Mục Lục Quyển Trung.
Phần Thứ 1.
Phần Thứ 2.
Phần Thứ 3.
Phần Thứ 4.

 
.
NHỮNG ĐOÁ HOA THIỀN
Dịch gỉa: Dương Đình Hỷ
Phước Quế Publications, Arlington, USA 2003
Mục Lục.
Quyển Thượng.
Quyển Trung.
Quyển Hạ.
Quyển Chung.
NHỮNG ĐOÁ HOA THIỀN
禪 之 花
QUYỂN TRUNG

1113.  Thì cũng thế.
Thị giả của thiền sư Pháp Khánh nhân đọc Động Sơn Lục, cảm khái thốt lên:
- Cổ nhân đối với vấn đề sanh tử tùy tiện biết bao, thật là kỳ quái.
Pháp Khánh nhân đó bảo:
Khi nào ta tọa hóa, ngươi có thể kêu ta, nếu ta tỉnh lại được thì đó là sanh tử tự tại có gì là kỳ với không kỳ.
Thị giả chăm chú nhìn thiền sư, Pháp Khánh đọc bài kệ dự ngôn:
今 年 五 月 初 五
Kim niên ngũ nguyệt sơ ngũ
四 大 將 離 本 主
Tứ đại tướng ly bản chủ
白 骨 當 風 颺 却
Bạch cốt đương phong dương khước
免 占 檀 那 地 土
Miễn chiếm đàn na địa thổ.
Mùng  5  tháng  5,  năm  nay
Bốn  đại  tướng  lìa  bản  chủ
Xương  trắng  bị  gió thổi  bay
Bỏ  lại  đất  của  thí  chủ.
Thời gian qua mau, tới ngày mồng 5 tháng 5, thiền sư đem hết quần áo, đồ đạc giao cho thị giả cúng dường chư tăng để kết duyên. Khi chuông nửa đêm vừa thỉnh, thiền sư ngồi kiết già mà hóa. Mạch ngưng đập, hơi thở không còn; thị giả nhớ lời lúc trước bèn gọi:
- Thiền sư! Thiền Sư!
Rất lâu Pháp Khánh mở mắt ra hỏi:
- Làm cái gì?
- Thiền sư sao không thay quần áo rồi hãy đi?
- Khi tới ta không mang theo gì!
Thị giả nhất định thay quần áo cho thiền sư.
Pháp Khánh bảo:
- Chẵng lưu lại gì cho người sau:
Thị giả hỏi:
- Chính lúc ấy thì thế nào?
Lại viết thêm một bài kệ:
七 十 三 年 如 制 電
Thất thập tam niên như chế điện
臨 行 為 君 通 一 線
Lâm  hành vi quân thông nhất tuyến
鐵 牛 跨  跳 過 新 羅
Thiết ngưu khóa khiêu quá tân la
撞 破 虛 空 七 八 片
Tràng phá hư không thất bát phiến
Bẩy  ba năm qua mau như điện lòe
Lúc  ra đi,  chỉ cho người thấy tánh.
Con trâu  sắt  nhẩy  quá  xứ Tân  La
Đập phá  hư không thành bẩy, tám mảnh.

Sau đó nghiễm nhiên mà hóa. 
(Tinh Vân Thiền Thoại)
Nếu có người hỏi thiền giả có sanh tử không? Trả lời:thiền giả ở trong sanh tử rất tự tại. Đỏ hon hỏn tới, đỏ hon hỏn đi, có thể buông bỏ tất cả; chính lúc đó là giải thoát, là tự do vậy.

1114.  Pháp Bảo Vô Thượng.
Tổ Đạt Ma vốn tên là Bồ Đề Đa La, người Nam Ấn Độ. Xuất thân là quý tộc Bà La Môn, là hoàng tử thứ 3 của vua Hương Chí. Về sau gập được Bát Nhã Đa La, được ngài coi trọng, độ cho xuất gia cải tên là Bồ Đề Đạt Ma. Đạt Ma lúc chưa xuất gia đã là một ngưòi có tài trí hơn người, có thiện căn thoát tục. Một lần, tôn giả Bát Nhã Đa La chỉ khối châu báu hỏi 3 anh em:
- Trên đời này còn thứ gì quý hơn đám châu báu này không?
Đại ca Nguyệt Tĩnh Đa La đáp:
- Không có! Đây là của báu của Hoàng gia, trên thế gian này không có gì quý bằng.
Nhị ca Công Đức đa La đáp:
- Con chưa thấy vật nào quý báu hơn.
Chỉ có Bồ Đề Đạt Ma không đồng ý:
- Con nhận rằng ý kiến của 2 anh không đúng, đám châu báu này thực ra không có chút giá trị gì.
Hai anh đều hỏi:
- Ngươi nói đám châu báu này không có giá trị, vậy cái gì mới có giá trị?
- Vì đám châu báu này tự chúng không nhận biết giá trị của chúng, chỉ là đồ vật vô tri, còn như Phật nói chân lý đó là pháp bảo. Pháp bảo là do trí tuệ Bát Nhã phát huy, nó không những tự chiếu mà còn có thể phân biệt hình sắc của châu báu, phân biệt các pháp thiện ác của thế gian và xuất thế gian nữa.
Đó mới là điều quý nhất. 
(Tinh Vân Thiền Thoại)
Đạt Ma tài trí siêu thoát, kiến giải của ông không bị truyền thống bó buộc, vì nhân duyên ưu việt, cho nên sau khi xuất gia kế thừa y bát của Bát Nhã Đa La thành tổ thứ 28 của Thiền Tông Ấn Độ. Dưới triều Lương Võ Đế  từ Tây qua Trung thổ, tọa thiền diện bích 9 năm ở núi Thiếu Thất trở thành sơ tổ của Thiền Tông Trung Hoa.
Thế nào là bảo vật chân chính? Ở thế tục đó là kim ngân châu báu, ở xuất thế gian đó là tam bảo: Phật, Pháp, Tăng, còn gọi là tự tánh tam bảo. Ai ai cũng có chẳng ai là không có chân tâm bản tánh. Kim ngân châu báu sẽ có lúc bị hủy hoại, nhưng chân tâm bản tánh thì không. Đạt Ma từ nhỏ đã có nhận thức tài trí như vậy, về sau kế thừa tổ vị, qua Trung Hoa truyền bá Phật pháp, một hoa nở 5 cánh, truyền đăng vô tận. Đó là 1 niệm giải thoát chiếu sáng vô cùng, pháp bảo đã quý hơn châu báu vậy.

1115.  Thiền là gì?
Có một tín đồ định học tọa thiền, nhưng không biết học tập thế nào. Một hôm lấy hết can đảm đến chùa hỏi Vô Tướng:
- Lão sư, con rất ngu, biết mình không phải là pháp khí để học thiền, như nhìn ngọn núi cao mà không thề trèo tới, mong thầy chỉ cho con Thiền là gì? 
- Ngũ tổ Pháp Diễn từng kể một câu chuyện:
Có 2 cha con một tên trộm; một hôm đứa con bảo bố:
- Cha, càng ngày cha càng lớn tuổi, lúc nào rảnh hãy chỉ cho con mánh khoé ăn trộm, nếu không sau này con làm sao kiếm ăn?
Ông bố bằng lòng. Một hôm dẫn con đến nhà một phú ông ăn trộm; dùng chùm chìa khóa vạn năng mở rương quần áo bảo đứa con chui vào đó khóa lại và kêu lên:  Có trộm! Có trộm!
Sau đó soay mình chạy. Người nhà phú ông nghe có trộm chạy tới thấy không mất đồ đạc gì, cũng không thấy tên trộm đâu, do đó lại ngủ lại. Lúc đó đứa con nằm trong rương không hiểu ý bố sao lại khóa mình trong rương, bây giờ phải làm gì để đào thoát? Linh cơ nhất động, giả tiếng chuột gậm quần áo. Một lúc sau bà chủ gọi chị người làm mang đèn lại coi. Chị người làm vừa mở rương, tên trộm bèn đẩy ngã và thổi tắt đèn, co giò chạy mất. Phú ông phát giác có trộm bèn sai gia nhân đuổi theo. Đuổi đến bờ sông, tên trộm nhỏ trong lúc nguy cấp sanh trí xô một tảng đá lớn xuống sông rồi quay trở lại; nghe có tiếng nói:
- Thật tội nghiệp! tên trộm bị bức quá, đã nhẩy xuống sông rồi!
Tên trộm nhỏ về nhà thấy bố đang nhậu, bèn trách bố sao lại khóa mình trong rương? Ông bố chỉ hỏi con làm sao ra. Đứa con thuật lại đầu đuôi, ông bố thích trí bảo con:
- Con sau này không sợ không có cơm ăn.
Cũng giống như tên trộm con, từ không có biện pháp mà tìm ra biện pháp. Đó là Thiền. 
(Tinh Vân Thiền Thoại)
Trí tuệ Thiền là phát từ nội tâm.

1116.  Không động tâm.
Một nơi kia có thiên tai, các nhân sĩ Phật giáo muốn cứu trợ nạn nhân bèn mời một đoàn ca vũ đến biểu diễn, trù tính sẽ quyên góp ít tiền. Chư tăng cũng tới tham dự. Có một người mới vào học Thiền không cho là phải. Ông cho rằng người tham Thiền không nên coi ca vũ. Vì đoàn thể tổ chức, bất đắc dĩ ông phải tham dự. Ông nhắm mắt ngồi thiền không lý gì đến những náo động chung quanh. Khi cuộc trình diễn tạm ngưng, ban tổ chức bèn quyên tiền khán giả. Vị mới học thiền phất áo đứng dậy tức giận bảo:
- Ta nhắm cả 2 mắt, ngay một cái liếc cũng không sao lại đòi tiền ta?
Người tổ chức nói:
- Người mở mắt xem, chỉ trả nửa tiền là được, còn ông nhắm mắt tưởng tượng phải trả gấp đôi. 
(Tinh Vân Thiền Thoại)
Chúng ta tu hành, không phải chỉ nhắm mắt không nhìn, không nghe cho là vô sự. Sự tưởng tượng lại còn lợi hại hơn là nhìn và nghe thật. Chỉ có không động tâm mới thật sự là chân chính tu hành.

1117.  Không tìm lại được.
Chu Từ Mục là một tín đồ Tịnh Độ, một hôm đến bái phỏng Phật Quang:
- Thiền sư, con niệm Phật đã hơn 20 năm rồi, gần đây không niệm được như trước nữa.
- Không như trước là sao?
- Khi trước con niệm Phật trong tâm có Phật tánh, dù miệng không niệm mà trong tâm vẫn cảm giác Phật thanh liên miên bất đoạn, dường như dòng suối tuôn trào.
- Tốt lắm! Đó là ngươi đã đạt tới tĩnh niệm tương tục cùng Phật tương ứng, đạt tới chân tâm rồi.
- Cám ơn thầy khen ngợi, nhưng bây giờ con không xong rồi, con khổ não lắm vì không thấy chân tâm nữa.
- Vì sao không thấy chân tâm?
- Vì tĩnh niệm tương tục không tìm thấy nữa, xin thầy chỉ cho con đi đâu mà tìm chân tâm?
- Chân tâm không ở đâu xa cả, ở ngay thân ngươi.
- Sao con không biết?
- Vì ngươi một niệm bất giác cùng vọng tâm giao lưu, chân tâm bèn lìa ngươi.
Chu Mục Từ nghe rồi bèn ngộ. 
(Tinh Vân Thiền Thoại)
Nói không có chân tâm nữa là nói đánh mất chính mình. Vì sao bị mê? Chỉ vì hư vọng che mờ mất chân tâm. Vĩnh Gia từng nói: 
Tính  thật  vô  minh  tức  Phật  tánh
Thân  không  ảo  hóa  tức  Pháp  thân.
Là cũng ý này.

1118.  Gà trống và côn trùng.
Có một đứa nhỏ 7 tuổi thường kiếm thiền sư Vô Đức nói chuyện loạn cào cào. Vô Đức thấy đứa nhỏ này cơ trí hơn người, những lời nói thường có ít nhiều thiền vị. Một hôm Vô Đức bảo đứa nhỏ:
- Lão tăng hàng ngày bận rộn không có thì giờ nói chuyện với ngươi. Bây giờ chúng ta thử tranh luận 1 lần, nếu ngươi thua ngươi phải mua bánh cúng dường ta, nếu ta thua thì ta sẽ mua bánh cùng ngươi kết duyên.
- Thỉnh thầy hãy bỏ tiền ra.
- Hãy biện luận trước đã, giả sử lão tăng là một con gà trống.
- Con là một con côn trùng nhỏ.
Vô Đức nắm lấy cơ hội:
- Đúng rồi! ngươi là côn trùng nhỏ, vậy phải mua bánh cho ta là con gà trống lớn.
- Không được! Sư phụ phải mua bánh cho con mới đúng. Thầy là con gà trống lớn, con là côn trùng nhỏ. Con thấy thầy bèn bay đi mất. Thầy trò không tranh luận được. Như vậy không là thua sao?
Vô Đức dẫn đứa nhỏ đi hỏi nhiều người:
- Vấn đề này giống như chiến tranh chính trị, nếu một vài người không giải quyết được thì phải mang ra hỏi ý kiến cả làng xem ai có lý.
Cả làng có độ 300 người, nhưng không ai trả lời được.
Do đó Vô Đức trang nghiêm nói:
- Phải cần thiền sư trợn mắt mới phán đoán được.
3 ngày sau, cả chùa đều hay Vô Đức lẳng lặng mua bánh cho cậu bé 7 tuổi. 
 (Tinh Vân Thiền Thoại)
Thiền không có to nhỏ, dài ngắn, tốt xấu dĩ nhiên cũng không có thua được. Mới đầu Vô Đức tưởng thắng đứa nhỏ 7 tuổi. Đứa nhỏ tự nhận mình là côn trùng nhỏ, con gà trống chỉ mổ một cái là nuốt vào bụng. Nhưng con côn trùng thấy gà trống bèn bay đi, biểu thị sư, đồ không thể tranh luận.

1119.  Kiếm tâm thiền.
Tại Nam Thiên Tự, Vô Đức cử hành tiểu tham. Vô Đức bảo:
- Các vị đến đây tham học, có người nhiều năm, có người vài tháng, không biết các vị đã tìm thấy thiền tâm chưa?
Ông tăng một thưa:
- Con là người chủ quan rất mạnh, chỉ để ý đến những gì của mình hoặc về mình mà thôi, ngoài ra không quan tâm gì hết. Nhưng sau khi tham thiền rồi thì phát giác mọi sự, mọi việc ở trên đời đều tùy thuộc nhân duyên mà thành tựu. Thành ra lúc trước mỗi ngày chỉ vọng tưởng ta và cái của ta; hiện tại biết được ngoài ta còn có người có Phật, con nghĩ con đã nắm được thiền tâm rồi.
Ông tăng hai thưa:
- Lúc trước con chỉ tin những gì mắt thấy, tay sờ; nay tham thiền rồi con thấy rằng nhìn gần còn có nhìn xa, tâm lớn như không. Con nghĩ là đã thấy thiền tâm rồi.
Ông tăng ba thưa:
- Lúc trước, nếu nói mỗi ngày con đi 30 dậm, con quyết không đi 50 dậm; tham thiền rồi cảm thấy có thể lấy sinh mạng hữu hạn chứng ngộ Pháp thân vĩnh hằng, hận rằng không thể không ăn, không ngủ ngày đi trăm dậm. Con nghĩ con đã thấy thiền tâm.
Ông tăng bốn thưa:
- Con ít học, kinh nghiệm chẳng đủ, sử sự kém cỏi, có lúc tự ty. Từ khi học thiền rồi mới phát giác mình có thể đảm nhiệm trọng trách hoằng pháp lợi sinh, không còn thấy mình kém cỏi, tự ty nữa. Con nghĩ đó là thiền tâm.
Ông tăng năm thưa:
- Con chỉ cao 5 thước (thước Tầu), cảm thấy tự ty, sau khi học thiền rồi đứng trước người cảm thấy mình cao 2 trượng, con nghĩ rằng con đã thấy thiền tâm.
Vô Đức nghe rồi bảo:
- Lời các ngươi vừa nói là sự tiến bộ của các ngươi. Các ngươi  tự thọ dụng pháp hỷ chỉ là tham cứu sơ tâm chưa phải là thiền tâm. Thiền tâm là ở nơi minh tâm kiến tánh. Hãy tinh tấn tu hành! Tham!
 (Tinh Vân Thiền Thoại)
Tham thiền điều trọng yếu là minh tâm kiến tánh, nhưng trong quá trình tham thiền có thể cải biến quan niệm, tĩnh hóa thân tâm, khích phát nội lực, tăng gia huệ tư, như các ông tăng báo cáo.

1120.  Ta có thể vì ngươi mà bận rộn.
Phật Quang có lần gập Khắc Khế bèn hỏi:
- Ngươi đến đây học Thiền đã nhiều ngày tháng rồi, sao không thấy ngươi hỏi Đạo?
- Lão thiền sư hàng ngày bận rộn, học tăng không dám làm phiền.
Ba năm sau, Phật Quang gập Khắc Khế trên đường lại hỏi:
- Ngươi tham thiền tu đạo, có vấn đề gì sao không đến hỏi ta?
- Lão thiền sư bận rộn, học tăng không dám tùy tiện nói chuyện.
Lại một năm sau, Khắc Khế đi ngang qua phòng Phật Quang. Phật Quang gọi:
- Hôm nay ngươi có rảnh, lại đây cùng ta đàm đạo.
Khắc Khế chắp tay thưa:
- Lão thiền sư bận rộn, con sao dám lãng phí thời gian của người?
Phật Quang biết Khắc Khế quá nhũn nhặn, không dám ngay đó gánh vác làm sao mà ngộ đạo được, nếu mình không chủ động thì không được. Do đó lần sau gập Khắc Khế liền hỏi:
- Học Thiền cần tham cứu không ngừng, ngươi vì sao không đến hỏi ta?
- Lão thiền sư quá bận rộn, con làm sao dám làm phiền.
Phật Quang hét lớn:
- Bận! Bận! Bận vì ai? Ta cũng có thể vì ngươi bận!
Câu hét vào thẳng tâm Khắc Khế, khiến ông được khai ngộ.
 (Tinh Vân Thiền Thoại)
Có người chỉ nghĩ đến mình, chuyện chẳng có gì cũng làm phiền người khác. Có người lại chỉ nghĩ đến người, chẳng để ý gì đến mình, đánh mất nhiều cơ hội. Bản lai diện mục của Thiền là  gánh vác ngay đó, đang lúc ăn thì ăn, đang lúc tu thì tu. Khi hỏi thì hỏi điều trọng yếu, khi đáp thì đáp một cách khẳng định, chẳng thể tựa có mà không xoay đi xoay lại. Ta có thể giúp, ngươi vì sao không muốn ta giúp? Ngươi giúp ta, vì sao ta không thể giúp ngươi mà bận rộn? Không phải vì đó mà rõ nhân, ngã sao?

1121.  Nhọt mặt người.
Ngộ Đạt Tri Huyền thiền sư khi còn là vân thủy tăng, một hôm trên đường đến kinh sư, gập một ông tăng Tây Vực mắc bệnh mà không có ai chiếu cố. Ông không quản ngại rửa ráy, bôi thuốc cho ông tăng bệnh, ông tăng này sau khi khỏi bệnh bảo Ngộ Đạt:
- Sau này nếu có tai nạn gì hãy đến Tây Thục, Cửu Long Sơn ở giữa khoảng 2 cây tùng lớn gập ta.
Nhiều năm sau, pháp duyên của Ngộ Đạt ngày càng vượng, vua Đường Ý Tông rất tôn kính phong làm quốc sư, còn tặng đàn hương pháp tọa. Thiền sư tự giác rất vinh hạnh. Một hôm đầu gối thiền sư bỗng nổi một cái nhọt có hình mặt người có đủ mắt, mũi, miệng, răng như người thường. Thiền sư tìm đủ thầy chạy chữa mà không khỏi. Chính lúc bị bó tay sực nhớ đến lời dặn của ông tăng Tây Vực. Ông bèn y hẹn đến Cửu Long Sơn. Ông tăng Tây Vực chỉ dòng suối bên hàng tùng bảo:
- Ông đừng lo, hãy rửa nhọt bằng nước suối này sẽ hết.
Ngộ Đạt định vục nước rửa nhọt, thì hình mặt người trong nhọt bỗng mở miệng:
- Chờ một chút, ông có biết tại sao lại có nhọt này không? Ông có biết trong Tây Hán Sử có thuật chuyện Viên Ưởng giết oan Triều Thác không? Ông chính là Viên Ưởng chuyển thế, còn ta chính là Triều Thác. Từ 10 kiếp nay, trong vòng luân hồi trôi chảy ta đều tìm cơ hội để báo thù. Nhưng trong 10 kiếp này ông đều là tăng thanh tịnh giới hạnh, nên ta không có cơ hội hạ thủ. Gần đây trong triều, ngoài dân đều kính trọng, ông sinh lòng ngã mạn, làm mất đạo hạnh; do đó ta mới  có thể nhập vào thân ông. Bây giờ nhờ Già Nặc Già tôn giả từ bi lấy nước tam muội rửa hết tội nghiệp. Từ nay về sau không còn cùng ông oan oan tương báo.
Ngộ Đạt nghe rồi toát mồ hôi, vội vục nước rửa, cảm thấy đau đớn kịch liệt ngất đi. Khi tỉnh lại thì nhọt mặt người không còn nữa, ông tăng Tây Vực cũng không thấy đâu. 
(Tinh Vân Thiền Thoại)
Tuy tham thiền minh tâm kiến tánh, nhưng tam thế nhân quả nghiệp báo rõ ràng không ai có thể trốn thoát được, chỉ có làm việc thiện, kết thiện duyên, sám hối tiên nghiệp, mới có thể cứu được. Ở tự tánh tuy không có tội nghiệp, nhưng ở sự tướng thì nhân quả nghiễm nhiên do đó hiện báo, sinh báo, hậu báo không thể không báo. Ngộ Đạt may gập Già Nặc Già tôn giả, cho thuốc trị bệnh. Tôn giả báo đáp giúp giải oan tiên nghiệp. Về sau Ngộ Đạt viết Thủy sám  lưu hành thế gian phổ độ thế nhân. Như vậy nghiệp báo lại chẳng nên thận trọng ư?

1122.  Đại Thiên là giường.
Có một lần, Tô Đông Pha đến thăm Phật Ấn. Viết thư dặn thiền sư hãy tiếp mình như Triệu Châu tiếp Triệu Vương (xem công án số 467) Tô Đông Pha tự coi mình hiểu được ý vị của Thiền muốn Phật Ấn lấy phương cách thượng thừa mà tiếp mình – không tiếp mà tiếp – nhưng Phật Ấn lại chạy ra tận cửa chùa tiếp đón. Tô Đông Pha nắm lấy cơ hội chế diễu Phật Ấn:
- Đạo hạnh của thầy không được tiêu sái như Triệu Châu, đệ tử đã dặn thầy đừng ra tiếp, mà thầy còn theo thường tục chạy ra tận cửa đón. 
Tô Đông Pha nghĩ lần này mình đã chiếm được thượng phong không ngờ Phật Ấn đọc một bài kệ trả lời:
趙 州 當 日  少 謙 光
Triệu Châu đương nhật thiếu khiêm quang
不 出 山 門 迎 趙 王
Bất xuất sơn môn nghinh Triệu Vương
怎  似 金 山 無 量 相
Chẩm tự kim sơn vô lượng tướng
大 千 世 界 一 禪 床
Đại thiên thế giới nhất thiền sàng

Triệu  Châu  lúc  đó  thiếu  khiêm  nhường
Chẳng  ra  ngoài   cửa   đón   Triệu   Vương
Sao  giống  Kim  Sơn  vô  lượng  tướng
Đại  Thiên  thế  giới  chỉ  một  giường.
(Tinh Vân Thiền Thoại)
Đại ý bài kệ là ngươi thấy ta bước xuống thiền sàng ra đón, là ngươi dùng mắt thịt mà nhìn, không biết rằng ta vẫn ngủ yên trên thiền sàng đại thiên thế giới.

1123.  Lục Hy Thanh.
Đời Đường, cư sĩ Lục Hy Thanh đến tham Ngưỡng Sơn, hỏi:
- 3 cửa đều mở, từ cửa nào vào?
- Từ cửa Tín vào.
- Còn 2 cửa kia dùng làm gì?
- Từ cửa nào vào cũng được.
- Từ cửa nào?
- Từ cửa Tuệ vào.
- Còn cửa kia?
- Từ cửa Từ vào.
- Một cửa là đủ cần gì 3 cửa?
- Cửa Tín là theo Phật, cửa Tuệ là theo Pháp, cửa Từ là theo Tăng mà vào. 
Đó là 3 cửa báu vào Đạo. Lục Hy Thanh vào pháp đường lại hỏi:
- Chẳng lià ma giới mà vào Phật giới thì sao?
Ngưỡng Sơn chúc phất tử xuống, điểm 3 cái; Lục Hy Thanh bái tạ, lại hỏi:
- Thầy còn giữ giới không?
- Không giữ giới.
- Thầy còn tọa thiền không?
- Không tọa thiền.
Lục Hy Thanh im lặng, suy nghĩ hồi lâu, Ngưỡng Sơn hỏi:
- Ngươi hiểu không?
- Không hiểu.
- Giới chẳng giữ, thiền chẳng ngồi, trà uống 2, 3 chén, nghĩ đến việc cầy bừa. 
(Tinh Vân Thiền Thoại)
Có câu đường nào cũng đến Trường An. Đó cũng là cửa nào cũng có thể vào Phật Đạo. Nhưng muốn vào Phật Đạo thì trước phải giữ giới, tham thiền. Nay Ngưỡng Sơn nói không giữ giới, không tham thiền chẳng là nghịch Đạo sao? Thực ra không phải vậy. Giới luật trọng quy tắc, các sự việc đều quy định rất nghiêm khắc. Còn thiền thì trọng giải thoát, không để các quan niệm hình thức bó buộc, thậm chí ma đến chém ma, Phật đến chém Phật. Do đó Ngưỡng Sơn phủ định tất cả đối đãi sau đó nói uống trà 2, 3 chén, ý nghĩ ở cầy bừa là trỏ thiền giả chân chính không lìa sinh hoạt.

1124.  Chuyện tốt chẳng bằng không chuyện.
Có một lần Triệu Châu nêu lên một câu thiền ngữ:
- Phật  là  phiền  não,  phiền  não  là  Phật.
Các thiền sinh không hiểu, nhao nhao yêu cầu Triệu Châu giải thích:
- Không biết Phật vì ai mà phiền não?
- Vì tất cả chúng sinh.
- Làm sao bỏ đuợc những phiền não này?
- Bỏ phiền não để làm gì?
Một lần khác Triệu Châu thấy đệ tử Văn Yển lễ Phật bèn dùng gậy gõ xuống đất hỏi:
- Ngươi đang làm gì vậy?
- Lễ Phật.
- Phật dùng để lễ hay sao?
- Lễ Phật cũng là chuyện tốt.
- Chuyện tốt chẳng bằng không chuyện.
(Tinh Vân Thiền Thoại)
Phiền não là bệnh, Phật đạo cũng là bệnh. Phật, Bồ tát có bệnh không?
Không phải! Phật, Bồ Tát vì chúng sinh mà bệnh. Phật đản sinh cõi Ta bà, Bồ Tát hành hóa biển khổ, Địa Tạng nói nếu địa ngục còn người thì sẽ không thành Phật; do đó Phật, Bồ Tát vì lòng bi mẫn sao lại miễn trừ phiền não của chúng sinh? Lễ Phật tuy là chuyện tốt nhưng nếu bỏ được cái chấp chuyện tốt (công đức) thì không chuyện mới chính là chuyện tốt.

1125.  Thọ tín vật.
Một hôm, Quy  Sơn bảo Ngưỡng Sơn:
- Có một tín đồ mang 3 bó lụa trắng đến mong ta thỉnh chuông cầu phúc, cầu hòa bình an lạc cho thế nhân.
- Tín đồ đã thành tâm, thầy lại thâu lễ vật, xin hỏi thầy lấy gì để hồi báo?
Quy Sơn dùng gậy gõ vào giường 3 cái:
- Ta lấy cái này hồi báo.
- Cái này dùng làm gì?
Quy Sơn lại gõ 3 cái nữa:
- Ngươi sợ cái này còn không đủ sao?
- Con không hiểu cái này, cái này là của mọi người, con chỉ sợ lão sư không chịu lấy cái này hồi báo.
- Ngươi đã rõ cái này là của mọi người, sao lại còn muốn ta tìm vật gì khác để cho hắn nữa? 
- Tự mình có đủ, sao còn làm phiền người khác?
- Tự mình tuy có đủ, nhưng nếu không có người khác thì nào biết được? Ngươi đã quên Đạt Ma tổ sư sang Trung Thổ chẳng là đem cái này chỉ cho ngươi sao? Mỗi người các ngươi đều là người thọ tín vật.
(Tinh Vân Thiền Thoại)
Cái này là chỉ cái gì? Đó là khuôn mặt xưa nay của mọi người. Nếu đã là khuôn mặt xưa nay của mình thì đâu cần ai tặng? Tuy là nói vậy, nhưng không có thầy chỉ thì làm sao biết? Cửa thiền không chấp ngôn ngữ văn tự làm sao chỉ thẳng tâm người? Hoàng Bá nói: “Chẳng cầu Phật, chẳng cầu Pháp, chẳng cầu tăng, nên cầu như thế!”
Ngôn ngữ văn tự chỉ là công cụ, không phải là mục tiêu. Như dùng đò qua sông, khi còn chưa qua sông sao bỏ đò được? Nhưng khi đã tới bờ bên kia rồi thì phải bỏ đò mà đi. Quy Sơn và Ngưỡng Sơn đứng trên lập trường khác nhau nhưng lý tánh chỉ là một.

1126.  Từng bước, từng bước chẳng lạc hướng.
Thiền sư Hiển Như ở núi La Phù lúc mới đến tham Cảnh Huyền ở Đại Dương Sơn tỉnh Hồ Bắc. Đại Dương hỏi:
- Ngươi là người vùng nào?
- Ích Sơn.
- Cách đây bao xa?
- 5 ngàn dậm.
- Làm sao tới? Có đạp đất không?
- Chưa từng đạp đất.
- Vậy ngươi biết cưỡi không sao?
- Không biết.
- Vậy làm sao tới?
- Từng bước, từng bước chẳng lạc hướng.
- Ngươi đã vượt tam muội sao?
- Tâm tánh không thể nằm được, sao khởi chướng danh tam muội?
- Như vậy! Như vậy! Nên tu như thế, tức bản thể rõ ràng, sự lý không hai; hãy khá hộ trì! 
(Tinh Vân Thiền Thoại)
Đại Dương là thiền sư đời Tống. Ông theo thúc phụ Trí Thông xuất gia, 19 tuổi thọ giới liền có thiền cơ. Như xem kinh Viên Giác liền hỏi tại sao gọi là Viên Giác? Bái phỏng đạo trường Duyên Quan liền hỏi thế nào là Vô Tướng đạo trường? Bất cứ chuyện gì ông cũng đặt câu hỏi rất hay. Gập ông tăng sắp mất ông hỏi đi về đâu? Gập ông tăng trồng dưa, hỏi dưa ngọt bao giờ chín? Nếu có thiền giả hỏi ông, ông luôn luôn trả lời bằng một bài kệ. Hiển Như từ Ích Châu Tứ Xuyên, tới Hồ Bắc, 5 ngàn dậm mà không đạp đất vì Thiền vượt thời không gian, không có xa gần, cho thấy thầy trò khế hợp. Hiển Như về sau thọ pháp với Đại Dương không phải là vô cớ.

1127.  Ai là Thiền sư?
Thiền sư Phật Quang trong sinh hoạt thường tự quên mình. Các học tăng từ các nơi đến tham học yêu cầu bái kiến, thị giả vào thông báo có vị tăng muốn vào bái kiến. Thiền sư Phật Quang thường hỏi lại:
- Ai là thiền sư?
Có lần Phật Quang đang ăn, thị giả hỏi:
- Thiền sư! thầy đã ăn no chưa?
- Ai đang ăn đấy?
Một lần khác Phật Quang giẫy cỏ ngoài đồng từ sáng đến chiều không ngưng nghỉ. Đại chúng an ủi:
- Thiền sư! Thật là khổ!
Phật Quang trả lời:
- Ai khổ vậy? 
(Tinh Vân Thiền Thoại)
Ai ăn? Ai kinh hành? Ai khổ? Ai nói? Phật Quang thường quên chính mình mà hỏi lại mọi người. Rất nhiều thiền giả nhân câu hỏi của Phật Quang mà tìm về chính mình. Người đời có lúc khẳng định tư tưởng, trí thức của mình làm mất đi chính mình. Có lúc cái gì cũng không khẳng định cũng lại đánh mất chính mình, giống như xác chết biết đi mất cả hồn vía, không có lập trường. Nếu có thiền thì có thể phủ định tất cả. Kỳ thật là ấp ủ tất cả. Tuy khẳng định tất cả, kỳ thực giải thoát tất cả. Thế cho nên thiền giả nói hay im, động hay tĩnh đều có một cảnh giới riêng. Lời nói, hành động của họ tuy đơn sơ nhưng ý vị vô cùng, nghiêm ngặt nhưng thâm thiết. Ai là thiền sư? Kỳ thực đó chính là thiền sư.

1128.  Đốt hương tăng phúc.
Tể tướng Bùi Hưu đời Đường là một tín đồ Phật giáo. Con ông là Bùi Văn Đức, tuổi trẻ mà đã thi đỗ Trạng Nguyên. Hoàng đế bổ làm Hàn Lâm. Nhưng Bùi Hưu không muốn con mình một bước đã huy hoàng. Do đó bắt con vào tự viện tu hành tham học, bắt đầu từ thủy đầu và hỏa đầu trở đi. Chàng thiếu niên Hàn Lâm ngày ngày gánh nước, bửa củi thân tâm mệt mỏi, phiền não, oán trách phụ thân bắt mình vào nơi chùa cổ núi sâu, làm trâu làm ngựa. Nhưng lệnh cha không giám trái phải ẩn nhẫn. Cái tình trạng tâm bất cam, tình bất nguyện sau một thời gian không nhẫn nại được, than rằng:
Hàn  Lâm  gánh  nuớc,  mồ  hôi  dòng  dòng.
Hòa  thượng  ăn  rồi,  làm  sao  tiêu  đặng?
Trụ trì là Vô Đức nghe được, ngâm hai câu trả lời:
Lão  tăng  chỉ  thắp  một  thẻ  hương
Có  thể  tiêu  cả  vạn  kiếp  lương.
Bùi Văn Đức nghe rồi nhẩy nhổm, từ đó thâu thúc thân tâm chịu khó làm việc lao dịch. 
(Tinh Vân Thiền Thoại)
Các vĩ nhân không phải là ngồi ở trên cao để mọi người sùng bái. Thiền giả tạo dựng sự nghiệp từ chỗ thấp hèn, từ chỗ lao động thân thể mài rũa ý chí. Phật giáo rất coi trọng khổ hạnh, nhưng đó cũng chỉ là tạo phúc đức nhân duyên, thuộc hữu vi pháp. Khi thiền gia thắp hương tâm có thể quảng biến thập phương, tánh có thể xuyên suốt ba thế, tâm tánh có thể tương ứng cùng vô vi pháp thì đương nhiên sẽ:
Lão  tăng  chỉ  thắp  một  thẻ  hương
Có  thể  tiêu  cả  vạn  kiếp  lương.

1129.  Nên im lặng.
Có một năm, Linh Thụ Viện tới mùa hạ an cư, Hậu Hán Lưu Vương mời Vân Môn thiền sư và toàn thể đại chúng vào quá hạ ở nội cung. Chư vị pháp sư ở trong nội cung tiếp thọ các cung nữ cung kính hỏi pháp, oanh yến thỏ thẻ náo nhiệt vô cùng. Vì Lưu Vương chân thành trọng pháp nên ngày nào cũng có bài giảng. Các bậc tôn túc trong chùa đều vui vẻ nói pháp cho các cung nữ và thái giám. Chỉ có Vân Môn im lặng tọa thiền một bên. Các cung nữ cũng không dám thân cận thưa hỏi. Có một viên quan trị điện thấy tình cảnh ấy bèn hướng Vân Môn thỉnh thị pháp yếu. Vân Môn vẫn một mực im lặng. Viên quan không coi đó là ngỗ ngược mà còn kính trọng thêm, viết một bài kệ gián ở ngoài điện:
大 智 修 行 始 是 單
Đại trí tu hành thủy thị thiền
單 門 宜 默 不 宜 喧
Thiền môn nghi mặc bất nghi huyên
萬 般 巧 說 爭 如 實
Vạn ban xảo thuyết tranh như thật
愉 卻 單 門 總 不 言
Thu khước thiền môn tổng bất ngôn
Đại  trí  tu  hành  trước  là  Thiền
Thiền  môn  nên  lặng  chẳng  huyên  thuyên
Vạn  lời  tranh  cãi  tìm  chân  lý
Chẳng  biết  thiền  môn  vẫn  lặng  yên.
(Tinh Vân  Thiền  Thoại)
Vân Môn vốn là một vị cao tăng, vui cùng hạc nội mây ngàn, hoặc ở trong rừng núi, hoặc ở ven sông, ba y một bát tùy duyên; không bị ảnh hưởng bởi danh lợi, quyền lực. Tuy là không lời mà như sấm sét. Nếu con người có thể đắm mình trong im lặng, thì có thể nói đã bước vào Thiền vậy.

1130.  Nghi cái gì?
Cư Độn ở núi Long Nha muốn được triệt ngộ, chân thành đến núi Chung Nam Sơn tham học Thúy Vi. Ở được mấy tháng mà vẫn chưa được Thúy Vi gọi vào chỉ thị. Một hôm, lấy hết can đảm vào pháp đường hỏi:
- Học tăng từ khi đến đây, chỉ theo đại chúng ra vào pháp đường chưa được mông ơn khai thị một pháp, vì sao vậy?
Thúy Vi lờ đi, hỏi lại:
- Ngươi nghi gì?
Cư Độn không nhận được yếu lãnh, chỉ đành cáo biệt Thúy Vi, đến Đức Sơn. Nhiều ngày qua lại thưa với Đức Sơn:
- Đệ tử đến đây đã lâu vẫn chưa được nghe một câu Phật pháp của Đức Sơn.
Đức Sơn cũng giống như đã hẹn trước với Thúy Vi, cũng hỏi 
lại:
- Ngươi nghi gì?
Câu đáp của 2 vị tông sư không hẹn mà hợp, Cư Độn bất đắc dĩ lại đến Động Sơn tham học. Một hôm hỏi:
- Xin thầy một lời, chỗ khẩn yếu của Phật pháp là gì?
Động Sơn chỉ đơn giản bảo:
- Đợi khi nước ở Động Sơn chẩy ngược ta sẽ bảo ngươi.
Cư Độn nghe rồi đại ngộ. 
(Tinh Vân Thiền Thoại)
Dùng nghi tâm tham thiền, dùng thể hội tham thiền, dùng vấn đạo tham thiền, kỳ thực không bằng dùng tâm bình thường mà tham. Con người sinh hoạt ở thế gian, đều ở trong điên đảo vọng tưởng, mâu thuẫn do đó bị sanh tử lôi cuốn không ngừng được. Nếu biết rõ nước ở Động Sơn chẩy ngược, tức tâm bình thường hiển hiện. Ngàn nghi, vạn vấn chẳng bằng một tâm bình thường.

1131.  Mặc áo, ăn cơm.
Có người hỏi Mục Châu:
- Chúng ta hàng ngày đều phải mặc áo, ăn cơm, cứ lập đi lập lại như vậy thật là phiền quá, phải làm sao để trừ các phiền này?
- Mặc áo, ăn cơm.
- Con không hiểu.
- Ngươi không hiểu, vậy thì cứ mặc áo, ăn cơm.
(Tinh Vân Thiền Thoại)
Thiền không lìa bỏ sinh hoạt, người thường mặc áo, ăn cơm; ngộ đạo thành Phật rồi cũng mặc áo, ăn cơm. Cái khác biệt là ý nghĩa và cách cảm thọ.

1132.  An trú ở đâu?
Trào Đường Đơn Hà có lần đi bái kiến Mã Tổ. Trên đường gập một ông lão tóc bạc dắt một đứa nhỏ, hình dung bất phàm, cung kính hỏi:
- Cụ trú ở đâu?
Cụ già giơ tay trỏ lên trời, rồi trỏ xuống đất:
- Trên là trời, dưới là đất (Ý là trong khoảng vũ trụ đâu cũng là nhà).
- Nếu trời xụp, đất lở phải làm sao? (Ý là trời đất nếu bị hủy diệt thì phải làm sao?)
Cụ già lớn tiếng:
- Trời xanh! Trời xanh! (Ý là vũ trụ cũng phải trải qua quá trình thành, trụ, hoại, diệt)
Đứa nhỏ đứng bên hứ lên một tiếng (Ý là tự tánh bất sanh, bất diệt)
Đơn Hà khen ngợi:
- Không có cha ấy thì không sanh được con này!
Ông lão và đứa nhỏ bèn đi vào núi. 
(Tinh Vân Thiền Thoại)
Con người ta trú ở đâu? Từ Hành pháp sư nói:
-Chỉ cần tâm an thì Đông, Tây, Nam, Bắc đều tốt.
Do đó trên trời, dưới đất không nhà, nơi nơi đều là nhà. Người đời trú ở thanh sắc, lợi lộc; mà thanh sắc, lợi lộc đều bị biến đổi không ngừng, vậy làm sao có thể an tâm trú? Nếu con người có thể khẳng định chính mình, không bị 5 dục, 6 trần lôi kéo, tâm có thể an trú thì trời xụp, đất lở cũng chẳng làm sao.

1133.  Thiền Đạo.
Một học tăng đến tham phỏng Việt Khê:
- Con từng nghiên cứu Nho học, Phật học 20 năm trời, nhưng đối với Thiền học một điểm cũng không thông, mong thầy chỉ cho chút ít!
Việt Khê không há mồm, chỉ nghênh mặt tát cho ông một cái.
Ông tăng kinh hoảng, tung cửa mà chạy, nghĩ bụng thật chẳng hiểu gì cả, phải tìm cách lý luận với thiền sư mới được. Chính đương lúc tức giận gập được Thủ Tọa, Thủ Tọa hỏi:
- Xẩy ra chuyện gì vậy? Hãy đến chỗ ta uống trà. Người học đạo có gì mà phải nổi giận.?
Học tăng vừa uống trà vừa than vãn Việt Khê vô duyên vô cớ đánh ông một cái tát tai. Đang lúc học tăng kể lể, thủ tọa lập tức ra tay cho ông tăng một tát, chén trà trong tay ông tăng văng xuống đất vỡ tan. Thủ Tọa bảo:
- Ngươi vừa nói hiểu Nho học, Phật học chỉ không hiểu Thiền đạo. Ta liền dùng Thiền đạo cung dưỡng ngươi, ngươi đã biết thế nào là Thiền chưa?
Học tăng kinh ngạc, trợn mắt, há hốc mồm không biết trả lời thế nào. Thủ tọa lập lại câu hỏi, ông tăng vẫn không trả lời được.
- Thật là chẳng hay, đã để cho ngươi thấy đạo Thiền của chúng ta.
Nói rồi, nhặt những mảnh chén vỡ, và dùng khăn lau khô nước trà đổ và nói:
- Ngoài những chuyện này ra, còn có gì gọi là Thiền đạo nữa?
Học tăng cuối cùng đã hiểu Thiền đạo ngay ở bên mình, từ đó lưu lại Việt Khê tham học. 
(Tinh Vân Thiền Thoại)
Trong Thiền tông, các học tăng khi tham học, thường bị đánh chửi, kỳ thực các thiền sư rất ôn hòa. Các thiền sư đánh mắng là để cho học tăng tự mình cảm thọ triệt để. Đánh vỡ rồi nhặt lên, đổ nước rồi lau khô, như vậy còn chưa đủ để ngươi ngộ sao?

1134.  Làm sao hiểu được?
Vân Môn sau khi đã khai ngộ nơi Mục Châu, bèn đi du phương. Tại Giang Châu gập được thượng thư Trần Tháo. Trần Tháo cũng là một học giả Thiền học, lúc mới gập mặt bèn đặt câu hỏi thử thách:
- Thế nào là chuyện hành cước của nạp tăng?
Vân Môn không đáp hỏi ngược lại:
- Ông đem câu này hỏi qua bao nhiêu người rồi?
- Mặc kệ con hỏi bao nhiêu người, hôm nay con chỉ hỏi thầy.
- Chuyện này để từ từ, ta hỏi ông thế nào là ba tạng giáo nghĩa?
- Quyển vàng, trục đỏ.
- Đó chỉ là văn tự, giấy mực, không phải là chân nghĩa của Phật pháp; xin nhắc lại thế nào là giáo nghĩa?
- Mở miệng là lời chết, tâm muốn duyên thì lự vong.
- Mồm muốn nói là lời chết là đối hữu ngôn; tâm muốn duyên thì lự vong là đối vọng tưởng. Vẫn chưa đúng! Nói lại thế nào là giáo nghĩa.
Trần Tháo không trả lời được.
- Nghe nói thượng thư bình thời nghiên cứu kinh Pháp Hoa?
- Dạ phải.
- Kinh nói tất cả sinh sản nghiệp cùng bảo tướng không trái nghịch. Xin hỏi phi phi tưởng thiên có mấy vị trở lại?
Trần Tháo không trả lời được.
- Ta đã xem qua 10 kinh, 5 luận sau lại vào nghiệp lâm tu hành, 10 năm, 20 năm mới khai ngộ; thượng thư chỉ mới xem qua vài quyển kinh luận làm sao hiểu được?
- Xin thầy thứ lỗi, thật là lỗi của con!
Từ đó Vân Môn lưu lại nhà Trần Tháo 3 năm.
(Tinh Vân Thiền Thoại)
Thiền môn chứng ngộ, không sợ không mở miệng, chỉ cần mở miệng là biết ngộ hay không. Vân Môn sau ba lần bị nắm ngực đuổi ra cửa khi tham Mục Châu, rồi sau trăm cay ngàn đắng mới khai ngộ. Do đó thượng thư Trần Tháo mới đọc vài quyển làm sao so sánh được.

1135.  Kết bạn.
Dược Sơn là vị trụ trì ở Tịnh Độ Viện, Hàng Châu, giữ gìn giới luật rất nghiêm, từng tiếp dẫn thái thú Lý Cao quy y Phật pháp, cũng từng giảng pháp cho Đường Văn Tông. Tuy vậy tính ông vốn đạm bạc, không thích giao tiếp. Các vị đại thần trong triều thường tranh nhau mời mọc cung dưỡng, nhưng ông đều tìm cách từ chối. Ông cùng Tường Thị lang có thể coi là bạn rất thân. Một hôm Tường Thị lang mời ông:
- Ngày mai hàn xá có nhiều văn nhân nhã tập, có vài tri kỷ, bạn tốt, đều là những vị học giả, danh sĩ đương đại, mạo muội mời thầy đến phổ độ cam lộ, diễn nói diệu pháp thì rất hân hạnh cho chúng tôi.
Dược Sơn cố từ nhưng Tường Thị lang cố ép, bất đắc dĩ Dược Sơn phải hứa hôm sau sẽ đến. Hôm sau, Tường Thị lang sai người đến đón, nhưng Dược Sơn đã rời viện. Người đi đón không tìm thấy Dược sơn, nhưng thấy trên bàn có lưu lại một bài kệ:
昨 日 僧 將 今 日 其
Tạc nhật tằng tương kim nhật kỳ
出 門 倚 杖 又 思 惟
Xuất môn ỷ trượng hựu tư duy
爲 橧 祇 合 居 巖 穴
Vi tăng chỉ hợp cư nham huyệt
國 士 筵 中 葚 不 宜
Quốc sĩ diên trung thậm bất nghi.
Hôm  qua  tưởng  hôm  nay  sẽ  đến
Ra  cửa  chống  gậy  lại  nghĩ  rằng
Làm  tăng  nên  ở  nơi  hang  động
Nhóm  cùng  danh  sĩ  có  nên  chăng?

Bèn đem về dâng lên thị lang.
Thị lang xem xong không giận Dược sơn đã thất hứa mà còn kính trọng thêm. 
(Tinh Vân Thiền Thoại)
Tánh cách của người xuất gia không đồng. Có người phát tâm hoằng pháp khắp giai tầng kêu là: Nhân gian Tỳ khưu; có người thích ở núi sâu rừng thẳm gọi là Lan Nhã Tỳ khưu. Đó là do sự bất đồng về bi nguyện của Tiểu thừa và Đại thừa. Đức Phật thường giảng pháp cho các vua chúa, đại thần nhưng ngài cũng để cho Ca Diếp tĩnh tọa ở trong núi, ven sông. Do đó có nghĩa học tỳ khưu, hoằng pháp Tỳ khưu, trì luật tỳ khưu, thần dị tỳ khưu.. . Phong cách của các đại thiền sư, có người là quốc sư, có người là ẩn giả, đều là vì lợi ích của chúng sinh nhưng hình tượng thì không đồng.

1136.  Chiến sĩ.
Một lần, một đoàn quân dã chiến học diễn tập, các sĩ quan nhận thấy tạm trú ở tu viện Nga Sơn là thích hợp nhất. Do đó yêu cầu nhà chùa cung cấp cho 3 bữa ăn. Nga Sơn bảo Điển Tọa:
- Cung cấp thực phẩm cho họ như chúng ta thường dùng hàng ngày để kết duyên.
Do đó đoàn quân chỉ có rau và củ cải, không có thịt cá để ăn. Đoàn quân rất tức giận, một vị sĩ quan chạy đến tìm Nga Sơn phẫn nộ trách:
- Ngươi coi bọn ta là hạng ngươi gì?
- Ta coi các ngươi như chính mình.
- Vậy sao chỉ cho bọn ta ăn toàn rau và củ cải?
- Chúng ta hàng ngày đều ăn rau và củ cải mà không chán.
Sĩ quan giận dữ hét lớn:
- Ngươi biết chúng ta là ai không? Chúng ta là chiến sĩ đánh giặc chẳng tiếc thân mạng.
Nga Sơn cũng không khách khí hét lại:
- Còn ngươi coi bọn ta là ai? Chúng ta là sứ giả của chân lý, cái gì chúng ta cũng xả bỏ để cứu độ chúng sinh!
 (Tinh Vân Thiền Thoại)
Thế giới ngày nay có biết bao loại bạo lực: thiên tai, khủng bố, chiến tranh khiến mọi người phải kinh sợ, luôn bị cái chết ám ảnh, nếu không có tôn giáo an định lòng người thì xã hội lại càng hỗn loạn.  Người xuất gia ly gia cắt ái, truyền thừa chân lý khiến cho nhân loại có chỗ nương dựa. Cống hiến cả đời, can tâm đạm bạc, không phải ai cũng làm được.

1137.  Hiểu căn nguyên.
Văn Thù Tâm Đạo thiền sư tham cứu “3 giới duy tâm, vạn pháp duy thức” nhiều năm, nhưng đối với vấn đề tâm thức vẫn chưa khế hội, bèn đi hành cước tham phỏng. Một hôm đến Thái Bình Phật Giám định đem công án “cây Bách trước sân” của Triệu Châu để hỏi. Nhưng Phật Giám (Giác Thiết Chủy) đã đoán trước, liền bảo:
- Thầy ta không có lời này, đừng hủy báng ổng!
Tâm Đạo do đó khởi nghi tình tham cứu nhiều ngày có chỗ tỉnh ngộ bèn đến phòng phương trượng tưởng đem kiến địa của mình giãi bầy cho Phật Giám. Nhưng Phật Giám thấy có người đến bèn đóng cửa lại.
Tâm Đạo ở bên ngoài kêu lớn:
- Thiền sư, chẳng nên lừa dối con.
- Mười  phương  không  tường  vách
  Sao  chẳng  mau  đi  vào?
Tâm Đạo dùng tay phá rách cửa giấy, Phật Giám liền mở cửa túm lấy Tâm Đạo:
- Nói! Nói!
Tâm Đạo dùng hai tay bưng đầu Phật Giám, miệng giả khạc nhổ, đọc bài kệ:
趙 州 有 個 柏 樹 話
Triệu Châu hữu cá bách thụ thoại
禪 客 相 傳 滿 天 下
Thiền khách tương truyền mãn thiên hạ.
多 是 摘 葉 與 尋 枝
Đa thị trích diệp dữ tầm chi
不 能 直 向 根 源 會
Bất năng trực hướng căn nguyên hội
覺 公 說 道 無 此 語
Giác công  thuyết đạo vô thử ngữ
正 是 惡 言 當 面 罵
Chính thị ác ngôn đương diện mạ
禪 人 若 具 通 方 眼
Thiền nhân nhược cụ thông phương nhãn
好 向 此 中 辨 真 假
Hảo hướng thử trung biện chân giả.
Triệu  Châu  có  câu  chuyện  cây Bách
Thiền khách  truyền đi  khắp bốn phương
Đều  là  vạch  cành  và  bới  lá
Chẳng  thể  hiểu  ngay  từ  ngọn  nguồn.
Giác  công  rằng  chuyện  này  vốn  không
Chính  là  ngay  mặt  mắng  lời  ác
Người  thiền  nếu  đã  có  mắt  thông
Chân  giả  có  thể  nhận  ra  được.
Phật Giám ấn chứng cho ông:
- Ngươi đã khai ngộ rồi! 
(Tinh Vân Thiền Thoại)
Thế gian có chuyện thị phi, biện minh đạo lý cũng có chân giả. Câu đáp của Triệu Châu là chỉ cây Bách tùy theo mùa mà lá biến đổi, cái cảnh giới vô tâm đó là ý tổ sư từ Tây sang. Tâm Đạo ở nơi Phật Giám đã tìm đến tận gốc rễ, thể ngộ vô phân biệt trí. Do đó không trách gì đã mắng mỏ các thiền giả trí giải trong thiên hạ.

1138.  Người thiếu nữ hấp dẫn nhất.
Có một nữ thí chủ, gia cảnh rất sung túc. Bất luận là tiền tài, địa vị, năng lực, quyền lực, dung mạo đều hơn người. Nhưng cô rất cô đơn, ngay một bạn để tâm sự cũng không có. Vì vậy cô đến thỉnh giáo Vô Đức làm sao để có sô lực khiến người khác hoan hỉ. Vô Đức bảo cô:
- Con phải cùng mọi người hợp tác, giống như Phật đầy lòng từ bi nói chuyện Thiền, nghe âm Thiền, làm chuyện Thiền, dùng tâm Thiền, con sẽ thành người có sô lực nhất.
- Làm sao nói chuyện Thiền.
- Là nói chuyện vui vẻ, chân thật, khiêm tốn, làm lợi cho người.
- Thiền âm làm sao nghe?
- Thiền âm là hóa tất cả các âm thanh thành tiếng vi diệu, đem những lời chửi rủa biến thành những tiếng từ bi, đem những tiếng hủy báng biến thành lời nâng đỡ, những tiếng khóc, tiếng ồn ào đều không để ý.
- Làm sao làm chuyện Thiền?
- Là bố thí, làm việc thiện, phục vụ tha nhân, hòa hợp Phật pháp.
- Làm sao dụng tâm Thiền?
- Là ta người một tâm, phàm thánh là một, bao dung phổ lợi tất cả.
Nữ thí chủ nghe rồi sửa đổi không còn kiêu ngạo giầu có, tài giỏi, xinh đẹp. Đối với mọi người rất lễ phép, đối với họ hàng rất quan tâm. Chẳng bao lâu trở thành người hấp dẫn nhất.
(Tinh Vân Thiền Thoại)
Thiền không phải là lý luận, thiền là sinh hoạt. Trong sinh hoạt có Thiền thì pháp lực vô cùng: mọi người đều tôn trọng, nơi nơi đều quý mến.

1139.  Đại Điên và Hàn Dũ.
Hàn Dũ hỏi Đại Điên:
- Xin hỏi hòa thượng bao nhiêu tuổi?
Thiền sư giơ niệm châu lên hỏi lại:
- Hiểu không?
- Không hiểu.
- Ngày đêm 108.
Hàn Dũ không hiểu hàm ý gì, ngày hôm sau lại đến thỉnh giáo. Khi tới cửa chùa gập một chú tiểu bèn hỏi:
- Hòa thượng bao nhiêu tuổi?
Chú tiểu không đáp, chỉ nghiến răng 3 lần. Hàn Dũ mơ hồ như đi trên mây, vào gập Đại Điên xin khai thị. Đại Điên cũng nghiến răng 3 lần. Lần này Hàn Dũ như có chỗ ngộ:
- Nguyên lai Phật pháp không hai, đều cùng một dạng.
 (Tinh Vân Thiền Thoại)
Công án này có ý tưởng gì? Hàn Dũ hỏi hòa thượng bao nhiêu tuổi, do kinh nghiệm đời thường, muốn tính thời gian. Sự thật thời gian luân chuyển không ngừng, không đầu không cuối làm sao có thể nói là bao nhiêu. Tại vô hạn thời gian, không gian, sinh mạng không ngừng luân hồi. Nghiến răng 3 lần là chỉ trong vô tận sinh mạng, chúng ta không nên trình khẩu thiệt, trừ ngôn ngữ, văn tự chúng ta phải chứng nghiệm Phật pháp, nhận thức bản lai diện mục, tìm được cái vĩnh hằng trong tam thiên đại thiên thế giới.

1140.  Ta ở đâu?
Thiền sư Vô Căn có một lần nhập định 3 ngày; đại chúng tưởng ông đã chết bèn mang đi thiêu. Vài ngày sau, thần thức của Vô Căn xuất định, không tìm thấy thân thể. Cả chùa đều nghe tiếng Vô Căn tự hỏi:
- Ta, ta đang ở đâu?
Càng về đêm tiếng kêu của Vô Căn càng bi thảm khiến mọi người bất an. Một hôm, đạo hữu của Vô Căn là thiền sư Diệu Không biết chuyện này, bảo đại chúng:
- Hôm nay ta sẽ ở trong phòng Vô Căn, khi ông tới ta sẽ nói chuyện với ông. Các ngươi hãy chuẩn bị cho ta một thùng nước và một lò lửa. Ta muốn cho ông biết thế nào là cái ta.
Đêm khuya Vô Căn trở lại tìm thân thể bi thiết kêu lên:
- Ta, ta đi đâu rồi?
Diệu Không trả lời:
- Ngươi ở trong đất.
Vô Căn vào đất tìm Đông, tìm Tây, rất lâu thấy tiếng kêu lên:
- Trong đất không có ta.
- Vậy ngươi vào hư không coi.
- Hư không cũng không có ta.
Diệu Không chỉ thùng nước:
- Ngươi ở trong nước.
- Trong nước không có ta.
Diệu Không chỉ lò lửa:
- Ngươi ở trong lửa.
- Trong lửa cũng không có ta.
- Ngươi đã có thể vào đất, nước, lửa, tự do tự tại ra vào hư không ngươi còn tiếc cái sắc thân bị chướng ngại nữa làm gì?
Vô Căn nghe rồi có tỉnh, từ đó không còn đi tìm cái ta nữa.
(Tinh Vân Thiền Thoại)
Chân ngã không phải là sắc thân. Sắc thân có chướng ngại, có bệnh; sắc thân vô thường, chân ngã là pháp thân. Chân ngã ở khắp hư không, tràn đầy pháp giới, tự cổ đến nay không biến, trải qua vạn kiếp vẫn mới. Thiền giả chứng ngộ chân tâm, cùng pháp thân tương ứng. Vô Căn niệm niệm không quên túi da thối làm sao giải thoát, may gập Diệu Không phương tiện chỉ thị mới tìm lại được chân ngã.

1141.  Tông Diễn.
Tông Diễn khi còn là một vân thủy tăng, tham thiền với thiền sư Tuấn Nhai ở Kiến Nhân Tự. Một ngày mùa hạ nọ, trời rất nóng nực Tông Diễn lợi dụng lúc Tuấn Nhai ra ngoài, nằm duỗi thẳng tứ chi ở hành lang chùa mà ngủ. Không lâu Tuấn Nhai trở về. Nghe tiếng bước chân thầy Tông Diễn tỉnh giấc, kinh sợ, nhưng không đủ thời gian để lẩn tránh đành mặt dầy mày dạn giả vờ ngủ. Tuấn Nhai bước nhẹ vòng qua chân Tông Diễn nhỏ nhẹ:
- Xin lỗi! Xin lỗi!
Tông Diễn lúc đó mắc cỡ, xuất mồ hôi lạnh từ đó không giám chểnh mảng một giây, sáng chiều tinh tấn tham thiền. Tuấn Nhai viên tịch rồi, Tông Diễn trở thành một đại tôn sư, lãnh đạo 300 học tăng tham thiền. Nhân nhớ đến lão sư đối với mình rất từ bi, do đó ông đối với các học tăng cũng rất khoan dung. Về sau trở về già vì phải bận rộn giáo dục các học tăng ngày đêm, không có thì giờ ngủ thành giấc, bất đắc dĩ lợi dụng lúc tọa thiền chợp mắt một lúc.
Có một lần một học tăng bình phẩm:
- Lão thiền sư Tông Diễn mỗi ngày ngồi thiền đều có tập quán ngủ. Chúng ta hỏi sao thầy tọa thiền lại ngủ, lão sư bảo mình vào mộng để gập cổ thánh, tiên hiền giống như Khổng Tử mộng thấy Chu Công vậy mà!
Lời bình phẩm này lan truyền rất rộng, thậm chí các học tăng cũng lợi dụng lúc tham thiền để ngủ. Tông Diễn không ngừng khích lệ các học tăng dụng công. Một học tăng không phục thưa:
- Chúng con cũng vào mộng để gập cổ thánh, tiên hiền giống như Khổng Tử mộng thấy Chu Công.
Tông Diễn không giận hỏi lại:
- Các ngươi gập cổ thánh, tiên hiền, họ khai thị gì cho các ngươi?
Các học tăng không trả lời được, nhưng đều có chỗ tỉnh ngộ.
(Tinh Vân Thiền Thoại)
Cảnh giới của học tăng và lão sư không đồng. Tông Diễn nhận sự từ ái của thầy nên cũng đem lòng từ ái nhiếp thọ học tăng. Nhưng trong sự giáo dục từ ái không, không đủ uy lực chiết phục, không dễ gì tạo thành tánh tôn sư trọng đạo. Nhưng Tông Diễn ngoài ái tâm còn thêm thiền vị nên cuối cùng đã chiết phục được các học tăng.

1142.  Làm sao thấy Đạo?
Mã Tổ Đạo Nhất lúc còn trẻ, mới gập Hoài Nhượng hỏi:
- Dụng tâm thế nào để khế hợp Vô Tướng Tam Muội?
- Ngươi học tâm địa pháp môn như gieo mạ, ta thuyết Phật pháp như mưa rơi, chỉ cần duyên hợp thì sẽ thấy Đạo.
- Thầy nói thấy Đạo là thấy Đạo nào? Đạo không có hình tướng làm sao có thể thấy Đạo vô hình, vô tướng được?
- Cái tâm địa pháp nhãn này có thể thấy Đạo; Đạo vốn là Vô tướng tam muội, cũng do từ tâm địa pháp môn tự thấy Đạo vậy.
Hoài Nhượng sợ Mã Tổ còn chưa hiểu rõ lại thêm:
- Nếu có thể khế hợp Đạo thì Đạo không đầu không cuối, không thành không hoại, không tụ không tán, không dài không ngắn, không tĩnh không loạn, không nhanh không chậm. Nếu hiểu lý này thì đó là Đạo.
(Tinh Vân Thiền Thoại)
Đạo là gì? Đạo không có thời gian: không đầu không cuối, Đạo không có không gian: không trong không ngoài. Đó là chân lý. Đạo từ cổ cho đến nay không biến, trải vạn kiếp vẫn mới toanh. Làm sao thấy đạo? Chỉ cần rõ tự mình thường trú chân tâm là thấy Đạo.

1143.  Còn nặng không?
Thiền sư Cảnh Hư người Đại Hàn dẫn đệ tử mới xuất gia là Mãn Không đi hành cước. Mãn Không trên đường không ngớt than phải vác hành lý nặng nề, xin sư phụ tìm chỗ nghỉ chân. Cảnh Hư không chịu, cứ thẳng bước. Khi đi qua một trà sơn trang, một thiếu phụ từ trong nhà bước ra. Sư phụ bỗng nắm lấy tay người phụ nữ ấy. Thiếu phụ la to, người nhà và láng giềng nghe tiếng kêu chạy ra nghĩ rằng hòa thượng này trêu ghẹo phụ nữ, đều nhất tề hô đánh. Cảnh Hư thân hình to lớn co giò chạy trước. Đồ đệ Mãn Không lưng vác hành lý cũng chạy bén gót thầy. Rất lâu sau khi đã chạy qua khỏi mấy con đường núi, thôn dân không có cách gì đuổi kịp 2 thầy trò. Tại một chỗ thanh vắng sư phụ bèn dừng chân bên đường, ngoảnh đầu lại quan tâm đệ tử:
- Còn thấy nặng không?
- Sư phụ! Thật là kỳ quái, vừa rồi chạy chẳng thấy hành lý nặng gì cả!
 (Tinh Vân Thiền Thoại)
Đối với mục phiêu trước mặt nếu không có tín tâm vững chắc thì việc ngại xa, ngại khó, ngại nặng là điều tất nhiên. Trái lại nếu vững tin chịu đảm trách thì không còn ngại xa, ngại khó nữa.

1144.  Nghe mà chẳng hiểu!
Vương Phú Ích là một tín đồ nhiệt thành. Ngoài đi làm ra, hễ rảnh là chạy tới Đông Thiền Tự hoặc giúp Viên Đầu trồng cây tưới nước hoặc giúp Điển Tọa bổ củi, nấu cơm, khi gập Vô Danh thuyết pháp hay khai thị cho các học tăng, ông đều hết sức lắng nghe. Có một lần Vương Phụ Ích ở thiền đường nhìn các học tăng ở tư thế mắt nhìn mũi, mũi quán tâm mà thở dài. Gập đúng lúc Vô Danh đi qua, Vô Danh hỏi:
- Ông vì sao mà thở dài?
Vương Phụ Ích lại thở dài.
- Bình thường ông phát tâm trợ giúp công việc trong chùa, lại rất dụng công nghe Phật pháp có thể nói thân, khẩu, ý đều ngao du trong pháp hải, vì sao lại thở dài?
- Phiền não của con là nghe mà không hiểu Phật pháp. Đối với những gì thầy khai thị học tăng, những gì là ý Tổ sư từ Tây qua? Con chó có Phật tánh không? Tức tâm tức Phật; thế nào là sự trong tông môn? Thế nào là Phật, thế nào là khuôn mặt xưa nay, Đạo ở đâu?  . . . Mỗi khi con nghe những Phật pháp này giống như xem hoa trong sương mù! Thiền sư, vì sao con nghe mà không hiểu?
- Lúc trước thiền sư Đức Sơn thấy học tăng vào cửa liền đánh; thiền sư Lâm Tế thì hét, Tuyết Phong thì hỏi là cái gì? Mục Châu thì nói tất cả đều hiện thành. Lịch Đại tổ sư, đại đức có người nghiên cứu một công án suốt đời cũng không thể khai ngộ, cho thấy học Thiền phải dụng công tham cứu chứ không phải chỉ nghe.
- Nhưng làm sao tham?
- Ngươi hãy tham nghe mà chẳng hiểu.
Vương Phụ Ích nghe rồi có chỗ ngộ.
(Tinh Vân Thiền Thoại)
Tham thiền nên tham thoại đầu; đây là phương pháp bất đắc dĩ cần phải có một cái gì trợ giúp. Tập trung tinh thần, thống nhất ý chí chủ yếu là không cho nghĩ ngợi loạn lên. Các thiền sư đề thị thoại đầu như: ý tổ sư từ Tây sang .  .  .  không phải là vấn đề dễ hiểu, nhưng tham cứu rồi thì những thoại đầu này giống như chìa khóa có thể giúp ta mở cửa bí ẩn vào vũ trụ; Vô Danh bảo tham “nghe mà chẳng hiểu” lại chẳng nên sao?!

1145.  Chẳng là hỗn tạp sao?
Có một ông vân thủy tăng khi đi tham phỏng, qua một  am do một lão bà quản lý, dừng lại nghỉ ngơi. Ông hỏi bà lão:
- Sư cô, am này ngoài cô ra còn có quyến thuộc nào không?
- Có.
- Sao không thấy?
- A! Sơn hà đại địa, cỏ cây đều là quyến thuộc của ta cả.
- Vô tình không phải là hữu tình, sơn hà cỏ cây có hình dạng cô sao?
- Vậy ta có dạng nào?
- Tục nhân.
- Ngươi cũng chẳng phải là người xuất gia.
- Sư cô, cô không thể hỗn tạp Phật pháp.
- Ta không làm hỗn tạp Phật pháp.
- Tục nhân trụ trì am, cỏ cây là đạo hữu như vậy không phải là  làm hỗn tạp Phật pháp là gì?
- Pháp sư! Ngươi không nói vậy được, ngươi là nam nhân, ta là nữ nhân có hỗn tạp gì đâu? 
 (Tinh Vân Thiền Thoại)
Vũ trụ vạn hữu vốn một thể. Tâm, Phật, chúng sinh không sai biệt. người đời thường phân biệt cái không sai biệt, cho nên mới có thị phi, thiện ác, tình và vô tình, thậm chí nam nữ dị loại, thế và xuất thế đều là pháp đối đãi; nếu được như lão bà chỉ có một chân pháp giới thì làm gì có hỗn tạp.

1146.  Mặc kệ.  Đừng để ý.
Đây là một thiền án hiện đại. Một cô nương rất xinh đẹp quyết tâm tham thiền ngộ đạo, đến thỉnh giáo một vị thiền sư:
- Con phải làm sao để tham thiền ngộ đạo?
Lão thiền sư nghĩ bụng cô gái xinh đẹp này chắc là trong đời sẽ 
gập nhiều trở ngại bó buộc, làm sao có thể tham thiền ngộ đạo? Do đó bèn dạy cô một câu quyết:
- Mặc kệ, đừng để ý.
Đương nhiên, các thiền sư trong quá khứ dạy tham thiền có nhiều phương pháp, tỷ như tham “Người niệm Phật là ai?” “Mặt mũi lúc cha mẹ chưa sanh là gì?” v.v. Câu quyết này là muốn cô không để cho ngoại cảnh quấy rối; do đó minh tâm kiến tánh, chứng ngộ Phật pháp. Vị cô nương này không phụ lòng thiền sư chỉ đạo, nhớ kỹ trong lòng nỗ lực tham cứu.
Một hôm, có người bảo:
- Bạn trai cô đến kiếm kìa!
- Mặc kệ, đừng để ý.
Không lâu, trường đại học Mỹ gửi giấy thông báo cô đã được nhận vào học, cô cũng không xem:
- Mặc kệ, đừng để ý.
Mẹ cô gọi điện thoại báo cho biết cô đã trúng thưởng.
- Mặc kệ, đừng để ý.
Trải qua nhiều lần như vậy, phá hết cửa này, cửa nọ. Một hôm cô xem lại bức ảnh cũ chụp chung với bà nội, ảnh vàng cũ kỹ, cô còn là một bé gái kháu khỉnh. Cô thầm nghĩ đã mười mấy năm rồi mình cũng khác xưa, giống như bà nội đã chôn vùi dưới lòng đất, chuyển niệm đầu cô đã phá xong sinh tử quan. Đối với cô sống chết không còn đáng sợ nữa. Vượt qua vô thường sinh tử, cô ngộ được cứu cánh bất sinh, bất diệt, an lạc. 
(Tinh Vân Thiền Thoại)
Ngộ cảnh này của cô, đối với những gì hư vọng ở đời, thực cao hơn nhiều.

1147.  Lớn làm nhỏ.
Một tín đồ đến chùa lễ Phật rồi vào khách đường nghỉ ngơi. Vừa ngồi xuống liền nghe tiếng một vị tri khách tăng trẻ nói với lão tăng Vô Đức:
- Lão sư! Có tín đồ tới, mời rót trà.
Không đầy 2 phút sau lại nghe:
- Lão sư! Bình hương đầy tàn nhang rồi, mời đi đổ.
- Lão sư, nhớ thay nước cho bình bông trên bàn thờ Phật.
- Lão sư, đến trưa đừng quên mời tín đồ ở lại độ ngọ.
Tín đồ thấy Vô Đức thiền sư dưới sự chỉ huy của vị tăng trẻ chạy Đông, chạy Tây bèn hỏi:
- Lão sư và tri khách tăng có quan hệ gì?
- Thầy trò.
- Nếu vậy sao ông ta không lễ phép gì cả, sai thầy chạy đây, chạy đó?
- Ta có đồ đệ năng cán như vậy là phúc khí của ta. Tín đồ đến chỉ muốn ta rót trà, không muốn ta phải giảng pháp. Bình thường thắp hương hắn làm, ta chỉ đổ tàn nhang. Hắn chỉ bảo ta giữ tín đồ lại độ ngọ, không bắt ta nấu cơm, đun nước. Trong chùa mọi chuyện lớn nhỏ đều do hắn tính toán, an bài, điều này khiến ta rất an ủi, nếu không thì ta khổ lắm.
Tín đồ nghe xong vẫn không hiểu:
- Không biết thầy trò các vị, nhiều tuổi  là lớn hay ít tuổi là lớn?
- Dĩ nhiên nhiều tuổi là lớn, nhưng ít tuổi cũng hữu dụng vậy.
(Tinh Vân Thiền Thoại)
Có câu ngạn ngữ “hòa thượng muốn lão, lão rồi là qúy”. Tín đồ cung dưỡng tăng chúng đến cúng lão không cúng tiểu, hộ trì lão cũng không hộ trì tiểu, vì trong tâm tín đồ lão là lớn, nhỏ là bé, không dễ dàng hiểu được Vương tử tuy nhỏ nhưng tương lai có thể lãnh đạo quốc gia, sa di tuy nhỏ nhưng tương lai có thể thành pháp vương. Như Vô Đức không coi nhẹ hậu học, tùy duyên tri túc, đó chính là thiền bình đẳng quán.

1148.  Rễ cây.
Có một tín đồ mới học Phật, đọc quyển “Phát Bồ đề tâm văn” đến câu “Kim Cương không phải là dắn, nguyện lực mới dắn”, không hiểu ý là gì bèn chạy đi hỏi Vô Tướng. Vô Tướng bảo:
- Người học Phật khó tránh được những chướng ngại như cơ duyên, ma nghiệp v.v… làm bồ đề tâm bị thối lui, nên cần có nguyện lực trợ giúp. Lịch đại tổ sư thành tựu đạo nghiệp không người nào là không nhờ nguyện lực, như bồ tát Phổ Hiền có 10 đại nguyện, bồ tát Quán Thế Âm có 12 đại nguyện, Phật A Di Đà có 48 đại nguyện., bồ tát Địa Tạng có đại nguyện “Địa ngục còn người thì không thành Phật”.
- Làm sao tưởng thành Phật phải phổ độ chúng sinh?
- Thí dụ một cây muốn khai hoa kết quả thì phải tưới, chăm sóc rễ cây, đừng cho nó bị tổn hại. Chúng sinh là căn, hoa là bồ tát, quả là Phật. Không chăm sóc rễ thì cây sẽ khô chết làm sao ra hoa, kết quả? Vì thế kinh Hoa Nghiêm có nói muốn làm chư Phật Long Tượng, trước hết phải làm trâu ngựa chúng sinh.
- Thiền sư, nguyện lực của thầy là gì?
- Nguyện lực của ta không thể nói cho ngươi biết
- Tại sao?
- Nguyện lực của ta là của ta, sao ngươi không tự phát nguyện lực?
Tín đồ cuối cùng đã hiểu, bái tạ mà đi.
(Tinh Vân Thiền Thoại)
Mỗi người đều có nguyện lực riêng của mình, không cần phải hỏi nguyện lực của người khác. Trước hết hãy tự hỏi mình định làm gì cho chúng sinh, thí dụ như làm đò để chở người qua sông, làm đường cho người đi, làm cây để cho bóng mát, làm trâu để giúp đỡ nông gia. . .

1149.  Làm trâu.
Quy Sơn sắp mất, một ông tăng hỏi:
- Thầy mất rồi sẽ đi đâu?
- Xuống núi làm trâu?
- Con có thể đi cùng thầy không?
- Nếu ngươi muốn đi với ta, đừng quên mang theo bó cỏ.
   (Tinh Vân Thiền Thoại)
Quy Sơn không cầu chứng Niết Bàn, không cầu sinh ở nước Phật, nguyện xuống núi làm trâu. Tự cổ, các thiền sư đều không cầu là Phật, chỉ cầu khai ngộ. Thầy nào trò đó. Ông tăng muốn theo thầy, Quy Sơn dặn đừng quên bó cỏ, ý rằng phải độc lập sinh tồn.

1150.  Rửa mặt bẩn.
Liên Trì một lần đương viết “Thập Thiện Hạnh” một ông tăng đến hỏi:
- Nghe nói Thiền không có khen, cũng không có chê, nay thầy viết sách này mà có ích gì?
- Năm uẩn bao vây khiến cảnh không ngừng. Bốn đại tung tăng không định được, sao ngươi nói là không có thiện ác?
- Bốn đại vốn không, năm uẩn chẳng có. Các pháp thiện ác đều không phải là thiền.
- Có nhiều người tưởng mình hiểu chuyện; ngươi cũng chẳng tốt lành gì. Ngoài thiện ác ra, thử nói pháp khác xem nào?
Ông du tăng mặt đầy khí giận, tâm sân hận chỉ nhìn mặt xanh lè là biết. Liên Trì ôn tồn bảo:
- Ngươi sao không đi lau mặt bẩn?
  (Tinh Vân Thiền Thoại)
Thiện ác là pháp, pháp không thiện ác. Trong chân như theo lý thì một pháp chẳng lập. Nhưng trong sự tướng thì thiện ác nhân quả rõ ràng. Thiền tuy vượt lên thiện ác nhưng ông du tăng từ tâm sân hận hiện lên mặt, không rửa sao được?

1151.  Ngươi từ đâu tới?
1. Lục Tổ hỏi Huệ Trung:
- Ngươi từ đâu tới?
- Con ở gần đây tới.
2. Lục tổ hỏi Thần Hội:
- Ngươi từ đâu tới?
- Con không từ đâu tới.
Lục tổ rất tán thưởng. 
(Tinh Vân Thiền Thoại)
Do Ngũ tổ hỏi Huệ Năng “Ngươi từ đâu tới?” là nhân duyên khai thị cho Huệ Năng nhập đạo. Do đó về sau khi Huệ Năng tiếp dẫn học nhân đều hỏi “Ngươi từ đâu tới?” để khai thị, khảo nghiệm, muốn học nhân đề khởi nghi tình, thâm cứu chân tượng. Đề khởi nghi tình là phương pháp tiếp cơ của Thiền tông thường xử dụng. Từ các câu hỏi liên tiếp, thiền giả cuối cùng phản chiếu tự tánh, tự nhận biết bản lai diện mục.

1152.  Bảo tọa của thiền sư.
Thiền sư Phật Quang nói pháp, khai thị, tiếp Tâm cho học tăng đều ngồi ở bảo tọa ở pháp đường. Do đó bảo tọa đối với đại chúng là biểu tượng của Pháp, của ngộ; nên còn được gọi là pháp tọa. Có một lần, Phật Quang phải đi về Nam để hoằng pháp ít ngày. Cũng như mọi ngày thị giả đều ở pháp đường quét dọn, lau chùi; pháp tọa của Phật Quang sạch không một hạt bụi. Một hôm thị giả vô cùng kinh ngạc thấy tri khách tăng ngồi ở bảo tọa nói chuyện với tín đồ. Vì đối phương là tri khách sư nên thị giả không dám biểu lộ gì, nhưng trong lòng thấy bực bội. Đến bữa cơm chiều Duy Ma sư cũng ngồi tự nhiên ở bảo tọa nhắm mắt tham thiền. Thị giả thấy vậy cho là không phải nghĩ bụng: “Đây là bảo tọa của thiền sư mà! Làm sao lại không tôn trọng?” Tiếp đó Y bát sư, Điện chủ sư, Hương đinh sư khi tại pháp đường tiếp khách đều rất tự nhiên ngồi ở bảo tọa.
Một hôm thị giả vào pháp đường lau chùi thấy Tri khách sư, Hương sư. . . các chấp sư đều tại pháp đường bàn chuyện hàng ngày; Tri khách sư vẫn ngồi ở bảo tọa. Thị giả đã nhiều ngày bất bình, nhịn không được bất giác hỏi:
- Các vị chấp sự pháp sư, các vị có biết chỗ này là chỗ nào không? Pháp đường để làm gì?
- Là nơi Phật Quang thiền sư khai thị, thuyết pháp, tiếp tâm cho học tăng, ai chả biết.
Thị giả không vui, lại hỏi:
- Nếu là vậy, sao quý vị không tôn kính mà lại còn ngồi nói chuyện vụn vặt?
Các vị chấp sự đều nói:
- Vì thiền sư đi vắng.
- Thiền sư đi vắng, các vị đều thay mặt thiền sư chủ trì, vậy xin quý vị hãy khai thị cho đệ tử.
Các vị chấp sự không trả lời được.
(Tinh Vân Thiền Thoại)
Ở thế gian họ hàng hộ thân, nhân dân hộ quốc, tín đồ hộ giáo. Trong công án này thị giả hộ chủ. Kỳ thật hộ chủ không nhất định phải là thị giả. Chủ ngày nay là người lãnh đạo. Bất cứ một quốc gia, một đoàn thể nào cũng đều nên củng cố một trung tâm lãnh đạo. Nếu không trên  dưới không có trật tự, loạn tùng phèo. Bảo tọa của thiền sư tượng trưng cho quyền uy của Phật pháp. Thị giả trong câu chuyện này không những hộ chủ mà còn hộ pháp nữa.

1153.  Độ kẻ trộm.
Một tối, thiền sư Tàn Mộng đang đọc sách ở phương trượng thất, bỗng nghe có tiếng động ở ngoài tường; nghĩ rằng có thể là ăn trộm, bèn gọi thị giả:
- Đem chút tiền cho ông bạn đang khoét tường.
Thị giả chạy ra ngoài kêu:
- Này, đừng làm hỏng tường, hãy cầm lấy chút tiền!
Kẻ trộm nghe rồi hoảng sợ bỏ chạy.
Tàn Mộng trách thị giả:
- Ngươi sao kêu lớn vậy? Làm cho hắn sợ hãi. Tội nghiệp chưa lấy được tiền đã phải chạy rồi. Trời lạnh thế này có lẽ cũng chưa có gì trong bụng. Ngươi không mau đuổi theo đưa tiền cho hắn.
Thị giả không làm sao được, đành tuân lệnh thầy, trong đêm lạnh lẽo tìm khắp nơi không biết kẻ trộm trốn đâu.
Lại có một vị thiền sư tên là An Dưỡng. Một lần nửa đêm trộm vào trộm cái mền duy nhất của bà. An Dưỡng không có cách nào chỉ đành lấy giấy phủ lên mình cho ấm. Kẻ trộm bị các đệ tử đi tuần bắt gập hoảng sợ bỏ mền lại chạy lấy người. Đệ tử thấy là mền của thầy bèn mang vào trả.
- Ái chà! Đây chẳng phải là cái mền bị trộm sao? Tại sao lại mang trở lại? Nếu là của trộm trộm đi thì là của hắn ta, hãy mang đi trả hắn mau!
Đệ tử chỉ đành hết sức đuổi cho kịp nói ý sư phụ cho hắn nghe. Kẻ trộm cảm động bèn quay lại thiền viện hướng An Dưỡng sám hối và xin quy y; từ đó cải tà quy chánh. 
(Tinh Vân Thiền Thoại)
Có người nói thiền giả đều có tâm sắt đá, không để ý gì đến khổ nạn. Nhưng như chúng ta đã thấy Tàn Mộng và An Dưỡng họ từ bi quên mình, yêu người, bọn thường nhân há sánh kịp sao? Thực ra người ngộ đạo như Phật xẻ thịt nuôi chim ưng, xả thân cho hổ ăn, đại nhân, đại dũng, đại trí, đại hạnh, vô duyên đại từ, đồng thể đại bi chỉ vì đã ngộ thiền vậy.

1154.  Nguyên lý của guồng nước.
Thiền sư Vô Tướng đi hành cước bị khát nước, bèn tìm nguồn nước để giải khát. Xa xa thấy một thanh niên đang đạp guồng nước ở ao. Vô Tướng bèn chạy lại xin một chén. Thanh niên ngưỡng mộ thưa:
- Nếu có một ngày nào con chán hồng trần, con nhất định cũng như thầy xuất gia học đạo. Nhưng con khác thầy ở chỗ con sẽ tìm một nơi ẩn cư tham thiền, chứ không đi lang thang như thầy.
- A! Khi nào ngươi chán hồng trần?
- Cả vùng này chỉ có con là biết rõ cách xử dụng guồng nước này, nếu tìm được người thay thế con nhất định xuất gia.
- Ngươi hiểu rõ guồng nước; vậy nếu guồng chìm trong nước hay hoàn toàn ở trên không thì sao?
- Nguyên lý của guồng nước là một nửa ở trong nước một nửa ở trong không thì nó mới chuyển.
- Quan hệ của guồng nước và dòng nước cũng giống như quan hệ của con người với cuộc đời. Nếu một người nhập thế phóng túng giang hồ khó mà thoát khỏi ngũ dục hồng trần lôi cuốn. Nếu hoàn toàn xuất thế, tự cho mình là thanh cao không cùng thế gian lai vãng thì cũng trôi nổi không tiến được. Do đó người tu đạo phải nên ra vào. Không đứng một bên, cũng không đắm mình vào. Người xuất gia chán hồng trần chưa đủ, phải phát nguyện độ chúng sinh. Đó mới là thái độ của người xuất gia chân chính.
Thanh niên nghe rồi hoan hỉ vô cùng:
- Thiền sư, những lời thầy giảng khiến con khai ngộ, thầy thật là thiện tri thức của con.
(Tinh Vân Thiền Thoại)
Một người nếu đối với ngũ dục, lục trần quá chấp trước thì tham ái làm đầu óc mê muội, nếu quá độ xả bỏ thế gian thì không còn sinh khí. Con người phải cất lên được, cũng bỏ xuống được, phải thuận theo Trung Đạo.

1155.  Phật pháp chân chính.
Thiền sư Hữu Tâm đức cao vọng trọng, bác học đa văn là  trụ trì Tịch Tướng Tự. Người đến hỏi đạo thì nhiều, nhưng ít người khế nhập. Ông có một sư đệ là Hữu Đắc, căn cơ trì độn, lại chột một mắt, bình thường giúp đỡ sư huynh những việc lặt vặt, chưa hề cùng tín đồ đối mặt thuyết pháp bao giờ. Một hôm Hữu Tâm vừa ra khỏi cửa thì có một thiền tăng đến tham phỏng hy vọng đối diện khai thị. Sư đệ Hữu Đắc bất đắc dĩ phải dùng phương thức không lời tiếp kiến vị thiền tăng. Hai người đối mặt không nói một lời, chỉ dùng tay ra hiệu. Không lâu vị thiền tăng vui vẻ bái tạ, cáo lui. Trên đường về gập Hữu Tâm, liền khen ngợi Hữu Đắc thật là một vị thiền sư pháp tướng. Rồi ông thao thao thuật lại quá trình thỉnh ích:
- Mới đầu, đệ tử giơ một ngón tay lên biểu thị đấng thế tôn đại giác, trời người không hai. Hữu Đắc giơ hai ngón tay lên biểu thị Phật pháp tuy hai nhưng là một thể lưỡng diện; tuy hai mà một. Đệ tử lại giơ ba ngón tay lên biểu thị Phật, Pháp, Tăng tam bảo hòa hợp, thiếu một cũng không được. Hữu Đắc bèn giơ nắm đấm lên biểu thị tam bảo là do nhất ngộ mà được. Tới đó đệ tử chỉ còn cách lạy tạ mà lui.
Thiền tăng kể rồi đi, Hữu Tâm về tới chùa Hữu Đắc ra đón, mặt đầy sắc giận ra báo cáo:
- Vừa rồi có một thiền tăng rất vô lý. Vừa vào thấy đệ chột mắt, bèn giơ một ngón tay lên kiêu ngạo với đệ. Vì hắn là khách nên đệ giơ 2 ngón tay lên có ý bảo ngươi thật may mắn có đủ 2 mắt.Ngờ đâu con người này thật vô lễ, liền giơ 3 ngón tay lên ám chỉ đệ và hắn hai người chỉ có 3 con mắt. Sư huynh bảo có đáng giận hay không; do đó đệ giơ nắm đấm lên định đánh cho hắn một trận, hắn vội chuồn mất.
Hữu Tâm nghe rồi không nín được cười.
(Tinh Vân Thiền Thoại)
Trọng yếu của Phật pháp là khế lý, khế cơ. Ở pháp hội Hoa Nghiêm hạng nhị thừa thanh văn nghe Phật thuyết pháp như người câm điếc nên có 5 ngàn người bỏ ra ngoài. Bình thời hoằng pháp truyền đạo khế lý rất dễ còn khế cơ rất khó. Như Hữu Tâm đức học câu toàn, nhưng khó mà khai ngộ cho người khác. Hữu Đắc tuy căn tính trì độn nhưng cùng vị thiền giả có duyên dùng tay vẽ chân, đầu lừa chẳng đối miệng ngựa mà khiến thiền giả ngộ đạo. Đó thật là mây vô tâm ra khỏi hang, người hữu duyên có thể ngộ đạo.

1156.  Gõ mõ đánh trống.
Một ín đồ hỏi Phật Quang:
- Gìa lam thanh tịnh tại sao lại gõ mõ đánh trống?
- Chẳng vẹt mây xanh sao thấy Long Môn?
- Ở nhà cũng có thể học Phật, việc gì phải khoác áo cà sa?
- Khổng tước tuy đẹp nhưng đâu bằng chim hồng hạc bay xa.
Những nghi ngờ của tín đồ đã được Phật Quang giải tỏa. 
(Tinh Vân Thiền Thoại)
Cá ở trong nước không nhắm mắt bao giờ. Mõ thường được tạo hình cá nên còn được gọi là mộc ngư. Gõ mõ là tượng trưng cho sự tu hành tinh tiến, không lười biếng. Đánh trống là để tiêu nghiệp tăng phúc. Tu tại gia cố nhiên là tốt nhưng đâu có sánh được với người xuất gia có thể chuyên tâm tu hành? Có chút nghi vấn nếu không giải đáp được thì như có hàng ngàn nút kết. Nhưng được giải thích rồi thì như vẹt mây mù mà thấy trời xanh. Thiền su có lúc giải thích, có lúc không giải thích. Nhưng đều là nói những chuyện không tương can. Nếu có thể hiểu ý ngoài lời thì nhất cử nhất động không gì không là thiền.

1157.  Hàng ngày ăn gì?
Vân Cư đến tham phỏng Động Sơn, Động Sơn hỏi:
- Ngươi từ đâu tới?
- Con từ Thúy Vi tới.
- Thúy Vi dạy các ngươi những gì?
- Mỗi năm Thúy Vi đều cúng dường 18 La Hán và 500 La Hán. Tế lễ rất long trọng. Con có hỏi “Tế lễ long trọng như vầy không biết các vị La Hán có đến không?” Thúy Vi trả lời “Vậy hàng ngày ngươi ăn gì?” Con nghĩ lời này là giáo huấn của Thúy Vi vậy!
Động Sơn nghe rồi rất kinh ngạc hỏi lại:
- Thúy Vi thực dạy dỗ các ngươi như vậy sao?
- Chính vậy.
Động Sơn rất vui vẻ và khen ngợi Thúy Vi. Vân Cư lại hỏi:
- Xin hỏi hàng ngày thầy ăn gì?
Động Sơn không suy nghĩ, đáp ngay:
- Ta cả ngày ăn cơm mà chưa hề nhai một hạt cơm; cả ngày uống trà mà chưa hề nhấp một giọt nước.
Vân Cư vỗ tay tán thưởng:
- Lão sư, vậy là hàng ngày thầy chân chính ăn cơm, uống trà!

 (Tinh Vân Thiền Thoại)
Khổng Tử nói: “Cúng thần như thần có mặt”. Thần có đến hay không, đó lại là một chuyện khác, chủ yếu là bản thân có cúng. Giả sử có người hỏi ta hàng ngày ăn gì? Ăn không phải là ăn thật bởi vì ăn, không ăn đều là pháp sinh diệt. Giả sử không ăn mà ăn, ăn mà không ăn; từ hữu vi đến vô vi, từ hữu tướng đến vô tướng, từ sinh diệt tới vô sinh diệt. Đó là đi qua trăm hoa mà thân không vương một lá, là mỗi ngày đều ăn, mỗi ngày đều tại giải thoát.

1158.  Một cái áo nạp.
Thiền sư Vô Quả trú ở trong hang sâu chuyên tâm tham thiền. Trải qua 20 năm đều do 2 mẹ con một phụ nữ hộ pháp cung dưỡng. Vì chưa minh tâm, sợ không dám nhận sự cúng dường nữa, do đó Vô Quả định đi du phương hỏi đạo để rõ việc lớn sanh tử. Hai mẹ con yêu cầu thiền sư lưu lại vài ngày, họ muốn may một cái áo nạp để tặng thiền sư. Hai mẹ con lập tức về nhà cắt vải may áo; mỗi mũi may đều niệm danh hiệu A Di Đà Phật. May xong lại gói 4 đĩnh bạc móng ngựa (mã đề ngân) đưa thiền sư để làm lộ phí. Thiền sư tiếp nhận ý tốt của 2 mẹ con, chuẩn bị ngày hôm sau xuống núi. Đêm tối ngồi thiền, nửa đêm bỗng có một đồng tử áo xanh tay cầm cờ, theo sau là một bọn người đánh trống thổi kèn, khiêng theo một đóa sen thật lớn đến trước mặt thiền sư. Đồng tử mời:
- Xin mời thiền sư lên tòa sen.
Thiền sư nghĩ thầm ta tu thiền, chưa hề tu pháp môn Tịnh độ. Đây có lẽ là ma cảnh. Đồng tử la bốn lần, xin thiền sư đừng bỏ qua. Vô Quả thuận tay phóng cái khánh vào tòa sen. Không lâu đồng tử và bọn tùy tùng kéo đi.
Sáng sớm hôm sau, thiền sư vừa xả thiền thì hai mẹ con trong tay cầm cái khánh hỏi Vô Quả:
- Đây có phải là vật thiền sư đánh mất không? Hôm qua con ngựa mẹ sanh một thai chết. Mã phu kéo ra thấy cái khánh này. Biết đó là của thiền sư nên đem lại trả.
Thiền sư nghe rồi toát mồ hôi, làm bài kệ:
一 襲 衲 衣 一 張 皮
Nhất tập nạp y nhất trương bì
四 錠 元 寳 四 個 蹄
Tứ đính nguyên bảo tứ cá đề
若 非 老 僧 定 力 深
Nhược phi lão tăng định lực thâm
機 與 汝 家 作 馬 兒 
Cơ dữ nhữ gia tác mã nhi.
Bốn  đính  bạc  là  bốn  móng  ngựa
Còn  chiếc  áo  nạp  là  bộ  da
Nếu  lão  tăng  định  lực  chưa  đủ
Đã  sanh  làm  ngựa  con  nhà  bà.
Sau đó đem trả áo và bốn đĩnh bạc cho hai mẹ con, bái biệt mà đi.
(Tinh Vân Thiền Thoại)
Nhân quả nghiệp duyên của Phật giáo thật khó nghĩ bàn. Nếu không tu chứng thì sanh tử luân hồi không tránh được. Xem chuyện Vô Quả thiền sư há chẳng nên thận trọng sao?

1159.  Phá hư không.
Mộng Song quốc sư thuở thiếu thời, từ xa xôi ngàn dậm đến kinh đô tham học với Nhất Sơn. Một hôm đến phòng phương trượng thỉnh thị:
- Đệ tử chưa rõ việc lớn, thỉnh thầy chỉ thẳng.
- Tông ta không lời, cũng không một pháp cho người.
- Thỉnh thầy từ bi phương tiện.
- Ta không phương tiện, cũng không từ bi.
Đã nhiều lần hỏi mà không được Nhất Sơn khai thị, Mộng Song nghĩ bụng nếu đã cùng Nhất Sơn vô duyên, có lưu  lại lâu ở đây cũng không khai ngộ  được. Vì vậy gạt lệ xuống núi đến tham Phật Quốc. Ở nơi Phật Quốc bị đánh hét nhiều lần cũng không khai ngộ. Cuối cùng đối Phật Quốc nguyện không ngộ không trở lại. Từ giã Phật Quốc, Mộng Song ngày đêm cùng đại tự nhiên tĩnh tọa tìm lời giải đáp. Một hôm ngồi dưới gốc cây bất tri, bất giác đến thâu canh, muốn vào am ngủ. Khi vào, ngộ nhận chỗ không có giường là giường, nằm xuống bèn ngã chỏng gọng, trong sát na bỗng phá lên cười, hoát nhiên đại ngộ, bèn làm bài kệ:
多 年 掘 地 覓 青 天
Đa niên quật địa mích thanh thiên
添 得 重 重 礙 膺 物
Thiêm đắc trùng trùng ngại ưng vật
一  夜 暗 中 颺 碌 甎
Nhất  dạ ám trung dương lục chuyên
等 閒 擊 碎 虛 空 骨
Đẳng nhàn kích toái hư không cốt.
Trời  xanh,  đào  đất  kiếm  bao  năm 
Chướng  ngại  càng  tăng  thêm  chướng  ngại
Một  bữa ở  trong  đêm  tối tăm
Hư  không  bị  đá  nhỏ  tàn  hoại.
Sau khi khai ngộ, Mộng Song đến gập Nhất Sơn và Phật Quốc trình kiến giải. Phật Quốc khen ngợi và ấn chứng cho ông:
- Mật ý Tây sang nay ngươi đã được, hãy tự hộ trì.
Năm đó Mộng Song 31 tuổi. 
(Tinh Vân Thiền Thoại)
Các thiền sư xưa nay đều có một đặc sắc là lời lạnh, tâm từ. Nhất Sơn không phương tiện, không từ bi, là phương tiện là từ bi. Phật Quốc đánh, hét cũng là đại phương tiện, đại từ bi. Nếu không có Nhất Sơn, Phật Quốc thì sau làm sao có Mộng Song quốc sư. Do đó Xuân có gió, Hạ có mưa làm vạn vật sanh trưởng. Thu có sương, Đông có tuyết khiến vạn vật thành thục.

1160.  Vân Môn trong ngoài.
Vân Môn đến tham phỏng Mục Châu, đến nơi thì trời đã hoàng hôn. Vân Môn hết sức gõ hai cánh cổng khép kín. Rất lâu Mục Châu ra mở cửa. Vân Môn thưa xin đến tham học vừa cho chân vào thì Mục Châu xuất kỳ bất ý đóng mạnh cửa lại. Vân Môn kêu lớn:
- Aí chà! Aí chà! đau quá!
- Ai kêu đau?
- Lão sư, là con.
- Ngươi ở đâu?
- Con ở ngoài cửa.
- Ngươi ở ngoài cửa vì sao kêu đau?
- Vì thầy đóng cửa nên chân con bị kẹt ở trong.
- Chân ở trong vì sao ngươi lại ở bên ngoài?
- Vì thầy làm cho con bị phân thành trong, ngoài.
- Đồ ngu, một người lại có phân trong ngoài sao?
Vân Môn ngay lời nói này giống như bị một trùy vào tâm, phá nát thân tâm hư vọng, khiến được đại ngộ.
(Tinh Vân Thiền Thoại)
Vân Môn tuy chân bị thương, nhưng đã đi qua được cái cửa hư vọng của ý thức, chứng ngộ trong ngoài là một, bình đẳng không hai. Thế gian, trong mắt nhà thiền đều là hư vọng, đối đãi, trong ngoài, thiện ác, lớn nhỏ, ta người; Người đời thường bị mê vọng trói buộc, không có cách nào vượt thoát. Nếu ta có thể cắt đứt tất cả, trở về gốc thì không ngộ sao được?

1161.  Đánh và hét.
Các thiền sư thuở xưa thường thích cầm thiền trượng, biểu thị quyền uy lãnh đạo. Thiền trượng không phải để đánh người, chỉ khi nào nghiên cứu một vấn đề, có khi nhẹ nhàng biểu thị mà thôi. Các thiền sinh bị đánh thường được gọi là ăn gậy. Còn hét là bị hét một tiếng hét lớn, cũng cùng tác dụng như bị ăn gậy.
Có 2 huynh đệ cùng đến Vô Đức học thiền. Nhưng mỗi buổi tiểu tham, khi thỉnh thị đều bị ăn gậy. Dù hai người tránh né rất nhanh, cũng không thoát khỏi gậy nện trên thân thể. Vô Đức xử dụng gậy rất chính xác, trăm đánh trăm trúng. Một hôm sư đệ bàn với sư huynh:
- Chúng ta đến đây tham học đã lâu, bị ăn gậy nhiều mà chẳng khai ngộ. Muốn đi nơi khác, nhưng kiếm được một thiền sư đạo hạnh như Vô Đức thật không phải là dễ.
Sư huynh cũng không có cách gì bèn đề nghị:
- Sau này khi tiểu tham, chúng ta hãy đứng ngoài pháp đường thưa gửi; dù thiền sư nhanh mấy cũng không đánh được chúng ta.
Do đó, hôm sau hai người đến pháp đường thưa:
- Xin hỏi thế nào là ý Tổ sư từ Tây sang?
Vô Đức hét lớn:
- Hai tên chậm chạp này!
Hai huynh đệ nghe tiếng hét như sấm nổ bên tai, cùng quỳ xuống thưa:
- Không ngờ tiếng hét của thầy cũng uy lực như thiền trượng vậy.
 (Tinh Vân Thiền Thoại)
Tham thiền cầu đạo không thể có tâm lý cầu may, cũng không cầu được nhanh chóng thành tựu. Chúng ta thấy chỉ một câu nói của thiền sư có thể làm cho thiền sinh khai ngộ. Nhưng nếu hành giả không tích tụ công hạnh thì thiền sư có nói ngàn lời, thậm chí đánh hét kịch liệt cũng vô dụng. Đương nhiên tích tụ công hạnh, đánh hét đều giúp cho ngộ đạo.

1162.  Bán gừng sống.
Bảo Thọ giữ chức thủ kho ở Ngũ Tổ Tự, lúc đó trụ trì là hòa thượng Giới Công, nhân bị bệnh cần thuốc trong đó có vị gừng sống, thị giả bèn vào kho lấy. Bảo Thọ hét đuổi đi. Giới Công biết chuyện sai thị giả đem tiền mua vài củ. Bảo Thọ nhận tiền mới chịu trao gừng. Về sau Động Sơn Tự thiếu trụ trì quận thú viết thư mời Giới Công suy cử một vị. Giới Công bèn nói:
- Gã bán gừng sống được đấy!
Do đó, Bảo Thọ đến Động Sơn Tự làm trụ trì; Thiền môn mới có giai thoại “Gừng sống của Bảo Thọ cay vạn năm.”
  (Tinh Vân Thiền Thoại)
Trong câu chuyện trên Bảo Thọ và Giới Công, một người trọng việc công không thủ lợi riêng, một người trọng tài năng, công đức.

1163.  Tướng tròn.
Nam Dương Huệ Trung quốc sư tục tính Nhiễm, người Hội Kê, Chiết giang. 16 tuổi, sau khi yết kiến Lục tổ rồi bèn ẩn cư ở Nam Dương ở khoảng giữa Hoàng Hà và Trường Giang, 40 năm. Về sau, tuân chiếu chỉ của Túc tông hoàng đế làm trụ trì Quang Trạch Tự ở Trường An. Rất nhiều học tăng nghe danh tới tham phỏng. Huệ trung thường vẽ một vòng tròn để dạy người học. Có người hỏi vòng tròn này có ý nghĩa gì?
Ông trả lời có 6 hàm nghĩa:
1.Biểu thị nhất chân pháp giới.
2.Ý thức thống nhất của cảnh giới tam muội.
3. Lúc tất cả những cặp đối đãi chưa phát sinh tác dụng.
4. Tượng trưng cho nhất đại tổng tướng.
5. Cảnh giới lãnh ngộ chân lý.
6. Chân nghĩa của Thiền.
 (Tinh Vân Thiền Thoại)
Vô tướng là chân lý thật nhất của vũ trụ và con người. Giả như có người hỏi hư không giống gì? Hư không không dài, ngắn, vuông tròn thực là vô tướng. Vì vô tướng nên không tướng nào là không giống. Như hư không ở vuông là vuông, ở tròn là tròn. Vì vô tướng là thể nên có thể giam sâm la vạn tượng. Vòng tròn của Huệ Trung biểu thị thực tướng vô tướng, muốn ta từ hữu niệm về vô niệm, từ hữu tướng đến vô tướng.

1164.  Trách mắng và từ bi.
Hoàng Long Huệ Nam tham thiền ở Quy Tông Tự núi Lư Sơn, ngồi tất ngồi kiết già, đi thì nhìn thẳng. Về sau vân du đến Lặc Đàm Trừng thiền sư; Lặc Đàm mời ông cùng ngồi tiếp dẫn học tăng. Lúc đó danh ông đã vang khắp nơi. Vân Phong Duyệt gập ông liền khen:
- Ông trí tuệ hơn người nhưng tiếc rằng chưa được minh sư đào luyện. Lặc Đàm tuy là thuộc pháp từ Vân Môn, nhưng thiền pháp chẳng đồng.
- Vì sao không đồng?
- Vân Môn như cửu chuyển đơn sa, điểm sắt thành vàng. Lặc Đàm như dược vật diên hống, chỉ để cho người thưởng ngoạn, nếu đem đào luyện sẽ mất tiêu.
Hoàng Long nghe rồi rất phẫn nộ, không thèm đếm xỉa đến Vân Phong. Hôm sau, Vân Phong hướng Hoàng Long xin lỗi và nói rằng:
- Khí độ của Vân Môn như đế vương, do đó vua khiến thần chết, không chết không được. Ông nguyện chết dưới câu nói chăng? Lặc Đàm tuy có phép tắc dạy người, nhưng pháp chết ấy có thể cứu người được sao? Thạch Sương Từ Minh hiện nay có thủ đoạn hơn người, ông nên đến đó.
Về sau, Hoàng Long tại Phúc Nghiêm Tự tham phỏng Từ Minh. Từ Minh hỏi:
- Ông đã là thiền sư có danh, nếu quả có nghi vấn, có thể ngồi xuống cùng nghiên cứu.
Do đó Hoàng Long chân thành ai cầu. 
Từ Minh bảo:
- Ông học Vân Môn thiền nhất định là liễu giải thiền chỉ, tỉ như phóng gậy Động Sơn là ăn gậy hay không ăn gậy?
- Ăn gậy.
Từ sáng đến tối quạ kêu, thước réo đều đáng ăn gậy. Rồi đó Từ Minh ngồi đoan chính tiếp nhận Hoàng Long bái lạy. Sau đó lại hỏi:
- Giả như ông có thể hiểu ý chỉ của Vân Môn, vậy khi Triệu Châu nói “Lão bà ở Đài Sơn, ta đã vì ông khám phá rồi.”, thì ông ta khám phá lão bà ở chỗ nào?
Hoàng Long bị hỏi, toát mồ hôi lạnh không trả lời được. ngày hôm sau Hoàng Long lại đến tham; lần này Từ Minh chẳng khách sáo gập mặt liền mắng chửi không ngớt. Hoàng Long hỏi:
- Chẳng lẽ mắng chửi lại là giáo pháp từ bi của thầy sao?
- Ông thấy đây là mắng chửi sao?
Hoàng Long ngay đó đại ngộ, liền làm bài kệ:
傑 出 叢 林  是 趙 州
Kiệt xuất tùng lâm thị Triệu Châu
老 婆 勘 破 沒 來 由
Lão bà khám phá một lai do
而 今 四 海 明 如 鏡
Nhi kim tứ hải minh như kính
行 人 莫 與 賂 爲 仇
Hành nhân mạc dữ lộ vi cừu
Triệu  Châu nổi bật chốn thiền môn
Khám  phá  lão  bà  chẳng  gốc  nguồn
Mà  nay  bốn  bể như  gương sáng
Người  đi  chẳng  nên  thù  con  đường.
 (Tinh Vân Thiền Thoại)
Khi đau khổ cảm thấy khoái lạc; khi bị oan cảm thấy công bình, khi bận rộn cảm thấy an nhàn, khi bị trách mắng biết đó là từ bi. Đó là sự thể hội chân chính thiền tâm.

1165.  So lớn.
Một ông tăng ở Thông Độ Tự (rộng 2000 giáp) và một ông tăng ở Hải Ấn Tự (rộng 4000 giáp) trên đường hành cước gập gỡ và kết bạn cùng đi. Khi ngồi nghỉ ở dưới một gốc cây, 2 người kể về chùa của mình. Ông tăng ở Thộng Độ Tự nói trước:
- Tăng chúng ở chùa tôi, có thể nói là nhiều nhất nước. 
- Sao biết?
- Mỗi khi dọn bữa, tôi phải chèo thuyền để quấy canh.
Ông Tăng ở Hải Ấn Tự cũng không chịu kém:
- Chùa tôi mới lớn, có thể nói toàn nước Đại Hàn không có chùa nào lớn hơn.
- Làm sao biết?
- Khi đi cầu chúng tôi phải đợi ba phân giờ mới nghe thấy tiếng phẩn rơi xuống phẩn trì.
Không ngờ ở gốc cây còn có một ông tăng ở Tùng Quảng Tự ngồi nghỉ, ông này nói:
- Tùng Quảng Tự của chúng tôi mới lớn vì mọi người đều ẵm hư không. Các ông có thể chạy ra khỏi hư không chăng?
 (Tinh Vân Thiền Thoại)
Chùa ai lớn? Khẩu khí của các ông tăng đều lớn. Đó là tâm như hư không chứa cả hằng sa thế giới. Thật không hổ là cảnh giới của thiền giả.

1166.  Địa ngục.
Vô Đức thâu nhận nhiều học tăng trẻ. Họ mộ danh mà đến học thiền. Thiền sư bảo mọi người bỏ tất cả của cải không được mang gì vào sơn môn. Ở thiền đường ông yêu cầu học tăng sắc thân giao ta thường trú, tánh mạng giao cấp long thiên. Nhưng học tăng có người chỉ thích ăn, ngại làm việc, tâm chạy theo tục sự. Vô Đức bất đắc dĩ kể một đoạn cố sự:
- Có một người, sau khi chết thần thức đến một chỗ kia, khi vào cửa người canh cửa nói với ông:
- Ngươi thích ăn ư? Ở đây có đủ thứ cho ngươi ăn, ngươi thích ngủ ư, ở đây ngươi muốn ngủ lâu chừng nào cũng được không có ai cản trở, ngươi thích chơi ư? Ở đây có đủ loại trò chơi mặc ngươi lựa chọn; ngươi ghét làm việc ư? Bảo đảm ở đây không có việc gì để làm, cũng không có ai cai quản ngươi.
Do đó người đó cao hứng ở lại chỗ ấy. Ăn rồi ngủ, ngủ chán thì chơi, vừa chơi vừa ăn. Trải qua 3 tháng ông ta thấy có điều gì không ổn, bèn chạy đi kiếm người canh cửa:
- Những ngày như vầy đã lâu rồi, thấy không tốt lắm. Vì chơi nhiều không còn thấy hứng thú nữa; ăn nhiều quá thấy mập ra; ngủ nhiều quá đầu óc đâm ra mụ mẫm, ông có thể cho tôi làm một việc gì không?
- Xin lỗi, nơi đây chẳng có việc gì để làm cả!
Lại 3 tháng nữa, người ấy không nhịn được lại đi tìm người canh cửa:
- Những ngày như thế này thực tôi không chịu được nữa rồi, nếu ông không cho tôi làm việc, tôi thà xuống địa ngục.
- Ông tưởng đây là thiên đường sao? Đây chính là địa ngục. Nó làm ông không có lý tưởng, không có sáng tạo, không có tiền đồ, dần dần bị hủ hóa. Loại tâm linh thống khổ này có thể so sánh với lên núi dao, xuống chảo dầu khiến người ta không chịu được.
(Tinh Vân Thiền Thoại)
Thiền không phải là nhắm mắt mà ngồi, đó chỉ là phương pháp vào thiền. Thiền chân chính là gì? bổ củi, gánh nước là thiền. Xay gạo, nhặt cỏ, làm rẫy là thiền, sáng cầy chiều lễ là thiền. Ngoài ra còn có nhiều nhẫn nại, từ bi là thiền, lao khổ hy sinh là thiền.

1167.  Sa di vấn đáp.
Giáp, Ất là 2 chùa Thiền tông đều do Thiền sư trụ trì. Các thiền sư đều huấn luyện môn đồ thiền phong, cơ ngữ. Hàng ngày mỗi chùa đều phái một sa di ra chợ mua rau. Trên đường, sa di hai chùa gập nhau. Sa di chùa Giáp hỏi:
- Xin hỏi, bạn đi đâu?
- Gió thổi đâu thì đi đó.
Sa di chùa Giáp không biết làm sao hỏi tiếp, về mách thầy, thiền sư trách:
- Đồ ngu, sao ngươi không hỏi giả như không có gió bạn đi đâu?
Sa di ghi nhớ trong lòng, hôm sau gập sa di chùa Ất lại hỏi:
- Này, hôm nay bạn đi đâu?
- Chân muốn đi đâu thì đi đấy. 
Sa di chùa Giáp thấy không đúng câu mình học, lại không hỏi tiếp được, về trình thầy. Thiền sư mắng:
- Ngươi thật là ngu. Sao không hỏi “Nếu chân không đi thì bạn đi đâu?” 
Sa di lại học thuộc câu trả lời. Hôm sau lại gập sa di chùa Ất, lại nhắc lại câu hỏi:
- Này, hôm nay bạn đi đâu?
Sa di chùa Ất phẩy tay ra phía trước:
- Tôi ra chợ mua rau! 
 (Tinh Vân Thiền Thoại)
Sa di chùa Giáp tuy hiền lương, lễ phép nhưng thiếu thiền cơ. Sa di chùa Ất thuận miệng trả lời vừa tiếu lâm vừa có thiền vị. Do đó chúng ta thấy thiền không nên chấp trước. Thiền tuệ lanh trí, ở bất cứ đâu, bất cứ lúc nào giơ tay lên cũng là diệu đế,Sa di chùa Ất trước đáp gió thổi, sau nói chân đi, cuối cùng mới nói ra mục đích. Đó là thiền cơ diệu dụng từ thiền tâm mà ra.

1168.  Cắt tai cứu gà.
Thiền sư Trí Vũ, người thời nhà Đường, khi đi hành cước, một hôm ngồi thiền trong rừng, bỗng thấy một người thợ săn bắn trúng một con gà rừng. Con gà bị thương chạy đến trước chỗ ngồi của thiền sư, thiền sư bèn dấu nó vào trong tay áo. Một lúc sau thợ săn đến đòi thiền sư:
- Xin thầy trả lại con gà bị tôi bắn trúng!
Thiền sư vô hạn từ bi khai thị cho thợ săn:
- Nó cũng là một sinh mạng, hãy tha cho nó.
- Thầy có biết nó có thể nấu thành một bát canh không?
Thiền sư bèn lấy giới đao để phòng thân, cắt luôn 2 tai mình, đưa cho thợ săn:
- Hai tai này có thể thế cho nó không, ngươi hãy mang đi nấu canh.
Thợ săn rất hoảng sợ, cuối cùng đã giác ngộ sát sanh là một chuyện rất tàn nhẫn. 
(Tinh Vân Thiền Thoại)
Vì cứu sinh linh, không tiếc xả thân mình. Đức tánh “Vì trừ khổ cho chúng sinh, không cầu an lạc cho chính mình” là hành động cụ thể từ bi của nhà thiền. Hành động của Trí Vũ cho thấy thiền giả không trốn tránh xã hội, xa lìa loài người.

1169.  Không biết.
Trào Tống có một vị tướng quân tên là Tào Hãn khi tiễu trừ giặc cướp ở phương Nam rồi, đi qua Viên Thông Tự ở Lư Sơn. Chư tăng biết quân kỷ của đội quân Tào Hãn không tốt, mọi người chạy trốn tứ tung, chỉ có Duyên Đức thiền sư ngồi tĩnh tọa bất động ở pháp đường. Tào Hãn kêu gọi, ông mặc kệ, cũng không thèm mở mắt nhìn. Lòng tự tôn của Tào Hãn bị thương tổn, giận dữ hét:
- Quân đội ta qua đây, tưởng tá túc quý tự, để binh sĩ nghỉ ngơi một chút, tại sao ngay một tiếng chào hỏi cũng không có? Sao dám vô lý thế? Chẳng lẽ ngươi không biết đứng trước ngươi là một vị tướng giết người không chớp mắt sao?
Thiền sư nghe rồi mở mắt ra bình tĩnh trả lời:
- Một quân nhân đứng trước điện Phật hò hét thật vô lễ, chẳng lẽ ngươi không sợ nhân quả báo ứng chăng?
- Thế nào là nhân quả báo ứng với chẳng báo ứng? ngươi không sợ chết à?
Duyên Đức cũng to tiếng:
- Chẳng lẽ ngươi không biết kẻ ngồi trước mặt ngươi là một thiền tăng không sợ chết sao?
Tào Hãn ngạc nhiên về đảm lượng của thiền sư đồng thời bị định công của thiền sư làm cho kính phục, liền hỏi:
- Chùa lớn như thế này chả lẽ chỉ có một mình thầy, còn những người khác đâu?
- Chỉ cần đánh trống, mọi người nghe tiếng sẽ trở về.
Tào Hãn bèn đánh trống, đánh một lúc mà cũng không thấy có người nào xuất hiện. Tào Hãn không vui hỏi:
- Đã đánh trống rồi sao vẫn chẳng thấy có người nào?
- Vì khi ngươi đánh trống sát khí quá mạnh, hãy niệm một câu Nam Mô Bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật rồi hãy đánh.
Do đó Tào Hãn niệm Phật một câu lại đánh một cái; không lâu các sư đều lần lượt trở về. Tào Hãn lúc đó lễ phép chắp tay thưa:
- Xin hỏi quý danh của thầy?
- Duyên Đức.
- Thì ra là Duyên Đức, đức cao vọng trọng, xin thầy chỉ cho con làm sao đánh trận được thắng?
- Không biết. 
(Tinh Vân Thiền Thoại)
Từ cổ đến nay mỗi khi có chiến loạn, đều có những vị đại đức hộ vệ đạo trường, nguyện cùng chùa tồn vong, như Duyên Đức dũng cảm, từ bi, trí tuệ. Binh loạn không lìa chùa là dũng, kêu người ta niệm Phật là từ, tùy hứng trả lời là trí. Trả lời câu hỏi làm sao đánh thắng là “Không biết” thật là trí, nhân, dũng gồm đủ, đó chẳng phải là diệu dụng của thiền tâm sao?

1170.  Mặn, nhạt đều có vị.
Hoằng Nhất đại sư là một nghệ thuật gia đầu cửa Phật, ông đem nghệ thuật vào đạo. Một hôm có một nhà giáo đến bái phỏng. Lúc dùng bữa chỉ thấy thiền sư ăn có một món dưa muối. Nhà giáo bất nhẫn hỏi:
- Chẳng lẽ thầy không ngại dưa mặn sao?
- Mặn có vị của mặn.
Sau  bữa ăn, thiền sư rót một chén nước lã, nhà giáo lại nhăn mặt:
- Thầy không có trà à? Làm sao mỗi ngày đều uống lạt lẽo như vậy?
Thiền sư cười bảo:
- Nước lã tuy nhạt, nhưng nhạt cũng có vị nhạt của nó.
(Tinh Vân Thiền Thoại)
Câu nói của Hoằng Nhất “mặn có vị mặn, nhạt có vị nhạt” là một câu nói đầy thiền vị. Hoằng Nhất đem Phật pháp áp dụng vào đời sống hàng ngày. Đối với ông không đâu là không có đạo vị. Một cái khăn lông đã dùng ba năm rách tả tơi ông bảo hãy còn dùng được; Ở một quán nhỏ sâu bọ bò tới bò lui, khách đến thăm đều sợ, ông nói chỉ có vài con thôi mà! Có thể nói ông đã thể hội “tùy cảnh mà an” trong đời sống hàng ngày.

1171.  Không để cho người hoài nghi.
Huyền Tố họ Mã, người đương thời kêu là Mã Tố. Về sau người ta mô phỏng Mã Tổ Đạo Nhất mà gọi là Mã Tổ. Đủ biết danh tiếng ông ngang với Mã Tổ vậy. Có một đồ tể hâm mộ tiếng tăm đạo đức của ông, đặc biệt soạn một bữa cơm, chí thành mời thiền sư tới dự. Huyền Tố tùy duyên nhận lời khiến cả chùa đều kinh ngạc.
Thấy mọi người cho là không phải, ông nói:
- Phật tánh bình đẳng, hiền ngu đều như nhau. Buông đao đồ tể, lập tức thành Phật,nếu có thể độ được ta liền độ, có gì mà phải kinh ngạc?
Nói rồi không úy kỵ, đi tiếp thọ sự cúng dường của đồ tể. Lúc về, vào phòng đóng cửa lại, không nói chuyện với mọi người. Có một ông tăng đến gõ cửa.
- Ai đó?
- Sư phụ, là con!
- Chẳng cứ là ngươi, ngay Phật tổ cũng không vào được!
- Tại sao Phật tổ cũng không vào được?
- Vì ở đây không có không gian cho Phật tổ tá túc.
-Vậy sao? Thầy cho con biết ý tổ sư từ Tây sang là gì, thì con sẽ không vào nữa.
Thiền sư phi thường từ bi bảo:
- Ý Tổ sư từ Tây sang là đến nhà đồ tể tiếp thọ cúng dường.
- Chẳng lẽ ý Tổ sư từ Tây sang này không sợ người ta hoài nghi sao?
- Hoài nghi là không hoài nghi, nhận thức là không nhận thức. Chỗ này không có hoài nghi, không hoài nghi không khẳng định.
Học tăng có chỗ tỉnh ngộ, đảnh lễ bên ngoài cửa rồi đi.
 (Tinh Vân Thiền Thoại)
Thế gian có hạng người không tin người khác, cũng không tin chính mình. Ở đâu cũng hoài nghi, không tin là người ta làm việc thiện. Nghề đồ tể là tạo nghiệp sát, nhưng ông ta chân thành cúng dường thiền sư đó là Phật tâm. Một người chứng ngộ Thiền đạo làm sao lại không tiếp thọ Phật tâm cho được? Huyền Tố không cho học tăng vào phòng chủ ý là không để cho người ta hoài nghi. Thiền giả mỗi ngày đều tìm kiếm ý Tổ sư từ Tây sang, nếu không có tâm từ bi, không có phương tiện trí huệ làm sao tham thiền?

1172.  Không vẽ nữa.
Thiền sư Nguyệt Thuyền là một cao thủ hội họa, nhưng mỗi lần trước khi vẽ ông đều đòi khách trả tiền trước nếu không ông không chịu động bút. Tác phong này khiến các nhân sĩ trong xã hội hết sức phê phán. Một hôm có một cô gái nhờ ông vẽ một bức tranh.
- Cô trả bao nhiêu?
- Thầy muốn bao nhiêu tôi trả bấy nhiêu, nhưng tôi muốn thầy đến nhà tôi vẽ trước mặt mọi người.
Nguyệt Thuyền bằng lòng theo cô. Nguyên lai nhà cô gái có yến hội. Nguyệt Thuyền vì cô hoa bút vẽ một bức tranh. Xong việc lấy tiền định đi. Cô gái nói với các người dự tiệc:
- Vị họa gia này chỉ biết có tiền. Tuy tranh ông rất đẹp nhưng tâm địa hôi tanh, kim tiền làm ô uế cái đẹp của ông. Họa phẩm từ tâm linh ô uế cũng không đáng treo ở phòng khách, chỉ nên để trang trí cái quần của tôi thôi. Nói rồi cô cởi cái quần ra, yêu cầu Nguyệt Thuyền vẽ lên mặt sau.
- Cô trả bao nhiêu?
- Thầy đòi bao nhiêu cũng được.
Nguyệt Thuyền đòi một giá cao, sau đó theo lời cô gái vẽ một bức trên quần, rồi bỏ đi.
Nhiều người hoài nghi sao thiền sư dù bị làm nhục, chỉ cần có tiền là được, không biết ông nghĩ gì? Thật ra, chỗ Nguyệt Thuyền cư trú thường có tai họa. Nhiều người giầu có không chịu bỏ tiền ra giúp đỡ nạn nhân. Do đó ông lập ra một kho thực phẩm để cứu trợ. Lại nhân sư phụ ông lúc sinh thời có nguyện sẽ kiến tạo một ngôi chùa nhưng tâm nguyện chưa thành thì đã mất. Nguyệt Thuyền muốn hoàn thành tâm nguyện này cho thầy. Khi Nguyệt Thuyền hoàn thành nguyện vọng rồi ông lập tức quẳng bút đi, đi ẩn ở núi cao, rừng rậm. ông chỉ nói một câu:
- “Vẽ hổ, vẽ da khó vẽ xương,vẽ người, vẽ mặt khó vẽ lòng”.  Tiền là bẩn thỉu, tâm là thanh tịnh.
(Tinh Vân Thiền Thoại)
Người có Thiền tâm không để cho người thế gian hủy báng như Nguyệt Thuyền dùng tài vẽ của mình để kiếm tiền cứu người. Tranh của ông không thể lấy kỹ thuật họa mà bàn vì nó là Thiền họa. Ông không phải là tham tiền mà là xả tiền. Thử hỏi có mấy người hiểu được Thiền tâm này?

1173.  Nhất Hưu ăn mật.
Nhất Hưu khi còn là một sa di cũng đã có thiền phong. Một hôm, một tín đồ đem biếu sư phụ Nhất Hưu một bình mật ong. Nhằm lúc sư phụ có việc phải đi, nghĩ bụng bình mật ong này để trong nhà không an toàn, Nhất Hưu có thể sẽ ăn vụng. Do đó ông gọi Nhất Hưu lại dặn dò:
- Nhất Hưu! vừa rồi tín đồ mang đến một bình độc dược, dược tánh rất mạnh, rất nguy hiểm ngươi không thể ăn.
Nhất Hưu là đứa trẻ rất lanh lợi, đương nhiên hiểu ý sư phụ. Sư phụ đi khỏi, ông bèn mang bình mật ong ra ăn. Ăn hết rồi mới nghĩ khi sư phụ về phải làm cách nào để đối phó? Linh cơ nhất động, bèn đập vỡ bình cắm hoa mà sư phụ thích nhất. Khi sư phụ về, Nhất Hưu nằm lăn ra đất khóc lớn:
- Sư Phụ! Con phạm lỗi lớn, không thể tha thứ được.
- Nhất Hưu! Con làm lỗi gì?
- Con đánh vỡ mất bình cắm hoa mà sư phụ thích nhất rồi!
- Bình cắm hoa quý vậy sao con lại sơ ý làm vỡ mất?
Nhất Hưu sám hối:
- Sư phụ, con biết không thể nào hoàn trả bình cắm hoa cho sư phụ, để biểu thị sám hối con chỉ còn cách tự sát để tạ tội, nên con đã đem bình độc dược ăn hết rồi!
Cách tạ tội này khiến sư phụ á khẩu.
 (Tinh Vân Thiền Thoại)
Thiền là để minh tâm kiến tánh, nhưng dùng ở trong đời sống hàng ngày cũng có chỗ diệu. Thiền là trí tuệ Bát Nhã, là trí tuệ khôi hài. Nhất Hưu còn nhỏ mà đã có linh cơ như vậy đó chẳng phải là Thiền khôi hài sao?

1174.  Làm rể.
Một hôm, một tín đồ đến thưa với Nhất Hưu:
- Sư phụ, con không muốn sống nữa, con muốn tự sát, mong thầy siêu độ cho con.
- Đang sống ngon lành, sao lại tìm chết?
- Sư phụ, con buôn bán thất bại, nợ nần chồng chất như núi, bị các chủ nợ bức không có lối ra, chỉ còn cách chết.
- Chẳng lẽ ngoài chết ra, không còn cách nào khác sao?
- Không có! Trừ một đứa con gái ra, con chẳng còn gì.
- Ta có biện pháp rồi, hãy gả con gái ngươi cho một chàng rể khá giả, hắn sẽ giúp ngươi trả nợ.
- Sư phụ, con gái con mới có 8 tuổi thôi làm sao gả chồng được?
- Vậy hãy gả cho ta, ta sẽ giúp ngươi trả nợ.
- Nói đùa, thầy là sư phụ con, sao làm rể con được?
Nhất Hưu vung tay:
- Ta giúp ngươi giải quyết vấn đề, tốt! tốt! đừng nói nữa, hãy về tuyên bố chuyện này, đợi đến ngày cưới ta sẽ đến nhà ngươi làm rể.
Vị đệ tử này tin lời sư phụ, về tuyên bố đến ngày đó tháng đó thiền sư Nhất Hưu sẽ đến nhà ông làm rể. Tin tức này truyền ra làm náo động cả thành. Đến ngày cưới người đến xem đông không có chỗ lọt.
Nhất Hưu sai đặt một cái bàn ở ngoài cửa trên để văn phòng tứ bảo. Nhất Hưu bắt đầu viết chữ. Ông viết rất đẹp, mọi người tranh nhau thưởng ngoạn và tranh nhau mua, quên bẵng đi lý do đến đó để làm gì. Kết quả tiền bán thư họa chứa đầy mấy rương.
Nhất Hưu hỏi tín đồ:
- Số tiền này đã đủ trả nợ chưa?
- Đủ rồi! Đủ rồi! sư phụ, thầy thật thần thông quảng đại, chỉ một lát đã kiếm được nhiều tiền vậy.
Nhất Hưu phất tay áo:
- Được rồi! Vấn đề đã được giải quyết. Ta không làm rể ngươi nữa, lại làm sư phụ ngươi. 
(Tinh Vân Thiền Thoại)
Có thiền giả là có phương tiện giải quyết vấn đề.

1175.  Nhất Hưu và Ngũ Hưu.
Có tín đồ hỏi Nhất Hưu:
- Thiền sư, pháp hiệu của thầy chẳng hay, tại sao lại là Nhất Hưu (Hưu có nghĩa là nghỉ)?
- Nhất Hưu vạn sự hưu, có chỗ nào là không hay?
Tín đồ nghe rồi nhận là mình sai:
- Phải, phải, tốt lắm!
Nhất Hưu lại nói:
- Thực ra, Nhất Hưu cũng chưa tốt bằng Nhị Hưu.
- Nhị hưu tốt làm sao?
- Sinh nên hưu, tử cũng nên hưu; sinh tử đều hưu, khổ não nên hưu, niết bàn cũng nên hưu, cả hai đều hưu.
- Không sai, nhị hưu mới tốt.
- Sau Nhị hưu, Tam hưu còn tốt hơn.
- Tam hưu tốt làm sao?
- Ngươi coi, vợ ngươi hàng ngày cãi cọ cùng ngươi, dữ như cọp cái, tốt nhất là hưu vợ. Làm quan phải tiếp rước cấp trên khổ sở, tốt nhất là hưu quan. Làm người có nhiều lúc phải tranh chấp với người ta, tốt nhất là hưu tranh. Hưu vợ, hưu quan, hưu tranh, 3 cái hưu này là vui nhất.
- Không sai, tam hưu mới tốt!
- Tứ hưu lại còn tốt hơn.
- Tứ hưu tốt làm sao?
- Tửu, sắc, tài, khí đều hưu.
- Phải, tốt lắm!
- Tứ hưu chưa đủ, ngũ hưu tốt hơn. Thế nào là ngũ hưu? Con người ta khổ sở vì có ngũ tạng. Bụng muốn ăn tạo ra trùng trùng khổ sở. Nếu ngũ tạng nhất hưu thì không còn chuyện gì nữa.
(Tinh Vân Thiền Thoại)
Thiên hưu, vạn hưu chẳng bằng nhất hưu. Nhất hưu vạn sự hưu, không tạo tác nên oán cừu, đó là Thiền của Nhất Hưu vậy.

1176.  Ba món đồ cổ.
Túc Lợi tướng quân là đệ tử Nhất Hưu, một hôm mời Nhất Hưu đến nhà uống trà, lại đem nhiều đồ cổ bầy ra từng món hỏi ý kiến Nhất Hưu.
- Đẹp lắm! Ta cũng có ba món đồ cổ; một là hòn đá từ thời Bàn Cổ tạo thiên lập địa, một bát ăn cơm của các vị đại thần, một thiền trượng vạn năm của cao tăng. Nếu tướng quân muốn, có thể thêm vào bộ sưu tập.
Tướng quân hết sức vui mừng:
- Cám ơn thầy, không biết bao nhiêu tiền một món?
- Không cần cám ơn, mỗi món chỉ tính một ngàn lạng bạc.
Tướng quân tuy tiếc tiền vì giá quá cao, nhưng nghĩ cũng xứng vì là những cổ ngoạn vô giá; đành bỏ 3 ngản lạng ra mua, sai tùy tùng theo Nhất Hưu về chùa lấy đồ.
Nhất Hưu về tới chùa kêu đệ tử:
- Hãy mang hòn đá chẹn cửa cùng với cái bát cho chó ăn cơm và thiền trượng ta mua mấy lạng ra đây, đưa cho người này mang đi.
Tùy tùng tướng quân đem 3 món đồ về trình và nói rõ xuất xứ. Tướng quân rất giận chạy đến chùa kiếm Nhất Hưu lý luận.
Nhất Hưu vui vẻ khai thị:
- Nay là lúc khốn khó, dân chúng ngày 3 bữa cơm chẳng đủ ăn, tướng quân còn bụng nào chơi cổ ngoạn? Do đó, ta lấy 3 ngàn lạng bạc đem cứu người nghèo, thay tướng quân mà làm công đức. Việc này thọ dụng cả đời, đối với cổ ngoạn còn quý hơn nhiều.
Tướng quân mắc cỡ, càng khâm phục trí tuệ và từ bi của thiền sư.
(Tinh Vân Thiền Thoại)
Thiền không phải là triết học, không phải là lý luận. Thiền là nghệ thuật sinh hoạt, là tự nhiên. Đem chân ngã dung hòa với trí tuệ và từ bi là Thiền.

1177.  Y phục ăn cơm.
Nhất Hưu có một đệ tử là một vị tướng quân. Một hôm tướng quân mời sư phụ đến nhà thọ trai. Khi Nhất Hưu đến nơi, người giữ cửa thấy ông quần áo rách rưới, nhất định không cho vào. Nhất Hưu không có cách nào đành trở về thay một bộ cà sa mới. Lúc dùng bữa Nhất Hưu gắp rau bỏ vào tay áo. Tướng quân rất ngạc nhiên hỏi:
- Xin hỏi có phải sư phụ để dành cho lão mẫu hay cho đại chúng trong chùa? Lát nữa con sẽ sai người mang rau tới, hiện giờ thỉnh sư phụ dùng bữa.
- Hôm nay ngươi mời y phục ăn cơm chứ không mời ta, cho nên ta mới cho áo ăn cơm.
Tướng quân nghe rồi không hiểu gì cả, Nhất Hưu đành phải giải thích:
- Hôm nay khi đến đây, vì mặc áo quần cũ rách, người giữ cửa không cho ta vào. Ta đành phải trở về thay áo cà sa mới hắn mới cho ta vào. Nếu đã lấy tiêu chuẩn áo cũ mới để mời khách, đó là ngươi mời áo không phải là mời ta, do đó ta thay ngươi mời áo ăn cơm.
  (Tinh Vân Thiền Thoại)
Từ chuyện này chúng ta thấy người đời chỉ chuộng hư vinh, coi cách ăn mặc mà luận cao thấp, chẳng để ý gì đến nhân cách phẩm đức.

1178.  Dành tiền cho tín đồ.
Phật Quang để chấn hưng Phật giáo đã làm nhiều Phật sự. Các đệ tử để giúp thầy hoàn thành lý tưởng, cố gắng khuyến khích các tín đồ làm công đức bố thí. Một hôm, Phật Quang sau khi đi hoằng hóa trở về, các đệ tử tranh nhau báo cáo. Phổ Đạo đắc ý thưa:
- Sư phụ, hôm nay có một vị đại thí chủ bố thí 100 lạng để xây Đại hùng bảo điện.
Phổ Đức báo cáo:
- Sư phụ, Trần cư sĩ ở trong thành đến thăm thầy. Con dẫn đi tham quan các nơi, ông xin cúng dường lương thực cho chùa cả năm.
Hương đăng sư, Tri khách sư đều hướng Phật Quang báo cáo các tín đồ phát tâm hỉ xả. Phật Quang vội ngăn mọi người lại và khai thị:
- Các ngươi đều lao khổ, nhưng hóa duyên nhiều quá thì lại không có công đức.
- Tại sao?
- Phải để cho tín đồ có tiền, có thể làm giầu có thêm thì Phật giáo mới phát triển tốt. Bắt tín đồ phải mang nhiều tiền ra làm công đức cũng ngu xuẩn như giết gà giữ trứng. Đến ngày nào đó tín đồ không còn khả năng cúng dường nữa thì Phật giáo làm sao mà tồn tại?
 (Tinh Vân Thiền Thoại)
Lời của Phật Quang thật là nhìn xa thấy rộng. Phật giáo đề cao bố thí nhưng trước hết mình phải không tự làm khổ, tự phiền não. Nguyên tắc này được xử dụng đứng đắn thì bố thí tuy ít nhưng có lợi lâu dài. Người học Phật nếu có thiền thì không chỉ nghĩ đến mình mà còn nghĩ đến người khác. Như vậy đâu thể nói Thiền chỉ trọng ngộ mà không trọng từ bi?

1179.  Duyên khởi tánh không.
Di Lan Vương rất tôn kính Na Tiên Tỳ Khưu.
Na Tiên sau khi chứng ngộ rồi, lời nói nào cũng đều hàm trí tuệ linh xảo. Một hôm, Di Lan Vương hỏi Na Tiên:
- Mắt có phải là thầy không?
- Không phải!
- Tai có phải là thầy không?
- Không phải!
- Mũi, lưỡi, thân có phải là thầy không?
- Đều không phải, sắc thân chỉ là giả hợp.
- Vậy ý có phải là thầy không?
- Cũng không phải.
- Vậy thầy ở đâu?
Na Tiên hỏi ngược lại Di Lan Vương:
- Cái cửa có phải là căn phòng không?
- Không phải!
- Ngói, gạch có phải là căn phòng không?
- Không phải.
- Giường, bàn ghế, đồ đạc có phải là căn phòng không?
- Không phải.
- Vậy căn phòng ở đâu?
Di Lan Vương hoảng nhiên đai ngộ.
(Tinh Vân Thiền Thoại)
Di Lan Vương ngộ cái gì? Sơn hà đại địa, vũ trụ vạn hữu đều do nhân duyên hòa hợp mà tồn tại. Không có nhân duyên thì không có cái gì cả. Thế gian không có một vật nào đơn độc tồn tại. Tất cả là do nhân duyên sinh, là tự tánh không, là duyên khởi không. Hiểu được thế thì đó là Thiền.

1180. Tâm Phật là gì?
Huệ Trung có lần hỏi Tử Lân cung phụng (một tăng quan):
- Cung phụng học Phật nhiều năm, Phật có nghĩa gì?
- Phật là giác.
- Phật có mê không?
- Nếu đã thành Phật, sao còn mê được?
- Nếu đã không mê, giác để làm gì?
Cung phụng không trả lời được. Lại một lần khác cung phụng chú giải Tư Ích Phạm Thiên Sở Vấn Kinh. Huệ Trung nói:
- Chú giải kinh tất phải khế hội Phật tâm, trước khế lý của chư Phật, sau khế cơ của chúng sinh thì mới được.
Tử Lân không vui đáp:
- Thầy nói không sai, nếu không ta đâu chấp bút.
Huệ Trung nghe rồi  sai thị giả mang đến một bát nước trong có để một chiếc đũa và 7 hạt gạo hỏi Tử Lân đó là ý gì? Tử Lân không hiểu, không trả lời được. Huệ Trung không khách khí giảng:
- Ngay ý ta ngươi còn không hiểu sao dám nói khế hội Phật tâm?
(Tinh Vân Thiền Thoại)
Huệ Trung đem ra bát nước có chiếc đũa và 7 hạt gạo ý nói Phật pháp không lìa sinh hoạt. Nếu lìa sinh hoạt thì Phật pháp dùng để làm gì? Tử Lân lìa sinh hoạt mà chú giải kinh Phật tất lìa xa Phật lý. Lục tổ cũng có nói “Phật pháp ở thế gian không lìa thế gian giác. Lìa thế cầu bồ đề thì như đi tìm sừng thỏ vậy.

1181.  Đừng chùi!
Có một chàng thanh niên tính khí thô bạo, dễ dàng nổi giận, ưa đánh lộn, do đó nhiều người không thích anh ta. Một hôm tình cờ đến Đại Đức Tự gập Nhất Hưu đang thuyết pháp, nghe rồi anh ta phát nguyện sửa đổi lỗi lầm lúc trước, thưa với Nhất Hưu:
- Sư phụ, sau này con sẽ không cãi nhau nữa, nếu có bị người ta nhổ nước miếng vào mặt thì cũng lẳng lặng mà chùi đi thôi.
- Ấy chớ! Bất tất phải làm vậy! Hãy để nước miếng tự khô đi, đừng chùi!
- Làm sao mà nhịn được?
- Có gì mà không nhịn được? Cứ coi như bị muỗi đốt, nhổ nước miếng bôi lên, cũng chẳng nhục nhã gì, hãy mỉm cười tiếp nhận.
- Nếu họ không nhổ mà đấm thì sao?
- Cũng thế thôi, chẳng qua chỉ là một quả đấm!
Thanh niên nghĩ là không phải, bỗng nhiên ra tay cho Nhất Hưu một đấm.
- Thiền sư, giờ nghĩ sao?
- Đầu ta cứng như đá, chẳng có cảm giác gì, chỉ sợ ngươi đau tay thôi!
Thanh niên á khẩu, không thốt nên lời.
                                                                (Tinh Vân Thiền Thoại)
Bất cứ chuyện gì ở thế gian, nói thì dễ nhưng làm được rất khó. Nói không nổi giận, nhưng gập cảnh lại không giữ được. Nhà Thiền có câu “Nói thì dường như ngộ, nhưng đối cảnh lại mê.” là cũng ý này.

1182.  Bài kệ của Hoàng Bá. 
Hoàng Bá có bài kệ:
塵 勞 迥  脫 事 非 常
Trần lao quýnh thoát sự phi thường
緊 把 繩 頭 做 一 場
Khẩn bả thẳng đầu tố nhất trường
不 是 一  番 寒 撤 骨
Bất thị nhất phiên hàn triệt cốt
爭 得 梅 花 撲 鼻 香
Tranh đắc mai hoa phác tị hương
Vượt  khỏi  trần  lao  việc  chẳng  thường
Đầu  dây  nắm  chặt  giữ  lập  trường
Chẳng  phải  một  phen  sương  lạnh  buốt
Hoa  mai  đâu  dễ  ngửi  mùi  hương.
(Trần Tuấn Mẫn dịch)
(Minh Tâm Kiến Tánh Thoại Thiền Tông)
Nhà Thiền có lưu hành một khẩu hiệu “Buông dao đồ tể, lập tức thành Phật.” Dao đồ tể chỉ sự tập nhiễm. Chỉ cần bỏ được tập nhiễm lập tức thành Phật. Từ vô thủy đến nay Tạp Tâm vẫn hoạt động, tưởng làm nó ngưng ngay thật là chuyện không làm được. Vì vậy thiền gia mới khuyên chúng ta nhận biết tự tánh, nghĩa là phải chết đi sống lại. Bài kệ trên của Hoàng Bá là chỉ ý này.

1183.  Niêm Hoa Vi Tiếu.
Xưa, Thế Tôn ở pháp hội Linh Sơn giơ cành hoa lên thị chúng. Lúc đó đại chúng đều yên lặng, chỉ có Tôn giả Ca Diếp mỉm cười. Thế Tôn nói:
- Ta có chính pháp nhãn tạng, niết bàn diệu tâm, thật tướng vô tướng, vi diệu pháp môn, chẳng lập văn tự, ngoài giáo truyền riêng nay phó chúc cho Ma Ha Ca Diếp.
Vô Môn nói:
- Cồ Đàm mặt vàng, dưới mắt không người, bức người tốt thành kẻ xấu; treo đầu dê bán thịt chó; có thể cho là có một chút tài mọn. Nếu lúc đó đại chúng đều cười, chính pháp nhãn tạng làm sao truyền? Giả sử Ca Diếp không mỉm cười chính pháp nhãn tạng lại truyền làm sao? Nếu nói chính pháp nhãn tạng có truyền, lão già mặt vàng chỉ gạt dân chúng. Nếu nói không truyền sao lại nói truyền riêng cho Ca Diếp?
Tụng:
拈 起 花 來
Niêm khởi hoa lai
尾 巴 已 露
Vĩ ba dĩ lộ
迦 葉 破 顏
Ca Diếp phá nhan
人 天 岡 措
Nhân thiên cương thố.
Giơ  cành  hoa  đó
Đã lộ cái  đuôi
Ca  Diếp  mỉm  cười
Người  trời  thất  thố.
                                 (Vô Môn Quan)
Hoa chỉ tự tánh. Giơ cành hoa lên không nói gì cả vì tự tánh không thể diễn tả bằng lời. Chư Phật đều do ngộ tự tánh mà thành Phật. Thế Tôn giơ cành hoa lên là nói pháp không lời. Ca Diếp hiểu ý này nên mỉm cười. Vì tự tánh chỉ có thể tự chứng, nói ra vô ích nên Ca Diếp không nói một lời nào chỉ mỉm cười tỏ rằng đã hiểu.  Hai thầy trò thật là hai tay chơi cờ ngang sức, còn đại chúng im lặng như câm như điếc đã không nhận được tâm ấn của Phật. Lấy động tác hoặc một vật nào đó để diễn tả tự tánh tuy bắt đầu từ Đức Phật, nhưng đuợc các tổ sư Trung Quốc tập đại thành, đã tạo thành đặc điểm của Thiền. Thế Tôn giơ cành hoa lên là để khảo nghiệm và chỉ tuyển được Ca Diếp. Cho thấy ấn chứng trong Thiền tông là xét về quả chứ không dạy về nhân. Chỉ cần người học tự chứng niết bàn diệu tâm là đắc pháp. Thật ra niết bàn diệu tâm không nhận được từ người khác, cũng không thể truyền cho người khác, chỉ do người học tự dập tắt được ngọn lửa dục vọng.
                                                                      (Dương Tân Anh)
1184.  Sơn Thần Thọ Giới.
Đệ tử của Ngũ tổ là Nguyên Khuê, một hôm có một dị nhân, tướng mạo phi thường mang nhiều tùy tùng đến bái phỏng. Sư hỏi:
- Nhân giả đến có việc gì?
- Thầy không nhận ra tôi sao?
- Ta coi Phật và chúng sinh tương đồng, đâu có phân biệt.
- Tôi là Sơn thần đây, có thể làm người sống chết, thầy không để vào mắt sao?
- Ta vốn không sinh, ngươi làm sao khiến ta chết? Ta coi thân và không như nhau; ta và ngươi như nhau. Ngươi có thể làm hại không và ngươi  sao?
Sơn thần bị chiết phục và xin thọ giới.
                                                                             (Niêm Hoa Vi Tiếu)
Sơn thần là chức sắc bản địa nắm quyền sinh sát, muốn thiền sư đối đãi với mình khác với ngươì thuờng; nhưng Nguyên Khuê với quan điểm bình đẳng, từ chối phân biệt cao thấp, quý tiện do đó đã vượt qua sinh tử, ta người, thân không; do đó quyền uy sinh sát của Sơn thần không có tác dụng đối với ông.

1185.  Nga  Sơn.
Nga Sơn được thiền sư Nguyệt Thuyền ấn chứng. Nguyệt Thuyền nói:
- Ngươi là đại khí, cho đến nay ngươi đã thành tựu; từ giờ về sau thiên hạ không còn ai làm phiền ngươi được nữa. Ngươi nên phát tâm thiện tri thức đừng quên hành cước vân du là nhiệm vụ của thiền giả.
Một năm, Nga Sơn nghe nói Bạch Ẩn tại Giang Hộ giảng Bích 
Nham Lục bèn tới Giang Hộ tham phỏng và trình kiến giải, ngờ đâu Bạch Ẩn nói:
- Trí giải của ngươi từ ác tri kiến mà có, hơi thối xông cả vào ta.
Rồi đó đuổi Nga Sơn đi. Nga Sơn không phục ba lần vào thất ba lần đều bị đuổi ra. Nga Sơn tự nghĩ mình đã đuợc ấn khả, chẳng lẽ Bạch Ẩn nhìn không ra mình đã ngộ? hay là để khảo nghiệm mình chăng? Bèn đến gõ cửa thiền sư thưa:
- Mấy lần trước con vô tri nên xúc phạm thầy, mong thầy cho lời từ huấn, con nhất định hư tâm tiếp nạp.
- Ngươi tự mang một bụng thiền, nhưng đến bờ sinh tử thì lại không có sức. Nếu muốn được bình sinh thống khoái nên nghe tiếng vỗ một bàn tay của ta.
Do đó, Nga Sơn lưu lại theo hầu Bạch Ẩn bốn năm. Năm 30 tuổi cuối cùng đã khai ngộ. Nga Sơn là cao đồ của Bạch Ẩn, đã dương cao thiền phong của thầy. Về sau, lúc về già ở ngoài sân phơi phóng chăn màn. Tín đồ trông thấy hỏi:
- Lão sư, thầy có nhiều đồ đệ, những việc vặt vãnh này vì sao thầy phải tự làm”?
- Người già không làm việc lặt vặt còn muốn làm gì nữa?
- Người già có thể tu hành.
- Ngươi cho rằng làm việc vặt không phải là tu hành sao? Vậy Đức Phật vì đệ tử xỏ kim, sắc thuốc lại gọi là gì?
                                                               (Tinh Vân Thiền Thoại)
Có một số người ngộ nhận tu hành và làm việc là hai. Sự thực Hoàng Bá làm ruộng, Quy Sơn làm tương, hái rau; Thạch Sương xay thóc, sàng gạo; Lâm Tế trồng tùng; Huyền sa trồng cây v. v. đều là thiền trong sinh hoạt.

1186.  Liễu  Nguyên.
Liễu Nguyên người Giang Tây, tục họ Lâm. 19 tuổi từng tham học Viên Thông Cư Nột thiền sư. Viên Thông vừa nhìn thấy Liễu Nguyên liền tán thán:
- Tướng mạo và khí chất ngươi giống như Tuyết Đậu thiền sư là Long Tượng trong cửa Phật.
Về sau Liễu Nguyên vân du đến Lư Sơn ở Giang Tây theo hầu Khai Tiên thiền sư, ngộ nhập bát nhã không tánh, trở thành đệ tử nhập thất của Khai Tiên. Năm 55 tuổi Liễu Nguyên trụ trì Kim Sơn Giang Thiên Tự. Lúc đó Tăng thống Triều Tiên là Nghĩa Thiên đến Trung Hoa cầu học; đến các nơi đều đuợc tiếp đón như Vương công đại thần. Một hôm Nghĩa Thiên đến Giang Thiên Tự bái phỏng Liễu Nguyên. Liễu Nguyên tiếp ông như tiếp các vân thủy tăng; tự mình ngồi trên thiền tọa, muốn Nghĩa Thiên trải tọa cụ hành lễ rồi mới tiếp đãi khai thị. Người tùy tùng Nghĩa Thiên là Dương Kiệt thấy Liễu Nguyên coi thường khách quý bèn nói:
- Thiền sư, Nghĩa Thiên tăng thống là lãnh tụ Phật giáo Triều Tiên là quốc khách không thể coi như vân thủy tăng đuợc.
Liễu Nguyên không cho là phải:
- Nghĩa Thiên là tăng thống Triều Tiên, là quốc khách, nhưng không thể phế bỏ những nghi lễ của nhà Phật. Nếu ông ta mặc tăng phục đến tức thuộc tăng chúng, dĩ nhiên phải theo luật của thiền môn, làm sao thay đổi đuợc?
Dương Kiệt quyền biến thưa:
- Thiền sư, ông ta không phải là tăng già Đại Tống, Ổng từ quốc ngọai tới, bất tất dùng lễ nghi thiền môn Trung Quốc mà tiếp đãi.
- Cửa thiền không có trong ngoài. Nghĩa Thiên đã đến nước ta mà tham phỏng, chúng ta nên lấy lễ Trung Hoa mà tiếp đón. Ngươi lại khuyên ta cẩu thả theo tục. Người trong thiên hạ sẽ cười ta làm sao biểu tỏ tôn nghiêm của Hoa Hạ?
Nghĩa Thiên thấy thiền phong của Liễu Nguyên không ngại hành đại lễ biểu thị kính pháp. Do đó, thanh danh của liễu Nguyên càng vang dội triều dã. Ngoài 60, Liễu Nguyên đến kinh đô được Hoàng đế Triết Tông triệu kiến và phong hiệu là Phật Ấn.
                                                               (Tinh Vân Thiền Thoại)
Phật Ấn trong thiền sử là một vị thiền sư ưa khôi hài, cùng Tô Đông Pha qua lại, tạo nên nhiều giai thoại mà người lớn cũng như trẻ con đều biết. 

1187.  Phục Tòng
Mỗi khi Bàn Khuê thuyết pháp, tín đồ đến nghe chật cả pháp đường, tưởng chừng một giọt nước cũng không lọt. Do đó, ngoại đạo đố kỵ, quyết định đến giảng đuờng cùng ông tranh luận. Bàn Khuê đang thuyết pháp bỗng nghe có tiếng nói lớn:
- Thiền sư! người tôn kính ông, kính phục lời ông nói, nhưng đối với hạng người như ta thì không phục ông. Ông có thể làm cho ta phục không?
Bàn Khuê chỉ phía bên phải:
- Hãy đến đây ta sẽ làm cho ông coi.
Ngoại đạo vẹt chúng đi về phía phải. 
Bàn Khuê lại mỉm cười:
- Mời sang phía trái dễ nói chuyện hơn.
Ngoại đạo lại đi sang bên trái. 
- Ấy! Không đúng, ông đến trước mặt ta tốt hơn.
Ngoại  đạo lại đi ra phía trước.
- Đấy ông xem, ông đã phục tòng ta rồi; ta nghĩ ông là một người phi thường tuỳ hòa; bây giờ hãy ngồi xuống nghe pháp đi.
 (Tinh Vân Thiền Thoại)
Thiền có thể phục tất cả không phải là điều hư dối.

1188.  Thế nào là tự kỷ?
Một ông tăng hỏi Văn Hỷ:
- Niết bàn là thế nào?
- Hương  khói khắp nơi.
- Đại ý của Phật pháp là gì?
- Kêu viện chủ lại đây, ông tăng này bị điên đầu!
- Còn thế nào là chính mình?
Văn Hỷ lặng yên không trả lời.
                                                                                (Thiền Cơ)
Điên đầu: chỉ còn mê, chính mình chỉ tự tánh.

1189.  Núi Ba Tiêu.
Một ông tăng hỏi Ba Tiêu:
- Thế nào là núi Ba Tiêu?
- Đông ấm, hạ mát.
- Thế nào là thổi lông trên kiếm?
- Bước tới ba bước.
- Dụng ý là sao?
- Bước lui ba bước.
    (Thiền Cơ)
Câu hỏi của ông tăng là thiền phong của Ba tiêu thế nào, cũng đồng thời hỏi tự tánh là sao? Bước tới ba bước là vào thánh,bước lui ba bước là về phàm.

1190.  Bài kệ phó pháp của tổ Đạt Ma
吾 本 來 此 土
Ngô bản lai thử thổ
傳 法 救 迷 情
Truyền pháp cứu mê tình
一 華 開 五 葉
Nhất hoa khai ngũ diệp
結 果 自 然 成
Kết quả tự nhiên thành
Ta  sang  đến  cõi  này
Truyền  pháp  cứu  mê  tình
Một  hoa  nở  năm  cánh
Nụ  trái  tự  nhiên  thành.
   (Thích Thanh Từ)
 (Thiền Ngữ Bách Tuyển)
Câu ba của bài kệ là lời sấm của tổ Đạt Ma. Có ba thuyết giải thích câu này.
Thuyết thứ nhất:
Một hoa chỉ tổ Đạt Ma, 5 cánh chỉ 5 vị Tổ Trung Hoa là: nhị tổ Huệ Khả, tam tổ Tăng Xán, tứ tổ Đạo Tín, ngũ tổ Hoằng Nhẫn, lục tổ Huệ Năng.
Thuyết thứ nhì:
Một hoa chỉ tổ Huệ Năng, 5 cánh chỉ 5 dòng Thiền Trung Hoa 
là:Lâm Tế, Quy Ngưỡng, Tào Động, Vân Môn, Pháp Nhãn.
Thuyết thứ ba:
Một hoa chỉ sự giác ngộ, 5 cánh chỉ 5 thức.
1.A Lại Da Thức biến thành Đại Viên Cảnh Trí: Các chủng tử bất tịnh trong A Lại Da Thức biến chuyển thành tịnh. A Lại Da Thức không còn là đối tượng của Mạt Na Thức nữa, nghĩa là không còn chấp ngã.
2.Mạt Na Thức biến thành Bình Đẳng Tính Trí: thấy được tính cách bình đẳng của vạn pháp.
3. Ý Thức biến thành Diệu Quan Sát Trí ngăn cản bốn loại phiền não: ngã si, ngã kiến, ngã mạn, ngã ái không cho chúng xụất hiện nữa.
4. Năm thức đầu biến thành Thành Sở Tác Trí có khả năng tự tại vô ngại.
5. Lúc đó người giác ngộ sẽ thấy mọi sự vật đều là sự hiển hiện của Phật Tâm cái thức ấy đuợc gọi là Pháp giới Thể Tánh Trí.

1191.  Không sắc vốn đồng.
Có ông tăng hỏi Triệu Châu:
-Sắc tức là không, không tức là sắc. Đạo lý này làm sao giải thích?
-Nghe bài kệ của ta: 
礙 處 非 牆 壁
Ngại xứ phi tường bích
通 處 沒 處 空
Thông xứ một xứ không
空 人 如 是 解
Nhược nhân như thị giải
空 色 本 來 同
Không sắc bản lai đồng
Chỗ  ngại  không  tường  vách
Chỗ  thông  chẳng  hư  không
Nếu  giải  thích  như  vậy
Không  và  sắc  vốn  đồng. 
Ông tăng nghe rồi vẫn không hiểu, Triệu Châu lại thêm:
佛 性 堂 堂 顯 現
Phật tánh đường đường hiển hiện
柱 性 有 情 難 見
Trú tánh hữu tình nan kiến
若 悟 眾 生 無 我
Nhược ngộ chúng sanh vô ngã
我 面 何 如 佛 面
Ngã diện hà như Phật diện
Phật tánh rõ  ràng hiện  ra
Trú tánh hữu tình khó thấy
Nếu ngộ chúng sanh không  ta
Mặt ta,  mặt Phật  khác  mấy?

- Thiền sư, con hỏi đạo lý: sắc tức là không, không tức là sắc mà?
Triệu Châu trợn mắt:
- Sắc tức là không, không tức là sắc.
Cuối cùng ông tăng đã ngộ.
 (Tinh Vân Thiền Thoại)
Những vật chất mắt thấy, Phật pháp gọi là sắc. Sắc pháp theo nhân duyên (không) mà thành. Sắc pháp không đơn độc tồn tại vì vậy không có tự tánh có thể được. Cái không thể được là không, cho nên sắc tức là không. “Không” không có nghĩa là không có. Hư không bao dung tất cả vạn vật. Vì vậy kinh nói “chân không” không ngại diệu hữu; diệu hữu chẳng ngại chân không. Người phàm chấp các pháp đều có thực thể không thể quán triệt hiện tượng(sắc) và bản thể (không). Một khi thể ngộ chư pháp (sắc), vô ngã (không), duyên khởi (sắc), tánh không (không) thì hiểu biết Phật Tâm chính là Ngã Tâm; cho nên nói mặt Phật, mặt ta đâu khác.

1192.  Quốc sư và Hoàng đế.
Triều Thanh, một hôm Hoàng đế Thuận Trị hạ chiếu chỉ thỉnh Ngọc Lâm quốc sư vào cung.
Thuận Trị hỏi:
- Trong kinh Lăng Nghiêm có đề cập tâm ở 7 chỗ. Xin hỏi tâm ở đâu?
- Tìm tâm không được.
- Người ngộ đạo còn hỷ, nộ, ai lạc không?
- Cái gì gọi là hỷ, nộ, ai, lạc?
- Sơn hà đại địa từ vọng niệm sinh, vọng niệm dứt thì sơn hà đại địa còn không?
- Như người nằm mộng tỉnh dậy, chuyện trong mộng là có hay không?
- Làm sao dụng công?
- Chắp tay không làm.
- Khuôn mặt xưa nay làm sao tham?
- Như Lục tổ nói: “không nghĩ thiện, không nghĩ ác, chính ngay lúc đó cái gì là  bản lai diện mục?
Về sau Thuận Trị bảo mọi người:
- Tiếc rằng trẫm gặp Ngọc Lâm hơi muộn.
(Tinh Vân Thiền Thoại)
Thuận Trị hoàng đế là một người tu dưỡng Phật pháp rất cao. Trong Tán tăng thi ông viết:
未 會 生 我 誰 是 我
Vị hội sinh ngã thùy thị ngã
生 我 之 時 我 是 誰
Sinh ngã chi thời ngã thị thùy
長 大 成 人 方 是 我
Trường đại thành nhân phương thị ngã
合 眼 曚 曨 又 是 誰
Hợp nhãn mông lung hựu thị thùy
不 如 不 來 又 不 去
Bất như bất lai hựu bất khứ
來 時 歡 喜 去 時 悲
Lai thời hoan hỉ khứ thời bi
悲 歡 離 合 多 勞 慮
Bi hoan ly hợp đa lao lự
何 日 清 閒 誰 得 知
Hà nhật thanh nhàn thùy đắc tri?
Lúc  chưa  sinh  ra, ai  là  ta?
Lúc  sinh  rồi,  ta lại là ai?
Lớn  lên  thành  người,  đó  là  ta?
Nhắm  mắt  rồi, ta  lại  là  ai?
Chẳng  bằng  chẳng đi,  chẳng  đến
Đến  thì  vui  vẻ,  đi  thì  buồn
Buồn  vui  ly  hợp  nhiều  lo  lắng
Ai  biết  ngày  nào  đuợc  thanh  nhàn!

Đủ thấy tư tưởng của ông rất khế hợp Phật pháp. Ông hâm mộ sinh hoạt của chư tăng. Ông nói: Hoàng kim, bạch ngọc không lấy gì làm quý, đâu bằng vai khoác áo cà sa. Trăm năm ba vạn sáu ngàn ngày, chẳng bằng tăng gia nửa ngày nhàn. Hoàng bào đổi lấy cà sa, chỉ vì năm đó một niệm sai. Ta vốn là một Tây phương nạp tử, tại sao lại sinh vào nhà đế vương? Do đó Ông đối với Ngọc Lâm rất cung kính cũng là thuận lẽ. Ngọc Lâm là một cao tăng, ưa tĩnh lặng, không thích nói nhiều. Ngay cả Hoàng đế hỏi đạo ông cũng chỉ trả lời đơn giản những điều cần yếu. Cho thấy thiền môn, một lời cũng khó cầu.

1193.  Thành thật không dối.
Thiền sư Đạo Khải người đời Tống; đắc đạo rồi dương cao Thiền môn tông phong. Từng trụ trì các chùa lớn như Tĩnh Nhân tự, Thiên Ninh tự. Một hôm Hoàng đế phái sứ giả tới ban tặng cà sa tía để biểu dương thánh đức, và pháp hiệu là Định Chiếu thiền sư. Thiền sư dâng biểu kiên quyết không nhận. Hoàng đế lại hạ lịnh cho thân vương là Lý Hiếu Thọ ở Khai Phong phủ đến cho thiền sư hay đó là mỹ ý của triếu đình. Thiền sư vẫn không nhận lãnh. Do đó Hoàng đế tức giận sai Châu quan xử lý. Châu quan biết thiền sư nhân hậu, trung thành khi đến chùa bèn gợi ý:
- Thiền sư thân thể hư nhược, dung mạo tiều tụy có phải là mang bệnh không?
- Không có.
- Nếu nói có bệnh có thể miễn trừ tội kháng chỉ.
- Không bệnh là không bệnh, sao có thể giả có bệnh để chạy tội?
Châu quan không làm sao được đành phải đầy thiền sư đi Tri châu.
(Tinh Vân Thiền Thoại)
Chúng ta thường thấy các thiền sư thú vị, hoạt bát nhưng thiền giả cũng thành thật và cố chấp như Đạo Khải vậy.

1194.  Trăm năm như một giấc mộng.
Kim Sơn Đàm Dĩnh thiền sư, người tỉnh Chiết Giang, tục tánh Khâu, hiệu Đạt Quán. Năm 13 tuổi đến Long Hưng tự xuất gia. 18 tuổi đến kinh đô trú ở vườn hoa của Thái Úy Lý Đoan Nguyện. Một hôm, thái úy hỏi:
- Người ta thường nói đến địa ngục không biết là có hay không?
- Chư Phật Như Lai thuyết pháp hướng vô nói hữu, như mắt thấy không hoa là có mà không; thái úy hiện hướng hữu tìm vô như tay vốc nước sông là trong vô hiện hữu. Thật đáng cười. Như người trước mắt thấy lao ngục, tại sao không trong tâm thấy thiên đường. Vui vẻ hay sợ hãi đều do tâm. Thiên đường địa ngục đều trong một niệm. Thiện ác đều có thể thành cảnh. Thái úy chỉ cần liễu tự tâm thì không bị mê hoặc nữa.
- Làm sao liễu tâm.
- Thiện ác đều không nghĩ.
- Không nghĩ thì tâm về đâu?
- Tâm không về đâu như kinh Kim Cương nói: “Không trụ vào đâu, thì tâm ấy sanh”.
- Người ta chết rồi đi đâu?
- Chưa biết sanh thì sao biết chết?
- Sanh thì con đã biết.
- Vậy sanh từ đâu tới?
Thái úy trầm tư, thiền sư đập tay vào ngực bảo:
- Chỉ tại chỗ này, suy nghĩ cái gì?
- Biết rồi chỉ vì tham trình nên khốn đốn
- Trăm năm một giấc mộng.
Thái úy ngay đó khai ngộ nói bài kệ:

三 十 八 歲 懵 然 無 知
Tam thập bát tuế mông nhiên vô tri
及 其 有 知 何 異 無 知
Cấp kỳ hữu tri hà dị vô tri
滔 滔 汴 水 隱 隱 惰 堤
Thao thao biện thủy ẩn ẩn đọa đê
師 其 歸 矣 箭 浪 東 馳
Sư kỳ quy hĩ tiễn lãng Đông trì

Ba  mươi  tám  tuổi,  chẳng  biết  gì
Dù  có  biết  khác  gì  vô  tri
Sông  Biện  cuồn  cuộn,  đê  lười  ẩn
Sư  nếu  quay  về,  giống  tên  đi.
                                                               (Tinh Vân Thiền Thoại)
Sinh từ đâu tới, chết đi về đâu? Đó là vấn đề mà người ta thường bàn luận nhưng chẳng có ai tìm ra câu trả lời. Thích Ca Mâu Ni và lịch đại tổ sư đều nói ra nguyên ủy nhưng không dễ cho người ta hiểu vì có cách âm, nghĩa là thay đổi thân thể rồi không nhớ gì được quá khứ nữa. Vì thế từ ngàn xưa, khởi nguyên của sinh mạng nhiều người nói lung tung, mỗi người một cách. Thật ra, sinh mạng hình tướng tuy ngàn sai biệt nhưng lý tánh thì đồng. Nếu thông đạt tam pháp ấn, nghiệp thức nhân quả của Phật giáo thì sinh từ đâu, tử về đâu không hỏi cũng biết.

1195.  Vân Môn.
Vân Môn Văn Yển là truyền nhân đời thứ 7 của Huệ Năng, là người sáng lập Vân Môn tông. Ông nói:
- Tam thế chư Phật, 28 vị tổ Tây Trúc, 6 vị tổ đời Đường đều thuyết pháp trên đầu trượng.
Ông lại giơ một thanh củi lên:
- Cả bộ Đại Tạng kinh chỉ nói cái này.
Thấy một ông tăng đang lựa sạn, ông nói:
- Trong gạo có bao nhiêu mắt Đạt Ma?
Một hôm ông thọc tay vào miệng sư tử gỗ và kêu lên:
- Ôi chao! Cắn chết ta! Cứu mạng!
(Niêm Hoa Vi Tiếu)
Đây không phải là cố lộng huyền hư, từ quan điểm vô tình thuyết pháp, vô tình thành Phật mà coi thì cây gậy, thanh củi, hạt gạo, sư tử gỗ đều có thể là Phật; Bất cứ vật gì trong vũ trụ cũng là Đạo.

1196.  Ý Tổ Sư.
Có ông tăng hỏi:
- Thế nào là ý tổ sư từ Tây sang?
Huyền Sách đáp:
- Hiểu tức chẳng hiểu, nghi tức chẳng nghi.
Lại thêm:
- Chẳng hiểu dẫn tới chẳng nghi, chẳng nghi dẫn tới chẳng hiểu.
 (Thiền Sư Khải Ngộ Pháp)
Tự tánh là tuyệt đối không phải là tương đối, do đó thiền sư dùng sự mâu thuẫn mà đáp. Dưới con mắt người bình thường “hiểu” không thể là “không hiểu”; “nghi” không thể là “không nghi.” Thiền sư chính tại sự mâu thuẫn không thể tương dung ấy mà vượt thoát lên. Ở hiện tượng giới có không, thị phi rõ ràng phân biệt, nhưng ở bản thể giới thì hỗn nhiên không vết tích. Do đó câu đáp của thiền sư là mô tả cảnh giới ấy.
Câu thứ 2 là khuyến khích học tăng, đề thị phương pháp tu hành. “Nghi” là phương pháp tu hành trọng yếu nhất của nhà Thiền, còn gọi là nghi tình. Đây không có nghĩa là hoài nghi. Thời Minh mạt thiền sư Nguyên Lai nói:
- Thế nào gọi là nghi tình? Sinh không biết từ đâu tới, không thể không nghi chỗ đi; chết không biết đi đâu, không thể không nghi chỗ đến. Cửa sống chết chưa phá  tức nghi tình phát sinh. Một người không đề cao năng lực tự giác tức không thể đề khởi nghi tình, nếu chưa phát sinh đại nghi đoàn thì không có khả năng kiến tánh. Do đó mới có thiền ngữ: “Nghi lớn ngộ lớn, nghi nhỏ ngộ nhỏ; không nghi không ngộ.”  Câu ông tăng hỏi là vấn đề mà người học thiền thường tham. Thiền sư khuyến khích ông: “Chẳng nghi chẳng hiểu!”, chẳng có nghi tình thì không thể liễu ngộ tự tánh; phải gắng sức cho tới khi đạt đuợc câu đáp.

1197.  Làm ác và tu thân.
Có ông tăng hỏi Tuấn Cực:
- Người tu hành làm thiện là người thế nào?
- Là người mang gôm cùm.
- Thế nào là người tà ác gì cũng làm?
- Là người tu Thiền nhập định.
- Học tăng căn cơ ngu muội, thiền sư khai thị điên đảo khó hiểu, xin dùng lời giản dị dễ hiểu mà khai thị.
- Gọi là người ác vì ác không theo thiện; gọi là người thiện vì thiện không theo ác.
Ông tăng như lạc trong đám sương mù. Rất lâu Tuấn Cực hỏi lại:
- Hiểu không?
- Không.
- Người làm ác không có thiện niệm; người làm thiện không có ác tâm. Do đó nói thiện ác như mây nổi không sinh cũng không diệt.
Học tăng nghe lời liền ngộ.
(Tinh Vân Thiền Thoại) 
Thiện ác, theo mắt người đời thì làm việc tốt gọi là thiện, làm việc xấu gọi là ác. Thiện có thiện báo, ác có ác báo.Tam thế nhân quả hiển nhiên. Ở sự tướng mà nói thì không một điểm hư ngụy, nhưng ở bản tánh thì thiện ác đều không lập. nếu có thể không nghĩ thiện, không nghĩ ác thì đó là thấy tánh. Tội ác vốn không, do tâm tạo, tâm mất thì tội cũng không. Người làm thiện như mang gông cùm; người làm ác gọi là thiền định? Chẳng trách học tăng bảo thiền sư điên đảo.Thực ra làm thiện là chấp phúc báo, chẳng là mang gông cùm sao?Người làm ác tuy bị lưu chuyển trong ác đạo, nhưng vì bản tánh như vậy. Thiền sư Tuấn Cực vì lòng từ bi đưa ra lời cao luận muốn chúng ta không bị thiện ác mê hoặc. Khi làm thiện đừng chấp trước hữu vi pháp coi đó là cứu cánh giải thoát thì đó là sai lầm. Khi đã lỡ làm ác rồi thì tâm nguội lạnh coi như vô vọng. Đó cũng là sai lầm. Thực ra, thiện ác là pháp, pháp không thiện ác.

1198.  Khách thành chủ.
Phật Quang vân du bên ngoài, đêm trừ tịch ghé qua Bắc hải đạo trường của đệ tử là Bình Toại.
Đến trước cửa chỉ thấy tối thui, gõ cửa chẳng có ai trả lời, nghĩ bụng có lẽ Bình Toại còn chưa về. Phật Quang bất đắc dĩ ngồi thiền trước cửa chùa để đợi. Được một lát, thị giả đi vòng quanh chùa thấy một cửa sổ không khóa, ông bèn leo vào rồi mở cửa mời thiền sư vào.
Khi Phật Quang vào rồi bèn bảo thị giả:
- Hãy khóa cửa lại.
Chừng 2 lần nhang đốt, Bình Toại trở về, thử tất cả mọi chìa khóa mang theo mà không sao mở cửa được. Buồn phiền tự nhủ:
- Quái lạ! Rõ ràng là đúng chìa khóa mà sao không mở được, có lẽ cửa lâu không mở bị rỉ sét chăng?
Bình Toại lại thử nữa, nhưng vẫn không mở đuợc.,
Bất đắc dĩ phải bẻ song cửa cầu tiêu mà vào.Khi đang leo bỗng nghe một tiếng trầm gặng hỏi:
- Ngươi là ai, leo cửa vào làm gì?
Bình Toại thất kinh, hụt bước ngã lăn ra đất, không biết mình có vào nhầm nhà không.
Phật Quang sợ đệ tử quá kinh hãi, bảo thị giả mở cửa cho Bình Toại vào. Bình Toại thấy sư phụ bèn thi lễ nói:
- Sư phụ, vửa rồi đệ tử sợ muốn chết, tiếng hét của sư phụ như sư tử rống khiến đệ tử không biết ai là chủ, ai là khách.
                                                                        (Tinh Vân Thiền Thoại)
Thường có người nói từ bi rất khó thực hành. Kỳ thật nếu có thể hoán chuyển tự tha thì dễ thực hành từ bi. Bình Toại chủ khách thay đổi không biết mình là ai? Rõ ràng mình là chủ trì, nghe người trong thất hỏi, đột nhiên biến mình thành khách. Bình thường chấp trước tự ngã, cũng có lúc quên tự ngã, nhưng cái quên này vẫn chưa lìa đối đãi phân biệt. Giả như trong thiền quán ngộ đạo, từ vô phân biệt quên đi tự ngã, thì sẽ vượt qua biển khổ sanh tử.

1199.  Tâm  lượng.
Một tín đồ hỏi Vô Đức:
- Cùng một tâm , sao tâm lượng có thể lúc lớn lúc nhỏ?
Thiền sư không trực tiếp trả lời, bảo:
- Ngươi hãy nhắm mắt lại, tạo một tòa thành.
- Thành đã tạo xong.
- Lại nhắm mắt lại, tạo một sợi lông.
Tín đồ theo lời lại tạo một sợi lông trong tâm.
- Lông đã tạo xong.
- Khi ngươi tạo tòa thành, là chỉ do tâm ngươi thôi hay phải nhờ tâm người khác nữa để tạo?
- Chỉ dùng tâm con thôi.
- Khi tạo sợi lông, ngươi chỉ dùng 1 phần tâm ngươi thôi hay dùng toàn tâm?
- Toàn tâm.
- Như vậy tạo một toà thành ngươi chỉ dùng một tâm, khi tạo một sợi lông ngươi cũng chỉ dùng một tâm. Do đó tâm có thể lớn có thể nhỏ.
(Minh Tâm Kiến Tánh Thoại Thiền Tông)
Đây là cách giảng trực tiếp khiến học nhân tự mình thể hội tâm lượng; không bị không gian hạn chế.Cái bị hạn chế là 5 thức đầu, đó là thức tâm. Chân tâm siêu việt thời, không tự vận dụng tự như. Chúng ta vì bị căn, trần, thức trở ngại nên không thấy chân tâm.

1200.  Nan Đà Tôn Giả.
Nan Đà Tôn Giả trong quá khứ là người thích nữ sắc. Về sau chứng quả A La Hán. Phàm đã chứng quả vị A La Hán thì đã đoạn dâm dục. Phiền não háo sắc dĩ nhiên là không còn tồn tại. Tuy vậy mỗi khi vào ngồi thiền ông đều nhìn nữ chúng trước cho thấy tập khí vẫn còn.
(Minh Tâm Kiến Tánh Thoại Thiền Tông)
Đức Phật có nói: “thánh hiền có thể đoạn phiền não, nhưng không thể đoạn tập”. Vì tập khí do nhiều kiếp dưỡng thành nên khó mà dứt bỏ. Nhà Thiền dùng gậy hay hét, thậm chí động tay, động chân chỉ có mục đích là cắt đứt sự hoạt động thức tâm của học nhân. Khi vọng niệm manh động, bỗng nhiên bị một loại chấn động bất ngờ, niệm đầu nhất định bị cắt đứt. Đây là một phương pháp đoạn tập tốt nhất, vì vậy thiền gia thường hay dùng.

Hết Quyển Trung 




Các  Sách  Trích  Dịch

Bích Nham Lục bạch thoại chú giải            Hứa Văn Cung
Bình Thường Tâm Thị Đạo                        Bồ Đề Học xã
Ch’an and Zen Teaching                            Lu K’uan Yu
Chích Thủ Chi Thanh                                Dư Tiến Phu
Đồ giải thiền vấn đáp                                Trần Hòa Chương
Entretiens de Lin-Tsi                                Paul Demiéville
Hảo Tuyết phiến phiến                              Lâm Thanh Huyền
Hương Thủy Hải                                      Lâm Thanh Huyền
Minh Tâm Kiến Tánh Thoại Thiền Tông       Bồ Đề Học Xã
Mumonkan & Hekiganroku                        Katsuki Sekida
Nhất Nhật Nhất Thiền Ngữ                        Long Mãn
Nhất Vị Thiền - quyển phong                     Lý Anh Đệ
                     - quyển hoa                        Hoàng Tĩnh Nhã
                     - quyển nguyệt                    Lâm Tân Cương
Niêm Hoa vi Tiếu                                      Cố Vĩ Khang
Phật dữ Thiền                                          Minh Kính
Sinh hoạt Thiền                                        Dương Huệ Nam
The Center Within                                    Gyomay M. Kubose
Thiền Cơ                                                 Lâm Minh Dục
Thiền Cơ Sử Nễ Tại Chân lý Trung Giác Tình      Viên Thông
Thiền Đích Cố Sự Hựu Nhất Tập               Giản Huệ Căn
Thiền Lâm Tuệ Ngữ                                  Vân Lăng
Thiền Lý Dữ Nhân Sinh                             Bồ Đề Học Xã
Thiền Ngộ                                                Bình Điền Tinh Canh
Thiền Ngoại Thuyết Thiền                          Trương Trung Hành
Thiền Sinh Mạng Đích Vi Tiếu                    Trịnh Thạch Nham
Thiền Sư Khải Ngộ Pháp                           Thái Vinh Đình
Thiền Tông Dật sự                                    Đạo Long 
Thiền Tông Tọa Thạch Minh                       Bồ Đề Học Xã
Thiền Tông Trí Tuệ Ngữ Lục                       Bồ Đề Học Xã
Thiền Tông Công Án Bí Truyền                   Dư Tiến Phu
Thiền Thuyết                                            Thái Chí Trung
Thiền Viên                                                Vương Trần Canh
Tinh Vân Thiền Thoại                                 Tinh Vân
Trung Quốc Thiền                                      Khang Hoa 
Vô Môn Quan bạch thoại chú giải               Thánh Tham
Zen Koans                                                Gyomay M. Kubose
Zen Light                                                  Barragato 
 

c

Nguồn: www.quangduc.com

Về danh mục

phà Æt cÓn Nhắc bông nhÒ SÃÆ ï¾ nguyện Tử ç Š trÃ Æ Già chÙa dÃƒÆ nhá nan ananda duyên à Þ Già đỉnh Ä an chay Ngủ trưa giúp giảm stress do công Giải Công 念佛人多有福气 quẠhong danh sam hoi Nhiều nguoi dan ba ban loc 白佛言 什么意思 vị thiền sư việt lừng danh thế kỷ 17 chua hoang phap tp ho chi minh giã thá my bai nhË Khổ dầu sïa chùa bạch sa Rau lang Và Quảng à Šquà Giå steve