỉ Thể, Dụng là một. Mã Tổ dùng đúng câu của Bách Trượng để đáp là để trắc nghiệm Bách Trượng. Bách Trượng treo phất tử về chỗ cũ chỉ ly Dụng tức Thể. Mã Tổ biết Bách Trượng tuy có tri kiến vuợt lên Thể Dụng, nhưng thức tâm chưa hết, chưa đạt được cảnh giới vượt ngoài Thể Dụng cho nên hét lớn một tiếng, cắt đứt đường suy nghĩ của Bách Trượng. Quả nhiên tiếng hét này là kim cương vương bảo kiếm đã làm Bách Trượng đại ngộ.

1067.  Tâm có thể chuyển cảnh thì là Như Lai.
Bạch Vân Thủ Đoan là học trò Dương Kỳ, ông rất dụng công học tập, nhưng thiếu tính khôi hài.
Có một lần Dương Kỳ hỏi ông lúc trước bái ai làm thầy, Thủ Đoan đáp:
- Hòa thượng Trà Lăng Úc.
Dương Kỳ lại hỏi tiếp:
- Ta nghe Úc hòa thượng có một lần qua cầu không để ý bị ngã, nhân đó mà ngộ, có viết một bài kệ, ngươi có nhớ bài kệ đó không?
Thủ Đoan nói mình còn nhớ và đọc lầu lầu như sau:
我 有 明 珠 一 顆
Ngã hữu minh châu nhất khỏa
久 被 塵 勞 關 銷
Cửu bị trần lao quan toả
今 朝 塵 盡 光 生
Kim triêu trần tận quang sinh
照 破 山 河 萬 朵
Chiếu phá sơn hà vạn đóa
Ta  có  ngọc  quý  minh  châu
Bụi  đời  vùi  lấp  bấy  lâu
Bụi  hết  hôm  nay  sáng  lại
Thế  gian  chiếu  phá  lầu  lầu.
 (Trúc Thiên dịch)
Dương Kỳ nghe rồi, cười mà bỏ đi. Thủ Đoan thấy thầy cử động như vậy, suy nghĩ mãi cả đêm không ngủ.
Ngay sáng hôm sau chạy ngay đến hỏi, Dương Kỳ nói:
- Hôm qua ngươi có coi tên hề nhỏ không?
- Có.
- Ngươi biết không, ngươi ở phương diện ấy không bằng tên hề nhỏ.
Thủ Đoan không hiểu:
- Thầy định nói gì?
Dương Kỳ đáp:
- Tên hề nhỏ thích làm cho người ta cười, còn ngươi, ngươi sợ người ta cười.
Thủ Đoan nhân đó đại ngộ. 
 (Thiền Chi Hoa)
Dương Kỳ cười Thủ Đoan vì thiền sư cho rằng tự tánh vốn “tự nhiên” trời sanh. Thủ Đoan chỉ thuật tri kiến của người khác đối với chính mình không có một lợi ích nào, do đó Dương Kỳ cười mà bỏ đi hy vọng Thủ Đoan khởi nghi tình, hạ công phu mà nghiên cứu một phen. Quả nhiên Thủ Đoan khổ công suy nghĩ không ra. Rồi do Dương Kỳ lấy thằng hề nhỏ làm  tỷ dụ mà khai ngộ. Đạo lý thật ra rất đơn giản. Ý của Dương Kỳ là muốn Thủ Đoan hiểu rằng tự mình làm chủ không để cho cảnh chuyển Tâm mà Tâm có thể chuyển cảnh làm cho bản tánh hiển lộ ra. Nếu thật hiểu đạo lý đó thì cười hay chửi là do người đối với mình nào có tổn thương gì?

1068.  Tuyển chọn.
Trong một pháp hội, Triệu Châu khai thị đại chúng nói rằng:
- Có một lời nói, là một loại tuyển chọn, là để tỏ rõ, lão tăng này không rõ, các ngươi hãy trân trọng nó, ghi nhớ vào lòng.
Lúc đó có một ông sư hỏi rằng:
- Thầy đã không rõ lại muốn chúng con trân trọng cái gì?
- Ta cũng không rõ.
- Thầy đã không rõ, tại sao lại biết mình không rõ?
Triệu Châu tránh vấn đề này nói:
- Các ngươi hãy tự thể hội đi.
Do đó mọi người lễ tạ, lui ra. 
 (Thiền Chi Hoa)
Đoạn vấn đáp này chủ yếu thuyết minh tự tánh vượt lên hiện tượng giới, chỉ có thể cảm chứ không thể tưởng tượng được, như người uống nước, nóng lạnh tự hay; nếu dùng tri kiến để phân biệt đều không phải là tự tánh. Ông sư không phải là người sơ học, ông muốn buộc sư phụ phải nói ra quan điểm triết học của mình, khiến ông rơi vào bẫy mà Lão Tử đã nói” Tri bất tri thượng, bất tri tri bệnh.” Nhưng Triệu Châu đã ly khai vấn đề này, muốn ông trực tiếp thể ngộ vì thiền là phải tự mình chứng ngộ không phải do người ngoài truyền thọ gì cho mình, khiến mình có trí giải, theo đó mà tu hành, mà muốn người học tự mình giác ngộ; nếu do thức tâm mà tìm ra đường thì đó chỉ là tử lộ.

1069.  Một sợi cũng không.
Tĩnh cư ni Huyền Cơ thường trong hang đá Đại Nhật Sơn ngồi thiền học đạo. Một hôm, bỗng nhiên khởi một niệm đầu:
- Pháp tánh thậm nhiên thâm diệu không có tướng đến đi, ta chỉ ngồi thiền là rơi vào tịch định, sao gọi là thông đạt pháp tánh?
Do đó thân đến tham phỏng Tuyết Phong. Tuyết Phong hỏi:
- Từ nơi nào đến?
- Đại Nhật Sơn.
- Thái Dương đã mọc chưa?
- Giả như đã mọc rồi sẽ làm tuyết núi tan.
- Tên chi vậy?
- Huyền Cơ.
- Một ngày dệt được bao nhiêu?
- Một sợi cũng không.
Huyền Cơ bái rồi lui, đi được bốn, năm bước Tuyết Phong nói:
- Cà sa lê đất kìa!
Tĩnh cư ni  quay đầu lại xem vạt cà sa. Tuyết Phong nói:
- Một sợi cũng không. 
 (Thiền Chi Hoa)
Thiền tông từ trung kỳ trở về sau biến cơ phong ngữ thành khẩu đầu thiền. Bản thân công phu chưa tới mà chỉ lợi khẩu, dĩ chí gần như xa hẳn tôn chỉ của thiền. Tĩnh cư ni tự nhận đã làm tan tuyết núi ám chỉ công phu cao hơn Tuyết Phong. “Một sợi cũng không”, ám chỉ ni cô đã ngộ không. Thanh thanh tịnh tịnh, tâm không chỗ nhiễm nhưng mà loại khẩu đầu thiền này không phải tự chân như bản tánh lưu lộ mà là do tâm phân biệt sinh ra; do đó không qua được sự giảo nghiệm của Tuyết Phong. Vì vậy nghe cà sa lê đất, không ngăn được ngoảnh đầu lại nhìn, đã bị Tuyết Phong biết rõ công phu thô thiển.

1070.  Là phàm hay là thánh.
Nham Đầu có một ngày đến thăm Đức Sơn, vừa vào đến cửa liền hỏi:
- Là thánh, là phàm?
Đức Sơn hét to lên một tiếng, Nham Đầu lạy tạ mà lui. Có người đem chuyện này kể lại với Động Sơn. Động Sơn nói:
- Trừ Nham Đầu ra, không ai đủ sức đảm đương việc này!
Nham Đầu nghe được lời bình này liền mắng rằng:
- Lão hòa thượng Động Sơn này xấu quá, hạ giá ta, không biết rằng lúc đó ta một tay nâng hắn lên (chỉ Đức Sơn), một tay đè hắn xuống. 
(Thiền Chi Hoa)
Tiếng hét của Đức Sơn cắt đứt sự phân biệt phàm thánh của tâm thức Nham Đầu, Nham Đầu hướng Đức Sơn lễ tạ là “nâng lên” là hàm ý tôn sư trọng Đạo. Nhưng vì phàm thánh bình đẳng không nên lễ, nếu nhận lễ là chưa đạt được cảnh giới phàm thánh bình đẳng đó là “đè xuống”. Nham Đầu lễ tạ có vẻ khéo quá thành vụng, chưa được tiêu dao tự tại.

1071.  Chẳng lầm nhân quả.
Mỗi lần Bách Trượng thượng đường thuyết pháp, đều có một cụ già theo chư sư vào pháp đường nghe giảng. Có một hôm đại chúng đã đi hết chỉ còn lại cụ già. Bách Trượng bèn hỏi cụ là ai, cụ già đáp:
- Lão không phải là người, lúc trước khi tôn giả Ca Diếp tại thế lão là phương trượng ở chính núi này; có một đồ đệ hỏi lão bậc đạo hạnh cao thâm có bị luật nhân quả chi phối không? Lão trả lời không? Vì câu trả lời đó lão bị biến thành chồn, luân hồi đã 500 kiếp rồi, bây giờ xin thầy chỉ điểm cho lão để thoát thân chồn này.
Bách Trượng hỏi:
- Lão trượng muốn hỏi gì?
Cụ già lập lại câu hỏi của đồ đệ.
Bách Trượng đáp:
- Chẳng lầm nhân quả.
Cụ già nghe rồi lập lức tỉnh ngộ lễ tạ Bách Trượng và xin ngài làm lễ mai táng cho mình như một tăng sĩ. 
 (Thiền Chi Hoa)
Câu chuyện này chủ yếu để thuyết minh luật nhân quả. Chịu chi phối bởi nhân quả là khẳng định; không chịu chi phôi bởi nhân quả là phủ định; do đó đều sai. “Chẳng lầm nhân quả” vượt cả khẳng định và phủ định. Nên thấy được tự tánh chân chánh. Người đắc đạo thấy được hiện tượng giới biến ảo, siêu việt giới vĩnh hằng; và đạo là vượt lên cả hai giới đó, tương tự Tâm Kinh nói: “Sắc chẳng khác không, không chẳng khác sắc, sắc tức là không, không tức là sắc.”

1072.  Làm trâu.
Triệu Châu hỏi Nam Tuyền:
- Người biết hữu sẽ về đâu?
- Xuống núi, vào thôn trang làm trâu.
Nghe lời đáp kỳ lạ của Nam Tuyền, Triệu Châu không những không lấy làm kỳ lại hướng Nam Tuyền lạy tạ. Nam Tuyền bèn nói:
- Canh ba đêm qua, trăng lọt vào song cửa. 
 (Thiền Chi Hoa)
“Biết hữu” ám chỉ biết được bản thể, cũng có nghĩa là biết được Đạo thể và hợp với Đạo Thể làm một. Câu hỏi của Triệu Châu có nghĩa là đi đâu để có thể cùng Đạo Thể hợp nhất. Như cách nhìn của Trang Tử thì Đạo không đâu là không có. Nam Tuyền biểu hiện một cách chân thật tánh chất nội tại của Đạo, bảo Triệu Châu đi làm trâu, giống như câu nói của Trang Tử, “Đạo ở cả trong cứt đái.”

1073.  Rửa bát.
Có một ông tăng hỏi Triệu Châu:
- Đệ tử mới vào tùng lâm mong sư phụ chỉ điểm.
Triệu Châu hỏi:
- Ngươi đã ăn cháo chưa?
- Đã ăn rồi.
- Vậy sao. Đi rửa bát đi!
Ông tăng đó, do vậy đại ngộ. 
(Thiền Chi Hoa) 
Triệu Châu dạy ta không nên lìa hiện thực, đã ăn cháo rồi thì phải đi rửa bát. Con người ta khi làm một việc gì, không chịu chú ý làm, chỉ lo hướng ngoại. Những người bên cạnh Triệu Châu như vậy, chúng ta cũng vậy. Thí dụ đi đường, đi đường là đi đường, Triệu Châu không lấy sự kiện đi đường là một sự kiện đặc biệt trừu tượng để suy tưởng, chỉ y theo tâm chân thật mà đi đường. Nếu là người đi đường chân chánh, thì đường là cái gì? Không dùng lời cũng biết, không cần thí dụ cũng hiểu. Nếu đi hỏi người là thừa vậy. Đạo là phải  tự mình đi, đi đến khi đủ để vô tâm là được.

1074.  Đánh cuộc.
Triệu Châu nói với đệ tử Văn Viễn rằng:
- Văn Viễn chúng ta hãy đánh cuộc, xem ai làm mình thấp hèn nhất là được.
Văn Viễn bằng lòng, hai người thương lượng ai thắng thì được một miếng bánh. Triệu Châu nói:
- Ta là đầu lừa.
- Đệ tử là đít lừa.
- Ta là cứt lừa.
- Đệ tử là con nhặng trong cứt đó.
Triệu Châu nghĩ một lúc không ra hỏi:
- Ngươi ở trong đó làm gì?
- Ở đó nghỉ hè.
Triệu Châu gật đầu:
- Được, coi là ngươi thấp hèn nhất.
Vừa nói vừa cầm lấy bánh ăn. 
 (Thiền Chi Hoa).
Chủ yếu của công án này là để biểu minh vật, ngã là một: hữu tình và vô tình đều có Phật tánh. Hơn nữa, “nhặng trong cứt” và “nghỉ hè” cũng như sen mọc trong bùn nhơ mà không bị ô uế; kinh Bát Đại Nhân Giác nói, “Tuy là tục nhân mà không nhiễm thế lạc” cũng là ý đó.

1075. Từ Hàng phổ độ.
Dược Sơn theo hầu Mã Tổ ba năm, một hôm Mã Tổ hỏi:
- Gần đây ngươi có tâm đắc gì?
- Da đã rụng rồi, chỉ còn chân thật.
Mã Tổ nói:
- Kiến giải của ngươi hoàn toàn phù hợp với tâm, ngươi có thể lên núi nào trú cũng được.
- Con là người chi mà dám lên núi làm phương trượng.
Mã Tổ nói:
- Không vĩnh viễn đi không trú, không vĩnh viễn trú không đi; cầu ích ở chỗ không ích, làm ở chỗ không làm, phải như Từ Hàng phổ độ không nên vĩnh viễn trú ở đây. 
(Thiền Chi Hoa)
Mã Tổ dùng sự đi và trú của Dược Sơn để ám chỉ động tĩnh của tự tánh.
“Đi mà không trú” chỉ sự chạy theo trần cảnh không thấy được tự tánh.
“Trú mà không đi” chỉ sự chìm đắm vào không tịch không y thể khởi dụng. 
Hai loại hành vi đó đều không phải là hành vi của thiền gia. Do đó Mã Tổ khuyên Dược Sơn tại chỗ không ích cầu ích, tại chỗ không làm thì làm hy vọng Dược Sơn trong tịnh tìm được dụng động, trong động tìm được thể tĩnh. Tức là có thể bất biến tùy duyên, tùy duyên bất biến mà đi cứu độ chúng sinh.

1076.   Làm sao hoằng dương.
Bàng cư sĩ có một lần đến bái phỏng Ngưỡng Sơn:
- Đã lâu nghe danh Ngưỡng Sơn, đến nơi lại chỉ là phủ phục!
Ngưỡng Sơn đưa phất tử lên. Bàng cư sĩ nói:
- Vừa vặn.
Ngưỡng Sơn hỏi:
- Là ngưỡng hay phủ?
Bàng cư sĩ đánh vào cột gỗ nói rằng:
- Tuy không người, nhưng có cột gỗ chứng minh!
Ngưỡng Sơn ném phất tử đi nói:
- Đi mọi nơi làm sao hoằng dương? 
(Thiền Chi Hoa)
Tự tánh là thanh tịnh không nhiễm làm gì có ngưỡng, phủ (ngẩng lên, phục xuống). Ngưỡng Sơn giơ phất tử lên là dùng cách vô tình thuyết pháp. Bàng cư sĩ lấy cột gỗ chứng minh để ám chỉ vô tình nghe pháp đều là dùng vật để hiển hiện tự tánh, phủ định sự đối đãi của danh tướng. “Đi mọi nơi làm sao hoằng dương?” là hỏi nếu dùng phương pháp vô tình thuyết pháp sau này làm sao khai thị học nhân? Con người là giống hữu tình, dùng vô tình thuyết pháp vượt lên vật ngã vậy làm sao mà hoằng dương Phật pháp? Đó cũng là nguyên nhân về sau Thiền tông bị suy thoái.

1077.  Cá vàng.
Tam Thánh hỏi Tuyết Phong:
- Dùng lưới cũng không bắt được cá vàng, không biết dùng mồi gì để bắt được?
- Đợi ngươi ra khỏi lưới ta sẽ bảo.
- Không ngờ rằng một vị lão sư có 1500 đệ tử mà thoại đầu cũng không biết!
Tuyết Phong đỏ mặt xin lỗi:
- Nhân vì làm phương trượng công việc thật quá bận đi! 
 (Thiền Chi Hoa)
Tam Thánh nói cá vàng là để chỉ tự tánh, câu hỏi có ý là làm thế nào để tự tánh hiển lộ. Ông biết tự tánh không thể giới hạn trong tiểu thiên địa, nhưng ông vẫn còn quan niệm về không gian, nhận rằng ngoài tự tánh còn có một cái lưới, không biết rằng tự tánh ở khắp nơi, làm gì còn có lưới? Tự tánh là tuyệt đối, do đó không thể ở ngoài tự tánh mà an lập danh tướng. Do đó khi Tuyết Phong trả lời , “Đợi ngươi ra khỏi lưới ta sẽ bảo” là cũng rơi vào ảnh tượng, không trách Tam Thánh cười ông. Kinh Hoa Nghiêm nói, “Ở một sợi lông, rũ màn vua, ngồi trong hạt bụi, chuyển đại pháp luân” là để đả phá những quan niệm to, nhỏ, trong, ngoài làm chướng ngại sự giải thoát. Cũng là để cho chúng ta biết chỉ có vượt ngoài không, thời gian mới thể ngộ được tự tánh.

1078.  Một ngón tay thiền.
Câu Chi lúc đầu sống trong am, có một  vị tỳ kheo ni tên là Thật Tế đến thăm. Ni cô đến am, không thông báo cũng không bỏ nón, chống trượng đi quanh thiền sàng của Câu Chi ba vòng nói:
- Nếu thầy nói có đạo lý tôi sẽ dở nón.
Ni cô hỏi liền ba lần, Câu Chi không đáp được một câu. Thật Tế giận phất áo định đi, Câu Chi nói:
- Trời gần tối rồi, xin hãy lưu lại một đêm.
- Nếu thầy nói có đạo lý, tôi sẽ lưu lại một đêm.
Câu Chi lại không đáp được. Khi ni cô đi rồi Câu Chi than rằng:
- Ta là nam tử mà không có khí khái trượng phu!
Về sau khi Thiên Long đến đó, Câu Chi mời vào thuật lại chuyện ni cô đến thăm, Thiên Long giơ một ngón tay lên khai thị, Câu Chi tức khắc đại ngộ. Về sau, hễ có ai đến hỏi pháp Câu Chi đều chỉ giơ một ngón tay lên.
Có một đồng tử khi ai hỏi chuyện gì đều giơ một ngón tay lên. Có người mách Câu Chi, Câu Chi nghe rồi dấu dao trong tay áo, gọi đồng tử đến hỏi rằng:
- Ngươi cũng hiểu Phật pháp rồi phải không?
- Dạ!
Câu Chi lại hỏi:
- Phật là gì?
Đồng tử giơ một ngón tay lên, Câu Chi liền vung dao lên chặt đứt. Đồng tử đau quá vừa khóc, vừa chạy. Câu Chi hét lớn bảo đứng lại, đồng tử quay đầu lại.
Câu Chi hỏi:
- Phật là gì?
Theo tập quán đồng tử giơ tay lên, không thấy ngón tay đâu, bỗng nhiên đại ngộ. 
 (Thiền Chi Hoa)
Khi Câu Chi mới gập ni cô, theo lời than của ông chúng ta thấy ông còn chấp tướng nam nữ. Do đó ông không trả lời ni cô được. Thiên Long giơ một ngón tay lên biểu thị tự tánh bình đẳng, không có tướng nam nữ, một ngón tay chỉ sự tuyệt đối. Do đó Câu Chi liễu ngộ. Về sau, dùng một ngón tay để tiếp dẫn người học. Đồng tử không hiểu ý nghĩa chân chính của một ngón tay, chỉ chấp hình tướng giơ tay, nghĩ rằng giơ tay là Phật pháp. Cho đến khi bị Câu Chi chặt đứt, không có ngón tay để giơ lên mới hiểu rằng Phật pháp không tồn tại ở hình tướng.

1079.  Lại là cái đó.
Có một ông sư hỏi Động Sơn:
- Tiên sư Vân Nham có từng nói qua “Lại là cái đó” không?
Động Sơn đáp:
- Có nói qua.
- Thiền sư có rõ ý tưởng của người không?
- Lúc đó suýt chút nữa ta đã hiểu sai.
- Không biết tiên sư có tự mình biết “có” “cái đó” không?
- Giả sử người không biết “có” làm sao người lại nói như vậy? Giả sử người biết “có” làm sao người lại khẳng định như vậy? 
 (Thiền Chi Hoa)
“Cái đó” là chỉ chân ngã, “có” là chỉ thực hữu. Chân ngã và thực hữu không thể dùng ngôn ngữ mà diễn tả. “Người không biết ‘có’ làm sao người lại nói như vậy” là dùng quan điểm tục đế mà xét Vân Nham. “Người biết ‘có’ làm sao người lại khẵng định như vậy” là dùng quan điểm chân đế mà xét Vân Nham. Vì khi một người đã thể ngộ được chân ngã và thực hữu thì sẽ hiểu rằng không thể dùng ngôn ngữ mà diễn tả được.

1080.  Cây khô và cây tươi.
Lúc Dược Sơn làm phương trượng, một hôm tản bộ trong sân; môn đồ là Đạo Ngộ và Vân Nham theo hầu một bên. Dược Sơn chỉ hai cây khô, tươi và hỏi Đạo Ngộ:
- Khô đúng hay tươi đúng?
Đạo Ngộ đáp:
- Tươi đúng.
Dược Sơn nói:
- Sáng rõ tất cả mọi nơi, quang minh sáng lạng đi!
Lại hỏi Vân Nham:
- Khô đúng hay tươi đúng?
Vân Nham đáp:
- Khô đúng.
Dược Sơn nói:
- Sáng rõ tất cả mọi nơi, bỏ khô lạt đi?
Chính lúc đó bỗng Cao sa di đến, Dược Sơn hỏi:
- Khô đúng hay tươi đúng?
Cao sa di đáp:
- Khô từ khô khác, tươi từ tươi khác.
Dược Sơn hướng về Đạo Ngộ và Vân Nham nói:
- Không phải, không phải. 
 (Thiền Chi Hoa)
“Tươi” là chỉ hữu, “Khô” là chỉ không. Đạo Ngộ chấp hữu là khẳng định, do đó Dược Sơn bảo, “Quang minh sáng lạng đi.” Vân Nham chấp không là phủ định nên Dược Sơn nói, “Bỏ khô lạt đi”. Cao sa di không thiên “hữu” hay “không” nhưng vẫn còn quan niệm đối đãi về “hữu” và “không”, chưa thoát khỏi vòng nên Dược Sơn bảo, “Không phải, không phải” để sửa ông.

1081.  Tướng nam nữ.
Có một vị ni cô thỉnh giáo Long Đàm, cô phải tu hành thế nào để trong kiếp sau có thể biến thành hòa thượng. Long Đàm hỏi cô:
- Ngươi làm ni cô đã bao lâu rồi?
Ni cô nói:
- Úy, thầy đừng làm loạn thoại đầu! Vấn đề là đệ tử một ngày nào đó có thể thành hòa thượng không?
Long Đàm lại hỏi:
- Hiện nay ngươi là gì?
- Hiện tại đệ tử là ni cô, ai lại chẳng biết?
Long Đàm nói:
- Ai biết ngươi?
 (Thiền Chi Hoa)
Câu đáp của Long Đàm: “Ai biết ngươi” thật là kim chích một cái là ra máu, bởi vì ngay cả biết cũng không biết. Đó là vượt ngoài quan niệm về ảnh tượng nam nữ. Tâm ai ai cũng có, ở thánh không thêm, ở phàm không bớt, đồng thời lớn không ngoài, nhỏ không trong, ở khắp hư không, tràn đầy pháp giới. Tất cả sự vật hữu hình, vô hình đều do tâm mà hiển hiện. Nó sáng tạo sâm la vạn tượng của vũ trụ, sáng tạo lục đạo luân hồi của chúng sanh, sáng tạo thánh hiền tiên Phật. Đó chính là “tam giới duy tâm, vạn pháp duy thức.” Giả như biết đó là ni cô, trong tâm liền có phân biệt tướng Nam Nữ. Dĩ nhiên là có tướng Nam Nữ hiển hiện. Kinh Kim Cương nói rằng: “Phàm sở hữu tướng, giai thị hư vọng”. Cũng giống như vị ni cô này chấp tướng Nam Nữ, hư vọng làm sao mà ngộ đạo được.

1082.  Hãy còn cái đó.
Tứ tổ Đạo Tín đến Ngưu Đầu Sơn thăm Pháp Dung, đến nơi thấy hổ lang đi nhiễu quanh hang, bách điểu hiến hoa. Tứ tổ giơ tay làm vẻ rất hoảng sợ.
Pháp Dung liền nói:
- Thầy còn cái đó sao?
Ám chỉ Tứ tổ còn tâm phân biệt. Đợi một lúc khi Pháp Dung vào trong, tứ tổ viết một chữ Phật lên thạch toạ mà Pháp Dung thường ngồi. Pháp Dung trở ra, định ngồi, nhưng thấy có chữ Phật, không dám ngồi xuống. Tứ tổ cười rằng:
- A! Nguyên lai ngươi hãy còn cái đó!
Pháp Dung lập tức đại ngộ. 
(Thiền Chi Hoa)

Khi Pháp Dung chưa gập Tứ tổ đã đắc “Nhân Không”, cắt đứt được ngã chấp vì vậy điểu thú đối với ông không có tâm hoảng sợ. Nhưng ông chưa chứng được “Pháp không”. Do đó  những ảnh tượng, điểu thú, hoa, Phật chưa trừ bỏ được, do câu điểm tỉnh của Tứ tổ mới chân chính đạt được vật, ngã lưỡng không vượt ngoài ảnh tượng. Tất cả hình tướng đều do tâm tạo, tâm không thì cảnh cũng không, hình tượng do đó cũng không còn nữa.

1083.  Nơi nơi đều thấy chân Phật.
Động Sơn, họ Du, người Hội kê tỉnh Triết Giang đầu tiên đi tham bái Nam Tuyền là đệ tử của Mã Tổ, lần thứ nhì đi tham bái Quy Sơn là đệ tử của Bách Trượng, về sau làm môn hạ của Vân Nham. Tuy tham học đã lâu nhưng vẫn chưa khai ngộ, cho đến một ngày, khi đi qua sông nhìn bóng mình dưới nước hoát nhiên đại ngộ. Do đó làm một bài kệ rằng:
 

Thiết  kỵ  tòng  tha  mích
Điều  điều  dữ  ngã  sơ
Ngã  kim  độc  tự  trú
Xứ  xứ  đắc  phùng  cừ
Cừ kim chính thị ngã
Ngã kim bất thị cừ
Ứng  tu  nhậm  ma  hội
Phương  đắc  khế  như  như.

Rất  kỵ  tìm  nơi  khác
Xa  xôi  bỏ  lãng  ta
Ta  nay  riêng  tự  đến
Chỗ  chỗ  đều  gập  va
Va  nay  chính  là  ta
Ta  nay  chẳng  phải  va
Phải  nên  như  thế hội
Mới  mong  hợp  như  như.
 (Thích Thanh Từ dịch)
 (Thiền Chi Hoa)

“Như như” chỉ tự tánh, là cái mà Đạo Đức kinh gọi là thường hằng. Đại ý của bài kệ này là tự tánh chính ở nơi mình không cần phải hướng ngoại tìm cầu, càng tìm càng xa lìa; khi phản hồi tự thân thì thấy nơi nơi tự tánh đều hiển lộ. Đến câu”Va nay chính là ta, Ta nay chẳng phải va” sao trước sau mâu thuẫn vậy? Nói một cách đơn giản Động Sơn nhìn thấy bóng mình ở dưới sông(vì bóng đó cũng là ngã) do đó nhìn thấy bản lai diện mục của mình mà đại ngộ. Nhưng mà cái bóng này không thường trụ cho nên ta phải xả bỏ.Nếu ta cứ khư khư giữ lấy thì mắc vào ngã chấp cho nên mới nói “Va nay chính là ta, Ta nay chẳng phải va.” Bài kệ này ở trong Phật học đã khác lạ, mà ở trong thế giới văn học cũng đáng coi là vật báu. Nó mở mắt chúng ta, cho chúng ta thấy một kinh nghiệm sống thâm ảo giống như câu thơ của Đỗ Phủ “Nước thu trong không đáy.”

1084.  Rơi này, vỡ này.
Tung Nhạc Phá Táo Đọa hòa thượng ngôn hành cao thâm khôn lường, không ai biết tên thật của ông là gì, ông ẩn cư trên núi Tung Nhạc. Trên núi có một tòa miếu cổ thờ một vị Táo thần rất linh. Người xa gần đến cúng lễ không dứt, hưởng đồ sát sinh cũng nhiều. Một hôm, hòa thượng dẫn chư tăng vào miếu dùng gậy gõ vào tượng ba lần nói:
- Táo chỉ do đất bùn tạo ra. Thánh từ đâu đến? Linh từ đâu ra? Sao dám hưởng thụ đồ sát sanh?
Lại dùng gậy đập ba cái nữa, Táo liền rơi vỡ. Không lâu, có một vị mặc áo xanh, đội mũ đến lạy hòa thượng. Hòa thượng hỏi:
- Ngươi là ai?
- Đệ tử là Táo thần trong miếu, đã lâu bị nghiệp báo thọ đồ sát sanh, nay mong ơn sư phụ nói pháp đã thoát ly được chốn này và lên trời, cho nên đến để tạ ơn.
- Đó là do tánh ngươi vốn có, không phải công lao của ta.
Nhưng vị thần vẫn lễ ba lần rồi đi. Thị tăng hỏi rằng:
- Chúng con theo hầu sư phụ đã lâu, chưa được thọ huấn, vị thần này được bí quyết gì mà được lên trời?
- Ta chỉ nói hắn do đất bùn tạo nên, cũng không có đạo lý gì đặc biệt để bảo các ngươi.
Chúng tăng im lặng, Hòa thượng nói:
- Hiểu không?
Chúng tăng đáp:
- Không hiểu.
- Tánh vốn có vì sao không hiểu?
Chúng tăng bỗng nhiên đại ngộ, bèn lễ tạ.
Hòa thượng cao hứng nói:
- Rơi này, vỡ này! 
 (Thiền Chi Hoa)
Táo thần là do đất bùn tạo nên, khi bị đập vỡ dễ dàng hiểu được đạo lý vật, ngã là một. Chúng sanh cũng tương tự như vậy do tứ đại (đất, nước, gió, lửa) và thần thức gá vào mà thành. Hòa thượng nói “Rơi này, vỡ này!” chính là xác nhận chư tăng đã hiểu “tứ đại không có, ngũ uẩn đều không” vậy. 

1085.  Tâm bình thường là đạo.
Một hôm Triệu Châu thỉnh giáo Nam Tuyền:
- Thế nào là Đạo?
- Tâm bình thường là Đạo.
- Có phương pháp nào để cầu được?
- Khi ngươi có niệm đầu “Cầu được” là đã sai rồi!
Triệu Châu lại hỏi:
- Nếu phong kín tất cả tâm niệm, làm sao đệ tử thấy được Đạo?
- Đạo không ở biết hay không biết; biết là vọng giác, không biết là thằng ngốc. Nếu như ngươi chứng được Đại Đạo thì thấy giống như Thái không làm sao thọ những quan niệm ngoại tại, thị phi bó buộc?
Triệu Châu nghe lời này lãnh ngộ được đạo lý “phi tri, phi bất tri” hốt nhiên quán thông, chứng nhập thái hư tâm cảnh. 
 (Thiền Chi Hoa)
Tâm bình thường chính là vô tâm. Tâm bình thường không liên quan gì đến sinh hoạt ý thức, nó thuần phác. Tâm bình thường chính là trọng tâm của Thiền. Nhưng Nam Tuyền không cho chúng ta biết làm thế nào để đạt Đạo. Ông chỉ cho biết khi ngộ đạo rồi thì như thái không vô ngại. Chúng ta đều có Phật tánh đầy khắp hư không pháp giới, chỉ vì nhất thời bị mê hoặc điên đảo làm trở ngại Phật tánh hiển lộ. Nếu y pháp tu học đuợc “vô tâm” thì sẽ chứng nhập cảnh giới hư  không.

1086.  Ngồi 40 năm.
Phật Quật Duy Tắc thiền sư người Trường An, sanh dưới triều nhà Tống. Xuất gia từ nhỏ, tu hành ở Thiên Đài Sơn, Chiết Giang. Nhặt lá lợp mái tạo một thảo am. Đói thì hái quả rừng, khát thì uống nước suối. Một hôm có một ông tiều đi ngang qua am thấy một vị lão tăng, lấy làm lạ hỏi:
- Thầy sống ở đây bao lâu rồi?
- Đại khái cũng 40 mùa đông rồi!
- Thầy chỉ tu hành một mình sao?
Phật Quật gật đầu:
- Trong rừng sâu, một người cũng đã là nhiều, còn muốn nhiều nữa làm gì?
- Thầy còn có bằng hữu không?
Phật Quật vỗ tay, có nhiều hổ báo từ sau am chạy ra.  Tiều phu hoảng sợ.  Phật Quật nói đừng sợ, rồi bảo hổ báo thối lui.
Phật Quật bảo tiều phu:
- Bạn hữu thì nhiều, sơn hà đại địa, cây cỏ hoa lá, dã thú đều là bạn đạo.
Tiều phu rất là cảm động, xin làm đệ tử. 
- Ngươi nay tuy là phàm phu nhưng là phi phàm phu, tuy là phi phàm phu nhưng không làm hỏng pháp phàm phu.
Tiều phu nghe rồi khế nhập.  Từ đó những người mộ đạo dần dần tìm đến, tạo thành phái thiền Phật Quật.
(Tinh Vân Thiền Thọai)
Theo thường thức thì 40 năm là một khoảng thời gian dài nhưng đối vời Duy Tắc, người đã chứng ngộ thời gian vô tận thì đó chỉ là một khoảng khắc.  Người ngộ đạo không thấy có sự sai biệt về thời không, ta người, động tĩnh, chúng sanh Phật.  Tuy là phàm phu nhưng lại phi phàm phu.  Ai ai cũng có Phật tánh, trong chân lý không có giả danh Phật và chúng sanh thì làm gì có phân biệt phàm phu và phi phàm phu?  Tuy là phàm phu nhưng không làm hỏng pháp phàm phu:  người ngộ đạo không phá hoại vạn pháp mà vượt lên vạn pháp.

1087.  Tâm không được đậu.
Có một lão thiền tăng, tham thiền hàng 60 năm mà vẫn chưa khai ngộ; một hôm gập một vị pháp sư trẻ. Hai người nói chuyện về Tứ thánh đế. Lão thiền tăng rất khâm phục pháp sư, khẩn khoản xin pháp sư khai thị.
- Chỉ cần thầy ngày ngày cung dưỡng thực phẩm ngon lành. Ta nhất định chỉ cho thầy pháp môn chứng ngộ.
Lão thiền sư lòng tha thiết cầu đạo nên hàng ngày đều cung dưỡng pháp sư những thực phẩm ngon nhất.
Ít lâu sau, lão thiền sư yêu cầu pháp sư chỉ thị vì tuổi mình đã cao không còn thì giờ để chờ đợi nữa. Vị pháp sư trẻ định đùa một phen bèn nói:
- Được, thầy hãy theo ta!
Pháp sư dẫn lão thiền tăng đến một căn phòng trống, chỉ một góc phòng bảo lão thiền tăng quỳ xuống, lấy nhành dương phẩy vào đầu:
- Đây là quả Tu Đà Hoàn.
Lão thiền tăng thành tâm, một niệm chẳng loạn ngay đó chứng được sơ quả.
Pháp sư lại bảo:
- Tuy thầy được sơ quả nhưng hãy còn phải sanh tử 7 kiếp, hãy đứng dậy đi ra góc khác.Lão thiền tăng ra góc khác qùy xuống. 
Pháp sư lại lấy nhành dương phẩy vào đầu:
- Đây là quả Tư Đà Hàm, hãy còn sanh tử; đứng dậy ra góc khác.
Lão thiền tăng lại ra góc khác quỳ xuống. Pháp sư lại lấy nhành dương phẩy vào đầu:
- Đây là quả A Na Hàm, quả không thối chuyển, nhưng ở sắc, vô sắc giới còn thân hữu lậu, niệm niệm đều khổ. Hãy đứng dậy đi ra góc khác.
Lão thiền tăng lại đi ra góc khác quỳ xuống.Pháp sư lại lấy nhành dương phẩy vào đầu:
- Đây là quả A La Hán, đã tuyệt sanh tử. Tốt lắm!
Lão thiền tăng lúc đó đã đắc quả A La Hán, vui vẻ vô cùng hướng pháp sư đảnh lễ.
Pháp sư mắc cỡ:
- Ta chỉ rỡn thôi, thầy đừng cho là thật.
Lão thiền tăng thành thật:
- Lão tăng thực đã chứng quả A La Hán, không phải rỡn đâu!
 (Tinh Vân Thiền Thoại)
Lão thiền tăng thiền 60 năm chưa thể khai ngộ vì cơ duyên chưa hợp. Pháp sư trẻ đùa rỡn là không phải, nhưng lại giúp được cho lão thiền tăng. Thực là:
Cố  ý  trồng   hoa,  hoa  chẳng  nở.
Vô  tâm  cắm  liễu,  liễu  xum  xuê.
Lão thiền tăng kiên trì tọa thiền 60 năm, có thể nói hành hữu dư, lại đối với pháp sư cung kính cúng dường coi trọng tuệ giải. Đó là hành, giải đều đều trọng nên sự khai ngộ, chứng quả dễ như trở bàn tay.

1088.  Sống vui.
Có ba tín đồ mặt buồn rầu đến thỉnh giáo Vô Đức làm sao sống vui.
- Các ngươi trước hết hãy cho ta biết vì sao mà sống?
Tín đồ 1:
- Vì con không muốn chết.
Tín đồ 2:
- Vì con mong sau này con cháu đầy nhà.
Tín đồ 3:
- Già trẻ nhà con đều trông vào một tay con nuôi dưỡng.
Vô Đức bảo:
- Đương nhiên các ngươi không thấy vui chỉ vì sợ chết, do bất đắc dĩ chịu trách nhiệm. Con người sống không trách nhiệm, không lý tưởng không thể vui được.
- Vậy chúng con phải làm sao mới sống vui? 
- Các ngươi nghĩ thế nào là sống vui?
Tín đồ 1:
- Con nghĩ có nhiều tiền là vui.
Tín đồ 2:
- Con nghĩ có tình yêu là vui.
Tín đồ 3:
- Con nghĩ có danh vọng là vui.
Vô Đức không cho là phải:
- Nếu các ngươi nghĩ như vậy thì vĩnh viễn không thấy sống vui. Khi các ngươi có tiền bạc, tình yêu, danh vọng thì phiền não, lo âu sẽ đến theo.
- Vậy phải làm sao?
- Các ngươi nên cải biến quan niệm. Có tiền nên bố thí; có tình yêu nên dâng hiến, có danh vọng nên phục vụ đại chúng thì sẽ thấy sống vui.
Các tín đồ cuối cùng đã hiểu cách sống vui.
  (Tinh Vân Thiền Thoại)
Cảnh giới của Thiền là tự chủ, giải thoát, an tĩnh, vui vẻ.

1089.  Bị người mượn mất rồi.
Hai học tăng cùng sống ở một am, nhưng ít khi gập nhau. Một hôm gập mặt, ông tăng trên gác hỏi ông tăng dưới nhà:
- Nhiều ngày không gập, không biết ông bận gì?
- Tôi bận tạo một tháp vô phùng.
Ông tăng trên gác nghe rồi cả mừng:
- Tôi đang định tạo tháp vô phùng, ông có thể cho coi hình dạng ra sao không?
- Thật không may, sao ông không nói sớm, tháp vô phùng của tôi bị người ta mượn mất rồi. 
- Không quan hệ, chỉ cho tôi nhìn một cái!
(Tinh Vân Thiền Thoại)
Bản tánh của chúng sanh là tháp vô phùng; trừ pháp tánh viên mãn ra, làm gì còn vô phùng tháp nữa? Ông tăng dưới nhà biết pháp thân là vô biên, do đó tạo một tháp vô phùng để cung dưỡng pháp thân. Nhưng loại ngộ tánh này không mô phỏng được, chỉ có thể chứng thôi. Do đó không cho mượn được, học cũng không được, vì thế từ chối nói là bị người mượn mất rồi. Nhưng mà bản tánh vốn không thể cho mượn được, ông tăng trên gác  liền hiểu ngay, tu hành chỉ nhờ vào chính mình tự tu, tự tham; bắt chước chỉ giống như con vẹt nhắc lại lời nói mà chẳng hiểu gì.

1090.  Leo núi.
Động Sơn hỏi Vân Cư:
- Ngươi không ở thiền đường tu tập còn đi đâu?
- Đi leo núi.
- Leo núi nào?
- Chẳng có ngọn nào để leo.
- Ý ngươi là tất cả các núi đều bị ngươi leo hết sao?
- Không phải vậy.
- Vậy ngươi hãy tìm lối ra.
- Không có lối ra!
- Giả như không có lối ra làm sao cùng ta gập mặt?
- Như quả có lối ra, vậy con cùng lão sư ở cách núi sao?
Không lâu Động Sơn lại hỏi:
- Ngươi đi đâu?
- Đi leo núi.
- Có leo tới đỉnh không?
- Có.
- Đỉnh núi có người không?
- Không có!
Động Sơn cười:
- Cho thấy ngươi thật không leo núi.
- Nếu con không leo, sao biết đỉnh núi không người?
- Ngươi vì sao không tạm trú ở đó?
- Con không định ở vì có người không cho.
Động Sơn cười ha hả:
- Ta từ sớm đã nghi ngươi leo núi đó.
(Tinh Vân Thiền Thoại)
Lời đáp của Vân Cư rõ là mâu thuẫn: lúc thì nói là đỉnh núi không người, lúc thì lại nói người ở đó không cho ở. Sự thực là không mâu thuẫn. Đỉnh ngũ uẩn sơn có chân ngã thường tại không? Dưới con mắt người thường Hữu và Vô là 2 nhưng dưới mắt thiền giả thì chỉ là 1 thể 2 mặt. Có thể điều hoà Hữu và Vô để nhận thức Trung Đạo thì đó là trí tuệ của nhà Thiền vậy.

1091.  Nhổ đàm.
Mã Tổ Đạo Nhất có một lần ngồi thiền, nhịn không được nhổ một bãi đàm trên tượng Phật. Thị giả thấy vậy cho là không đúng vội hỏi:
- Lão sư, sao thầy lại nhổ đàm lên tượng Phật?
Đạo Nhất húng hắng 2 tiếng hỏi lại thị giả:
- Trong hư không, chỗ nào cũng là pháp thân Phật, ta hiện đang muốn nhổ, ngươi hãy bảo ta nhổ vào đâu?
Thị giả không biết trả lời làm sao.
Một lần khác Đạo Nhất vẻ mặt khó coi, nhổ đàm vào khoảng không. Thị giả lại thắc mắc:
- Lão sư, sao nhổ đàm mà lại giận dữ vậy?
- Ta ngồi thiền tại đây, trong hư không sơn hà đại địa, sâm la vạn tượng đều hiển hiện trước mắt làm phiền ta; do đó ta nhịn không được phải nhổ.
- Đó là cảnh giới tu chứng, có thể coi là chuyện tốt đẹp, sao thầy lại cảm thấy phiền?
- Như ngươi nói cố nhiên là chuyện tốt, nhưng đối với ta lại là phiền.
- Đó là cảnh giới gì vậy?
- Cảnh giới bồ tát.
Thị giả nhíu mày lắc đầu:
- Loại cảnh giới này thực khiến người ta khó mà hiểu được!
- Vì ngươi là người, không phải là bồ tát.
- Bồ tát chẳng phải được gọi là giác hữu tình sao?
- Vì ngươi là một tên ngu xuẩn bất giác làm sao có thể xưng là giác hữu tình?
Thị giả cuối cùng thể ngộ.
                                                                 (Tinh Vân Thiền Thoại)
Nhiều người tôn kính Phật, nhưng không hiểu rõ Phật. Vì pháp thân Phật ở khắp hư không, tràn đầy pháp giới. Mã Tổ nhổ đàm trên tượng Phật biểu thị ông nhận biết pháp thân không đâu không có. Nhiều người khi ngồi thiền đều hoan hỉ khi thấy những cảnh lành, làm tăng thêm lòng tin, nhưng Mã Tổ lại thấy phiền chỉ rằng ông đã diệt trừ mọi sai biệt của các hiện tượng trong vũ trụ mà quay về bình đẳng, trừ bỏ nhân ngã mà quay về cái một. Thị giả chấp vào thường kiến chẳng trách gì bị gọi là tên ngu xuẩn bất giác.

1092.  Đi đâu?
Động Sơn một hôm đi thăm một học tăng bị bệnh nặng là Đức Chiếu. Đức Chiếu thỉnh thị:
- Lão sư, sao thầy không từ bi cứu độ một đệ tử chân tâm học đạo để hắn bất minh, bất giác chết sao?
- Ngươi là đệ tử nhà nào?
- Đệ tử Đại Diêm Đề (người không Phật tánh)
Động Sơn không nói, 2 mắt chăm chú nhìn Đức Chiếu. Đức Chiếu nóng ruột:
- Bốn bề là núi áp bức, lão sư! Con phải làm sao?
- Lúc trước, ta cũng từ dưới mái hiên nhà ngươi mà tới.
- Nếu là vậy, con cùng lão sư tương ngộ dưới mái hiên. Xin hỏi con và thầy cùng tránh né hay không tránh né?
- Cùng không tránh né.
- Không tránh né, vậy thầy bảo con đi đâu?
- Ngũ thú, lục đạo, thập pháp giới, đâu cũng là đường việc gì phải lo. Nếu ngươi không yên lòng thì ra ruộng mà trồng lúa tẻ.
- Lão sư, thỉnh thầy bảo trọng!
Nói rồi, sửa lại dáng ngồi mà nhập diệt.
Động Sơn dùng thiền trượng gõ 3 lần trước mặt Đức Chiếu:
- Ngươi tuy có thể đi như vậy, nhưng không thể về như vậy.
(Tinh Vân Thiền Thoại)
Đức Chiếu thế duyên đã tận, bệnh nặng nằm trên giường nhưng vẫn không quên tìm đường ra khỏi sanh tử. Động Sơn chỉ thị ông chỗ nào cũng là đường, nhưng đường nào là chánh, không phải ai cũng đạt được. Ra ruộng trồng lúa. Đó là khóa đề mà người tu phải chú ý. Đức Chiếu an tâm nhập diệt biểu thị ông đã tìm được đường ra. Nhưng Động Sơn nói Đức Chiếu có thể ra nhưng không thể quay lại. Nếu muốn đến đi tự như không phải là một chuyện dễ.

1093.  Không mồm nói pháp.
Học tăng Đạo Niệm xuất gia khoảng 10 năm, đi tham học các nơi mà vẫn chưa khai ngộ. Một hôm thỉnh thị Thạch Lâu:
- Con chưa biết bản tánh, xin thầy phương tiện chỉ thị.
- Thạch Lâu không mồm.
- Học tăng chí thành, rửa tai cung kính mà nghe.
- Ngươi nghe gì?
- Học tăng tự biết tội nghiệp thâm trọng.
- Lão tăng, tội cũng không thiếu.
- Thầy lỗi ở chỗ nào?
- Lỗi ở chỗ không ngươi.
- Có thể sám hối không?
- Tội nghiệp vốn không. Do tâm tạo, tâm diệt tội cũng mất.
Đạo Niệm lạy, Thạch Lâu bèn đánh, đánh rồi hỏi:
- Gần đây, ngươi lìa chốn nào mà đến đây?
- Lương, Đường, Tấn, Hán, Châu đều hành cước.
- Các chủ nhân ấy có trọng Phật pháp không?
- Rất may thiền sư hỏi con, nếu hỏi người khác thì đã mang họa rồi!
- Vì sao?
- Vì các vua đó không thích người ta hoài nghi.
- Người còn không gập, còn có Phật pháp nào để trọng?
- Xin thầy chỉ cho con làm sao trọng Phật pháp?
- Ngươi thọ giới bao lâu rồi?
- Hơn 10 năm.
- Hơn 10 năm rồi mà chưa biết trọng pháp, hôm nay hỏi ta, miệng ta làm sao nói rõ, tai ngươi làm sao nghe hiểu?
Đạo Niệm ngay đó khai ngộ.
(Tinh Vân Thiền Thoại)
Trong Thiền môn tham học hàng 10 năm mà chẳng được gì, cơ duyên đến lại chẳng phí chút công phu. Thạch Lâu nói không mồm là chỉ thiền vốn không lời. Đạo Niệm rửa tai cung kính nghe là chưa nhập tâm. Vì sao? Đạo Niệm thọ giới 10 năm mà vẫn chưa biết trọng pháp, Thạch Lâu bèn chỉ cho. Do đó nhiều năm bị mây che, một khi gạt đi liền được gọi là nhập tâm.

1094.  Chém đầu.
Có một lần Long Nha bảo Đức Sơn:
- Giả như trong tay ta hiện giờ có một thanh bảo kiếm sắc bén không gì đối địch được, định chém đầu ngươi, không biết ngươi nghĩ sao?
Đức Sơn bước lên vài bước, vươn cổ ra:
- Ngươi chém đi.
Long Nha cười ha hả:
- Đầu ngươi đã rơi xuống đất rồi!
Đức Sơn cũng cười ha hả:
- Đầu ta đã rơi xuống đất rồi!
Về sau Long Nha tham học với Động Sơn có kể lại chuyện này. Động Sơn hỏi:
- Lúc đó Đức Sơn nói gì?
- Đức Sơn cũng cười ha hả và nói đầu đã bị chém rồi.
- Ngươi không thể nói Đức Sơn bị chém đầu mà sự thực thì đầu ngươi mới bị chém.
- Lão sư, đầu con còn ở đây, chưa bị Đức Sơn chém.
Động Sơn cười ha hả:
- Đức Sơn chém đầu ngươi, ngươi tự bưng lại ta xem.
Long Nha nghe rồi như thấy núi lở, trời xụp, lúc đó mới chính thức đại ngộ.
(Tinh Vân Thiền ThoạI)
Long Nha mới đầu có ý chém đầu Đức Sơn, đó là từ tự ngã xuất phát. Động Sơn đề tỉnh Long Nha tự chém đầu mình đoạn 
trừ chấp ngã. Đó là nhà thiền dùng “không” mọi sở hữu nhưng không phủ định sở hữu, dùng chủ khách đối đãi là một mà quán sát. Do đó đạt được Trung  Đạo.

1095.  Thuyết pháp.
Đời Đường, Văn Tông hoàng đế rất thích ăn nghêu, vì vậy dân chúng vùng duyên hải thường bắt nghêu để tiến cống triều đình. Có một lần ngự trù khi đang nấu nướng, cậy vỏ nghêu ra thì thấy nghêu có hình tượng Bồ Tát Quán Âm rất trang nghiêm. Văn Tông sai đặt nghêu vào hộp báu, cung phụng tại Hưng Thiên Tự. Chuyện ly kỳ như vậy nên khi thiết trào, Văn Tông hỏi quần thần:
- Chư khanh có ai biết trong nghêu có thánh tượng là điềm gì không?
Một vị đại thần tâu:
- Đây là chuyện siêu phàm nhập thánh, người thường khó biết, thánh thượng nếu muốn biết thì xin mời thiền sư Dược Sơn, là người thâm hiểu Phật pháp, học rộng hiểu nhiều mà hỏi.
Khi tới cung Dược Sư thưa:
- Đây là Bồ tát hiện thân thuyết pháp, vì hoàng thượng mà thuyết pháp.
- Bồ tát tuy hiện thân, sao trẫm không nghe thuyết pháp?
- Bệ hạ thấy trong nghêu có Quán Âm thánh tượng, có khiến bệ hạ có tín tâm không?
- Vì chính mắt thấy, đương nhiên trẫm tin.
- Bệ hạ đã khởi lòng tin, đó là Quán Âm đã thuyết pháp rồi.
(Tinh Vân Thiền Thoại)
Dược Sơn thuyết pháp cho Đường Văn Tông thật là khéo. Loại trí tuệ này là do thiền tâm mà ra. Nếu đã được thiền tâm thì những lời nói ra đều là diệu đế. Một ngọn cỏ, một mùi hương đều là Đạo, dương liễu xanh um, hoa vàng bát ngát đều là Pháp thân Phật, những tiếng thủy triều, những tiếng suối nước róc rách đều là tiếng chư Phật thuyết pháp đâu cần Quán Âm hiện thân thuyết pháp.

1096.  Nghe và không nghe.
Thanh Lâm lúc mới đến tham Động Sơn, Động Sơn hỏi:
- Ngươi từ đâu tới?
- Võ Lăng.
- Phật pháp của Võ Lăng và của ta ở đây có gì khác biệt gì không?
- Như hoa nở rộ trên cát đá hoang vu.
Động Sơn bảo đệ tử:
- Hãy soạn bữa cơm rau đặc biệt cung dưỡng người này.
Thanh Lâm nghe rồi phất tay áo để đi.
- Ngươi định đi đâu?
- Mặt trời không thể ẩn tàng không cho người thấy.
Động Sơn ấn khả:
- Ngươi hãy bảo trọng.
Rồi Động Sơn tiễn Thanh Lâm ra tận cửa, lúc chia tay lại bảo:
- Ngươi có thể nói một câu tâm tình về lần viễn du này không?
- Từng bước đạp hồng trần, thân không hình tượng.
Động Sơn trầm tư khá lâu, Thanh Lâm hỏi:
- Lão sư vì sao không nói chuyện?
- Ta nói với ngươi rất nhiều, sao lại vu cho ta là không nói?
Thanh Lâm quỳ xuống thưa:
- Những lời thầy nói con không nghe được; những lời thầy không nói con lại nghe được.
Động Sơn đỡ Thanh Lâm dậy:
- Ngươi đi đi, hãy đến nơi không nói, không biểu thị.
(Tinh Vân Thiền Thoại)
Lời nói của các thiền sư rất thận trọng, họ không nói hoang đường. Người nói không nghe được, người không nói lại nghe được. Đây là cảnh giới thiền phi thường, chỉ rằng ông đã nghe được Pháp âm vậy.

1097.  Một được, một mất.
Nam Tuyền bảo một học tăng:
- Đêm tối, gió mạnh?
Học tăng nhắc lại:
- Đêm tối, gió mạnh?
- Thổi gẫy một cành tùng.
Học tăng nhắc lại:
- Thổi gẫy, một cành tùng.
Nam Tuyền hỏi thị giả:
- Đêm tối, gió mạnh?
- Là gió gì?
- Thổi gẫy một cành tùng
- Là cành tùng nào?
Nam Tuyền cảm xúc than:
- Một được, một mất!
Lại hỏi học tăng:
- Tương lai ngươi định làm gì?
- Không làm gì?
- Nên vì chúng sanh làm trâu, làm ngựa.
Nam Tuyền quay lại hỏi thị giả cùng câu hỏi, thị giả thưa:
- Muốn làm một người như lão sư.
- Nên vì chúng sanh làm trâu, làm ngựa.
- Vì sao nên vì chúng sanh làm trâu, làm ngựa?
- Thực là một được, một mất.
(Tinh Vân Thiền Thoại)
Học tăng là ông tăng mới nhập môn, thị giả là môn ngoại thị giả. 2 người trên thiền ngữ nông sâu, chỉ nghe câu đáp là biết.

1098.  Phi lai Phật.
Chùa Thê Hà ở núi Thê Hà (Nam Kinh) là nơi thánh địa thời Lục Triều, là nơi có cả ngàn tượng Phật được điêu khắc vào núi. Trên chót đỉnh có một pho tượng không ai đến chùa mà không ngước mắt nhìn. Năm Dân quốc 30, có một tín đồ tham quan Thê Hà sơn, nhìn tượng Phật trên chót đỉnh núi hỏi vị hướng dẫn là thiền sư Trác Thành:
- Lão thiền sư, tượng Phật này tên là gì?
- Phi Lai Phật.
(Ý của lão thiền sư là đỉnh núi này rất cao, người ta không thể nào trèo lên đó mà khắc; tượng này là từ nơi khác đem tới.)
Tín đồ nghe vậy rất hiếu kỳ, lại hỏi:
- Nếu đã bay tới, tại sao lại không bay đi?
- Động chẳng bằng tĩnh.
- Tại sao lại tĩnh ở chỗ này?
- Đã tới thì yên.
 (Tinh Vân Thiền Thoại)
Thiền sư Trác Thành tùy ý trả lời đã khai thị cho chúng ta rất nhiều. “Động chẳng bằng tĩnh” là cảnh giới đẹp đẽ biết bao. “Đã tới thì yên” là khẳng định sinh hoạt. Con người trong thế giới động không có một khắc ninh tĩnh, ngay cả khi ngủ ý thức cũng hoạt động thành mộng mị. Cảnh giới tĩnh mới rộng lớn, bình đẳng, sinh hoạt trong tĩnh mới an tường. Do đó, tham thiền giống như Phi Lai Phật khải thị “Động chẳng bằng tĩnh”; “Đã tới thì yên”. Lời đáp của Trác Thành chính là diệu dụng của thiền vậy.

1099.  Biến và không biến.
Dưới thời Đường Võ Tông hủy diệt Phật giáo, Nham Đầu có may sẵn một bộ thường phục để dành khi cần dùng đến. Không lâu thánh chỉ truyền xuống cưỡng bách tăng ni hoàn tục. Các vị cao tăng có danh vọng còn bị bắt bớ. Nham Đầu đi tỵ nạn, mặc thường phục vào trú ở Phật đường một ni cô tu tại gia. Lúc đó ni cô đang dùng bữa ở phòng ăn. Nham Đầu chạy vào bếp lấy một bát cơm và ăn.Có một đạo đồng trông thấy mách với sư nương. Sư cô cầm gậy chạy vào giả bộ đánh:
- Úy! thì ra là thiền sư Nham Đầu, vì sao biến hình vậy?
- Hình có thể biến, nhưng tánh không biến.
Về sau, Đại Ngạn lúc mới đến Nham Đầu, gập lúc Nham Đầu đang nhổ cỏ ở trước cửa. Đại Ngạn đến đứng trước mặt Nham Đầu, tay gõ vào nón hỏi:
- Thầy còn nhớ con không?
Nham Đầu giơ một nắm cỏ lên:
- Thế gian biến hóa vô thường, ta không nhớ.
Đại Ngạn không chịu nhượng bộ:
- Thế gian vô thường, nhưng pháp tánh vĩnh hằng làm sao không nhận ra?
Nham Đầu nghe xong thoi cho 3 cái, Đại Ngạn vào tăng đường. Nham Đầu bảo:
- Đã hàn huyên rồi, không cần phải vào tăng đường.
Đại Ngạn lập tức quay mình trở về.
Ngày hôm sau, ăn cháo xong, Đại Ngạn lại vào tăng đường, 
vừa tới cửa  bị Nham Đầu từ pháp tọa nhẩy xuống nắm lấy ngực:
- Ngươi nói mau! Bất biến ở đâu?
Đại Ngạn cũng nắm lấy Nham Đầu:
- Trong nhà sư cô, hình có thể biến nhưng tánh không biến.
Hai người cùng cười ha hả.
 (Tinh Vân Thiền Thoại)
Tất cả mọi pháp ở thế gian có hình tướng thì có sanh diệt, biến đổi nhưng pháp tánh thì không. Tỷ như thế giới thì thành, trụ, hoại, không; con người thì sanh, lão, bệnh, tử; tâm thì sanh, trụ, dị, diệt. Chỉ có bản tánh của chư pháp tức khuôn mặt xưa nay của chúng ta là bất biến. Nham Đầu vì bạo chánh mà phải thay hình  đổi dạng, nhưng tâm tánh không đổi; giống như vàng có thể dùng làm nhẫn, hoa tai, vòng kiềng  v. v. nhưng vàng vẫn là vàng không đổi. Con người bị trôi chẩy trong ngũ thú nhưng bản tánh thì bất biến.

1100.  Không có thời gian già.
Đại Trí là đệ tử Phật Quang, đi tham học 20 năm mới trở lại, tường thuật cho thầy nghe những gì đã nghe và thấy. Phật Quang tươi cười lắng nghe để ủy lạo. Cuối cùng Đại Trí hỏi:
- Lão sư, 20 năm qua thầy vẫn mạnh chứ?
- Vẫn mạnh! giảng học, thuyết pháp, trước tác, chép kinh mỗi ngày tại biển pháp dong duổi. Trên đời này không sinh hoạt nào vui hơn.
Đại Trí quan tâm:
- Lão sư, thầy nên dành chút thì giờ để nghỉ ngơi.
Đêm khuya, Phật Quang bảo Đại Trí:
- Ngươi đi nghỉ đi, có chuyện gì từ từ sẽ nói sau.
Mới sáng sớm. Đại Trí còn mơ màng đã nghe thấy tiếng tụng kinh gõ mõ trong phòng Phật Quang. Trời sáng rõ, Phật Quang lại khai thị cho các tín đồ đến lễ Phật, về tăng đường lại chỉ bảo cho học tăng, cả ngày bận rộn không hết chuyện.
Rình được lúc không có ai hỏi han, Đại trí hỏi:
- Lão sư, 20 năm qua ngày nào thầy cũng bận rộn, thầy không cảm thấy già sao?
- Ta không có thời gian cảm thấy già.
 (Tinh Vân Thiền Thoại)
Ở đời có nhiều người còn trẻ nhưng tâm đã già, lại có người đã già nhưng tâm còn trẻ. “Không có thời gian già” thực ra là chỉ tâm không già. Có ông lão đầu bạc trắng, có người hỏi tuổi, trả lời 4 tuổi. Mọi người kinh ngạc, ông lão nói:
-70 năm qua đều vì chính mình, sống vị kỷ tự tư tự lợi hầu như không ý nghĩa, chỉ 4 năm gần đây mới vì xã hội phục vụ mọi người, cảm thấy có ý nghĩa do đó mới nói 4 tuổi.

1101.  Khẳng định tự kỷ.
Quy Sơn đang ngồi thiền, đệ tử là Ngưỡng Sơn chạy lại, Quy Sơn bảo:
- Úy, ngươi hãy nói mau, đừng đợi chết rồi muốn nói cũng không được.
- Con ngay tín ngưỡng cũng chẳng muốn, còn nói gì nói với chẳng nói.
- Ngươi không tin rồi mới chẳng muốn hay vì không tin mà không muốn?
- Trừ con ra còn gi đáng tin nữa?
- Nói vậy thì ngươi chỉ là một người nghiên cứu tiểu thừa.
- Tiểu thừa thì tiểu thừa, ngay cả Phật cũng không muốn thấy.
- 40 cuốn kinh Nát Bàn, có bao nhiêu là lời Phật nói, bao nhiêu là ma nói? Và những lời ngươi vừa nói là giống Phật hay giống ma?
- Toàn là ma nói.
Quy Sơn vui vẻ gật đầu.
- Sau này không ai làm phiền ngươi nữa.
(Tinh Vân Thiền Thoại)
Khẳng định chính mình là một bài học lớn cho người tu thiền. Thế gian có nhiều yếu tố làm thay đổi con người: tiền bạc, cảm tình, tư tưởng, quyền lực. ngày nay, thiền của Ngưỡng Sơn siêu việt tín ngưỡng, đối đãi. “Tất cả đều là ma nói.” là khẳng định chính mình, thì còn ai làm phiền được ông nữa.

1102.  Ta còn có ngươi.
Thiền sư Phật Quang lãnh đạo Truyền Đăng tự, đồ chúng tham học rất đông. Một hôm Phật Quang giảng pháp xong, ông tăng 1 thưa:
- Lão sư, sanh tử là việc lớn, muốn thoát sanh tử, chỉ có niệm Phật vãng sanh tịnh độ, nên đệ tử định đến Linh Nham Niệm Phật đạo trường để học pháp môn niệm Phật.
Thiền sư vui vẻ bảo:
- Tốt lắm, ngươi đi học pháp môn Niệm Phật về có thể khiến chỗ này tiếng niệm Phật không dứt, khiến đạo trường chúng ta thành Liên Hoa thế giới.
Ông tăng 2 đứng dậy thưa:
- Giới trụ tức pháp trụ. Phật môn không gì trọng yếu bằng giới luật, vì vậy con định đến Bảo Hoa sơn giới đường học luật.
- Tốt lắm! ngươi học luật trở về sẽ khiến đạo trường của chúng ta mọi người đều có 3 ngàn uy nghi, 8 vạn tế hạnh, thành một tăng đoàn hòa hợp.
Ông tăng 3 thưa:
- Học đạo chẳng gì bằng tự thân thành tựu, con nghĩ đi nghĩ lại nên mau đi Tây Tạng học mật.
- Tốt lắm! Mật tông giảng cứu tức tâm thành Phật, ngươi học mật trở lại đây chúng ta nhất định nhiều người sẽ thành tựu thân kim cương bất hoại.
Thị giả đứng bên bất mãn thưa:
- Lão sư, thầy là một vị thiền sư đương đại. Thiền là do Đức Phật lấy tâm truyền tâm, thành Phật tác tổ, không gì quan trọng hơn. Các ông tăng trên nên lưu lại học thiền với thầy, chờ được trực chỉ nhân tâm, minh tâm kiến tánh mới phải, cớ sao thầy lại để họ đi?
Phật Quang cười ha hả:
- Ta còn có ngươi!
 (Tinh Vân Thiền Thoại)
Người trẻ thường khó chuyên tâm vào một pháp môn, đều đứng núi này trông núi nọ. Câu nói của Phật Quang “Ta còn có ngươi!” khiến cuối cùng thị giả hiểu rõ tấm lòng thiền sư.

1103.  Giáo dục.
Có một tín đồ, lễ Phật xong, đến hoa viên tản bộ, thấy viên đầu (ông tăng coi vườn) đang sửa sang cây cỏ. Hoặc cắt cành, hoặc nhổ cả rễ cắm sang chậu khác. Cây khô thì tưới nhiều nước, săn sóc chu đáo. Tín đồ thắc mắc:
- Vì sao cây mọc tốt thầy lại cắt lá? Cây khô héo lại tưới nước? Lại nhổ cây từ chậu này đưa sang chậu khác?
- Trồng cây cỏ cũng như giáo dục con cái, người sao thì cây cỏ cũng vậy.
- Hoa cỏ sao giống người được?
- Săn sóc hoa cỏ thì đối với cây mọc xum xuê, sinh trưởng thác loạn phải cắt bớt cành, tỉa bớt lá khiến nó không phí phạm sinh lực, tương lai sẽ phát dục tốt. Tương tự như những người trẻ phải bỏ đi ác tập mà đi vào đường chính, thứ 2 nhổ cây trồng sang chậu khác là khiến cây từ đất xấu sang đất tốt, giống như khiến người trẻ lìa bỏ hoàn cảnh xấu đến gần gũi thầy hay bạn tốt; thứ 3 tưới các cây khô, thực ra những cây này có vẻ như đã chết, nhưng sinh cơ vẫn còn. Đối với con cháu xấu không thể không cứu; phải biết con người bản tính vốn lành, chỉ cần có tâm giúp đỡ thì sẽ được. Sới đất là trong đất có những hạt chờ được nẩy mầm, cũng như những học sinh nghèo khổ nhưng có tâm hướng thượng chỉ cần trợ giúp là có thể thành công.
Tín đồ nghe lời rất vui vẻ:
- Cảm ơn thầy đã cho một bài học giáo dục rất hay.
(Tinh Vân Thiền Thoại) 
Kinh Nát Bàn nói:” tình và vô tình cùng viên cảnh trí” Trên thế gian này không có sanh mạng nào là không cứu được, không có người nào là không thể dạy. Cổng chùa thường có tượng Phật cười toe toét dụng ý dùng từ bi (ái) nhiếp thọ, phía sau có tượng Vi Đà cầm gậy hàng ma ý là dùng uy võ (lực) chiết phục. Cha mẹ, sư trưởng một mặt dùng từ ái, một mặt dùng uy võ, con cháu không thể không thành tài.

1104.  Thiện tri thức.
Hạo Nguyệt có lần hỏi Triệu Châu:
- Khắp thiên hạ các vị thiện tri thức chứng hay không chứng Nát Bàn?
- Đại đức hỏi quả Nát Bàn hay nhân Nát Bàn?
- Quả Nát Bàn.
- Chưa chứng.
- Vì sao?
- Vì công phu chưa bằng chư thánh.
- Công phu chưa bằng chư thánh sao gọi là thiện tri thức?
- Minh tâm kiến tánh, ngộ nhập Phật Tri Kiến mới được gọi là thiện tri thức.
- Không biết công phu thế nào mới chứng đại Nát bàn?
Triệu Châu đọc bài kệ:
麻 訶 般 若 照
Ma ha bát  nhã chiếu
涅 槃 解 脫 珐
Niết bàn giải thóat pháp
欲 識 功 齊 處
Dục thức công tế xứ
此 名 常 寂 光
Thử danh thường tịch quang
Ma  ha  Bát  Nhã  chiếu
Pháp  giải  thoát  Nát  Bàn
Muốn biết chỗ tất yếu
Danh  gọi  thường tịch quang.
- Quả Nát Bàn đã biết, mong được khai thị nhân Nát Bàn.
- Chính là Đại đức!
      (Tinh Vân Thiền Thoại)
Người học lúc chưa kiến tánh, không thể lìa thiện tri thức vì Đức Phật từng nói thân cận thiện tri thức là điều kiện tất yếu để chứng ngộ. Thời mạt pháp muốn cầu toàn đức (quả Nát Bàn) thật không dễ, theo như Phật pháp thấy người cao hơn mình đều nên gần gũi, tùy thuận cung kính.

1105.  Khóa trình.
Học tăng Nguyên Trì tham học nơi Vô Đức. Dù rằng rất chăm chỉ cố gắng, nhưng đối với thiền pháp vẫn chưa thể ngộ. Một lần, trong buổi tham thiền Nguyên Trì hỏi Vô Đức:
- Con vào nghiệp lâm đã lâu mà vẫn chưa liễu ngộ; xin thầy chỉ thị hàng ngày ngoài tu trì, làm việc còn có khóa trình nào phải tu?
- Ngươi phải lo chăm sóc 2 con thứu, 2 con nai, 2 con ưng, ước thúc một con trùng trong miệng, 1 con gấu và chăm sóc một bệnh nhân. Nếu ngươi làm tròn bổn phận thì nhất định sẽ giúp ích cho ngươi rất nhiều.
Nguyên Trì không hiểu, hỏi lại:
- Thưa thầy, con tới đây tham học một mình đâu có dẫn theo 1 con vật nào đâu mà chăm sóc? Hơn nữa con hỏi là hỏi khóa trình phải tu đối với những con vật này nào có quan hệ gì?
Vô Đức mỉm cười:
- Ta nói 2 con thứu là 2 mắt, những gì phi lễ đừng nhìn; 2 con nai là bảo ngươi coi chừng 2 chân đừng để chúng chạy loạn vào đường ác, đường phi lễ đừng đi; 2 con ưng là 2 tay ngươi khiến chúng phải làm việc tròn trách nhiệm, phi lễ không được động; một con trùng trong miệng là nói lưỡi ngươi, những gì phi lễ không được nói. Một con gấu là tâm ngươi, những gì phi lễ không được tưởng; một bệnh nhân là thân ngươi, hy vọng ngươi không rơi vào tội ác. Ta nghĩ rằng đó là khóa trình phải tu vậy. 
 (Tinh Vân Thiền Thoại)
Trong kinh Phật thường nói 6 căn (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý) giống như 1 làng không có người ở, bị bọn thổ phỉ chiếm cứ, hàng ngày chúng liên kết với 6 trần làm ác, tạo nghiệp. 6 căn này giống như 6 con thú, nếu biết cách quản thúc chúng khiến cho những gì phi lễ đừng nhìn, đừng nghe, đừng làm thì đó là Phật và Nho dung hợp vậy.

1106.  Chẳng giữ tâm bình thường.
Một học tăng đến pháp đường thỉnh thị thiền sư:
- Thiền sư! Con thường niệm kinh, ngồi thiền, tự nghĩ trong đồng môn không có người nào dụng công hơn, nhưng vì sao vẫn chưa khai ngộ?
Thiền sư đưa ra một hồ lô và một nhúm muối bảo:
- Ngươi hãy lấy hồ lô đổ đầy nước, sau đó đổ muối vào, nếu muối tan ngay ngươi lập tức khai ngộ.
Ông tăng làm theo lời, một lúc sau chạy vào hỏi:
- Miệng hồ lô nhỏ, con bỏ muối vào nó không tan, cho đũa vào để khuấy cũng không được; con không có cách gì khai ngộ.
Thiền sư dốc nước trong hồ lô ra, chỉ để lại một phần, sau đó bỏ muối vào lắc, muối liền tan ngay:
- Ngươi từ sáng đến tối dụng công, không có lúc nào để tâm bình thường cũng như hồ lô đầy nước, lắc không được, khuấy cũng không được, làm sao muối tan? làm sao khai ngộ?
- Chẳng lẽ không dụng công lại có thể khai ngộ sao?
- Tu hành giống như đánh đàn: dây căng quá thì đứt, dây chùng quá thì đàn không ra tiếng, chỉ có Trung Đạo mới ngộ đạo được.
Học tăng cuối cùng lãnh ngộ. 
 (Tinh Vân Thiền Thoại)
Ở thế gian, chấp trước không thể tiến bộ được. Đọc sách chết không biết sử dụng thì chẳng có lợi gì. Hãy để ra một chút thời gian tư khảo, chẳng gấp cũng chẳng khoan. Đó chính là cửa vào Đạo vậy.

1107.  Không cầu gì cả.
Đời Tống, thiền sư Tuyết Đậu gập học sĩ Tăng Hội ở bờ sông Hoài. Tăng Hội hỏi:
- Thiền sư định đi đâu?
- Không nhất định, hoặc đến Tiền Đường hoặc đến Thiên Thai.
Tăng Hội đề nghị:
- Vị trụ trì Linh Ẩn Tự là San thiền sư có quen biết chúng tôi, chúng tôi xin viết một thư giới thiệu thầy, chắc chắn sẽ được chiêu đãi tốt.
Tuyết Đậu đến Linh Ẩn Tự cũng không mang thư giới thiệu trình cho trụ trì, lẳng lặng sống cùng đại chúng. Ba năm sau Tăng Hội phụng chỉ tới Chiết Giang, bèn đến Linh Ẩn Tự tìm Tuyết Đậu. Các ông tăng không biết có Tuyết Đậu trong chùa hay không. Tăng Hội không tin, tự mình đến chỗ các ông vân thủy tăng, tìm trong hơn ngàn người thấy Tuyết Đậu, bèn hỏi:
- Tại sao thầy không đến gập trụ trì? Chẳng lẽ thầy đã vất thư tôi giới thiệu đi rồi?
- Không dám! Không dám! Vì tôi chỉ là một vân thủy tăng, không cần gì cả cho nên không dám dùng thư của ông.
Rồi đó lấy thư giới thiệu từ trong tay áo ra, giao trả Tăng Hội. Hai người cùng cười ha hả. Tăng Hội bèn dẫn Tuyết đậu vào giới thiệu với San thiền sư. San thiền sư rất thưởng thức Tuyết Đậu. Về sau, khi Giang Tô Thúy Phong Tự thiếu trụ trì bèn suy cử Tuyết Đậu.
   (Tinh Vân Thiền Thoại)
Xã hội ngày nay muốn cần một chức nhỏ cũng cần nhờ vả quan hệ. Tuyết Đậu có thư giới thiệu để tiến thân mà không dùng. Người học Đạo chỉ cần tinh cần tu học, một ngày nào đó quả chín, cuống tự rụng, rồng hiện trên trời.

1108.  Tang lễ.
Tùng Vân sau khi xuất gia học thiền, nhớ đến mẹ già không người coi sóc, bèn tự mình dựng một tòa thiền xá, dẫn mẹ tới cùng ở.
Hàng ngày trừ lúc tham thiền, còn thì chép kinh để kiếm tiền tiêu pha. Có lúc đi chợ mua ít cá thịt cung dưỡng mẹ. người đi đường đều chỉ trích ông là loại thầy chùa rượu thịt. Tùng Vân không giải thích vì ông không để ý đến những lời tán gẫu. Nhưng mẹ ông thì không chịu đuợc những lời chỉ trích nên cũng ăn chay luôn.
Một hôm, một cô tiểu thư xinh đẹp gập ông trên đường, bị nghi biểu trang nghiêm của ông làm cảm động; mời ông về nhà thuyết pháp. Tùng Vân không từ chối, nhận rằng thuyết pháp là một chuyện tốt. Nhưng về sau nhiều người bàn tán. Có người nói chính mắt thấy ông đến kỹ viện chơi gái. Lân cư bèn phá hủy thiền xá, đuổi ông đi. Tùng Vân bất đắc dĩ phải nhờ người nuôi hộ mẹ, còn mình thỉ đi vân du.
Hơn năm sau, mẹ ông nhớ con mang bệnh rồi mất. Người làng không biết ông ở đâu, đành để quàn chờ ông về sẽ an táng sau.
Không lâu, Tùng Vân trở về. Đứng trước quan tài rất lâu, rồi dùng gậy gõ vào quan tài:
- Mẹ ơi con đã về đây.
Lại bắt chước giọng mẹ:
- Tùng Vân, thấy con hoàn thành Thiền đạo trở về, mẹ rất vui.
- Dạ thưa mẹ, con lấy thiền đạo hồi hướng mẹ về Phật Quốc, không phải quay lại thế gian này chịu khổ nữa.
Quay lại mọi người ông bảo:
-  Tang lễ đã xong, có thể an táng.
Lúc đó ông mới 30 tuổi, lão mẫu thọ 68 tuổi.
Năm 56 tuổi biết thời đã tới, ông tụ tập đệ tử lại từ biệt, sau đó thắp hương trước ảnh mẹ. Ông viết bài kệ:
人 間 逆 旅
Nhân gian nghịch lữ
五 十 六 年
Ngũ thập lục niên
雨 過 天 青
Vũ quá thiên thanh
一 輪 月 圓
Nhất luân nguyệt viên
Nhân gian  nghịch  lữ
Năm  mươi  sáu  Đông
Mưa  qua,  trời   tạnh
Một  vầng  trăng  tròn.

Viết xong gác bút mà mất.
(Tinh Vân Thiền Thoại)
Trên thế gian này, có người là có thị phi, tốt xấu, sáng tối. Nói tốt vị tất đã tốt; nói xấu vị tất đã xấu. Nỗi oan của Tùng Vân giúp ông lớn mạnh Thiền Đạo. Mẫu thân tạ thế, hồi báo mẹ về an dưỡng đất Phật, chỉ cần có Thiền là hết khổ, hết oán hận.

1109.  Sinh hoạt.
Trời vừa sáng, cư sĩ Chu Hữu Phong bưng hoa quả cúng Phật, vào Phật điện tham dự khóa lễ sáng. Nào ngờ vừa bước vào đại điện, bỗng nhiên phía bên trái chạy ra một người đâm xầm vào Chu Hữu Phong, khiến hoa quả bị rơi đầy đất.
- Ngươi coi! Cử chỉ ngươi thô lỗ làm hoa quả cúng dường Phật bị rơi hết, ngươi tính sao đây?
Người làm đổ là Lý Nam Sơn bất mãn:
- Đổ thì cũng đã đổ rồi, xin lỗi 1 câu là đủ, ngươi làm gì dữ vậy?
Chu Hữu Phong nổi giận:
- Đây là thái độ gì? Mình đã sai còn trách người?
Hai người chửi qua mắng lại, càng lúc càng to tiếng. Quảng Ngữ thiền sư chính lúc đó đi qua, kéo 2 người sang một bên hỏi rõ đầu đuôi, khai thị:
- Chạy loạn va vào người ta là không phải, nhưng không chịu tiếp nhận lời xin lỗi của người ta cũng là không đúng. Đây đều là những hành vi ngu xuẩn. Nếu chịu thừa nhận những sai lầm của mình và tiếp nhận sự xin lỗi của người thì đấy mới là hành động sáng suốt. Chúng ta sống trên thế giới này sự sinh hoạt có nhiều tầng lớp phải phối hợp ở gia đình: vợ chồng con cái, anh em. Ở giáo dục đối với thầy cô, ở kinh tế cung và cầu. . . Chúng ta phải tìm một phương thức sinh hoạt để khỏi phụ cái sinh mạng quý báu của chúng ta. Các người thử nghĩ xem chỉ vì một chuyện nhỏ mà phá hoại cái tâm thành kính ấy có nên không?
 Lý Nam Sơn nói trước:
 - Thiền sư, con sai rồi. 
Nói rồi hướng về Chu Hữu Phong:
- Xin tiếp nhận lời xin lỗi chân thành của tôi, tôi thật quá ngu si.
- Tôi cũng có chỗ không phải, vì một chuyện nhỏ mà nổi giận thực quá trẻ con. 
(Tinh Vân Thiền Thoại)
Những lời của Quảng Ngữ đã cảm động đuợc 2 người tranh cường, háo đấu.

1110.  Tâm lìa tiếng nói.
Bảo Thông đến thăm Thạch Đầu, Thạch Đầu hỏi:
- Cái gì là tâm ngươi?
- Lời nói.
- Có lời là vọng tâm, bằng vào lời nói thì không thấy được chân tâm.
Bảo Thông mắc cỡ, ngày đêm tham cứu chân tâm là cái gì. Mười ngày sau quay lại thỉnh thị:
- Lần trước con đáp sai, bây giờ con biết tâm con là gì rồi!
- Tâm ngươi là gì?
- Nhíu mày, nhướng mắt.
- Trừ nhíu mày, nhướng mắt, đem tâm ra đây.
- Nếu vậy thì không tâm đem ra.
- Vạn vật vốn có tâm, nếu nói vô tâm là hủy báng, kiến văn giác tri là vọng tâm, nhưng nếu không dùng tâm làm sao ngộ đạo?
Bảo Thông cuối cùng đại ngộ. 
(Tinh Vân Thiền Thoại)
Tâm lìa ngôn ngữ, văn tự, động tác (nhíu mày, nhướng mắt) lìa tất cả mọi tướng. Nói có nói không đều sai. Chính như Lục tổ nói “không nghĩ thiện, không nghĩ ác, lúc đó cái gì  là bản lai diện mục của Minh thượng tọa?”
Tại sao các thiền sư đều nói vô tâm là thiền tâm? Vì có tâm đều là tâm hư vọng. Tâm có lúc ở thiên đàng, có lúc ở hỏa ngục. Mỗi ngày không biết bao lần đi tới đi lui thiên đường, địa ngục. Thiền giả phải an trú ở vô tâm, chính như kinh Kim Cương  nói “Không trụ vào đâu mà tâm ấy sanh ra.”

1111.  Một giây chẳng rời.
Động Sơn đến từ biệt Vân Nham để đi. Vân Nham hỏi:
- Ngươi định đi đâu?
- Con chỉ muốn đi chỗ khác tham học, một bát cơm ngàn nhà, cô tăng vạn lý du; còn mục tiêu, địa điểm hiện tại con cũng không biết.
- Ngươi có định đi Hồ Nam không?
- Không.
- Hay là về thăm nhà?
- Cũng không phải.
Vân Nham đổi đề tài:
- Ngươi định bao giờ trở lại đây?
- Đợi khi nào con tìm được chỗ dừng chân sẽ trở lại.
- Ngươi dời đây rồi, tưởng gập lại không phải là dễ.
Động Sơn chắp hai tay lại, thưa:
- Hàng ngày gập mặt, tâm linh chẳng thông thì như ức kiếp xa cách; còn như tâm linh tiếp thông thì ức kiếp xa cách chẳng lià một giây.
 (Tinh Vân Thiền Thoại)
Đệ tử cáo từ đi nơi khác tham học đó là chuyện bình thường, nhưng ra đi mà không có mục phiêu thì không nên. Động Sơn đã ở với Vân Nham 10 năm, cái mà ông tham học là tìm một chỗ dừng chân đó là nơi tịch diệt. Vì vậy Vân Nham nói về sau muốn gập mặt cũng khó. Nhưng Động Sơn không hạnh phụ nỗi lo lắng của lão sư, đã trả lời: nếu tâm linh tiếp thông thì dù xa cách vạn kiếp cũng không lúc nào rời nhau.

1112.  Lão bán muối.
Có một học tăng định đến tham Phúc Thuyền, trên đường gập một lão bán muối, bèn hỏi:
- Xin hỏi ông lão đến Phúc Thuyền làm sao đi?
Rất lâu, không nghe ông lão trả lời, học tăng nhắc lại câu hỏi.
- Ta đã nói rồi mà, ngươi điếc hay sao?
- Lão đã nói gì?
- Đường đến Phúc Thuyền.
- Chẳng lẽ lão cũng học Thiền?
- Không những là Thiền, Phật pháp cũng hiểu.
- Vậy lão hãy nói coi.
Ông lão không nói một câu, nhấc gánh muối lên vai định đi. Học tăng không hiểu chỉ kêu lên:
- Khó!
- Ngươi vì sao nói vậy?
- Lão bán muối.
- Có gì chỉ thị?
- Lão tên chi?
- Không thể nói cho ngươi biết đó là muối.
  (Tinh Vân Thiền Thoại)
Muốn đến Phúc Thuyền tham học phải đi đường nào? Nếu đã nói Phúc Thuyền sao còn có đường? Đường đi có đường khó, có đường dễ, có đường lớn, có đường nhỏ, có đường nhập thế, có đường xuất thế.  Là học giả cứ thuận đường mà tiến về phía trước.  Nhưng người học thiền có chí xung thiên chẳng đi đường Như Lai.
 

c

Nguồn: www.quangduc.com

Về danh mục

Tức thuong lam mien trung hÓi phà Æt huế mì xào chay Nên cua Đi hiến Phụ trã nghề Giảm sự tích quan thế âm bồ tát giã³ nguoi khoi nguon dao mach xu dang trong Thân rồng dinh luat can ban trong doi song cong nang Nuoc bún van de phuc hoi viec tho dai gioi ty kheo ni trong thở để thấy chính mình Món chay mùa Vu tam thuc va chung nghiem chat đường Nhớ lắm đồng trăng 首座 mc trùng Truyền dem chị tôi khất sĩ Thay đổi độ cao đột ngột có thể Tự tại hơn để từ bi hơn Lời khẩn cầu trong đêm Hồi muc lam the nao de huong dan mot doi song dao duc Những đêm cùng Giác Ngộ online 30 dieu khong nen tiep tuc lam voi ban than Tâm linh Thấy bằng trái tim duc Do Món bánh bò cốt dừa