Quyển thứ mười hai
(22 nước)
Đại Chánh Tân Tu
Đại Tạng Kinh quyển thứ
51, thuộc Sử Truyện bộ thứ 3,
từ trang 867 đến trang
948, gồm 12 quyển,
do Ngài Huyền Trang đời
nhà Đường dịch
Ngài Biện Cơ soạn lại.
Sa Môn Thích Như Điển
Phương Trượng Chùa
Viên Giác, Đức Quốc
dịch từ tiếng Hán sang
tiếng Việt
quyển nầy dịch từ ngày
6 tháng 12 năm 2003
tại Tu Viện Đa Bảo,Úc
Đại Lợi
trong mùa nhập thất
với sự trợ dịch của
Tỳ Kheo Thích Đồng Văn
Tỳ Kheo Thích Hạnh
Giới.
Thứ tự kinh văn số
2087.
1. Nước Tào Cự Thác
2. Nước Phất Phiêu Trì Tác Quân Na
3. Nước An Đản La Phượt
4. Nước Hoạt Tất Đa
5. Nước Hoạt
6. Nước Tào Kiện
7. Nước A Lợi Ni
8. Nước Yết La Hồ
9. Nước Ngật Phiêu Sắc Ma
10.
Nước Bát Lợi Yết
11.
Nước Tu Ma Đản La
12.
Nước Bát Dịch Sán Na
13.
Nước Dâm Bạ Kiến
14.
Nước Khuật Lãn Noa
15.
Nước Đạt Ma Tất Thiết Đế
16.
Nước Thi Khí Ni
17.
Nước Thương Di
18.
Nước Yết Bàn Đà
19.
Nước Ô Sát
20.
Nước Khư Sa
21. Nước Sở Câu
Na
22. Nước Cù Tát
Đản Na
Nước Tào Cự
Thác chu vi hơn 7000 dặm. Đô Thành hiệu là Hạt Tất Na, chu vi hơn 30 dặm.
Lại có thành Hạt Tác La, chu vi cũng 30 dặm, rất kiên cố hiểm trở, sơn
xuyên cách trở, lúa thóc từng thời vụ, có nhiều lúa mạch, cây cỏ, ít hoa
quả nhiều. Nơi đây có sản xuất Uất Kim Hương (Nghệ) và có những loại cỏ
quý. Cỏ quý phát sanh tại sông La Ma của Ấn Độ, giữa thành Hạt Tác La có
một suối nước phun lên, mà người trong xứ lấy đó để tưới tẩm đất đai. Khí
hậu lạnh, sương tuyết nhiều, tánh người nhẹ dạ thường hay ngụy trá, ham
học nghề nghiệp, có nhiều kỹ thuật. Nghe nhưng không rõ ràng. Vì được
truyền tụng lời nói nhiều vạn lời, văn tự, ngôn ngữ khác với các nước
khác, hay nói những chuyện hư cấu rồi trở thành sự thật. Tuy là thờ cả
hàng trăm vị thần, nhưng cũng tôn sùng Tam Bảo. Có hơn 100 ngôi Già Lam,
và tăng đồ hơn vạn người, đều học tập theo Đại Thừa Giáo. Vua bây giờ
thuần tín, nhờ truyền thống đời đời để lại. Có nhiều phước đức và ưa học
hỏi. Vua A Dục kiến tạo hơn 10 ngôi Bảo Tháp ở nơi đây và hơn 10 đền thờ
ngoại đạo, họ sống rất lộn xộn. Nói chung có rất nhiều ngoại đạo và hầu
như rất thịnh hành ở đây. Họ tin theo Câu Na Thiên. Vị Thiên Thần ngày xưa
từ nước Ca Tất Thí thuộc núi A Lộ như đến sinh sống ở nước nầy thuộc về
miền nam của nước Câu La Tứ La, làm mưa làm gió. Vì sự hung ác cho nên
những người tin tưởng mất đi lời nguyện, kẻ khinh chê bị đưa về trở lại,
cho nên xa gần những kẻ tín ngưỡng trên dưới cùng với các nước lân bang
thứ dân mỗi năm đều tham gia những kỳ đại hội. Hoặc cúng vàng bạc trân
bảo, hoặc cúng bò ngựa gia súc, đem cống hiến đầy đủ như cầu: vàng, bạc,
dê, ngựa bày la liệt trong hang động. Chẳng phải cho mình mà cúng thí tu
phước, cốt yếu của ngoại đạo là giữ tâm khổ hạnh, thiên thần chỉ thọ giữ
chú thuật. Ngoại đạo trị liệu được nhiều chứng bịnh nan y. Từ đây đi về
phía bắc hơn 500 dặm đến nước Phất Phiêu Trì Tát Quân Na.
Nước Phất Phiêu
Trì Tát Quân Na từ phía đông qua tây hơn 2000 dặm, từ phía nam ra bắc hơn
1000 dặm. Đô Thành hiệu là Hộ Tất Na có chu vi hơn 20 dặm, đất đai phong
tục giống như nước Tào Cự Thác nhưng ngôn ngữ thì khác biệt. Khí hậu lạnh,
tánh tình người cuồng bạo. Vua thuộc dòng Đột Quyết, thâm tín Tam Bảo, ưa
học tập và tôn trọng đạo đức. Từ đông bắc xứ nầy vào núi băng sông đến bên
thành của nước Ca Tất Thí. Có hơn 10 ấp nhỏ, dẫn đến Đại Tuyết Sơn, núi
lớn Bà La Tê Na. Đỉnh núi rất cao, nguy hiểm, có nhiều hang động nơi đó.
Hoặc đi vào trong hang, hoặc leo lên trên núi. Mùa hè tuyết
tan thành nước. Đi cả ba ngày mới đến trên đỉnh. Mùa đông gió lạnh mang
theo nhiều tuyết vào cốc. Kẻ lữ hành trải qua không biết bao nhiêu cực
nhọc của chân tay, xòe cánh bay lượn cũng không thể qua khỏi. Chân bước đi
bộ lại giống như bay, nhìn xuống dưới các núi khác rất đẹp. Đây là đỉnh
cao đặc biệt của Thiệm Bộ Châu. Trên đảnh chẳng có cây, chỉ có nhiều đá,
thỉnh thoảng lại có rừng nhưng cây còn nhỏ. Lại đi hai ba ngày mới xuống
được núi, mới đến nước An Đản La Phược.
Nước
An Đản La Phược là đất cũ của nước Đổ Hóa La chu vi hơn 3000 dặm. Đô Thành
chu vi hơn 14 hay 15 dặm. Vì không có người lãnh đạo nên thuộc nước Đột
Quyết. Núi và sông liền nhau cho nên đất đai rất hẹp. Khí hậu lạnh lẽo,
gió tuyết vào đông. Giàu có lúa thóc và khan hiếm hoa quả. Tánh người hung
bạo, chẳng có phong tục kỹ cương, chẳng biết tội phước. Chẳng muốn học tập
chỉ tu thần bí. Ít tin tưởng Phật Pháp. Có ba ngôi Già Lam và chỉ có 10 vị
Tăng Sĩ. Tất cả đều học theo Đại chúng Bộ, có một Bảo Tháp do Vua A Dục
dựng. Từ đây đi về phía tây bắc vào trong động qua khỏi núi đến một thành
nhỏ. Đi hơn 400 dặm đến nước Hoạt Tất Đa.
Nước
Hoạt Tất Đa ngày xưa thuộc nước Đỗ Hóa La có chu vi ít hơn 1000 dặm. Đô
Thành có chu vi hơn 10 dặm. Không có người lãnh đạo nên thuộc nước Đột
Quyết. Núi nhiều, sông hẹp, gió lạnh. Ngũ cốc phong phú. Hoa quả rất
nhiều.
Tánh tình hung bạo. Tục lệ chẳng có phép tắc gì. Có hơn 3
ngôi Già Lam nhưng rất ít tăng sĩ. Từ đây đi về phía tây bắc qua núi, qua
hang động đến thành ấp, khoảng 300 dặm đến nước Hoạt.
Nước
Hoạt, ngày xưa thuộc nước Đỗ Hóa La, có chu vi hơn 2000 dặm. Đô Thành có
chu vi hơn 20 dặm. Không có người lãnh đạo cho nên thuộc nước Đột Quyết.
Đất đai bằng phẳng. Lúa thóc được mùa. Cây cỏ xanh tươi. Hoa trái sum sê.
Khí hậu ôn hòa. Phong tục thuần chất, tánh tình con người thô bạo. Y phục
bằng da thú. Đa phần có tín tâm đối với Tam Bảo, ít tin thần linh. Có 10
ngôi Già Lam và hơn 100 Tăng Sĩ tu tập cả Đại Thừa lẫn Tiểu Thừa. Vua
thuộc dòng Đột Quyết. Qua cổng sắt phía nam có những nước nhỏ. Thỉnh
thoảng có những con chim lạ bay đến lưu trú tại đây. Từ đây đi về phía
đông, lên một ngọn đồi trống nằm giữa Thiệm Bộ Châu. Phía nam giáp với núi
tuyết. Phía bắc giáp với nhiệt hải có hàng ngàn con suối. Phía tây giáp
nước Hoạt, phía đông giáp nước Ô Sát. Từ đông sang tây, từ nam ra bắc mỗi
chiều 1000 dặm. Núi cao hàng trăm dặm. Động đá cheo leo nguy hiểm băng
tuyết đóng đầy. Mỗi khi gió lạnh về thật là khủng khiếp. Cho nên ở đây gọi
là Đồi Trống, cũng còn một tên khác là núi cao trống gió. Từ phía đông đi
hơn 100 dặm đến nước Tào Kiến.
Nước
Tào Kiến ngày xưa cũng thuộc nước Đổ Hóa La có chu vi hơn 400 dặm. Đô
Thành có chu vi khoảng 15 hay 16 dặm. Đất đai phong tục cũng giống như
nước Hoạt. Không có người lãnh đạo cho nên thuộc nước Đột Quyết. Phía bắc
đến nước A Lợi Ni.
Nước A
Lợi Ni ngày xưa thuộc nước Đỗ Hóa La, nằm hai bên bờ sông Phượt Sô chu vi
hơn 300 dặm. Đô Thành chu vi hơn 14 hay 15 dặm. Đất đai phong tục cũng
giống như nước Hoạt.
Phía
đông giáp nước Yết La Hồ.
Nước
Yết La Hồ, ngày xưa thuộc nước Đỗ Hóa La, bắc giáp sông Phượt Sô có chu vi
hơn 200 dặm. Đô Thành chu vi 14 hay15 dặm. Đất đai, phong tục cũng giống
như nước Hoạt. Từ nước Tào Kiên đi về phía đông gặp đỉnh núi qua những
hang động rồi sông ngòi lại đến thành ấp. Đi hơn 300 dặm nữa đến nước Ngật
Phiêu Sắc Ma.
Nước
Ngật Phiêu Sắc Ma ngày xưa thuộc nước Đỗ Hóa La, từ đông sang tây hơn 10
dặm và từ nam ra bắc hơn 300 dặm. Đô Thành chu vi khoảng 15 hay 16 dặm.
Đất đai phong tục giống như xứ Tào Kiến, chỉ riêng nhân tình của nước nầy
thô bạo, ngu xuẩn ác độc khác với các nước kia. Đi lên phía bắc đến nước
Bát Lợi Yết.
Nước
Bát Lợi Yết, ngày xưa thuộc nước Đỗ Hóa La, từ đông sang tây hơn 100 dặm
và từ nam ra bắc hơn 300 dặm. Đô Thành có chu vi hơn 20 dặm. Đất đai,
phong tục giống như nước Ngật Phiêu Sắc Ma. Từ nước Ngật Phiêu Sắc Ma đi
đến phía đông vào núi vượt sông, đi hơn 300 dặm nữa, đến nước Tu Ma Đản La
Nước
Tu Ma Đản La, trước đây thuộc nước Đỗ Hóa La, có chu vi hơn 3000 dặm, núi
sông liền nhau, đất đai cằn cỗi ít lúa mùa, nhiều lúa mạch, rau cải có
hàng trăm thứ, khí hậu lạnh. Tánh tình người thô bạo, chẳng biết tội
phước, hình mạo xấu xí ngay cả đứng đi. Y phục bằng da, giống như nước Đột
Quyết. Đàn bà trùm khăn trên đầu cao ba tấc. Giữa đầu rẽ tóc ra làm hai
tượng trưng cho cha mẹ. Phía trên tượng trung cho cha, phía dưới tượng
trưng cho mẹ. Tùy theo sự chết trước hay sau của cha mẹ mà lấy đi một
miếng. Nếu cha mẹ còn thì để nguyên vẹn. Nhà Vua nước nầy thuộc dòng họ
Thích. Núi phía tây thấy giống như là một người đang nằm. Bên kia là biên
giới của nước Đột Quyết, vì ảnh hưởng rất nhiều phong tục nơi đây, nên
biên giới bị xâm phạm dễ dàng. Có một thành riêng biệt gọi là thành Lưu
Ly, trong đó có mười thành kiên cố và mỗi thành có kẻ đứng đầu riêng.
Thành dày như thế nhưng có kẻ hở có thể qua lại được. Phía tây tiếp với
nước Ngật Phiêu Sắc. Phía đông của nước Tu Ma Đản La có nhiều hang động.
Đi hơn 200 dặm đến nước Bát Thích Sán Na.
Nước
Bát Thích Sán Na trước đây thuộc nước Đỗ Hóa La, có chu vi hơn 2000 dặm.
Đô Thành nằm trên núi, có chu vi 6 hay 7 dặm. Nhiều núi sông cho nên có
nhiều cát đá. Đất trồng được lúa mạch. Có nhiều nho, hồ tiêu, đào, lê, quả
nại v.v....Khí hậu lạnh lẽo. Tánh người cương nghị, chẳng có lễ nghĩa,
không biết học nghề. Hình thù xấu xí. Đa phần mặc đồ bằng lông. Có 3 hay 4
ngôi Già Lam và ít tu sĩ. Tánh tình thuần chất kính tín Tam Bảo. Đi về
phía đông nam của lãnh thổ vào động đá và đi hơn 200 dặm nữa là nước Nhâm
Bạ Kiến.
Nước
Nhâm Bạ Kiến trước đây thuộc nước Đỗ Hóa La, có chu vi hơn 1000 dặm. Đô
Thành chu vi hơn 10 dặm. Sông núi nhiều nên ruộng đất hẹp. Đất đai thổ sản
khí hậu ở đây đơn giản và thuần thục. Tánh tình của người khác với nước Ba
Tích Sán Na rất nhiều. Lời nói cũng có phần khác hẳn. Tánh tình thô bạo,
không rõ thiện ác. Đi về phía đông nam là núi cao, vượt qua những đoạn
đường đèo nguy hiểm, đi hơn 300 dặm đến nước Quật Nãn Noa.
Nước
Quật Nãn Noa, trước đây thuộc nước Đỗ Hóa La, có chu vi hơn 2000 dặm. Đất
đai sông núi khí hậu giống như nước Nhâm Bá Kiến, chẳng có lễ nghi pháp
luật, tánh người thô bạo. Chẳng muốn làm phước, ít tin tưởng Phật Pháp,
dáng hình xấu xí mặc nhiều đồ bằng da. Có nhiều mỏ ở trong núi, sản xuất
vàng bạc và nhiều đá quý. Chùa Viện chẳng có Tăng Già. Vua xứ đó thuần
hậu, kính sùng Tam Bảo. Từ phía đông bắc leo qua núi vào hang động, đường
đi nguy hiểm, đến nước Đạt Ma Tất Thiết Đế.
Nước
Đạt Ma Tất Thiết Đế nằm hai bên dãy núi, trước đây thuộc nước Đỗ Hóa La.
Từ đông sang tây hơn 1560 dặm, từ nam ra bắc hơn 4 hay 5 dặm. Đất hẹp cho
nên khó mở mang thêm một dặm nào. Gần sông Phạt Sô, đất đai khúc khủyu lồi
lõm chỗ cao chỗ thấp có nhiều cát đá, mùa đông gió lạnh. Chỉ trồng được
lúa mạch, đậu và một ít cây trái hoa quả. Nơi đây có sản xuất nhiều ngựa
tốt. Ngựa tuy nhỏ con nhưng rất khỏe và dai.
Phong tục không
hoàn hảo. Tánh tình con người thô bạo. Hình dạng xấu xí.
Mặc áo
da, khác với các nước khác. Có hơn 10 ngôi Già Lam và rất ít Tăng Sĩ. Đô
Thành tên là Hôn Đà Đa. Bên trong có Già Lam, do tiên vương xây dựng trong
động đá. Cách đây hơn 100 năm về trước, tại đây Phật Giáo bị tà thần uy
hiếp. Ngày xưa nhà vua thương người con bị tật, đi tìm những y thuật để
cứu chữa mà bịnh chỉ thêm chứ không giảm. Nhà Vua đích thân đến đền thờ để
thỉnh cầu cứu mạng. Lúc bấy giờ bị giáo sĩ giả làm thần mà lên tiếng rằng
bệnh nầy sẽ khỏi không có gì lo. Vua nghe như vậy, rồi cho xa giá trở về,
dọc đường gặp vị Sa Môn đáng kính, thấy vận y phục kỳ lạ, vua sợ hãi mà
hỏi từ đâu đến vậy. Vị Sa Môn là bậc chứng Thánh quả muốn hoằng truyền
Phật Pháp nên có hình dáng đặc biệt và nói với Vua rằng:
-
Tôi là đệ tử của đức Như Lai, là một vị Tỳ kheo.
Vua
nghe xong lo lắng liền hỏi lại:
- Ta
có một đứa con bị bệnh chưa biết sống chết như thế nào?
Sa Môn
nói:
-Ngài
nên đối trước thần linh để cầu nguyện và bày tỏ tâm thương con vô bờ.
Vua
nói:
-Thiên
thần có thể làm cho đừng chết được không?
Sa Môn
đáp:
- Dĩ
nhiên là phải có ngày cuối cùng.
Người
mà dối đời nói lời cho người tin thì không nên.
Về đến
cung Vua, đứa con đã chết. Vua không cho phát tang, đến hỏi thần một lần
nữa. Tại sao nói rằng không chết nhưng không cứu được và Vua phát giận vị
thần chủ cả một thời gian rồi nói:
- Ông
là người xấu ác, ở đây nói vọng ngữ, dùng uy quyền để tạo phước. Nay con
ta đã chết thì nói sao về việc dối trá nầy. Đối với việc sai trái đó thì
không thể bỏ qua được. Vì thế cho nên Vua ra lệnh phá ngôi đền để phạt ông
thần. Sau đó giết ông chủ và đập tượng thần liện xuống sông Phược Sô về
lại cung Vua. Đoạn gặp vị Sa Môn liền cung kính và vui vẻ, cúi đầu lễ tạ
và nói:
- Bởi
vì vô minh dắt dẫn cho nên niệm tà lôi kéo vây bủa xấu xa lâu nay, ở nơi
đây, nên mong rằng Sa Môn hãy đến để ở nơi nầy.
Sa Môn
nhận lời thỉnh cầu vào trong cung. Sau khi chôn đứa con của Vua xong Sa
Môn nói:
- Cuộc
sống của người do sanh tử lưu chuyển, nếu con của ngài bệnh mà vẫn còn
sống, thần cũng chỉ nói dối về bịnh tật đó. Tưởng là chỉ nói vậy thôi
nhưng mà kết quả thật không như thế. Vậy thì làm sao có thể tin được. Chỉ
có lòng ai mẫn mới hướng dẫn đi khỏi đường lầm mê.
Sau đó
Vua thỉnh Sa Môn đo đất rồi tạo dựng Già Lam, từ đó về sau Phật giáo được
hưng thịnh. Cho nên, trong Già Lam có một tinh xá để thờ vị A La Hán đó.
Trong
tinh xá, có một tượng Phật bằng đá lớn. Trên tượng có một cái lọng tròn
bằng vàng che bên trên đều dùng những đồ quý báu để trang sức. Khi người
ta đi nhiễu, cái vòng tròn xoay theo và khi người ta dừng thì nó sẽ dừng
lại. Nghe người xưa nói rằng do nguyện lực, Thánh nhơn hộ trì hoặc do
những kỷ thuật bí mật tạo thành. Xem các tường đá nơi nầy rất là kiên cố.
Khảo sát bình luận, vẫn chưa biết hết. Từ nước nầy đi qua núi lớn đến nước
Thi Khí Ni.
Nước
Thi Khí Ni có chu vi hơn 2000 dặm. Đô thành chu vi khoảng năm sáu dặm. Núi
sông trùng điệp, đá cát rất nhiều. Có nhiều lúa mạch nhưng ít lúa mùa, cây
cối nhiều hoa quả ít. Khí hậu lạnh, phong tục thô bạo, họ có thể giết
người hoặc trộm cướp mà chẳng biết lễ nghi thiện ác gì cả. Mê tín chẳng
biết làm phước, hiện đời gặp nhiều tai ách. Hình dạng người xấu xí hay mặc
đồ da. Chữ nghĩa như nước Đỗ Hóa La. Lời nói có khác. Qua khỏi nước Đạt Ma
Tất Thiết Đế là núi cao nằm ở phía nam, và sau đó đến nước Thương Di.
Nước
Thương Di có chu vi hơn 2560 dặm. Núi sông liên tục nhau. Ngũ cốc trồng
khó nhưng lúa mạch dễ trồng, có nhiều chim hoàng hạc mái. Do đất đá đổ
xuống mà thành rẫy. Nhiều trận cháy rừng dữ dội và sau đó người ta qua lại
được bình an. Nếu thiếu cầu nguyện thì gió mưa sấm sét bộc phát. Thời tiết
lạnh lẽo, phong tục vội vã, tánh người thuần chất chẳng có lễ nghi. Trí
mưu hẹp hòi, kỷ năng thô thiển. Chữ viết giống như nước Đỗ Hóa La, ngôn
ngữ khác biệt.
Áo
quần bằng da. Dòng dõi thuộc họ Thích. Tôn trọng Phật pháp. Tuy thế quốc
dân cũng chưa thuần tín. Có hai ngôi Già Lam, ít tu sĩ.
Từ
biên giới phía đông bắc đi vào núi qua những hang động nguy hiểm hơn 700
dặm đến sông Ba Mê La. Từ đông sang tây hơn 1000 dặm, từ nam ra bắc hơn
500 dặm. Đất hẹp, có nơi không quá 10 dặm. Hai bên tuyết đóng cho nên rất
lạnh, ngay cả mùa xuân mùa hạ tuyết vẫn bay cả ngày lẫn đêm. Đất đai khô
cằn chỉ còn sỏi đá. Khó trồng cây, chỉ có cỏ mọc nhiều những nơi hoang vu
như thế chẳng có người nào dừng chân.
Trong
sông Ba Mê La, có một cái hồ rồng lớn, từ đông sang tây 300 dặm, từ nam ra
bắc 50 dặm. Giáp liền với núi cao, nằm giữa Thiệm Bộ Châu và đất này nằm
chỗ cao nhất, nước rất là trong như gương và rất sâu, màu sắc xanh đen, vị
rất ngọt. Có nhiều loại cá giao, cá chép, rùa v.v...bơi lội trên mặt nước,
có ba ba, nhạn, hà mã, ngỗng.
Những
trứng chim rất lớn, con thú lấy cỏ che khuất lại, hoặc lấy cát phủ lên
trên. Phía tây có một dòng nước chảy vào hồ, rồi chảy đến phía đông của
nước Phạt La Đế Quốc chảy vào sông Phược Sô tạo ra bốn nhánh khác, cho nên
nước ở đây là nước của bốn con sông hợp lại. Phía đông của hồ có một nhánh
chảy xuống phía đông bắc đến nước Khư Sa và cùng với những sông khác, hợp
thành nhánh chảy về phía đông. Dòng nước bên tả hợp với dòng nước bên hữu.
Qua
khỏi phía nam của sông Ba Mê La là núi. Nơi ấy có nước Bát Lộ La, nước nầy
có nhiều vàng bạc, màu vàng hực như lửa. Từ phía đông nam của sông nầy, đi
đến núi đường đi rất hiểm trở chả có bộ hành qua lại chỉ toàn là tuyết. Đi
hơn 500 dặm, đến nước Yết Bàn Đà.
Nước
Yết Bàn Đà có chu vi hơn 2000 dặm. Đô Thành toàn là đá núi lớn, lưng dựa
vào núi, dọc theo là sông có chu vi hơn 20 dặm. Núi và sông nối liền nhau
cho nên bình nguyên rất hẹp. Lúa mùa ít, lúa mạch nhiều. Cây cối trong
rừng nhiều, hoa quả ít. Người ta sống trên đồi cho nên thành ấp bỏ không.
Lễ nghi chẳng có gì, đặc biệt người ta ít ưa nghề nghiệp. Tánh tình thô
bạo, mạnh mẽ kiêu hùng. Người dung mạo xấu xí.
Y phục
toàn bằng lông. Văn tự chữ nghĩa giống như nước Khứ Sa. Tuy nhiên, biết
tin tưởng cung kính Phật Pháp. Có mười ngôi Già Lam và hơn 500 tăng đồ, tu
theo Tiểu thừa Thuyết Nhứt Thiết Hữu Bộ. Vua biết tôn kính ngôi Tam Bảo.
Những kẻ nhàn nhã thường không thích những kẻ siêng học. Từ khi lập quốc
cho đến nay, đã trải qua nhiều năm tháng, vua mới tự xưng vương. Từ đây
đến nước Na Đề Ba Cù Đản La, có núi cao sông dài tương đối hoang vắng.
Ngày
xưa Vua của nước Ba Lợi Sách Tu (Thiên Chủng) lấy vợ người Hán, vinh quy
đến đây thời gặp loạn binh đông tây tuyệt lộ, liền giấu vương nữ trên đỉnh
núi nầy, rất nguy hiểm khó mà lên xuống được, cho lính canh phòng ngày
đêm.
Trải qua ba tháng như thế thì yên. Muốn trở về thì người
đàn bà đó có thai. Sứ thần bàng hoàng chạy báo. Vua ra lệnh đem người đàn
bà hoang loạn đó bỏ vào rừng, sớm tối chẳng quan tâm. Nhưng vì vua cảm cái
đức và cái đẹp cho nên lòng giận nguôi ngoa nghĩ rằng nếu trả người đàn bà
có thai nầy về nước, chắc là rất lo không biết chết ở đâu, nếu về đến nước
cũng bị chém đầu hoặc bị tru lục.
Khi biết được sự
thật. Sứ thần nói:
- Đừng có oán
trách, sẽ gặp thần linh. Mỗi ngày vào lúc giữa trưa có một người đàn ông
từ mặt trời lên xe ngựa đến đây.
Sứ thần nói:
- Nếu là kẻ ấy
thì tội như tuyết. Trở về tất sẽ bị tru di, cho nên ở lại là hơn.
Việc tới lui thật là khó phân.
Lại
nói:
- Việc
nầy chẳng rõ ai làm sao giết được, chờ tội nầy rõ ràng mới biết trắng đen.
Rồi
sau đó cho xây dựng trên đỉnh núi đá một cung điện có chu vi 300 bộ. Cung
thành nầy người nữ đó làm chủ. Sau khi kiến thiết xong, sinh ra được một
đứa con trai, dung mạo đẹp đẽ. Bà mẹ nhiếp chánh, người con xưng tôn hiệu
rồi bay vào trong hư không, cưỡi mây đưa gió uy đức xa gần đều biết. Các
nước bên cạnh đến thần phục.
Vua
của nước đó khi mạng chung, thi hài được lưu lại trong núi đá, cách thành
về phía đông nam 120 dặm. Thi hài ấy cho đến nay chưa hư hoại. Nhìn dáng
người giống như đang ngủ. Mặc Y phục và có hương hoa được bài trí để cho
tử tôn đời đời về sau, thờ đây là tiên tổ của họ. Mẹ là người nhà Hán, cha
là thần mặt trời, cho nên tự xưng là dòng dõi Hán Mặt Trời
Vương
tộc có hình dáng giống như người Trung Hoa, đầu đội mũ, thân mặc áo và sau
nầy trở thành nước mạnh.
Khi
Vua A Dục còn ở đời cho xây trong cung một Bảo Tháp. Vua nầy sau dời đô về
phía bắc và cố cung làm chùa cho Tôn Giả Đồng Thọ luận sư, có lầu gác cao
rộng, có Phật tượng uy nghiêm. Tôn Giả là người của nước Đản Xoa ý La, lúc
nhỏ đã hiểu biết và sớm ly trần xuất gia, và sách vở còn ghi lại cho biết,
mỗi ngày Tôn Giả tụng ba vạn hai ngàn lời kinh, và đọc ba vạn hai ngàn chữ
trong trang sách. Cho nên đương thời là một bậc học rộng nổi tiếng, hiển
lập chánh pháp, bài xích ngọai đạo tà kiến. Lời giảng cao cả, khó ai có
thể đáp lại được, mà ngay cả năm nước Ấn Độ thấy cũng không ai bằng. Ngài
đã chế ra cả mười bộ Luận. Lời nói và việc làm đi đôi với nhau, tức là
những lời dạy của Phật. Thời ấy, có ngài Mã Minh ở phương đông; Có ngài Đề
Bà ở phía nam; Có ngài Long Mãnh ở phía tây và ngài Đồng Thọ ở phương bắc.
Quý Ngài được xem là bốn mặt trời chiếu thế gian. Vua nước đó nghe uy đức
của Tôn Giả liền cử binh đến chinh phạt nước Đản Xoa Thủy La uy hiếp thỉnh
tôn giả về, rồi xây dựng ngôi Già Lam nầy để mà cúng dường và đảnh lễ.
Phía đông nam của thành đi hơn 300 dặm, có một tảng đá rất lớn và có hai
phòng bằng đá, mỗi một phòng như vậy là nơi nhập diệt tận định của A La
Hán. Các ngài vẫn còn ngồi nguyên không giao động. Hình hài, xương cốt vẫn
không hư mục, mặc dầu đã trải qua bảy trăm năm. Tóc tai vẫn còn ra dài cho
nên mỗi năm chư tăng đều cắt tóc và thay y.
Phía
tây bắc của động đá kia vào nơi núi cao nguy hiểm, đi hơn 200 dặm, đến
đỉnh núi Trà Quyền Xá La. Phía đông của núi bốn bề cung là núi. Đi hơn 100
dặm nữa, đến một địa phương, dù mùa đông hay mùa hạ tuyết và gió vẫn lạnh.
Ở đây chỉ có cây Long Não, còn lúa thóc rất ít. Những cây lớn không nhiều,
chỉ toàn là những cây nhỏ. Tuy có lúc cũng nóng nhưng bầu trời vẫn đầy gió
tuyết. Chỉ có những người lái buôn và tăng lữ đi trong sương tuyết, rất là
khó khăn và nguy hiểm. Nghe người xưa nói:
Xưa
kia có một khách buôn trên vạn dặm xa, dùng lạc đà để chở hàng ngàn loại
hàng hóa. Gặp bão tuyết, người và vật chẳng còn. Lúc ấy, tại nước Yết Bàn
Đà, có một vị Đại A La Hán nhìn thấy thương xót cho sự nguy hiểm nầy, nên
muốn vận thần thông để cứu giúp họ. Khi A La Hán đến thì thương nhân đã
chết. Ngài nhặt những đồ hàng hóa trân quý đó lập nên một nơi bảo vệ tài
sản. Ngài mua đất của nước bên cạnh, làm nơi nuôi duỡng những nhà ở quanh
thành và có cơ sở để cho người tới lui, cho nên ngày nay những người
thương nhân và tu sĩ đi ngang qua đây được chu cấp. Từ phía đông đi xuống
núi gặp một ngọn đồi, leo lên đồi cũng rất nguy hiểm vì phải vượt qua
những động đá, suối khe hiểm trở gió tuyết lại nhiều. Đi hơn 800 dặm ra
khỏi núi đến nước Ô Sát
Nước Ô
Sát có chu vi hơn 1000 dặm. Đô Thành chu vi hơn 10 dặm. Phía nam giáp với
sông Tòng Đà, đất đai màu mỡ, lúa thóc được mùa. Trong rừng có nhiều cây
cao. Hoa quả phồn thịnh. Ở đây có sản xuất nhiều loại ngọc quý, như ngọc
trắng, ngọc lam, ngọc xanh. Khí hậu điều hòa, mưa gió thuận lợi, phong
tục, lễ nghi, tánh tình con người thô bạo, nhiều dối trá, không biết xấu
hổ.Văn tự ngữ ngôn ít giống nước Khư Sa.
Dung
mạo xấu xí.
Y phục
toàn đồ da. Nhưng lại sùng tín, tôn kính Phật Pháp. Có hơn 10 ngôi Già Lam
và hơn 1000 Tăng Sĩ tu theo phái Tiểu Thừa, thuộc Thuyết Nhứt Thiết Hữu
Bộ. Cả hàng trăm năm nay, dòng Vua đã tuyệt tự, không có kẻ nắm quyền cho
nên lệ thuộc nước Yết Bàn Đà.
Cách
thành phía tây hơn 200 dặm có một núi lớn. Khí hậu miền núi rất lạnh, vì
đá và tuyết. Khi băng tan tuyết rã, nguy hiểm vô cùng. Trên đảnh nầy có
một Bảo Tháp, tự nhiên mà có. Nghe người xưa nói lại rằng:
Cả
hàng trăm năm về trước, khi động đá băng hoại, trong đó có một vị Tỳ Kheo
đang ngồi thiền, thân hình vĩ đại và đã khô kiệt. Tóc tai dài xuống đến
vai và mặt. Có một người thợ săn thấy và tâu với Vua. Vua đích thân đến
quan sát và mọi người không mời mà đến, dùng hương hoa rải lên đó mà cúng
dường. Vua bảo người nầy là người như thế nào mà vĩ đại thế. Có một vị Tỳ
Kheo đáp rằng:
Tóc
tai đã dài nhưng mà mặc áo cà sa, lại nhập Diệt Tận Định tức là A La Hán.
Kẻ nhập Diệt Tận Định cho đến kỳ hạn, hoặc nghe tiếng kiền chùy, hoặc chờ
ánh sáng mặt trời chiếu, tự nhiên từ Định trở dậy. Nếu không có sự cảnh
báo ấy thì an nhiên bất động. Nhờ trú trong Định lực nên thân không bị
hoại diệt. Thời gian không ăn đến khi xuất định, dùng một ít cháo sữa thân
thể khỏe lại, rồi sau đó đánh trống, để đánh thức ngài xuất định.
Vua bảo:
- Thế sao?
Vua cho đánh
kiền chùy, âm thanh ấy làm chấn động vị A La Hán tỉnh lại hồi lâu và Vua
hỏi:
- Ngài là ai, mà
hình dáng khác thường vậy?
Y phục
của ông lại là Ca Sa?
Đáp
rằng:
- Tôi
là Tỳ Kheo và Thầy của tôi là ngài Ca Diếp Như Lai đang ở tại đây và nhập
Đại Niết Bàn đã lâu. Mỗi khi nhớ lại tôi buồn vô cùng.
Lại
nói thêm rằng:
-
Thích Ca Như Lai xuất thế rồi chưa?
Đáp
rằng:
- Đã
xuất thế và cũng nhập diệt rồi.
Nghe
xong liền cúi đầu và bay lên hư không hiện thần thông biến hóa rồi dùng
lửa tam muội thiêu thân, di cốt rơi xuống đất. Vua nhặt cốt để xây tháp.
Đi về
phía bắc hướng núi Tích Quảng Giả hơn 500 dặm đến nước Khư Sa.
Nước
Khư Sa có chu vi hơn 5000 dặm, toàn là cát và đất đai rất ít nhưng ngũ cốc
tốt tươi, hoa trái đa dạng. Xứ nầy chuyên sản xuất lông cừu và bông vải.
Khí hậu ở đây điều hòa, nhưng đôi khi nhiều gió mưa. Tánh tình con người
cuồng bạo, thường dối trá. Lễ nghi thô thiển. Nghề nghiệp hời hợt. Tục lệ
khi sinh con, viết lên bảng để báo tin. Dung mạo khá xấu xí, Hình dáng rất
xanh nhạt. Ở đây, dùng văn tự Ấn Độ.
Sách vở sửa đổi
nhiều. Ngôn ngữ tiếng nói đều khác với các nước. Ở đây họ tin tưởng theo
Phật Pháp. Khuyến khích làm việc thiện, có hơn 100 ngôi Già Lam, và hơn
vạn tăng đồ. Họ học tập theo Tiểu thừa thuộc Thuyết Nhứt Thiết Hữu Bộ.
Không cần tìm hiểu nguồn gốc sâu xa. Đa phần đều đọc thuộc những bản kinh,
tụng thuộc làu Tam Tạng. Có nhiều người thuộc Tỳ Bà Sa. Từ phía đông nam,
đi hơn 500 dặm đến sông Tế Độ Đa. Qua khỏi sông lớn gặp núi đến nước
Nghiên Cẩu Da.
Nước Nghiên Cẩu
Da chu vi hơn 1000 dặm. Đô thành chu vi hơn 10 dặm. Nơi đây rất nguy hiểm
nhưng nhà cửa xây dựng kiên cố, có rất nhiều người ở. Núi non trùng trùng
điệp điệp. Đất đầy sỏi đá, giáp với hai con sông. Cho nên ở đây người ta
trồng nhiều nho, lê và quả tần...Rau cải xanh tốt. Có gió lạnh. Người ở
đây tánh tình thô bạo. Tập tục dối trá, hay làm những việc trộm cướp. Văn
tự giống như nước Cù Tác Đản Na. Ngôn ngữ lại khác. Xem nhẹ lễ nghi. Nghề
nghiệp thiển cận. Có tín tâm Tam Bảo ham làm việc phước lợi. Có 10 ngôi
Già Lam, đa phần bị hư hoại và hơn 100 Tăng Sĩ, tu học theo phái Đại Thừa.
Biên giới phía nam của đất nước nầy, có một núi lớn. Đỉnh cao chót vót.
Núi non quanh co bao bọc. Mùa đông không còn cây cỏ. Mùa xuân tươi tốt.
Khe suối có nhiều nước chảy. Có nhiều động đá và có nhiều cây cối. Những
vị tu sĩ Ấn Độ chứng quả thường dùng thần túc thông dạo chơi và thường
dừng chân xứ nầy. Ở đây có nhiều vị A La Hán tịch diệt cho nên còn nhiều
Bảo Tháp lưu lại. Cho đến bây giờ vẫn còn ba vị A La Hán tọa thiền trong
động đá đang nhập Diệt Tận Định. Hình hài tóc tai ra dài. Các vị Sa Môn
đến đây cắt tóc cho họ. Ở nước nầy kinh điển Đại Thừa có rất nhiều và Phật
Pháp truyền đến chẳng bao lâu thì hưng thạnh. Có người đọc tụng cả mười
vạn bộ. Hiện có 10 người. Từ đó về sau kinh điển được lưu truyền rộng rãi
ra. Đi về phía đông vào núi và qua khỏi hang động, đi hơn 800 dặm nữa đến
nước Cù Tác Đản Na.
Nước Cù Tác Đản
Na (Nước Vu Điền Custanna) chu vi hơn 4000 dặm, hơn quá nữa là cát đá, đất
đai thì hẹp, cày cấy trồng trọt được hoa quả nhiều, sản xuất nhiều lông
trừu và có nhiều bông vải. Lại cũng có sản xuất bạch ngọc và lam ngọc. Khí
hậu điều hòa, gió nhiều. Người dân ở đây biết trọng lễ nghĩa, tánh tình
thuần hậu, ham học điển chương, nghề nghiệp kỹ thuật tốt. Dân chúng giàu
có cho nên an vui với nghề nghiệp. Trong nước thường thích nghe âm nhạc và
nhiều người thích múa hát. Ít người mặc áo bằng lông hoặc da. Đa phần mặc
vải sợi màu trắng. Hình mạo lễ nghi phong tục có kỹ cương. Văn tự hiến
chương đều tôn sùng Ấn Độ, có sửa đổi lại một ít, vì địa lý cách trở.
Tiếng nói khác với các nước khác, sùng kính Phật Pháp. Có hơn 100 ngôi Già
Lam, và hơn 5000 tu sĩ đa phần tu theo Đại Thừa Phật giáo. Nhà Vua rất tôn
kính Tam Bảo. Tự ví mình như một vị Tỳ Sa Môn Thiên.
Ngày xưa ở nước
nầy, chẳng có người, Tỳ Sa Môn Thiên xuống đây. Thái Tử con Vua A Dục ở
tại nước Đản Xoa Thủy La bị Vua giận ra lệnh móc mắt và đày xuống làm
thường dân lên ở trong những hang động hoang phế trên núi tuyết đến ở phía
bắc. Vua chuyển người và vật ở đó về phía tây. Rồi suy cử người quý phái
khác lên làm Vương. Trong khi đó, con của Vua lưu chuyển đến đây và tụ họp
mọi người lại cũng xưng vương. Thời gian tuy lâu nhưng phong tục chẳng
thuần.
Những người thợ
săn gặp nơi hoang phế liền hỏi tông tích rồi bèn tranh nhau chức trưởng.
Hai bên tranh qua lại rồi muốn đánh nhau. Có bên nói:
- Nguyên nhân gì
mà người thợ săn quyết chiến cho khổ binh lính. Nên rút binh về.
Nghe vậy liền
kéo binh lui về. Những người trở về lại nước liền luyện tập binh mã đốc
suất sĩ tốt đem binh đến, cờ trống gióng lên ngày đêm để hợp chiến. Người
chủ phía tây bất lợi chạy đến phía bắc bị chém đầu, chủ phía đông thừa
thắng phủ dụ kẻ mất nước dời đô về giữa nước thành lập nhà cửa làng xóm.
Sợ việc không có đất đai, khủng hoảng khó thành công, cho nên báo tin cho
xa gần biết ai biết về địa lý thì hãy đến xem.
Lúc bấy giờ có
một ngoại đạo lõa thể, tự phụ khoa trương biết rành phong thủy cho nên
tiến đến nói:
- Tôi biết về
địa lý, dưới này có nước ngầm đang chảy chung quanh đây cho nên bịnh tật
khó có thể qua được. nhưng căn cứ vào nước ngầm mà xây dựng cơ đồ. Sau đó
sẽ được hưng thịnh, cứ thế mà tiếp tục trị nước.
Vua bây giờ vẫn
ở thành ấy. Thành khó vào cho nên việc công phá khó thành công. Từ xưa đến
nay chưa ai có thể thắng. Vua dời đô đến đây để lập ấp xây dựng đất nước
và an dân. Tích công bồi đức mà thành nhưng sợ tuyệt tự không còn kẻ nối
dõi cho nên đến nơi Thiên Thần Tỳ Sa Môn để kỳ nguyện thỉnh cầu. Tượng
thần ở bên trên ban cho một đứa bé anh tài bồng về nước mình. Dân chúng
hoan ca, nhưng cậu bé không biết uống sữa. Vua sợ không thọ liền sắc chỉ
cho người giữ đền chăm sóc duỡng dục. Trước mặt của thần từ dưới đất vụt
lên một giòng nước như dòng sữa. Đứa bé đó uống cạn, càng ngày, càng lớn
trí dũng đa mưu thắp sáng lên phong tục rồi dựng đền thờ trở thành tiên
tổ. Từ đó về sau đời đời kế thừa mà Vua chúa nước nầy chưa bao giờ thất
bại với nước bên cạnh, nên cho đến bây giờ miếu thần có nhiều đồ trân quý
được người ta đem đến cúng. Vì thế nước ấy lấy tên là sữa từ đất để làm
quốc hiệu.
Cách Vương thành
về phía nam hơn 10 dặm có một Đại Già Lam, tiên vương của xứ nầy vì vị A
La Hán Tỳ Lô Kỳ Na đã kiến lập nên. Tích xưa kể rằng:
Nước nầy khi
Phật Pháp chưa có, có vị A La Hán từ nước Ca Thấp Di La đến rừng ở đây tọa
thiền định. Có kẻ thấy người mặc y phục lạ bèn tâu Vua. Vua đích thân đến
xem dung mạo, hỏi ngài là ai mà ở trong rừng vắng vẻ như vậy. Vị A La Hán
đáp:
- Tôi là đệ tử
của Phật thích ở nơi vắng vẻ để thiền định.
Vua nghe như vậy
muốn trồng cây phước và hoằng truyền Phật Pháp cho nên kiến tạo Già Lam và
mời tăng chúng đến. Vua hỏi:
- Như Lai là vị
có đức gì, có thần gì, mà ông chuyên cần khổ hạnh phụng thờ như thế?
Đáp rằng:
- Như Lai là bậc
thương xót bốn loài, muốn đưa họ ra khỏi tam giới hoặc rõ ràng, hoặc thí
dụ để chỉ cho chúng sanh sự sanh và sự diệt. Ai tôn kính Pháp nầy sẽ xa
lìa sanh tử. Kẻ nào mê mờ sẽ bị sa đọa nơi lưới ái.
Vua bảo:
- Thực là một lý
Thuyết có ý nghĩa cao siêu của bậc đại thánh. Nếu là bậc Đại Thánh vì ta
nên hiện hình để ta được chiêm ngưỡng, ta sẽ kiến lập chùa Viện phát tâm
quy y hoằng dương Chánh Pháp.
A
La Hán nói:
- Vua
xây dựng Già Lam thành công, sẽ được cảm ứng.
Sau đó
Vua cho xây Già Lam rồi triệu tập người xa gần đến làm Pháp Hội ăn mừng.
Khi tiếng kiền chùy chưa dứt lúc triệu tập, Vua hỏi vị A La Hán rằng:
- Ngôi
Già Lam đã xây xong, Phật ở đâu?
A La
Hán đáp:
- Đang
đến. Ở gần bên ngài chớ không có xa. Vua nên lễ thỉnh.
Đoạn
từ trên hư không thấy tượng Phật hạ xuống nơi chỗ đánh kiền chùy. Nhờ thế
Vua phát tín tâm với Tam Bảo và nguyện hoằng dương Phật Pháp.
Phía
tây nam của Vương thành hơn 20 dặm, có một núi tên là Cù Thất Lăng Già.
Trên đỉnh, núi chẻ ra làm đôi, kiến tạo Già Lam trên đó, bên trong có
tượng Phật chiếu sáng. Nơi đây ngày xưa Như Lai cũng đã từng đến, đã vì
trời người mà lược nói những pháp quan trọng. Và theo huyền ký đất nước
được lập quốc, sùng kính Giáo Pháp tôn trọng Đại Thừa.
Trên
đảnh núi ấy, có một động đá lớn. Trong đó, một vị A La Hán đang nhập Diệt
Tận Định để chờ đức Di Lặc ra đời. Cả hàng trăm năm nay, sự cúng dường
liên tục không dừng. Gần đây núi bị lỡ và cửa động vẫn bị khóa. Quốc Vương
sai binh lính muốn dẹp dọn đá vỡ. Lúc đó ong đen trên đỉnh bay xuống chích
độc vào người, cho đến bây giờ cửa động ấy vẫn không mở được.
Cách
Vương thành về phía tây nam hơn 10 dặm, có một thành tên là Địa Già Ba
Phượt Na. Bên trong có một tượng Phật. Tượng ấy từ nước Nhục Chi mang đến.
Ngày xưa ở đây có Vua, nhưng bị bắt đem qua ở bên nước Nhục Chi gửi tượng
Phật này về tạ lễ mong rằng được trở về lại nước. Vì muốn về nước cho nên
tâm luôn luôn cung kính Phật. Sau một đêm cầu nguyện tượng kia tự đến nước
nầy. Người ở đây, lấy nhà sửa đổi thành Già Lam.
Cách
phía tây Vương thành đi hơn 200 dặm đến thành Lạc Già Di, trong đó một
tượng Phật ngồi cao hơn 7 thước, tướng hảo trang nghiêm, uy nghi tịch
tịnh. Trên đầu có bảo cái, ánh sáng chiếu ra. Nghe người xưa bảo lại rằng
chỗ nầy thuộc nước Ca Thấp Di La, thỉnh đến nơi nầy, có một vị A La Hán.
Vị ấy có một đệ tử Sa Di lâm bệnh rồi mất. Muốn tìm đồ ăn, vị A La Hán
dùng thiên nhãn để thấy, ở nước Cù Tát La có hương vị nầy nên vận thần
thông lực đến để tìm. Sa Di ăn được xong nguyện sanh về nước nầy. Do quả
đó mà được làm Vua rồi tức vị uy hiếp xa gần, rồi vào trong núi Tuyết
chinh phạt nước Ca Thấp Di La. Vua nước Ca Thấp Di La chỉnh trang binh mã
muốn ngự đến biên thùy. Lúc ấy vị A La Hán thưa rằng:
- Chớ
nên dùng binh, tôi có thể làm cho họ rút lui.
A La
Hán tìm gặp Vua Câu Tác Đản Na thuyết pháp. Lúc đầu Vua chưa tin, vẫn giữ
ý dụng binh. A La Hán bèn giữ Vua nầy chỉ cho Vua thấy thân trước là Sa
Di. Khi nhà Vua thấy được y áo của Sa Di liền chứng được túc mạng trí, bèn
cảm tạ Vua Ca Thấp Di La hai bên giao hảo rồi rút binh, tiếp đón tượng của
ông Sa Di và cúng dường theo lễ nghi của Vua. Tượng ấy cho đến nay vẫn còn
ở đây không ai di chuyển được. Hoặc kiến tạo Già Lam, hoặc mời Tăng Lữ đến
ở. Lấy bảo cái bên trên tượng ra, mà bảo cái đó Vua trước cúng thí.
Phía
tây Vương thành cách hơn 156 dặm. Ngay giữa đường đi có một gò cát nổi,
chuột làm ổ ở đó. Tương truyền rằng trong gò cát nầy chuột lớn như con
nhím. Lông nó màu vàng bạc. Sống thành nhóm, mỗi lần ra khỏi hang chúng
chạy nối đuôi theo con đầu đàn. Ngày xưa ở tại đây bọn hung nô có cả trên
mười vạn người tấn công vương thành. Đến đóng quân tại nơi gò chuột nầy.
Vua Cù Tát Đản Na đem vạn binh tới nhưng sợ địch không nổi. Biết rằng
trong mộ kia có chuột chưa phải là thần, nhưng chuyện đến gấp không thể
cầu cứu được. Vì sợ và chưa biết kế gì nên ông thiết lễ cầu thỉnh rằng
chuột có linh thiêng gia nhập vào quân lực. Trong đêm đó Vua mộng thấy con
chuột lớn nói rằng sẽ hổ trợ cho binh lính đến ngày hôm sau hợp chiến tất
nhiên thắng lợi. Vua Cù Tát Đản Na biết rằng có sự linh hiển cho nên chỉnh
trang binh mã ra lệnh cho tướng sĩ. Trời chưa sáng đã ra đi. Từ xa hung nô
nghe thấy tiếng nhưng chưa chưẩn bị. Rồi lên xa giá, cưỡi ngựa mang cung
tên v.v....Không ngờ chuột bò ra cắn đứt dây đai khi giáp trận, binh lính
bên nầy thừa thắng tấn công. Binh lính hung nô sợ hãi, vì biết có thần
linh giúp đỡ bên kia nên tan rã. Vua Cù Tát Đản Na cảm ơn chuột nên dựng
đền nầy để cúng tế. Trải qua đời đời đều tôn kính đặc biệt khác thường.
Cho nên trên từ quân vương dưới đến lê thứ, hoặc sửa sang đền thờ, hoặc
đến đây cầu phước. Khi đi đến hang đó thường xuống xa mã, tỏ lòng tôn
kính. Thường hay cúng tế cầu phước bằng y phục và cung tên hoặc hương hoa
đồ ăn v.v.....Lâu ngày thành một tục lệ. Nếu không cúng tế sẽ có tai biến.
Cách
phía tây của thành hơn 5 hay 6 dặm, có một ngôi Già Lam tên là Ba Ma
Nhược, trong đó có một Bảo Tháp cao hơn 100 thước, thật là linh diệu,
thường phát ra ánh sáng. Tương truyền rằng có một vị A La Hán từ xa đến
dừng chân ở trong rừng nầy dùng đại thần lực phóng đại hào quang. Lúc ấy
vào ban đêm vua ở trong cung điện nhìn vào rừng thấy ánh sáng chiếu diệu,
cho nên mới hỏi và được báo lại rằng:
- Có
một Sa Môn từ xa đến, ngồi yên trong rừng sâu hiện đại thần thông.
Vua
bèn ra lệnh xa giá đích thân đến quan sát, thấy được người hiền, tâm thầm
cung kính. Khâm thừa lời thỉnh, A La Hán cỡi gió đến cung Vua.
Sa Môn nói:
- Muôn
vật đều có ý chí và có sự tồn tại. Rừng sâu, đầm lạnh cũng có tình thức.
Nhà cao, lầu đẹp cũng chẳng phải là điều ta nghe.
Vua
thấy thế càng thêm kính ngưỡng hơn nữa, cho nên Vua kiến tạo Già Lam và
xây Bảo Tháp. Sa Môn thọ sự thỉnh cầu và ở yên trong đó. Rồi Vua nhận được
cả hàng trăm viên xá lợi rất vui mừng liền tự nghĩ rằng:
Xá Lợi
ứng hiện như thế có điềm gì, liền cho an trí vào nơi bảo tháp, há chẳng
phải là một Thánh tích sao? Tìm đến Già Lam bạch cùng Sa Môn và vị A La
Hán bảo rằng.
Vua
đừng có lo. Bây giờ an trí vào rồi sẽ có vàng bạc đồng thiếc ở trong động
đá đấy nữa, mà càng ngày càng nhiều.
Vua ra
lệnh cho thợ phải hoàn tất trong vòng một ngày rồi chở những bảo vật ấy
đem vào cúng dường trong Già Lam. Lúc ấy, cung Vua quan dẫn hàng vạn thứ
dân đến chiêm ngưỡng và cung nghinh xá lợi. Vị A La Hán nâng Bảo Tháp đặt
vào giữa và nói với Vua:
- Có
thể giữ ở đây rồi sẽ để yên trong hộp nơi đất. Sau đó để vào tháp chẳng có
mất mác. Xem xong liền than rằng thật là hiếm có rồi tâm thâm tín Phật
càng tăng và lòng kính trọng Giáo Pháp càng kiên cố. Vua nói với quần
thần:
- Ta
thường nghe Phật lực khó biết, thần thông khó được, hoặc phân thân trăm
ngàn ức lần, hoặc ứng hiện nơi trời người, ở thế giới nầy cầm giữ chúng
sanh, làm cho không động tịnh rồi diễn nói pháp tánh với âm thanh bình
thường, chúng sanh tùy từng loại một mà giác ngộ. Đây là loại thần lực
chẳng phải binh lính mà trí tuệ không phải dùng lời. Sự linh thiêng đó đã
làm ổn định lời dạy dỗ truyền đạt. Thức ăn nước uống theo gió mà đến. Thấy
sự linh diệu nầy càng tin tưởng vào phước đức hơn. Rồi ai nấy cũng tôn
kính sâu xa. Phật Pháp cao sâu đã làm sáng ra điều đó.
Phía
đông nam vương thành đi năm sáu dặm, có ngôi Già Lam tên là Ma Xà. Già Lam
do Hoàng hậu của nước nầy lập nên. Ngày xưa nước ấy chưa biết dệt vải nuôi
tằm. Cho nên ra lệnh cho sứ đi tìm nơi nước phía đông. Lúc ấy, Vua nước
phía đông nghiêm cấm không cho xuất cảng tơ tằm ra ngoài, cho nên Vua Cù
Tát Đản Na mới cầu hôn với nước phía đông để mong được giống như chí
nguyện. Sự thỉnh cầu của Vua được như ý. Sau đó Vua Cù Tác Đản Na ra lệnh
đi đón dâu và nói:
- Cô
sẽ là quận chúa từ phía đông thuộc nước của cha nơi đây, chưa có loại tơ
sợi dâu tằm, cho nên cố gắng mang đến để may y phục.
Công
nương nghe lời liền mật tìm được loại ấy, rồi cho con tằm bỏ vào trong lá
dâu để mang đi và canh phòng cẩn mật. Mọi người bị lục soát, nhưng trên mũ
của vương nữ không bị kiểm tra. Dâu tằm được mang vào nước Cưu Tác Ma Đản
Na. Quận chúa ở tạm chùa Ma Tạ. Rồi từ đó dùng nghi lễ nghinh vào cung
nội. Mùa xuân cây dâu được trồng xuống đất. Khi con tằm đến tháng, lá dâu
nuôi duỡng. Đây là thức ăn chính của tằm. Từ đó về sau cây dâu càng ngày
càng nhiều. Vương phi đã cho khắc lên bia đá không được giết hại tằm, vì
tằm ấy sẽ nở ra con. Nếu ai vi phạm, sẽ bị thần linh phạt vạ. Vì con tằm
ấy mà kiến tạo nên Già Lam và dùng rất nhiều cây dâu khô. Đây là cây căn
bản cho tằm. Ra lệnh nước đó không được giết hại tằm, rồi thâu lấy những
loại tơ sang năm sẽ có tằm trở lại.
Về
phía đông nam của thành đi hơn 100 dặm có một sông lớn chảy qua hướng tây
bắc. Người dân ở đó lợi dụng để đưa nước vào ruộng và cứ tiếp tục chảy mãi
như thế. Nhà Vua thầm kinh dị liền xa giá đến hỏi vị A La Hán rằng:
- Nước
của sông lớn mà người dân lấy đi như vậy có làm giảm nguồn nước và ở có
yên không, chánh sự có bình thường không, cái đức có hợp chăng. Chẳng biết
việc gì xảy ra nữa?
A La
Hán đáp:
- Đại
Vương trị nước đã thuần hóa nhân dân. Nước sông lưu chảy vì Long Vương đã
từ xa do sự cầu khẩn mà làm lợi ích.
Do vậy, Vua hồi giá dựng đền thờ Long Vương. Có một người con gái
bị chết chìm, đến nói rằng:
- Con bị chết
sớm, Vua không có người nối dõi cho nên nước sông kia còn chảy thì làm cho
nông dân thất lợi. Vua nên tuyển một người trong quốc nội gã cho con thì
nước sẽ chảy trở lại như xưa.
Vua đáp
- Ta đồng ý ước
muốn của ngươi.
Con
rồng vui vẻ với vị Đại Thần. Vua liền hồi giá họp quần thần lại và bảo.
- Đại
thần của các nước đã trấn giữ. Sự ăn uống của con người là do nông vụ cung
cấp. Nước mà không có sự trấn giữ thì sẽ nguy nan. Người mà không ăn sẽ
chết. Sự nguy hiểm của chết chóc đến có thể làm gì được.
Đại
thần rời khỏi ghế quỳ xuống mà tâu rằng:
- Đã
lâu rồi lãnh trọng trách nầy thường muốn báo đền ơn nước mà chưa gặp lúc.
Nay phần dự tuyển nầy đã đến, thật là đúng lúc. Há trong bá tánh chỉ có
một mình thần, mà thần là cánh tay phải của đất nước. Đất nước đối với
người là chánh. Nguyện đại vương nên xét lại, vì hạnh phúc của người dân
mà tu phước kiến tạo Già Lam
Vua đã
theo sự mong cầu mà làm trong vòng một ngày. Vị thần kia được thỉnh vào
Long cung và đã cùng quốc dân đánh trống thổi nhạc ăn uống. Rồi vị thần đó
mặc áo cỡi ngựa trắng từ tạ Vua, cảm tạ Quốc Dân, cùng ngựa lặn vào trong
nước. Vào trong nước mà không bị chết đuối, rồi chạy dọc theo dòng nước.
Nước đã mở ra rộng dần, rộng dần mãi, còn con Bạch Mã thì nổi lên mang lên
một trống chiên đàn cùng một phong thư. Trong thư đại ý viết rằng:
- Đại
Vương rất là tử tế tuyển chọn thần không sai. Nguyện vì lợi ích của quốc
dân mà làm thần. Cái trống lớn nầy nên treo phía đông nam của thành. Nếu
có kẻ cướp đến, đánh trống lên sẽ bị chấn động, nước sông sẽ chảy.
Cho
đến bây giờ người ta vẫn còn lợi dụng, nước chảy nhưng thời gian năm tháng
cái trống của rồng không còn nữa và sự linh nghiệm của ngày xưa, bây giờ
chỉ còn một cái ao hoang phế nằm bên cạnh Già Lam chẳng có Tăng đồ.
Cách
Vương thành về phía đông hơn 300 dặm, có một đầm lớn hoang sơ. Trong đó có
mười khoảng đất trống không có cây cỏ. Đất ở đây màu đen màu đỏ. Nghe các
bậc kỳ lão kể rằng:
Đây là
nơi bại quân. Ngày xưa hàng trăm vạn binh lính từ phía đông kéo qua xâm
lăng. Lúc ấy Vua Cù Tát Đản Na cũng chỉnh trang binh mã, số hơn vạn người
chống lại quân bên đông. Khi đến đây, hai bên quân lính xáp trận đánh
nhau. Binh phía tây thất lợi nên binh phía đông thừa thắng tàn sát và Vua
cũng bị giết cho nên thù nầy sĩ tốt chưa phục hận được và máu huyết ấy
nhuộm đất nầy trở thành màu như vậy.
Cách
chiến địa về phía đông hơn 30 dặm đến thành Câu Ma. Nơi đây có khắc một
tượng Phật đứng bằng cây Bạch Đàn cao hơn 2 thước, rất linh ứng, thường
chiếu ra ánh sáng. Phàm có kẻ tật bịnh đến cầu nguyện. Họ dùng vàng lá dán
lên tượng và dùng tâm chí thành cầu nguyện bịnh kia được thuyên giảm. Nghe
người xưa nói lại rằng:
-
Tượng Phật ấy ngày xưa khi còn tại thế do Vua Ô Đà Diễn Na của nước Kiều
Thường Di làm nên. Sau khi Phật Nhập Diệt rồi. Tượng ấy tự bay lên hư
không đến nước nầy và ở thành Yết Lao Lạt Già nằm phía bắc. Lúc đầu, khi
tượng vừa đến thành thì nhân dân an lạc giàu có. Sự thâm tín tà kiến bây
giờ không còn trân quý nữa. Họ truyền nhau rằng từ đó thần không được quý
trọng. Sau đó có một vị A La Hán đến lễ bái tượng và người dân rất kinh
ngạc lạ lùng trước dung mạo và y phục cho nên mới đến tâu Vua và Vua hạ
lệnh lấy đất cát để phủ lên người nầy. Thời A La Hán bị đất cát phủ lên
thân, không ăn uống gì được. Lúc bấy giờ có một người chẳng nhẫn được vì
ngày trước thường cung kính tôn trọng lễ bái tượng nầy, lại thấy vị A La
Hán không ăn uống được cho nên vị A La Hán đến bảo người này rằng sau bảy
ngày thường có mưa, cát và đất sẽ chôn lấp đầy cái thành nầy, không trừ
một loại nào. Ngươi nên biết mà hãy đi sớm đi. Nếu mà bị bột phủ lên tôi
thì tai ương không thể lường được. Nói xong rồi đi không ai thấy nữa.
Người ấy vào thành báo cho mọi người biết. Có người nghe chưa tin mà còn
cười. Đến ngày thứ hai gió lớn thổi đến, mưa nặng hạt, nước dâng lên
đường. Người mà bị chửi bới đó bây giờ họ mới biết tâm của người nầy và họ
đã mở đường sống bằng cách đục một cái hang ra khỏi thành. Đến đêm ngày
thứ bảy, mưa cát và đất đầy trong thành. Mọi người ra khỏi thành bằng
đường hầm. Đi về phía đông đến nước này dừng lại ở thành Câu Ma. Người lạ
lùng đó đến viếng tượng nầy cúng dường mà không thể di chuyển cái tượng
được. Nghe người xưa kể lại rằng:
- Khi
Giáo Pháp của đức Như Lai diệt tận rồi, tượng nầy sẽ vào Long cung và bây
giờ tượng còn ở tại nước thành Yết Lao Lạt Già. Đa phần các vị quân vương
của các nước khác đều muốn đào lên để lấy Bảo Vật nầy; nhưng liền bị gió
mạnh thổi đến một cách tàn bạo, khói lửa sấm sét nổi lên bốn bề, không
thấy đường sá. Sông Côn Ma ở phía đông cát tràn vào đầy. Đi hơn 200 dặm,
đến thành Ni Hoạch. Chu vi thành nầy khoảng ba bốn dặm. Tại giữa hồ, nước
rất nóng, khó có thể lội được. Cỏ cây hoang tàn chẳng mọc được, chỉ có một
con đường thông qua thành có thể đi được mà khách vãng lai chưa biết lý do
thành nầy. Nguyên do là Vua Cù Tát Đản Na đã vì biên giới phía đông mà
phòng ngừa cho nên từ đây qua đông phải vào trong một bãi cát lớn. Bãi cát
đó tụ tán tùy theo gió thổi. Người đi khó để lại dấu vết, nhiều lúc quên
đường. Bốn phía mênh mông chẳng biết nơi đâu. Có nhiều khách vãng lai đã
để lại hài cốt nơi nầy. Hiếm nước, cỏ nhiều, gió nóng. Khi gió thổi người
và vật bị hôn mê, nhân đây thành bịnh. Lúc ấy nghe tiếng ca hát hoặc nghe
tiếng khóc lóc bi thương. Khi nghe thấy như vậy thì bỗng nhiên chẳng còn
thấy đâu nữa mà mạng mình cũng bị diệt vong theo. Đây là do quỷ mị hôn ám
che lấp vậy. Đi hơn 400 dặm đến nước Đổ La. Nước nầy thành không nhà trống
tất cả đều hoang phế. Từ đây đi về phía đông hơn 600 dặm, đến nước Kỳ Ma
Đà Na.
Nước
Kỳ Ma Đà Na thuộc xứ Ổn Mạt, thành quách xiêu vẹo. Chẳng thấy một bóng
người. Từ đây đi về phía đông bắc hơn 1000 dặm, đến nước Nạp Phạt Ba tức
là thuộc đất Lầu Lang. Nơi đây sông núi hiện hữu nhưng khó tường. Nước nầy
phong tục cương nhu. Đất nước gió lửa động tĩnh khó lường.
Sự thế
khó lường chẳng biết nói sao cho đủ. Sự ra đi đã được tùy nguyện nên sự
trở về chỉ lược nói như thế thôi. Ai nghe biết được việc nầy mà cảm hóa,
thì cũng biết rằng ngày tháng đã trôi qua và tương lai sẽ thấm nhuần ơn
huệ. Gió bụi trên đường dài cùng với lòng khát ngưỡng cái đức ở trong
thiên hạ mà giữ lấy bên trong. Cái đức đó đồng với thiên hạ trong vũ trụ
nầy. Há một kẻ đơn thương độc mã ra đi làm sứ giả thông qua vạn dặm. Chẳng
đúng sao?
Ghi
lại nơi đây rằng thật là vui thay. Pháp Vương đã ứng thế vận chuyển đã
giáo hóa sinh linh. Dùng thần thông để biến hoá nơi hư không cho đến hình
thức con người nơi sa giới. Tất cả đều khởi lên sự cảm tạ nơi kiếp trần
ai. Hình hài tuy mai một nhưng sự ứng hóa thì chẳng sanh. Thâm tạ nơi hiển
thị tịch diệt nhưng thật ra không diệt. Há thật nơi dòng họ Thích Ca mà
giáng thế, nơi Sa La diệt độ, phải nên biết rằng đó chỉ là ứng vật giao
linh. Cảm đến nhân duyên mà tồn tại, làm cho mọi loài được lợi lạc. Nơi
dòng họ Thích Ca là bậc trung tôn kính ngưỡng. Đối với bên ngoài đã từ bỏ
ngôi vị Kim Luân mà ngự phục trong Pháp giới, bỏ sự giàu sang mà nhiếp hóa
hàm sanh trong mười phương. Biết tất cả vạn vật tuy rằng khó ra khỏi mà ai
nghe được ba lần chuyển Pháp Luân trong đại thiên. Âm thanh chấn động đến
mọi loài, tám vạn pháp môn riêng biệt, mười hai bộ kinh làm tông yếu. Đây
là văn giáo làm tươi nhuận quần sanh. Phước đức giống như rừng, gió mưa
như trống giục. Chở nơi này đến nơi thọ mạng, mà Thánh Hiền do nghiệp dĩ
mà thành. Trời người cũng nằm trong nghĩa ấy. Sau nầy quên đi sự động tịch
giữ vững nơi rừng sâu, biết trước sau thế gian đều là huyễn cảnh, nhưng
không thể chờ đợi, chẳng có gì mà không toại nguyện. Tôn giả Ca Diếp đã
chọn ứng chân, muốn báo ân Phật liền vân tập Pháp bảo, gồm lại trước sau
ba tạng thiết yếu. Vì sự chấp trước của bộ phái mà giáo pháp có khác nhau
trong sự tồn tại.
Từ khi
giáng sanh cho đến khi thác hóa, nơi Thánh tích cả ngàn sự biến dạng linh
hiển vạn năng. Điều linh hiển ấy khôn cùng. Dạy cái lẽ vô vi mà mới thêm
vào cho đẹp kinh văn. Rồi biên chép rõ ràng lưu truyền sau đó trở thành
lời nói. Tuy khác nghĩa nhưng hổ tương nhau đầu đuôi đều là những lời chân
chánh. Vì sự thật mà sao lục lại, vì đại chúng mà luận nói nghĩa văn.
Huống gì Chánh Pháp lại thâm sâu mà lý giải lại nông cạn. Sự nghiên cứu về
áo nghĩa cũng như văn chương có nhiều sự liên hệ, cho nên trước phải tu
cái đức, kế tiếp mới học cái việc dịch kinh để cho người sau làm mô phạm
vì thế mà giản lược lời văn, mà ý nghĩa lớn vẫn không bị che lấp. Lời nói
ấy chưa được nghe, thì giáo pháp lần lần lưu chuyển.
Qua
nhiều năm tháng bắt đầu từ nhà Hán đến bây giờ. Vua ra lệnh truyền dịch để
đời đời được lưu danh sáng ngời nơi hậu thế. Cái lẽ huyền diệu của Đạo
chưa được hả dạ mà cái chân tông ấy như là mùi ngon. Chẳng phải bậc Thánh
dạy để làm hành trạng mà do Vua được phong hóa có nên. Ta đã được sinh ra
trong triều đại nhà Đường làm cái việc nổi trôi nơi Hải ngọai. Khảo sát
những hành tung của Thánh Nhơn vì tiên vương mà tìm nên điển cũ. Nhằm thời
tượng pháp khuất đi lời dạy mà đạo chẳng phải là cái không không. Sự
truyền thừa là do cái đức sáng làm cho ba thừa áo nghĩa che khuất cả nghìn
năm, mười lực hiển linh xa xôi ngoài vạn dặm. Thần thông chẳng có nhưng
lời dạy của Thánh ly kỳ cho nên chờ nhân duyên thuận tiện mới dùng lời nói
để làm tin. Phàm Huyền Trang Pháp Sư nầy việc chú giải rõ ràng lưu chuyển
như sấm như nước cuồn cuộn chảy như sông kia, đó đều do cái đức bên trên
mà làm tỏ rõ vậy. Thân ngũ uẩn điều hòa thuận lợi là do hợp với cái đức
của lòng người. Sống trong sạch ra đi đơn độc là do cây phước lấy làm
nhơn. Thân mệnh nầy ngẫu nhiên trôi nổi ở trong kiếp phù trần ở yên học
tập. Thờ thầy trước với lời giáo huấn, ngưỡng vọng cái triết lý sâu xa, vì
cái đức mà phụ tất cả để ra đi học hỏi. Đi đến nơi xa xôi để học tập rồi
lưu lạc nơi xứ người. Trải qua không biết bao nhiêu nơi chốn. Bỏ lại sau
lưng ba sông mà vào nước Tần, đi bộ ba phen vào nơi đất Thục, rồi đến nước
Ngô, học hỏi tìm cầu nhận được bao nhiêu lời khưyến khích của những bậc
mẫn thế anh hiền. Thông cảm cho ý chí cầu pháp mà vì những dư luận xôn
xao. Khảo sát lòng người tìm kẻ chuyên môn giúp sức. Sự ghen ghét của
người ngoại đạo, do tấm chân tình trải rộng bàn sâu mà ý chí còn tồn tại
để khảo tra tinh tế. Thuộc bốn biển, lại có nơi cắt đứt gặp tám bề chẳng
phải không Nghiêu. Vào ngày mồng một giữa mùa thu năm Trinh Quán thứ ba,
đã y áo ra đi, chống gậy mà thẳng tiến. Nhờ ơn đức của Vua mà hỏi đường ra
đi chỉ một mình cô độc. Khỏi cửa thiết, gặp cửa đá hiểm nguy, vào rừng sâu
vượt núi tuyết gian nan muôn phần. Nhiều lần khó khăn mới đến được Ấn Độ.
Thấy phong tục tập quán của nước đặc thù như thay đổi vào lãnh vực khác.
Tự thân lo học Phạn ngữ tìm cầu triết nhân. Những điều nghi đã được rõ nhờ
chữ nghĩa phơi bày. Yếu chỉ học vấn rộng rãi tài cao cũng nhờ hồng ân gia
hộ mà thâm sâu diệu lý. Đó là cái đạo của con người vậy. Nghe cái điều
chưa từng nghe, được những gì chưa từng được. Vì đạo tràng mà làm lợi ích
cho mọi người, đã trở thành Long Tượng trong Pháp Môn tu học. Biết được
cái đạo phong như thế nên chiêu mộ trước tác. Với đức hạnh cao minh cùng
cái học sâu dày xa xôi nơi vạn dặm, mà người Ấn Độ ngưỡng vọng cái đức
nầy. Mắt thấy tai nghe và nhìn xem Pháp tướng là học trò của tiểu thừa
ngài Mộc Xoa Đề Bà (Thoát Thiên) là học trò của Đại Thừa hiệu là Ma Ha Già
Na Đề Bà (Đại Thừa Thiên) đều là những bậc đức cao hạnh cả truyền lại.
Cung kính những bậc Thầy nầy mà tạo thêm danh tiếng. Cho đến việc ý nghĩa
của ba thừa ba lần thỉnh của lời xưa. Nghiên tầm sâu xa cặn kẽ nguồn chơn
lưu chuyển. Biết rõ cái Diệu Lý vô cùng như cành lá, rồi hoát nhiên trí
huệ khai thông. Lý nào rồi cũng thuận, việc nghi ngờ nào rồi cũng rành rẽ
phơi bày. Nghĩa là rõ cái nghĩa và thông cái ý như chuyên chở được gió mát
trăng trong mà học cái điều cao rộng để cái đức làm hưng thạnh cho đời.
Như thế đó mà trải qua sông núi, bồi hồi nơi làng ấp. Ra khỏi thành nầy
vào nơi Lộc Uyển rồi đi đến rừng kia gặp động Kê Túc. Trở lại nước Bào Ca
Di, lưu nước mắt nơi thành Câu Thi cũng như nơi ngài giáng thế. Rồi băng
sông vượt suối tìm đến dấu tích cũ chốn Linh Sơn. Đối trước cảnh cũ như
mang mang. Thấy di tích ngày xưa còn đọng lại. Ngưỡng mặt lên chỉ còn
trách than dài. Chẳng biết gì hơn là nỗi niềm bi thống. Hận mình quá xa di
vãng và bây giờ chỉ có cách làm rõ đức của Thích Ca. Vẽ lại sự thật của Ấn
Độ từng phong thái được ghi ra nhiều Thuyết khác mà năm tháng đã trải qua.
Sự lạnh lẽo của đêm đông, sự nhớ mong niềm vui cố quốc nhưng không quên
tìm ra dấu tích, và thỉnh được:
- Nhục
xá lợi của Như Lai được 150 viên.
- Một
bức tượng Phật vàng cao độ 6 tấc.
- Lại
có thêm ảnh tượng nơi nước Ma Kiệt Đà của thần rồng trước khi thành Chánh
Giác.
- Lại
một tượng bằng vàng khác chiếu sáng hào quang cao hơn 3 tấc 3.
- Tại
nước Bà La Ni Tư, nơi vườn Lộc Uyển với thân thế sơ chuyển Pháp Luân.
- Rồi một tượng Phật bằng Bạch Đàn với tư thế hào quang chiếu rọi
cao 5 tấc tại nước Kiều Thường Di do Vua Xuất Ái cảm thâm ân Như Lai mà
cho điêu khắc trên gỗ Bạch Đàn.
- Lại
một tượng gỗ Bạch Đàn khác cao 2.9 tấc với dáng ngồi phóng quang thuộc
nước Kiếp Tỷ Tha, khi Như Lai từ Thiên Cung bước xuống.
- Một
tượng Phật bằng bạc với dáng ngồi phóng quang cao 4 tấc từ nước Ma Kiệt Đà
ở Linh Thứu Sơn thuyết pháp.
- Lại
một tượng Phật bằng vàng ngồi phóng hào quang cao 3.5 tấc tại nước Na Yết
La Yết, với hình dáng hàng phục Độc Long.
- Lại
một tượng Phật bằng trầm ngồi phóng hào quang cao hơn 3 tấc tại nước Tỳ Xá
Ly khi đi tuần hành.
- Đại
Thừa Kinh gồm có 224 bộ
- Đại
Thừa Luận gồm có 190 bộ
-
Thượng Tọa Bộ Kinh, Luật, Luận 14 bộ
- Đại
Chúng Bộ Kinh, Luật, Luận 15 bộ
- Tam
Di Đề Bộ Kinh, Luật, Luận 15 bộ
- Sa
Di Tắc Bộ Kinh, Luật, Luận 22 bộ
- Ca
Diếp Tý Da Bộ Kinh, Luật, Luận 17 bộ
- Pháp
Mật Bộ Kinh, Luật, Luận 42 bộ
-
Thuyết Nhứt Thiết Hữu Bộ Kinh, Luật, Luận 67 bộ
- Nhơn
Luận 36 bộ
- Thanh Luận 13 bộ
- Những bộ
khác khoảng 520 quyển.
Tổng cộng là 657
bộ để hoằng truyền Thánh Giáo vượt qua những chặng đường khó khăn hiểm trở
mới chuyên chở được trở về. Ra khỏi nước Xá Vệ rồi lần dò đến thành Già
Da, Bồ Đề Đạo Tràng. Xuyên qua núi non hiểm trở; vượt qua sa mạc gay go.
Vào tháng giêng
mùa xuân năm Trinh Quán thứ 19 (645) về đến kinh thành. Về đến Lạc Dương,
liền được triệu thỉnh phiên dịch kinh văn. Triệu tập những người có học để
hoàn thành sự nghiệp. Mưa Pháp lại bao trùm, ánh sáng mặt trời lại rạng
tỏa. Vì mạng mạch lưu thông giáo hóa nơi non Linh Thứu và cũng vì huyền
nghĩa nơi Long cung mà diễn dịch cùng với hình tượng mang về. Pháp sư là
bậc thâm diệu vô cùng Phạn Ngữ cho nên đã giải nghĩa kinh văn một cách sâu
sắc. Biết rành mạch văn như thế nào rồi, chuyển âm ấy ra như tiếng thật.
Cung thừa Thánh
chỉ, tuy văn mạch không hay, phương ngôn chẳng thông. Phạn ngữ không rành
hết, nhưng vì nhiệm vụ phải chu toàn, để thu thập phần chánh yếu của kinh
điển, cho nên phải tham khảo vì sợ sai sự thật, mà có điều phạm với người
xưa. Nhọc tới hình hài liên hệ đến sắc tướng, rồi nghiễm nhiên như thế mà
tiến hành Tây du.
Phàm Ấn Độ là
một quốc gia mà nơi các bậc Thánh đã giáng sanh, là nơi những bậc Hiền
minh trụ thế. Sách vở được gọi là Thiên Thơ, tiếng được gọi là Thiên Ngữ.
Văn chương sâu kín, âm vận khó lường, hoặc một chữ có nhiều nghĩa, hoặc
một nghĩa có nhiều chữ, nghe thật khó hiểu phải điều hòa âm tiết. Tiếng
Phạn thật thâm sâu, dịch phải là người thật giỏi mới diễn tả hết thật
nghĩa mà cái nghĩa đó gồm cả cái đức nữa. Với ngòi bút dịch thuật như thế
phải điều hòa cung điệu như dây đàn thật không phải dễ. Đúng hay không
đúng không phải là điều luận nghị, mà cái chính là truyền đạt được cái
thâm sâu của kinh điển, là nhiệm vụ rõ ràng. Cẩu thả sẽ không giống bản
gốc đó là cái Thiện của người dịch. Văn chương không phải màu mè, mà cái
chất lượng là điều quan trọng không thể quên được. Khi biện bạch mà không
có chất lượng không thể thắng được, bắt đầu bằng những điều như thế mà
phiên dịch. Lý Lão nói rằng:
- Kẻ dùng lời
hoa mỹ là kẻ khó tin, mà tin được kẻ đó phải là người không hoa mỹ.
Hàn Tử nói;
- Cái lý mà
đúng nằm ở nơi lời nói thẳng. Kẻ nói lời trang sức để làm rõ cái lý, thì
biết rằng chưa thuận với sư phạm. Cái thâm thúy của sự vật ý nghĩa vốn
giống nhau. Huống đây là giáo pháp cao siêu phải làm sao cho tồn tại cái
niềm hỷ lạc. Sai bản gốc, khác lời văn là một sự tai hại lớn. Mà sự sơ
suất đó do lời văn xưa mà đấng Pháp Vương đã hình thành.
Sào Tố Kiểm nói:
- Diệu vợi
thay! lời nói thẳng mà ngày xưa đức Khổng Tử còn tại thế đã nghe nói văn
và người là một không thể riêng biệt mà có, cho đến sách Xuân Thu ngòi bút
liền bút và lời liền lời như học trò tắm vào mùa hạ. Văn học của cửa Khổng
thường chẳng phải chỉ một từ, còn Pháp sư dịch Kinh lại cũng ví như thế.
Nếu chẳng phải vậy thì làm sao có thể hiểu nghĩa được câu văn và trách
nhiệm ấy thuộc về người cầm bút. Huống hồ đây là vì Đời và vì Người, mà
ghi khắc lại để cho đời sau. Có thể tăng thêm sự tổn hại Thánh Chỉ, nếu
dịch sai ý Kinh Văn.
Biện Cơ nối dõi
nhớ ít, trong những điều cao cả mà năm năm đã dùng ý chí để học hành. Bỏ
áo mão từ quan làm đệ tử của Pháp Sư Đạo Nhạc thuộc Tác Bà Đà Bộ chùa Đại
Tổng Trì. Tuy gặp đá tốt nhưng cây khô khó khắc, để cho lời Pháp lưu
truyền, mỡ thoa không thấm, nhân công ăn tốn mà ngày tháng cứ qua. Ngồi
nhìn tường qua năm tháng cứ thế mà trôi. Đến kỳ lễ Hội phụ lòng kẻ có công
đã rộng tay bảo bọc. Chừng ấy mệnh lệnh mà tài trí lại thường, chỉ nương
vào ý chí mà làm. Học chưa thông bác cổ, Văn cũng không diễm lệ nhu mì.
Mài dũa làm đẹp. Sức lực mõi mòn chỉ cung thừa chí nguyện mà ghi lại, để
viết thành Văn. Thượng Thọ dâng bút tạo lễ hoàn thành. Trí thiển có thể
lệch lạc, nhiều điều thất thoát, hoặc tươi sáng thường chẳng sai lầm. Ngày
xưa Tư Mã là sứ giả của Trương Lương là bậc tài đức đã viết tựa công thơ
cho Thái Sứ nhưng cha con kế nghiệp, hoặc có tên mà không có chữ, hoặc có
tên huyện mà không có tên quận. Cho nên nói rằng một người mà tinh thông
suy nghĩ thì câu văn già dặn, vì không rõ vậy. Huống gì kẻ trí ngu mà có
thể lãm tường được tất cả. Lại phong thổ tập tục khác nhau, ghi lại những
cương giới vật sản. Tánh trí cũng khác biệt. Thời tiết lạnh nóng khó
lường. Cho nên viết lại có ưu có nhược, chỉ lấy cái gốc thật và tánh để
gọi xưng tên nước. Về phong hóa của nước Ấn Độ, xấu tốt phân chia và trong
sách nầy chỉ khái lược mà thôi như ở phần vào đề đã nói. Nghĩa là làm
người khách thì vấn đề lễ nghi càng phải cẩn trọng hơn. Những kẻ chứng đắc
hoặc những người mặc y hoại sắc cũng chưa ghi rõ ràng. Chỉ nhờ vào thần
thông của Phật mà tiếp nhận sự linh thiêng kỳ diệu chưa tường. Cho nên nói
rằng thần thông ấy là một đạo thẩm sâu mà con người không thể dùng lý để
giải được. Sự linh thiêng u hiển là cái sự để ra khỏi bầu trời. Đây là
lãnh vực nơi Phật giáng thế,mà bậc Thánh ngày xưa đã truyền lại cái đẹp đẽ
ấy. Lược tuyển những điều linh dị để góp nhặt ghi vào đây. Đường đi diệu
vợi, nơi chốn trở về và cuộc hành trình ấy đã viết nên thành sách, chẳng
phải ghi hết nơi tập sách nầy. Cho nên ở Ấn Độ không có biên giới để ngăn
chặn sách vở của nước, khác trong từng khu vực. Vì vậy sách vở đã theo
người trở lại đây. Kẻ viết lời ấy đã đích thân nghe và ghi lại được mà
giải rõ trong sách nầy, hoặc tạo thành câu văn, để thấy chỗ tốt hoặc là
chỗ yếu mà thuật lại như trên, vì nhiệm vụ đã sao lại như thật. Sau đó
kính dâng lên Hoàng Đế vào tháng 7 mùa thư năm Trinh Quán thứ 20 (năm 646
ND).
Dừng bút, dứt
lời tạo thành một bức tranh chữ nghĩa và mong Thánh Hoàng chiếu giám để
cho tỏ mặt Thiên Nhan, mà bày hết cái chỗ vô cùng, với lòng thành thật
được triều đình cảm hóa, hoài mong gửi đến thành thật tấu bày.
Tiên Vương linh
thiêng chiếu giám trong cảnh hoang sơ chẳng phụ công phụ vương mà biết
được ngàn dặm, nghe và thấy được công đức kia, từ núi Linh Thứu ở nơi xa
xôi; Vườn Lộc Uyển xứ ấy ngàn dặm xa vời như hiện ra trước mắt. Tưởng như
đích thân mình đi đến đó mà trong kim cổ chưa từng nghe biết. Những điều
chưa nghe, chưa biết đó đã ghi lại ở trước rồi. Đây là do cái đức thọ mệnh
đặc thù của quân vương mà có được. Thuần phong mỹ tục ở cánh cửa phương
xa, thật khó mà hiểu hết. Là điều ở bên ngoài mà do địa phương núi sông
cách trở. Ban bố sách nầy ra khắp nơi, vì sự hiểu biết của người khác mà
biên tập thành.
Đại Đường Tây
Vức Ký hết quyển thứ mười hai
Dịch tổng
cộng 12 quyển xong
vào ngày 10
tháng 12 năm 2003
tại Tu Viện
Đa Bảo, Úc Đại Lợi
Nhằm ngày Vía
Đức Phật A Di Đà
17 tháng 11
năm Quý Mùi, PL 2547
Công đức Phiên dịch lớn vô cùng
Phước báu vô biên hồi hướng chung
Nguyện cầu
chúng sanh trong pháp giới
Tất cả sanh
về cõi Tây phương
Nguyện đem
công đức nầy
Hướng về khắp
tất cả
Đệ
tử và chúng sanh
Đều
trọn thành Phật Đạo
--- o0o ---
Mục Lục | 1
| 2
|
3
|
4
| 5
|
6
| 7
|
8
|
9
| 10
| 11
| 12
--- o0o ---
Trình bày: Nhị Tường
Cập nhật: 01-3-2005
Nguồn: www.quangduc.com
Về danh mục