Bảng chính xác cho thấy chỉ có một
trường hợp cả ba mệnh đề đều đúng: P đúng, Q đúng, và P > Q
đúng. Trường hợp này tương ứng với một dạng luận chứng
đúng gọi là modus ponens có dạng thức như sau: Nếu P hàm nghĩa Q và
nếu P đúng, thời Q đúng.
Áp dụng vào truờng hợp khẩu quyết lừng danh của
ngài Long Thọ, ta có thể giải thích tại sao các bậc đã thành tựu
tuyệt trừ mê lầm ảo kiến về tự ngã, chứng ngộ Phật tánh, và
thực hiện giải thoát có thể trở lại laên lộn và hòa đồng
với thế gian đầy dẫy phân biệt, hư vọng, ái dục, và chấp
trước. Đó là vì do Không quán mà (1) thấy rõ lời ngài Long Thọ
nói là đúng, nghĩa là mệnh đề "Do tánh Không mà tất cả
pháp được thành tựu và hợp lý" đúng (P hàm nghĩa Q đúng)
và (2) thành tựu thể nghiệm tánh Không (P đúng). Như vậy theo luận
chứng modus ponens, đương nhiên đối với trí tuệ vô nhiễm đã liễu
tri chân đế thời bất cứ lúc nào, bất cứ những gì xuất hiện,
bất kể đó là thứ gì, vạn pháp đều là những hiện tướng ảo
hóa khởi lên từ tâm, tất cả đều do duyên khởi và vô tự
tính (Q đúng).
Lại nữa, theo bảng chính xác của luận chứng hàm
nghĩa thời dầu P sai luận chứng vẫn đúng. Nghĩa là, hiểu tánh
Không là Tha tính Không (không và bất không; P đúng) hay Tự tính
Không (vô tự tính; P sai) kết luận vẫn là "Do tánh Không mà
tất cả pháp được thành tựu và hợp lý" (P hàm nghĩa Q
đúng). Như vậy sự phân biệt Tự tính Không và Tha tính Không chỉ
là một phương tiện thuyết giáo mà thôi chứ không phải là một
chân lý.
Tìm hiểu diệu hữu trong chân không là trọng tâm
nghiên cứu hiện nay của các nhà vũ trụ học. Nỗ lực mưu tìm một
lý pháp nhất quán giải thích sự thiên biến vô thường của hiện
tượng giới, các nhà vũ trụ học nghiên cứu những hỗ tương
tác dụng giữa sự vật và những biến hóa chuyển vận của vật
chất (matter) và bức xạ (radiation) được xem như hai yếu tố căn bản
thành lập vũ trụ. Các lý thuyết có giá trị (nghĩa là có lợi
ích) lần lượt được khám phá, và mỗi lần chấp nhận một lý
thuyết mới, nhà khoa học phải sửa đổi hình thái nhận thức thực
tại của mình để thích hợp với những quan điểm mới được đề
xươùng.
Hiện nay đa số chấp nhận thuyết Bùng Nổ (Big Bang
theory). Vào năm 1929, nhà thiên văn học Hubble khám phá vũ trụ
không ở trong tĩnh trạng mà trái lại đang trương dãn bùng ra khắp
mọi phương do đo đưọc sự vận chuyển của các thiên hà (galaxies)
đang chạy xa nhau ra. Vị trí thiên hà càng xa thời chuyển động thiên
hà càng nhanh. Như vậy khoảng cách giữa các thiên hà càng lúc
càng rộng lớn thêm. Do đó, khi nhìn sự trương dãn ngược chiều
lại với thời gian thời lượng đoán vào khoảng mười ba ngàn
triệu năm về trước mọi khoảng cách giữa các thiên hà đều
triệt tiêu và lúc ấy, theo thuyết tương đối của Einstein, vũ trụ
thu nhiếp lại thành một điểm gọi là điểm nguyên thủy của vũ
trụ. Tên gọi "Bùng Nổ" làm hiểu lầm là điểm nguyên thủy
nổ bùng như một quả bom nổ trong không gian. Thật ra không phải thế.
Điều rất khó hiểu là toàn thể cái gì hiện hữu vào lúc bấy
giờ đều hàm chứa trong điểm nguyên thủy. Điểm nguyên thủy của
vũ trụ không bùng dãn trong một hư không nào cả, nghĩa là điểm
ấy trương bùng nhưng không có ngoại không có nội. Trương bùng
đến đâu thời không gian và thời gian sinh khởi đến đấy. Tất
cả mọi lý thuyết khoa học hiện có chỉ có thể áp dụng để giải
thích những biến cố và sự vật sinh khởi sau khi điểm nguyên thủy
bùng dãn chứ hoàn toàn bất lực và vô dụng trong việc tìm hiểu
điểm nguyên thủy huyền diệu đó khi nó chưa bùng dãn. Điều duy
nhất nhờ suy luận và thực nghiệm mà biết là điểm ấy biểu hiện
vô lượng năng lượng và có một nhiệt độ cao đến độ không
thể tưởng tượng được. Dùng thuật ngữ Phật giáo, ta có thể
bảo đó là một chân không bất khả tư nghì và bất khả thuyết.
Thật vậy, đây là một chân không diệu hữu, hết thảy mọi sự
vật và biến cố vũ trụ nương vào đó mà sinh thành hoại diệt.
Vấn đề là làm thế nào để hiểu biết những gì xảy ra ngay khi
điểm nguyên thủy bắt đầu bùng dãn và trong thời gian về sau cho
đến bây giờ.
Vào năm 1964, hai chuyên viên của hãng điện thoại Bell
ở tiểu bang New Jersey tại Mỹ khám phá một bức xạ thuộc loại
súng cực ngắn (microwave) tỏa xuống từ khắp mọi hướng mà tần
số vào khoảng mười ngàn triệu súng trong một giây không biến
đổi dù tới từ bất cứ hướng nào. Trước đó một năm, hai
giáo sư tại Viện Nghiên cứu Cao học Princeton tiên đoán trên lý
thuyết rằng khoảng một trăm ngàn năm sau khi điểm nguyên thủy bùng
dãn, bức xạ gamma phát ra từ điểm nguyên thủy tương đối vẫn
còn có tần số rất cao như lúc mới phát vì không tương giao tác
dụng với vật chất lúc ấy chưa thành hình. Bức xạ gamma ấy di
chuyển đồng thời với sự bùng dãn của vũ trụ tới tận mắt
chúng ta bây giờ phải mất một thời gian gần 13 tỷ năm! Tần số
của bức xạ dịch chuyển về phía màu đỏ (redshift), nghĩa là giảm
lần và tính đến nay, chỉ còn là tần số của bức xạ có súng
cực ngắn. Điều dự đoán này phù hợp với tần số của bức
xạ vừa được khám phá nay gọi là nền vi ba của vũ trụ (cosmic
microwave background). Mọi khi quan sát nền vi ba đó, chính là ta đang nhìn
vào quá khứ của vũ trụ đến tận biên giới mà sự hiểu biết
khoa học hiện nay cho phép, tức là nhìn thấy những gì xảy ra vào
khoảng một trăm ngàn năm sau khi sự bùng dãn bắt đầu.
Nhưng làm thế nào để biết thêm những gì xảy ra
trong khoảng thời gian từ khi điểm nguyên thủy trương bùng cho đến
trăm ngàn năm sau đó? Thuyết tương đối của Einstein tuy giải thích
nguyên nhân của điểm nguyên thủy và sự sinh khởi của thời gian
vào lúc sự bùng dãn bắt đầu nhưng đồng thời tiên đoán mọi
thuyết vật lý, kể cả thuyết tương đối, tất cả đều vô hiệu
năng trước khi sự bùng dãn bắt đầu. Đối tượng khảo sát bây
giờ thuộc phạm vi vật lý hạt nhân và vật lý hạt cơ bản (nuclear
physics; particle physics) là địa hạt khảo cứu cực vi. Điều đáng lưu
ý ở đây là sự khảo sát vũ trụ trong thời gian mới thành hình
đòi hỏi sự hòa hiệp hai ngành khoa học cực kỳ khác nhau, khoa học
chuyên về cực đại và khoa học chuyên về cực tiểu. Khoa học
chuyên về cực đại chọn thuyết tương đối của Einstein làm nền
tảng giải thích và lượng đoán những biến cố vũ trụ. Tiến trình
khảo sát từ thô đến vi tế được thực hiện qua hai cấp. Cấp
đầu dừng ngang mức độ nguyên tử (atomic level) và sau đó cấp hai
dẫn đến thế giới các hạt cơ bản, thế giới bên trong nguyên tử
(subatomic level).
Khoa học chuyên về cực tiểu tựa vào cơ học lượng
tử (quantum mechanics). Cơ học là ngành khoa học khảo sát chuyển
động. Lượng tử (quantum) là vật thể rất vi tế, không thể chia
chẻ được nữa. Cơ học lượng tử nhắc ta nhớ đến thuyết cực
vi Phật giáo. Thuyết này thành lập do kết quả của sự phân tích
căn cứ vào lời Phật dạy. Đức Phật thường dùng những tiếng
như "hoặc thô hoặc tế" trong khi thuyết minh về sắc pháp,
"tế" có ý nghĩa là "cực vi". Luận Câu Xá quyển 12
nói như thế này: "Phân tích các sắc đến một cực vi, thì cực
vi đó là phần cực nhỏ của sắc". Cực vi là vật chất được
thành lập với một hạn độ tồn tại tối thiểu không thể thấy
được. Phật giáo khảo sát cực vi trong hết thảy mọi hiện tượng
vật chất chứ không chỉ hạn trong những nguyên tố tứ đại, đất,
nước, lửa, gió. Hữu bộ nói tính chất của cực vi là tùy ở
vật chất. Theo Hữu bộ, cực vi không có hình tướng. Ngược lại,
Kinh lượng bộ bảo nó có hình thể. Duy thức nhị thập luận của
Thế Thân là tác phẩm đặc biệt công kích và bác xích một cách
kịch liệt cực vi luận, hoàn toàn phủ nhận thực tại của cực vi.
Cũng như trường hợp có những ý kiến khác nhau về thuyết cực vi
Phật giáo thời về thuyết lượng tử cũng có những quan niệm bất
đồng.
Danh từ quantum (lượng tử) là do nhà bác học Max
Planck đặt ra vào năm 1900, khi mô tả sự phát xạ của một nguyên
tử dao động trong một nguồn sáng. Theo ông, nguyên tử phải dao
động với tần số thế nào để khi phát ánh sáng thời phát ra
từng loạt "lượng tử", ít nhất là một lượng tử, hoặc
một số nguyên, 2, 3, 4, 5, ..., lượng tử. Năng lượng E của mỗi
lượng tử có thể viết theo dạng toán học: E = hf, f là tần số
tức số dao động của lượng tử trong một giây, h là một hằng số
gọi là hằng số Planck. Trị số h rất bé cho nên trong vật lý cổ
điển không bao giờ đề cập nó. Nó cho ta một ý niệm về chừng
lớn của sự vật thuộc thế giới lượng tử và đóng một vai
trò hết sức quan trọng trong cơ học lượng tử.
Năm 1905, từ thuyết bức xạ lượng tử của Planck,
Einstein bước xa hơn và đề ra thuyết ánh sáng là hạt gọi là
photon. Nhưng từ cuối thế kỷ 19, ánh sáng đã được mô tả như
súng điện từ truyền dẫn với tốc độ 300 ngàn cây số mỗi giây.
Về sau, các nhà vật lý tìm thấy lượng tử vật chất như âm
điện tử (electron) cũng có hai hành tướng súng và hạt giống như
lượng tử ánh sáng photon. Ba điểm nêu ra sau đây cho thấy hai hành
tướng hạt và súng tương đãi đối nghịch. Một, súng có thể lan
rộng ra cả một vùng rộng lớn. Hạt có vị trí trong một vùng cực
bé. Hai, súng di chuyển có thể phân ra vô số súng khác, mỗi súng
lan theo một phương. Hạt chỉ di chuyển theo một chiều mà thôi. Ba, hai
súng gặp nhau thời hỗ tương nhiếp nhập (interpenetration) tạo ra kiểu
hình súng giao thoa như khi ta ném hai viên sỏi xuống một mặt hồ tĩnh
lặng. Hai hạt gặp nhau thời chỉ có va chạm mà thôi.
Làm sao có sự lạ đời là lượng tử có lúc tác
dụng như hạt nhưng có lúc được mô tả như súng? Theo nguyên lý
bổ sung Niels Bohr, cả hai hành tướng súng và hạt đều cần thiết
để mô tả lượng tử một cách toàn diện. Chúng bổ sung nhau. Hành
tướng nào phát hiện là tùy theo trạng huống trong đó thí nghiệm
được thực hiện. Nói theo ngôn ngữ Phật giáo, lượng tử là
một pháp hữu vi siêu việt và hàm dung hai hành tướng súng và
hạt tương đãi đối nghịch. Đây là đặc tính mâu thuẫn mà nhất
thống của tánh Không của lượng tử.
Để có một ý niệm cụ thể về phương thức lượng
đoán sự hiện hữu của lượng tử, xin đơn cử cái TiVi làm thí
dụ. Bên trong TiVi, hằng hà sa số lượng tử vật chất tức âm
điện tử (electron) tham dự công việc phát hiện, phiên dịch, và
trưng bày thông tin truyền dẫn từ các đài truyền hình đến TiVi
đặt trong nhà qua những làn súng điện từ. Bộ phận chính yếu của
TiVi là ống tia điện tử (electron beam tube). Tia điện tử vẽ hình
mới trên màn ảnh có chất lân quang 60 lần mỗi giây. Nguồn phát
tia điện tử gồm một sợi kim loại được nung nóng để bắn ra âm
điện tử và một ống kim loại có điện để gia tăng tốc độ của
chúng. Ta có thể điều khiển nguồn phát tia điện tử từ hai cái
nút ở bên ngoài. Một nút dùng tăng hay giảm độ sáng tức là
tăng hay giảm số âm điện tử phát ra mỗi giây. Nút thứ hai dùng
làm biến thiên xung lượng của âm điện tử tức làm biến thiên
tốc độ các âm điện tử khi đụng vào màn sáng. Chất lân quang
(phosphor) trét trên màn ảnh phát hiện rất nhạy tác dụng của âm
điện tử. Một chớp sáng lóe lên trên màn ảnh là dấu hiệu của
một lượng tử vật chất được phát hiện. Chất lân quang cũng
phát hiện rất nhạy tác dụng của lượng tử ánh sáng như photon
của tia X hay tia hồng ngoại. Bởi vậy chất này thường được dùng
trong mọi thí nghiệm cơ học lượng tử để phát hiện tác dụng của
lượng tử ánh sáng hay lượng tử vật chất.
Dựa theo thuyết ánh sáng là hạt của Einstein, các
nhà vật lý thực hiện được một nguồn sáng phát ra từng photon
một và đem dùng nó trong thí nghiệm với màn chắn có hai khe. Phía
bên kia màn chắn là một màn lân quang ghi một dấu trắng khi một
photon đụng vào. Lần thí nghiệm nào để hở cả hai khe, thời sau
một thời gian ta thấy hiện ra một kiểu hình súng giao thoa trên màn
lân quang do điểm đụng của hàng triệu photon lưu dấu lại. Vân điểm
trắng xen kẻ với vân tối. Vân tối là những vùng lân quang photon
không đụng đến. Lần thí nghiệm nào mà che kín một trong hai khe
thời các vân tối biến mất và kiểu hình súng giao thoa cũng biến
mất theo.
Theo cơ học cổ điển một khi biết chính xác điều
kiện ban đầu, nghĩa là biết vị trí và vận tốc của hạt vào thời
điểm bắn hạt ra, ta có thể tính chính xác vị trí hạt đụng màn
lân quang sau khi chạy qua khe hở. Trong hai lần thí nghiệm, lần với hai
khe để hở và lần với một khe bị che kín, điều kiện ban đầu của
các hạt không thay đổi. Như vậy, đáng lý vị trí các hạt đụng
màn lân quang phải không thay đổi, thế mà kết quả nhìn thấy trên
màn lân quang hoàn toàn trái ngược với những gì dự đoán bằng
suy luận toán học theo cơ học cổ điển.
Trong thí nghiệm nói trên có nhiều điều khó hiểu.
Làm thế nào một photon đơn độc có thể cùng một lúc đi qua hai khe
để hở? Giả thử nó có xảo thuật để chạy qua hai khe cùng một
lúc, làm thế nào nó tự tác dụng với nó để tạo nên kiểu
hình súng giao thoa trên màn lân quang? Tại sao hết thảy các photon từ
nguồn bắn ra từng hạt không di chuyển trên cùng một quỹ đạo và
cuối cùng đụng màn lân quang cùng một chỗ? Làm sao photon bắn ra
biết được khi một khe bị che kín, khi cả hai khe đều hở để cuối
cùng chọn lựa kiểu hình vẽ ra trên màn lân quang, một vùng điểm
trắng hay kiểu hình súng giao thoa?
Một số nhà vật lý suy nghiệm rằng photon hẳn có ý
thức (consciousness), vì thí nghiệm nói trên cho thấy photon có khả
năng xử lý thông tin (information processing) và hành xử thích ứng
với mọi trạng huống. Lẽ cố nhiên đại đa số trong cộng đồng vật
lý học không chấp nhận những ý tưởng siêu hình như vậy! Kiến
thức khoa học luôn luôn phải được thực nghiệm kiểm chứng.
Sau đây là cách giải thích của nhóm Copenhagen
(Copenhagen, nơi Bohr trú ngụ là thủ đô của Đan Mạch). Cơ học
lượng tử là một hình thái nhận thức. Thế giới vật lý phân
hai thành hệ thống quan sát đo lường và hệ thống đối tượng
lượng tử. Phân biệt hai hệ thống chủ và khách như vậy là thuận
theo phương cách nhà vật lý phân tích thí nghiệm. Thật ra, đối
tượng chỉ được tri nhận khi nào tương quan tác dụng với hệ
thống chủ thể. Tuy vậy ngay cả lúc nhận thức ta chỉ biết hiệu quả
đối tượng tác dụng trên dụng cụ đo lường mà thôi chứ không
biết được đối tượng!
Trong thí nghiệm màn chắn có hai khe, hệ thống đối
tượng là một photon. Hệ thống quan sát đo lường là môi trường
bao quanh hệ thống đối tượng, trong đó nhà vật lý đang làm thí
nghiệm và hết thảy mọi vật phẩm tạo nên trạng huống quan sát đo
lường, tất cả đều kể như dụng cụ đo lường. Photon được hình
dung di chuyển giữa hai vùng: vùng chuẩn bị gồm có nguồn sáng và
màn chắn và vùng đo lường gồm có máy phát hiện photon đặt ở
khe và màn lân quang phát hiện photon đến đụng vào một vị trí. Sự
biến chuyển của photon được mô tả bằng một qui luật toán học.
Trong thí nghiệm này qui luật toán học ấy gọi là hàm súng lượng
tử. Như vậy, photon được thay thế bằng một hàm số toán học cho
nên trở thành một quan hệ (correlation) giữa hai tập hợp dữ kiện,
dữ kiện của vùng chuẩn bị và dữ kiện của vùng đo lường. Bởi
thế photon không có tự tính hay nói theo ngài Long Thọ, photon là
Không, lượng tử ánh sáng là Không.
Hàm súng lượng tử không biểu tượng súng thông
thường như súng nước hay súng âm. Ta không trông thấy được
súng lượng tử vì súng lượng tử không vận tải năng lượng
(energy) như súng thông thường. Đó là những luồng súng vận tải
khả năng (possibility) hay xác suất (probability), suất phần trăm có thể
quan sát đo lường một hạt nếu đặt máy phát hiện ở vị trí x.
Xác suất tính ra ở vị trí x càng lớn thời càng nhiều hạt được
phát hiện. Kiểu hình do một số lớn hạt vẽ ra trên màn lân quang
giúp ta suy ra sự có mặt và hình dạng của súng lượng tử. Tựa
vào toán học, nhà vật lý mô tả sự biến thiên của một hàm số
thay vì mô tả lượng tử: hàm súng lượng tử tức là lượng
tử. Bohr nói: "Không có thế giới lượng tử. Chỉ có sự mô
tả một khái niệm về lượng tử".
Nếu ví mỗi súng khả năng của photon như một quỹ
đạo khả hữu theo đó photon di chuyển giữa hai vùng chuẩn bị và đo
lường thời hàm súng lượng tử mô tả photon như di chuyển theo
hết thảy mọi quỹ đạo khả hữu cùng một lúc. Tuy nhiên ngay khi
photon tương tác với một dụng cụ đo lường (hệ thống chủ thể),
thời chỉ có một quỹ đạo khả hữu trở thành hiện hữu. Đồng
thời, tất cả những quỹ đạo khả hữu kia biến mất. Các nhà vật
lý gọi biến cố ấy là sự sụp đổ của hàm súng lượng tử:
tất cả mọi khả năng vô thị biến thành một hạt có hình tướng.
Câu hỏi đặt ra là hàm súng lượng tử thực sự sụp đổ vào
lúc nào? Vào lúc nào thời mọi súng khả năng vô thị phát hiện
thành một hạt quan sát được? Cơ học lượng tử gọi đó là vấn
đề đo lường lượng tử (quantum measurement problem). Giải đáp câu
hỏi về thời điểm sụp đổ của hàm súng lượng tử tức là
giải quyết vấn đề đo lường lượng tử.
Theo nhóm Copenhagen, chính ý thức quan sát đo lường
đã làm cho mọi súng khả năng sụp đổ thành một hạt, một thực
tại lượng tử. Chủ trương này gồm hai phần. Một, không có thực
tại khi không có sự quan sát. Hai, sự quan sát tạo tác thực tại.
John Wheeler nói rõ: "Không một hiện tượng lượng tử nào là
thật có cho đến khi nó là một hiện tượng được quan sát."
Cách giải thích như vậy không cắt nghĩa thực tại là
gì cả. Nếu quan sát đo lường là tạo tác thực tại, thời nương
vào cái gì mà tạo tác? Nương vào cái không trống rỗng hay vào
một thực chất? Nhiều nhà vật lý cho rằng câu hỏi đặt ra như vậy
không có nghĩa lý. Theo họ, vật lý học không nhắm tìm hiểu bản
thể của thực tại mà chỉ tìm cách mô tả thực tại họ quan sát
đo lường được mà thôi. Einstein mất 10 năm trao đổi thư tín với
Bohr bàn cãi về tính cách phi lý của sự cần thiết một ý thức
quan sát đo lường nhằm xác chứng thành quả của thí nghiệm cơ học
lượng tử. SchrOdinger, nhà vật lý sáng chế phương trình súng, đề
nghị thực hiện một thí nghiệm bằng trí tưởng tượng (thought
experiment), nay được gọi là "Con mèo SchrOdinger", để thấy
lối giải thích của nhóm Copenhagen là vô lý.
Hãy tưởng tượng trong một cái hộp đặt sẵn một
nguồn phóng xạ, một cái máy phát hiện hạt do chất phóng xạ phân
rã phát ra, một cái chai chứa độc khí, và một con mèo. Cái máy
được bố trí hoạt động trong thời gian vừa đủ để một nguyên
tử của chất phóng xạ có 50 phần trăm cơ hội phân rã và lúc
ấy máy phát hiện ghi sự hiện diện của một hạt phóng xạ. Nếu
hạt được phát hiện, tất hạt bắn vỡ tan cái chai, và độc khí
tỏa ra giết con mèo tức khắc. Nếu hạt không được phát hiện,
thời con mèo còn sống. Con mèo có 50 phần trăm rủi ro chết và 50
phần trăm may mắn sống. Đứng ngoài nhìn vào hộp không tài nào
đoán ra chuyện gì đã xảy ra phía bên trong. Sau một thời gian thí
nghiệm với hộp niêm kín, độc khí hoặc đã tỏa ra hoặc vẫn còn y
nguyên trong chai. Không mở hộp, thử hỏi biến cố gì đã xảy ra
bên trong?
Đối với cơ học cổ điển, con mèo hoặc chết, hoặc
không chết. Mở hộp ra là biết ngay, đơn giản chỉ có thế. Đó là
logic nhị nguyên có/khôngcủa Aristotle. Đối với nhóm Copenhagen tình
trạng con mèo được biểu diễn bằng một hàm súng biểu tượng khả
năng con mèo chết và khả năng con mèo sống. Giống như trong kiểu
hình súng giao thoa có sự chồng chập hai lượn súng, con mèo là sự
chồng chập hai khả năng sống và chết. Đến khi mở hộp và nhìn
vào trong, một khả năng phát hiện thành thật tế và đồng thời
khả năng kia biến mất. Do đó khi chưa mở hộp, nghĩa là khi chưa có
ai nhìn vào thời bên trong hộp có một chất phóng xạ vừa phân rã
vừa không phân rã, chẳng phân rã chẳng không phân rã; có một
cái chai vừa vỡ tan vừa còn nguyên, chẳng vỡ tan chẳng còn
nguyên; có một con mèo vừa sống vừa chết, chẳng sống chẳng chết.
Biết con mèo hoặc còn sống hoặc không còn sống chỉ khi nào có
người nhìn vào, tức là khi hộp được mở ra. Đó là tứ cú
Trung quán: có, không, vừa có vừa không, chẳng có chẳng không.
Bohr bác bỏ lý luận tứ cú ấy và giải thích hàm
súng không mô tả dụng cụ đo lường như cái chai, con mèo, hay nhà
vật lý làm thí nghiệm, mà chỉ mô tả đối tượng của sự đo
lường là photon. Đối tượng đo lường mới là vật thể lượng
tử chứ dụng cụ đo lường là những vật thể cổ điển được
mô tả bằng ngôn ngữ thông tục. Lối giải thích như vậy dẫn đến
một chuỗi lý luận nghịch suy vô tận. Khi dùng dụng cụ số 2 đo
lường dụng cụ số 1, dụng cụ số 2 là vật thể cổ điển và dụng
cụ số 1 là vật thể lượng tử tuân theo qui luật cơ học lượng
tử. Cứ thế mà nghịch suy thời ta có một loạt vật thể có tính
cách cổ điển khi dùng làm dụng cụ đo lường số 3, số 4, v..v...,
nhưng có tính cách lượng tử khi trở thành đối tượng đo
lường. Đó thật là một lối nhận thức kỳ quặc nhìn thấy thế
giới này không do nguyên tử tạo thành mà toàn là dụng cụ đo
lường các vật thể lượng tử.
Heisenberg hiểu rõ sự khó khăn nhà vật lý phải
đương đầu khi tìm cách mô tả thế giới lượng tử bằng ngôn
ngữ thông tục. Trong thí nghiệm liên quan đến các biến cố nguyên
tử, nhà vật lý phải tiếp xúc, đối phó với những sự vật,
những sự kiện, và những hiện tượng có thật, giống như bất kỳ
hiện tượng nào của thế giới thường nghiệm. Trái lại, các
nguyên tử và các hạt bên trong nguyên tử không phải là sự vật
có thật theo kiểu đó. So với thế giới thường nghiệm gồm những
đương thể, những sự vật hay sự kiện, thế giới lượng tử ví
như tàng thức gồm toàn khả năng, tiềm lực, khuynh hướng, tuy mâu
thuẫn và đối lập nhau nhưng hòa hợp, không phải một không phải
khác. Trong thế giới này, đồng hào có thể sấp ngửa cùng một
lúc. Những khuynh hướng, những khả năng, những tiềm lực không
ngừng biến chuyển, gia tăng, nhiếp nhập, và đoạn diệt theo đúng
những qui luật toán học thuộc phạm tr?ứng dụng của phương trình
súng SchrOdinger. Thật chẳng khác nào chủng tử của vạn pháp được
huân tập, huân sinh, và huân trưởng trong a lại da thức mà chưa
phát hiện thành hiện hành. Theo Heisenberg, quan sát đo lường là
thiết lập quan hệ giữa hai thế giới lượng tử và thường nghiệm
nhằm mục đích phát hiện một khả năng lượng tử thành hiện
hành. Trong kinh Lăng Già (Kinh Lăng Già tâm ấn. Thiền sư Thích Thanh
Từ dịch), có bài tụng dùng biển cả để dụ cho tàng thức, gió
mạnh dụ cho cảnh giới lục trần, súng mòi dụ cho chuyển thức:
Biển tàng thức thường trụ
Gió cảnh giới nổi dậy
Lớp lớp các súng thức
Ổ ạt mà chuyển sanh.
Ta có thể bắt chước lấy biển cả dụ cho thế giới
lượng tử, gió mạnh dụ cho sự quan sát đo lường, và súng
nước dụ cho thế giới thường nghiệm. Những hiện tượng quan sát
được trong thế giới thường nghiệm phát hiện từ thế giới
lượng tử, thế giới mà bản chất nguyên sơ là Không. Do đó, cơ
sở nền tảng của thế giới thường nghiệm không phải là cái
không trống rỗng mà là cái "không và bất không".
Nguyên lý bất định Heisenberg được đặc biệt sử
dụng để giải thích giới hạn trong tiến trình đo lường vật thể
lượng tử. Nguyên lý này xác định mức độ chính xác trong sự
đo lường những phẩm tính động của hạt chuyển động. Các phẩm
tính động biểu trưng tánh động của hạt luôn luôn phát hiện thành
từng cặp bổ sung, chẳng hạn súng và hạt, năng lượng và thời
gian trong một tiến trình vật lý. Theo Heisenberg, chính vì tính cách bổ
sung của những cặp phẩm tính động mà ta không thể nào đo lường
chính xác cả hai phẩm tính ấy cùng một lúc. Nói một cách khái
quát, nguyên lý bất định phát biểu rằng dẫu dụng cụ, phương
pháp, và người đo lường hoàn hảo đến mức độ nào đi nữa, ta
không bao giờ có thể đồng thời biết được chính xác cả hai
phẩm tính bổ sung của một hạt đang chuyển động. Cặp phẩm tính bổ
sung quan trọng nhất và được khám phá đầu tiên là vị trí và xung
lượng của một photon đang di chuyển. Vị trí biểu trưng tánh tịch là
độ đo xác định trú xứ của hạt. Xung lượng biểu trưng tánh
động là độ đo hướng và tốc độ di chuyển của hạt.
Theo Bohr, những phẩm tính như vị trí và xung lượng
biểu trưng tánh động của lượng tử không thuộc bản tính tự
nhiên của lượng tử mà phát hiện từ toàn thể trạng huống trong
đó công việc đo lường (the entire measurement situation) được thực
hiện. Photon tự nó không có phẩm tính vị trí và xung lượng. Những
phẩm tính động ấy thật ra là quan hệ giữa photon và dụng cụ đo
lường. Dẹp bỏ dụng cụ đo lường thời những phẩm tính ấy cũng
biến mất. Phẩm tính động của photon khả dĩ định nghĩa và quan sát
được chỉ khi nào đặt photon trong quan hệ hỗ tương tác dụng với
những hệ thống khác.
Quan sát đo lường là phương pháp duy nhất của khoa
học để thiết lập sự liên hệ giữa thực tại, khái niệm, và
toán ngữ. Do quan sát đo lường mà khoa học có thể sử dụng toán
học làm ngôn ngữ để suy luận, mô tả, và truyền đạt. Nhưng theo
nguyên lý bất định, đo lường tự nó không chính xác vì không
đủ khả năng cùng một lúc đo chính xác cả vị trí (trạng thái
tĩnh) lẫn xung lượng (trạng thái động) của hạt chuyển động. Không
xác định được vị trí và xung lượng của hạt thời không biết gì
về tác dụng của hạt. Do đó, cơ học lượng tử không bao giờ
biết được chính xác những biến cố trong thế giới cực vi. Tất
cả những gì biết được là xác suất hành tướng của hạt, tức
là suất phần trăm một hành tướng của hạt có cơ duyên phát
hiện.
Điều này thật khó hiểu đối với những nhà vật
lý học cổ điển vì từ trước đến nay họ đinh ninh đo lường là
phương cách khách quan và chính xác nhất để thu thập đầy đủ dữ
kiện trong hiện tại theo ý họ. Họ tưởng rằng vấn đề là chỉ cần
áp dụng phương pháp thích hợp và sử dụng những phương tiện tinh
xảo và chính xác đúng lúc và đúng chỗ. Bây giờ nguyên lý bất
định nói cho họ biết rằng "thấy vậy mà không phải vậy"!
Đứng trước một số phẩm tính của hiện tượng cực vi cần đo
lường, họ phải trực diện một sự chọn lựa, chọn một phẩm tính
mà họ muốn biết rõ nhất, vì nguyên lý bất định nói rõ họ chỉ
có thể đo lường chính xác một phẩm tính và một mà thôi! Vậy
trong sự tìm hiểu thực tại bằng cách đo lường không thể không
kể đến ảnh hưởng của nhơn tố. Heisenberg viết: "Cái ta quan sát
không phải là thực tại mà là cái thực tại biểu lộ ứng với
cách ta đặt vấn đề." (What we observe is not nature itself, but nature
exposed to our method of questioning). Nghĩa là khi quan sát lượng tử chuyển
động, ta không bao giờ có thể thấy chúng hiện hữu theo cách thức
của chúng mà chỉ thấy chúng hiện hữu theo cách thức ta chọn để
nhận thức chúng!
Đối với photon và từng cặp phẩm tính bổ sung, nhà
vật lý có tự do lựa chọn một trong hai phẩm tính bổ sung để quan
sát đo lường. "Tự do" chọn đo chính xác phẩm tính này
tức là chấp nhận mình "dốt" không đo được chính xác
phẩm tính bổ sung kia. Chính vì thế cho nên không có thí nghiệm vật
lý nào giúp ta chứng kiến thực tại như thật vì luôn luôn có
những phẩm tính chỉ có thể quan sát đo lường một cách mơ hồ. Có
một cái gì tương tợ giống nhau giữa hai lời phát biểu, một bên
nhà vật lý nói: "Tự do và dốt nát sánh đôi trong mọi đo
lường lượng tử" và một bên thiền sư D. T. Suzuki nói:
"Hễ có biết là có Vô minh gắn liền theo hành vi biết. Khi ta
tưởng biết một việc gì thời vẫn có một việc gì khác mà ta
không biết. Cái không biết luôn luôn nằm sau cái biết" (Thiền
luận. Tập Thượng).
Thêm nữa, sự tự do chọn lựa có thể quảng diễn
ra rằng khi quyết định chọn một phẩm tính như vị trí chẳng hạn để
đo lường, thời tất nhiên cần phải có một vật gì trú tại vị
trí mà ta muốn đo lường, nếu không thời không thể xác định vị
trí đó được. Như vậy chẳng khác nào mỗi khi tác ý muốn đo
lường một phẩm tính gì thời ta tạo tác ngay một vật có phẩm tính
ấy.
Câu hỏi thường xuyên đến với các nhà lượng
tử học là, "Trước khi ta tư lượng về xung lượng của một
hạt và thực hiện thí nghiệm đo lường phẩm tính ấy thời có
thật hạt ấy đã hiện hữu chăng?" "Có thật ta đã tạo
tác hạt trong khi thực nghiệm chúng?" Như vậy, người làm thí
nghiệm không còn là cái Ta quan sát một thực tại hiện hữu ở
ngoài đó độc lập với cái Ta ở trong đây. Suốt ba thế kỷ, các
nhà khoa học lầm tưởng họ luôn luôn giữ vững lập trường
khách quan, nghĩa là khảo sát sự vật không tựa trên một thành
kiến nào. Kỳ thật chấp thủ cái lập trường khách quan như họ nói
cũng đã là một thành kiến rồi! Mọi khi thực hiện đo lường nhà
khoa học phải quyết định lựa chọn một "mảnh" thực tại mà
họ muốn biết rõ nhất. Một quyết định như thế tất có ảnh hưởng
đến lối nhận thức thực tại của cá nhân. Theo cơ học lượng
tử, khi quan sát một biến cố hay một sự vật thời thế nào ta
cũng làm nó đổi thay.
Thí dụ ta quan sát một thí nghiệm về sự va chạm các
hạt. Ta không có cách nào để minh chứng rằng hiện tướng của
sự va chạm mà ta quan sát được không khác biệt chút nào với
hiện tướng của sự va chạm khi không bị quan sát. Điều biết chắc
là tất cả những gì quan sát được đều bị sự quan sát ảnh
hưởng. Wolfgang Pauli, nhà lượng tử học được giải Nobel năm 1945,
diễn tả quan điểm ấy như sau: "Từ trọng điểm ở bên trong,
tâm thức tuồng như vươn ra phía ngoài, như một phép ngoại quan,
thông nhập thế giới vật lý ..." (From an inner center the psyche seems
to move outward, in the sense of an extraversion, into the physical world ...).
Tóm lại, nguyên lý bổ sung Bohr, nguyên lý bất định
Heisenberg, và sự sử dụng hàm súng lượng tử minh chứng rằng
phân chia thực tại thành hai thế giới độc lập riêng biệt, thế
giới khách quan ngoài đó và thế giới chủ quan trong đây, như trong
vật lý cổ điển không còn hiệu nghiệm đối với cơ học lượng
tử.
Nhưng phân chia thế giới vật lý thành hai hệ thống,
quan sát đo lường và đối tượng lượng tử theo nhóm Copenhagen
cũng không hợp lý, vì theo Von Neumann, bản chất của thế giới vật
lý là viên toàn, không phân hóa. Bản chất ấy không tuân theo
những định luật cơ học cổ điển. Do đó ông quan niệm toàn thể
thế giới vật lý là thế giới lượng tử. Muốn mô tả thế
giới lượng tử ấy, thời theo luận lý toán học, ông bắt buộc
phải sử dụng những hàm súng khả năng, chứ không thể mô tả
thế giới ấy như là một tập hợp hữu có phẩm tính với trị số
nhất định. Nói cách khác, thế giới cơ học lượng tử không còn
là thế giới của "có hay không", mà là thế giới của
"có thể" (có thể có, có thể không, có thể vừa có vừa
không, có thể chẳng có chẳng không).
Theo Von Neumann, mọi súng lượng tử đều tuân theo hai
định luật biến chuyển. Tiến trình biến chuyển loại I: súng truyền
dẫn lan rộng không ngừng và không biên giới. Tiến trình biến
chuyển loại II: Khi tác dụng đo lường phát hiện, lập tức súng
ngưng lan rộng, gom lại thành một súng khả năng duy nhất tương ứng
với một kết quả đo lường xác định. Các nhà vật lý gọi tiến
trình biến chuyển loại II là sự sụp đổ của hàm súng. Vấn đề
đo lường lượng tử được đặt ra là sự sụp đổ ấy xảy ra
như thế nào và ở nơi nào?
Von Neumann quan niệm tác dụng đo lường phát hiện ở
đâu đó trên một dây chuyền súng di chuyển từ nguồn phát xuất
lượng tử đến ý thức (consciousness) của nhà vật lý đang làm thí
nghiệm. Ông chứng minh một định lý toán học phát biểu rằng:
"Nếu chỉ quan tâm đến kết quả đo lường, thời ta có thể cắt
đứt dây chuyền súng và tạo ra sự sụp đổ hàm súng tại bất
cứ vị trí nào tùy thích." Vì Von Neumann đã bị bắt buộc mô tả
toàn thể thế giới vật lý là súng "có thể" cho nên tiến
trình chuyển biến nhiều súng "có thể" thành một súng khả
năng không thể là một tiến trình vật lý. Tìm đâu ra một sự thể
làm sụp đổ hàm súng mà không thuộc thế giới vật lý? Von Neumann
kết luận rằng chính ý thức của con người là nơi xảy ra sự sụp
đổ hàm súng khả năng. Nói theo ngôn ngữ Phật giáo, quan niệm của
Von Neumann về thế giới vật lý là vạn hữu sinh khởi do tâm và
cái mà ta gọi là hiện hữu nó tiến hành từ thức mà ra. Cho
đến bây giờ các nhà khoa học Tây phương vẫn chưa hết ngạc nhiên
một nhà toán học kỳ tài như Von Neumann, gốc Hung gia lợi, đã đóng
một vai trò chủ yếu trong những phát minh khoa học quan trọng nhất
vào đầu thế kỷ 20, như máy tính điều khiển theo chương trình,
thuyết chiến lược đánh bạc, lý thuyết về cách thực hiện
người máy, chế tạo bom nguyên tử, và nhất là thiết lập một
khung toán học tối hảo được mệnh danh là không gian Hilbert để sắp
xếp mọi sự kiện lượng tử, mà có một lối nhận thức thực
tại giống như một Phật tử.
Thế giới vật lý cổ điển là thế giới vĩ mô gồm
sự vật và biến cố riêng rẽ. Các nhà vật lý cổ điển quan niệm
công việc của họ là tìm hiểu sự liên hệ giữa chúng và không
cần nghĩ đến sự liên hệ của chúng với bản chất của thế
giới. Để quan sát phân tích thế giới vi mô của lượng tử, nhóm
Copenhagen chủ trương thành lập một khung toán học dùng tổ chức và
khai triển những thí nghiệm lượng tử, đồng thời tránh né vấn
đề mô tả thực tại ẩn tàng bên dưới thí nghiệm. Theo nhóm này,
thuyết lượng tử hiện giờ có giá trị vì đủ khả năng dự
đoán chính xác những kết quả thí nghiệm. Các nhà lượng tử học
không cần tìm hiểu lý do vì sao thuyết ấy dẫn đến những kết quả
tốt đẹp và không cần lưu tâm tìm kiếm một thực tại không tùy
thuộc vào thí nghiệm như Einstein mong muốn. Tuy nhiên, với nguyên lý
bổ sung và nguyên lý bất định, cơ học lượng tử không thoát nổi
quan hệ với nhận thức học và bản thể học.
Trên quan điểm bản thể luận, vật lý học khẳng định
sự hữu (existence), phủ định sự phi hữu (non-existence), và triệt
để tuân theo luật phi mâu thuẫn của logic Aristotle: A không thể vừa
là A vừa là phi A. Do đó, khi có ý định so sánh phương pháp thí
nghiệm vật lý với phương pháp luyện tâm của Phật giáo, nên nhớ
rằng nguyên lý bản thể luận Phật giáo là Trung đạo. Trung đạo là
không khẳng định không phủ định. Theo ngài Long Thọ, Trung đạo là
một tiến trình tu tập theo dịch hóa pháp, chuyển biến phương cách
nhận thức thực tại từ có Duyên khởi qua không có Duyên khởi
tức Không, rồi trở lại có Duyên khởi dưới hình thức Giả danh.
Vì vậy bằng vào những điều trình bày trên, ta có
thể nói rằng từ trước đến nay quá trình nghiên cứu vật lý
từ vĩ mô đến vi mô có thể xem như tương ứng với phép quán
các pháp đều Không: "Sắc tức thị Không". Gần đây, giáo
sư vật lý lượng tử David Bohm đề nghị phải xoay chuyển tiến trình
nghiên cứu vật lý học 180 độ. Nghĩa là, nói theo Tâm kinh, phải
quán mọi pháp đều phát hiện từ Không: "Không tức thị
Sắc". Thay vì khởi công từ những bộ phận riêng rẽ rồi đi
tìm hiểu sự tương quan liên hệ giữa chúng, vật lý học phải
khởi đầu từ cái toàn thể vị phân hóa (unbroken wholeness) tức là
trạng thái chân thật của vạn hữu trong vũ trụ mà Bohm gọi là
chân như (that-which-is). Mọi sự vật, kể cả không gian, thời gian, và
vật chất đều là biểu lộ động của cái chân như ấy. Chân như
lượng tử của Bohm là một trật tự tàng ẩn (the implicate order, theo
danh từ của Bohm) vốn là nguyên lý sáng tạo của mọi tồn tại
(phải chăng đó là nguyên lý nhân duyên?). Nó không thể là đối
tượng của nhận thức thường nghiệm vì nó có tính chất châu
biến (immanent), nghĩa là phổ biến khắp vật chất và là bản thể
của vật chất. Hình như Bohm muốn khai triển một triết lý về toàn
thể tính của tất cả hiện hữu, một hình thái của thuyết Pháp
giới duyên khởi.
Thuyết chân như lượng tử của Bohm bắt nguồn từ
một tính chất đặc biệt của súng lượng tử gọi là "pha bất
tương ly" (phase entanglement) do SchrOdinger khám phá. Trong số các phẩm
tính dùng để mô tả chuyển động tuần hoàn như súng có hai phẩm
tính được đề cập ở đây. Đó là biên độ và pha của súng.
Biên độ là độ cao của súng. Pha của súng cũng giống như tuần
trãng tả cho biết súng đang ở vào thời kỳ nào của chu kỳ chuyển
động. Khi hai lượng tử tương tác rồi rời nhau, sự tương ly hai
lượng tử ra hai đường được biểu tượng bởi sự tương ly
biên độ hai súng của chúng. Nhưng pha hai súng của chúng lại không
tương ly mà vĩnh viễn vươùng mắc vào nhau dẫu chúng lan rộng đến
một chân trời vô hạn. Nghĩa là trên phương diện toán học, bất
cứ tác động nào gây trên súng A thời tức khắc ảnh hưởng
súng B, dẫu khoảng cách giữa hai hệ thống A và B lớn đến độ
nào đi nữa. Theo Bohm, tính "pha bất tương ly" là đặc tính
của chân như lượng tử. Ông gọi nó là tính nối kết
(connectedness). Có thể nói đó là tính cách tương quan vô tận và
vô ngại, căn bản tư tưởng của Hoa nghiêm tông.
Theo thuyết tương đối, không có cách nào nối kết
tức thời hai hạt trong không gian bởi vì cần có thời gian để
súng điện từ chuyển vận thông tin từ hệ thống A đến hệ thống B
với tốc độ tối đa 300 ngàn cây số mỗi giây. Lẽ tất nhiên
thuyết này không thể áp dụng cho chân như lượng tử, vì chân như
lượng tử không phải là một cảnh giới được cấu tạo theo tính
cách thời hay không như thế giới thường nghiệm. Sự vật trong
chân như lượng tử nối kết với nhau bằng thông tin chuyển vận
với tốc độ siêu ánh sáng (superluminal speed). Sau đây là mô hình
âm điện tử Bohm thành lập dựa trên thuyết chân như lượng tử.
Âm điện tử là một hạt có vị trí và xung lượng
hoàn toàn được xác định vào bất cứ thời điểm nào. Thêm vào
đó, mỗi âm điện tử kết hợp với một súng chủ (pilot wave) có
công dụng hướng dẫn hạt di chuyển theo một định luật chuyển động
mới. Súng và hạt là hai hiện hữu riêng biệt chứ không phải là
hai phẩm tính bổ sung như theo thuyết bổ sung Bohr. Súng chủ thời không
thấy được nhưng có thể quan sát nương vào hiệu quả nó tác dụng
trên âm điện tử.
Súng chủ thám kiểm tình trạng của môi trường, quan
chiêm vị trí của các hạt khác, lan truyền khắp nơi, bị ảnh hưởng
của mọi hạt trong vũ trụ, nhưng tác dụng duy nhất trên hạt kết
hợp với nó chứ không tác dụng trên hạt khác. Nó thay đổi
tức thời hình dạng khi một biến chuyển xảy ra ở bất cứ nơi nào
trong vũ trụ. Đồng thời nó truyền tin về sự thay đổi đó cho âm
điện tử, và nhờ vậy âm điện tử báo động vị trí và xung
lượng của nó. Những thuộc tính của âm điện tử thay đổi trị
số mỗi khi súng chủ thay đổi hình dạng. Thuộc tính của âm điện
tử tuồng như do trạng huống thí nghiệm phát hiện vì chúng biến
đổi trị số theo nhịp thông tin súng chủ truyền về, nhưng thực ra
chúng là thuộc tính tự nhiên của âm điện tử.
Tính nối kết của chân như lượng tử được biểu
hiện qua trung gian các súng chủ. Chính do thông tin của súng chủ mà
mỗi mỗi sự vật nối kết với mỗi mỗi sự vật khác và bị ảnh
hưởng tức thời của bất cứ biến chuyển gì xảy đến cho mỗi
mỗi sự vật khác. Trên bề mặt, sự vật như tuồng biến thiên
độc lập nhau nhưng kỳ thật tất cả chúng đều tương ưng với
những tiến trình biến chuyển tàng ẩn bên dưới, nơi cái mà Bohm
gọi là chân như lượng tử. Cảnh huống này có thể ví như
trường hợp hai cái bóng của cùng một vũ công do đèn chiếu trên
hai tấm màn đặt đối diện trên sân khấu. Nếu ta chỉ nhìn thấy
bóng mà thôi thời tưởng chúng nhảy múa ãn nhịp là do một tác
dụng bí ẩn nào đó. Thật ra chúng là tướng và dụng của chân
như lượng tử tàng ẩn bên dưới. Theo Bohm, chân như lượng tử
là nơi vô lượng súng (súng "nhân duyên"? súng "có
thể"?) chồng chập lên nhau và chính sự chồng chập đó được
ta phát hiện như là hạt.
Tính pha bất tương ly mà Bohm dùng diễn tả bản tính
nối kết (connectedness) của chân như lượng tử được các nhà vật
lý xem như là nét đặc thù của thuyết lượng tử. Tính ấy đã
thấy hiện ra trong thí nghiệm màn chắn có hai khe. Do tính ấy mà ta
trả lời dễ dàng câu hỏi: giả thử hạt photon bắn ra đi qua một
khe, làm sao nó biết được khe kia để hở hay bị che kín? Đó là
tại vì mọi lượng tử đều có tính pha bất tương ly nên tức khắc
biết hết thảy mọi biến cố xảy ra trong vũ trụ. Tính biết ấy gọi
là tính biết "phi cục bộ" (non-locality). Trong cơ học lượng
tử danh từ "cục bộ" có nghĩa là (1) một môi trường
truyền dẫn thông tin, và (2) tốc độ truyền dẫn thông tin không
vượt quá tốc độ ánh sáng (300 ngàn cây số mỗi giây). Vậy
"phi cục bộ" có tính cách phi không gian phi thời gian. Tính
biết phi cục bộ là tính biết tức khắc mọi biến cố xảy ra bất
cứ ở đâu. Dùng ngôn ngữ thông thường mà nói thời phi cục
bộ có nghĩa là thông tin được truyền dẫn với tốc độ siêu ánh
sáng. Thần giao cách cảm là một thí dụ về tính biết phi cục bộ
nhưng đó là một hiện tượng tâm lý xem như huyền bí. Trong vũ trụ
học, tính biết phi cục bộ được sử dụng để giải thích tại sao
nền vi ba của vũ trụ có tính đồng nhất (homogeneity) và đẳng
hướng (isotropy).
Tính biết phi cục bộ của lượng tử xuất hiện trong
thí nghiệm sau đây với một hệ thống hạt đôi có spin 0 (zero).
Trước hết cần giải thích tiếng spin. Thông thường các nhà vật
lý không thãm dị bên trong thế giới lượng tử và tìm thấy hạt.
Họ khởi đầu với ý niệm về những tính chất các viên bi có
thể có rồi từ đó họ tìm xem tính chất nào có thể đem gán cho
các hạt. Vì hai tính chất khối (mass) và điện tích (charge) chưa đủ
để mô tả thể tánh của hạt, nên họ thấy cần thêm một phẩm
tính thứ ba giống như tính xoay tròn của viên bi. Họ gọi phẩm tính
ấy là spin. Nên biết rằng spin của hạt và tính xoay của bi không
hoàn toàn giống nhau. Chẳng hạn, viên bi chỉ cần quay 360 độ như quả
đất quay một vịng quanh trục địa cầu thời trở lại trạng thái
đầu. Một âm điện tử phải quay 720 độ mới có thể trở lại
trạng thái nguyên thủy. Đây cũng là một dịp để nhắc lại ngôn
ngữ toán học là những biểu tượng thực tại bằng vào thực
nghiệm chứ không phải thực tại. Dẫu sao cũng cần đến nó để
diễn tả, suy luận, và truyền thông nhưng luôn luôn nhớ rằng thực
nghiệm và biểu tượng không tuân theo những lý tắc giống nhau.
Trở lại với thí nghiệm hệ thống hạt đôi có spin
0. Trong hệ thống có spin zero spin của hạt này trái ngược spin của
hạt kia nên chúng triệt tiêu lẫn nhau. Chẳng hạn, nếu spin của hạt
này hướng lên thời spin của hạt kia hướng xuống. Nếu spin của
hạt kia quay phải thời spin của hạt này quay trái. Spin của hai hạt
trong hệ thống hạt đôi có spin 0 luôn luôn có độ lớn bằng nhau
và hướng xoay đối nghịch. Bây giờ bằng cách nào đó mà không
ảnh hưởng đến spin của chúng, ta đẩy hai hạt của hệ thống tách
ra chạy theo hai chiều ngược hướng. Sau đó, ta có thể sử dụng
những bộ máy làm thay đổi spin của chúng ở đằng này hay ở
đằng kia. Điều kỳ lạ xảy ra là nếu máy phát hiện hạt chạy ngã
này có spin hướng lên hay quay phải, thời không cần quan sát đo
lường ta cũng biết chắc chắn hạt chạy ngã kia có spin đối nghịch,
hướng xuống hay quay trái.
Thí nghiệm này được gọi là thí nghiệm loại EPR,
viết tắt tên của ba nhà vật lý, Albert Einstein, Boris Podolsky, và Nathan
Rosen, đã có sáng kiến đặt ra như là một thí nghiệm bằng trí
tưởng tượng nguyên là để chứng minh chủ trương của nhóm
Copenhagen không đúng. Nhóm này tin rằng thuyết lượng tử là một
học thuyết viên mãn mặc dầu trên thực tế thuyết lượng tử
không mô tả được một số hành tướng quan trọng của hạt có
thật.Về sau David Bohm nghĩ cách thực hiện thí nghiệm bằng phương
pháp đo spin của hạt để minh chứng tính nối kết phi cục bộ của
lượng tử ở trong hai trạng huống xa nhau, cái ở đằng này cái
ở đằng kia. Thí nghiệm loại EPR dẫn đến kết luận là thông tin có
thể truyền dẫn với tốc độ siêu ánh sáng! Chưa có nhà vật lý
nào đã kinh nghiệm một hiện tượng như vậy.
Cách nhận thức thông thường quen với lối suy nghĩ
cục bộ không bao giờ chấp nhận có những sự vật đã tương tác
trong quá khứ mà bây giờ ở cách biệt xa nhau vẫn còn tương giao
ảnh hưởng và cũng không thể nào mọi sự thay đổi dụng cụ đo
lường ở đầu này mà khả dĩ làm biến chuyển trạng huống thí
nghiệm ở đằng xa mịt mù kia. Nhưng một định lý toán học rất quan
trọng gọi là định lý Bell, vì do nhà vật lý John Steward Bell, người
Ái nhĩ lan, chứng minh vào năm 1964, dẫn đến một hệ quả rất bất
ngờ cho thấy cách nhận thức thông thường như vậy là không
đúng.
Để chứng minh định lý, Bell áp dụng phép phản
chứng (reductio ad absurdum) ngài Long Thọ thường dùng trong Trung quán
luận. Bell giả thiết hiện hữu một thực tại có tính cục bộ tương
ứng với thí nghiệm loại EPR. Từ giả thiết đó, Bell suy ra một bất
đẳng thức, nay gọi là bất đẳng thức Bell (Bell's inequality). Nghĩa
là mọi kết quả thí nghiệm phải nghiệm đúng bất đẳng thức ấy.
Nhưng trong thực tế, khi John Clauser và Stuart Freedman ở Berkeley, Hoa kỳ
và Alain Aspect ở Paris, Pháp, thực hiện được thí nghiệm loại EPR,
thời kết quả thí nghiệm không nghiệm đúng bất đẳng thức Bell.
Kết luận: Giả thiết về hiện hữu thực tại có tính cục bộ là
sai. Nói cách khác, nếu những điều thuyết lượng tử dự đoán
theo thuyết thống k?xác suất mà đúng thời bắt buộc thực tại
lượng tử ta muốn mô tả phải là thực tại có tính nối kết phi
cục bộ. Từ trước đến nay thuyết lượng tử giải thích mọi hiện
tượng vật lý từ transistor cho đến năng lượng bức xạ của
những vì sao và chưa bao giờ dự đoán sai. Như thế theo định lý Bell
thực tại lượng tử phải có tính nối kết phi cục bộ.
Định lý Bell chứng minh rằng sự vật trong thực tại
không hiện hữu theo cách thức ta khái niệm chúng. Thế thời chúng
hiện hữu như thế nào? Do tính nối kết phi cục bộ cho nên vạn vật
hỗ tương giao thiệp ảnh hưởng, hỗ tương đồng nhất, tương hủy
tương thành, tương giao hòa điệu. Không có cái gì được tạo độc
nhất và riêng rẽ. Vạn hữu trong vũ trụ khởi lên đồng thời,
nương tựa lẫn nhau, ảnh hưởng lẫn nhau, và do đó tạo ra một thế
giới trong đó tổng số khối-năng lượng không thay đổi. Đó cũng
là quan điểm của đa số nhà vũ trụ học hiện nay.
Khởi thủy ngay sau khi điểm nguyên thủy bùng nổ, vũ
trụ gồm toàn năng lượng bức xạ nhiệt độ rất lớn, nghĩa là
các photon dao động tần số rất cao. Điểm then chốt để giải thích
nguyên nhân những biến cố xảy ra trong thời kỳ phôi thai của vũ
trụ là thông hiểu tiến trình sinh khởi tương thành (pair production;
sinh khởi từng cặp) từ năng lượng bức xạ. Do sự tương giao
giữa các photon, từng cặp hạt và phản hạt vật chất
(particle-antiparticle) sinh khởi tương thành. Ngược lại, cũng xảy ra
trường hợp hạt và phản hạt vật chất tương giao hủy diệt và
phát sinh năng lượng bức xạ. Chính sự sinh khởi tương thành là
nguyên nhân của mọi vật thể hiện có trong vũ trụ. Lúc nhiệt độ
còn lớn, trên 1010 K, số cặp hạt và phản hạt tương thành cân
bằng với số cặp hạt và phản hạt tương hủy. Nhưng khi nhiệt độ
giảm cho đến một lúc nào đó, số hạt và số phản hạt bắt đầu
chênh lệch, và số hạt trở nên nhiều hơn số phản hạt. Nhiệt độ
tiếp tục giảm dần và bởi vì không có phản hạt tương hủy nên
số hạt thặng dư vẫn giữ mức số không thay đổi cho đến ngày nay.
Cứ như thế mà hạt vật chất nhiều loại khác nhau lần lượt phát
sinh tương ứng với mức giảm nhiệt độ khác nhau của vũ trụ. Lúc
đầu là những hạt nặng như dương điện tử và trung hòa tử,
cuối cùng là những hạt nhẹ âm điện tử. Về sau do định luật
sức hút vạn vật, các hạt hợp lại tạo thành nguyên tứ, nguyên
tử hợp lại tạo thành phân tử, v..v.., rồi đến lượt thiên hà
thành hình, trong đó các sao và hệ thống hành tinh hiện khởi, v..v...
Nếu hiểu "tu học" là nỗ lực tinh cần thanh
luyện tâm thức để chuyển đổi lối nhận thức từ thấy sự hữu
là sự hửu có tự tính sang qua thấy mọi hữu đều không có bản
tính quyết định, thời suốt ba trăm năm nay, nhiều thế hệ khoa học
gia quả đã "tu học" bằng cách quan sát đo lường sự
tướng trong các phịng thí nghiệm và phân tích quán tưởng lý tắc
tự khởi và tự tạo của vạn hữu trong đầu óc. Sự chuyển
hướng nhận thức được thực hiện đúng theo phương pháp chuyển
hóa toàn bộ tâm thức được đề cập trong bài tụng Trung luận
XXIV.18: "Các pháp do duyên khởi, nên ta nói là Không, là Giả
danh, và cũng chính là Trung đạo". Phương pháp dùng hàm súng thay
thế hạt của nhóm Copenhagen dẫn đến sự nhận thấy mọi pháp đều
Không. Tính pha bất tương ly do Schrkdinger khám phá và tính nối kết phi
cục bộ được Bohm đề cập trong thuyết chân như lượng tử và Bell
chứng minh bằng phương pháp toán học là có thật, tất cả đều
thuận hợp với khẩu quyết lừng danh của ngài Long Thọ: "Do tánh
Không mà tất cả pháp được thành tựu và hợp lý" (Hai câu
đầu bài tụng Trung luận XXIV.14). Hơn nữa, nhiều tên tuổi trứ danh
như nhà toán học kỳ tài Von Neumann, nhà vật lý Eugene Wigner giải
Nobel năm 1963, nhà vật lý lý thuyết lượng tử Henry Pierce Stapp ở
Berkeley, nhà vật lý Fritz London nổi tiếng về công trình nghiên cứu
chất lỏng lượng tử, v.. v.. hết thảy đều quan niệm vạn pháp duy
tâm.
Ngoài ra, còn có khuynh hướng mô tả thế giới
lượng tử như là "sự sự vô ngại pháp giới" của Hoa
nghiêm tông. Thoạt đầu, nhà khoa học thấy cơ quan của cơ thể chẳng
hạn là cấu trúc do kết hợp các mô. Mô lại do kết hợp các tế
bào. Tế bào lại do kết hợp các phân tử. Phân tử lại do kết
hợp các nguyên tử. Nguyên tử lại do kết hợp các hạt cơ bản.
Cuối cùng, không tìm đâu ra cái thực chất từ đó phát sinh các
hạt cơ bản, họ chấp nhận quan điểm của Einstein, hạt là năng
lượng. Tương giao hỗ tác giữa các hạt là tương giao hỗ tác
giữa năng lượng với năng lượng. Đến mức độ này, không làm
sao phân biệt được cái gì là đương thể và cái gì là sự xảy
ra, không phân biệt được tâm thức chủ quan và thực tại khách
quan. Vào lúc này, người nhảy múa và nhịp điệu nhảy múa hóa ra
là một. Cái vật chất mà các nhà vật lý cổ điển tưởng nó
tồn tại hóa ra là những sát na sinh diệt liên lĩ. Các hạt xuất
hiện từ không, rồi hóa không ngay khi có. Khoa học vật lý nay phải
nhờ đến triết học, nhận thức học, và bản thể học để tìm
hiểu thực tại. Chung cuộc một số sự thật khám phá được không
nằm ngoài một số "huyền môn" do Hoa nghiêm tông đề ra để
thuyết minh khả tính của một thế giới lý tưởng: "sự sự vô
ngại pháp giới". Ta có thể kể ba "huyền môn" lợi ích
nhất trong sự khảo sát thế giới lượng tử như đã trình bày
trong bài này. Trước hết là "Đồng thời cụ túc tương ưng
môn", nghĩa là sự cộng đồng liên hệ, trong đó vạn vật cộng
đồng hiện hữu và đồng thời hiện khởi. Thứ đến là "Nhất
đa tương dung bất đồng môn", nghĩa là sự hỗ tương nhiếp nhập
của những sự thể bất đồng. Nhiều ở trong một, một ở trong
nhiều, và tất cả ở trong nhất thể. Thứ ba là "Chư pháp tương
tức tự tại môn", nghĩa là sự hỗ tương đồng nhất phổ biến
của vạn hữu. Hỗ tương đồng nhất là tự tiêu hủy. Tự tiêu
hủy và tự đồng hóa với cái khác tạo thành một đồng nhất
hóa tổng hợp. Hai lý thuyết đối nghịch hay những sự kiện khó dung
hợp thường được kết lại thành một. Do kết quả của sự hỗ
tương nhiếp nhập và hỗ tương hòa hợp, phát hiện khái niệm Một
trong Tất cả, Tất cả trong Một.
Trong tập sách Vô ngã là Niết bàn, Hòa thượng
Thích Thiện Siêu nhắc đến một bài thơ của Hòa thượng Phúc Hậu
khi mở đầu câu chuyện về Lý Duyên khởi và dạy rằng khi đọc
bài thơ này phải tự dặn lấy mình làm thế nào cho được như
thế.
Để kết luận bài này, tác giả mạn phép nhại bài
thơ ấy như sau:
Kinh Luận lưu truyền đủ phái tông,
Học hành không dốt cũng không thông.
Năm nay tính lại chừng quên hết,
Chỉ nhớ trên đầu một chữ Không.
Tháng Mười, 2000
(Trích: "Nguyệt san Phật Học", USA, tháng 11-2000)
Tài liệu tham khảo
1.Thích Thiện Siêu. Vô ngã là Niết bàn. Phật Học
Viện Quốc tế. 1997
2. Tuệ Sĩ dịch. Các tông phái của đạo Phật. Phật
Học Viện Quốc tế. 1987
3. John Gribbin. Schrkdinger's Kittens and the Search for Reality.
Little, Brown and Company. 1995
4. Nick Herbert. Quantum Reality. Anchor Books. 1987
5. Nick Herbert. Elemental mind. A Plume/Penguin Book. 1993
6. Gary Zukav. The dancing Wu Li Masters. Bantam New Age Books. 1980
-- o0o --
Mục Lục
Phần 1:
1
|
2 | 3 | 4 | 5
| 6
| 7
Phần 2: 1
| 2
| 3
| 4
| 5 | 6 | 7 | 8 | 9 | 10
Phần 3: 1 | 2
---o0o---
|
Thư Mục Tác Giả |
---o0o---
Chân thành cảm ơn
Đạo hữu Phúc Trung đã gởi tặng tài liệu này.
Vi tính: Diệu Nga
Cập nhật : 01-04-2002