CHƯƠNG IV
Jaya Simhavarman đệ tam băng mà không trối trăn lại được lời nào. Quần
thần tụ họp trong điện quyết định đưa thái tử Harijitputra lên ngôi
trước khi báo tin vua băng cho thần dân trong nước biết. Sáng ngày hôm
sau, lễ suy tôn được cử hành rất sớm trên điện và ngay sau đó vua
Harijitputra thiết triều lấy danh hiệu là Jaya Simhavarman đệ tứ. Hôm ấy
tin dữ được truyền ra, cả kinh kỳ Vijaya nhốn nháo. Dân chúng đổ tới
hoàng thành, bứt tóc đấm ngực và than khóc. Họ tiếc thương vị vua trẻ
anh hùng đã từng chiến thắng giặc Mông Cổ, đã từng là niềm tin và sự tự
hào của họ trong suốt hai mươi năm trời. Cả nước để tang Harijit. Tất cả
mọi cuộc vui chơi đều bị hủy bỏ. Hàng triệu người cắt tóc để tang vua.
Suốt trong bảy ngày đêm, trước hoàng cung không lúc nào không có hàng
ngàn người đến ngồi để than khóc. Sáng ngày thứ tám, dân chúng hạng vạn
người theo gót vua mới và triều thần lên đường đưa cha ra dàn hỏa thiêu.
Xác vua được quàng trên một cái kiệu lớn để trên lưng một con bạch
tượng, phía trên có lọng che. Theo sau là một hàng voi sắp hàng đông tới
một trăm con, trên lưng đều phủ lụa. Hai bên quân lính đi dàn hầu, mặc
áo giáp bằng mây. Kiệu của Huyền Trân và các cung phi đi sát kiệu của
Harijit. Các cung phi này đều sẽ bị hỏa tang một lần với vua Chế Mân.
Hoàng hậu vì đang mang thai thế tử con vua nên sẽ được trà tỳ sau khi
sinh nở.
Đàn hỏa thiêu của vua được dựng trên bờ biển. Đó là tục lệ nước Chàm.
Trong trường hợp của dân thường thì người chết được thiêu ngay ngày hôm
sau. Nếu là quan chức lớn thì lễ hỏa thiêu được tổ chức ba ngày ba đêm
sau khi chết. Trong trường hợp của vua thì phải đợi đúng bảy ngày bảy
đêm. Đám rước đi tới xế chiều mới đến được hỏa đàn ở bờ biển Thí lị bì
nại. Đàn được dựng toàn bằng gỗ trâm hương. Trong tiếng trống và tiếng
tù và não nuột, linh kiệu được hạ xuống và đưa từ từ lên hỏa đàn. Xác
vua đã được tẩm liệm rất kỹ lưỡng và tưới đầy dầu thơm. Các đạo sĩ Bà La
Môn bắt đầu đọc kinh bằng tiếng Phạn. Tiếng kinh vang dội rất lớn, có
thể là hàng trăm người đọc một lần. Giàn hỏa đã bắt đầu bốc cháy. Tiếng
tù và, tiếng kèn và tiếng trống lại bắt đầu nổi dậy. Huyền Trân không
dám nhìn về phía đàn hỏa. Nàng sợ trông thấy cảnh những người cung phi
bị đưa lên để hỏa thiêu.
Tất cả những gì đã và đang xảy ra, Huyền Trân thấy như trong một giấc
mộng. Mới ngày nào đây, nàng nấu cháo cảm cho vua ăn, rồi bây giờ thân
xác Harijit đang bốc cháy trên giàn hỏa. Nàng gắng khóc nhưng không khóc
được. Nếu giờ này nàng không mang một giọt máu của Harijit trong người
thì thân hình nàng cũng đang bốc cháy. Thôi thế là tan tành giác mơ.
Thôi thế là tan tành cả một cuộc đời. Cuộc đời mà nàng đã quyết tâm hiến
dâng cho tình hữu nghị giữa hai nước Chiêm Việt. Huyền Trân đưa cánh tay
trái lên nhìn. Nàng nhớ lại buổi chiều nào cùng Phụ hoàng ngồi bên bờ
suối trước am Long Động. Bàn tay này đã làm được gì? Trong vòng bốn năm
tháng nữa bàn tay này sẽ bốc cháy trên giàn hỏa. Bỗng nhiên nàng nghĩ
đến cái bào thai trong bụng mình. Con nàng sẽ là trai hay gái? Đứa con
này sẽ mang bàn tay nàng đê đi vào đời hậu lai. Bàn tay của cha mẹ và
của giống nòi, nàng đã trao về cho một thế hệ hậu lai. Như vậy là nàng
có thể san tâm mà lên giàn hỏa sau khi đưa nó ra đời. Nàng sẽ không tiếc
nuối cuộc đời.
Huyền Trân tự hỏi: Mình có còn tiếc nuối cuộc đời hay không? Harijit
chết trồi thì mình sống làm gì? Nàng đã yêu người thanh niên anh dũng
này. Harijit cũng đã yêu nàng thắm thiết. Nàng đã được sống hạnh phúc
trong tình yêu ấy. Một tình yêu ngắn ngủi nhưng chất chứa bao nhiêu mặn
nồng, và đứa con trong bụng nàng là chứng tích cụ thể cho tình yêu ấy.
Chết đi, nàng không tiếc nuối. Nàng chỉ xót xa cho đứa bé sau này. Nó sẽ
được nuôi nấng trong cung điện vua Chàm, sẽ lớn lên và sẽ nghe kể về mẹ
của nó ngày xưa, một bà công chúa Đại Việt. Chỉ có thế thôi. Nó không
được ấp ủ bằng hơi hướm của nàng, hơi hướm của một bà mẹ Đại Việt. Tội
nghiệp cho nó hay tội nghiệp cho chính nàng?
Trong da thịt mình, Huyền Trân cảm thấy hai nỗi đau. Nỗi đau thứ nhất là
sự thiếu vắng Harijit. Mất chàng, cuộc đời nàng không còn hứng thú gì
nữa. Nỗi đau đó chỉ có lửa mới đốt cháy được, và vì vậy nàng không sợ
lên giàn hỏa. Lửa sẽ đốt da thịt nàng cùng một lúc với niềm đau của
nàng. Nàng cảm thấy không thể mổ xẻ và lấy nỗi đau ấy ra khỏi da thịt
nàng. Nhưng còn một niềm đau thứ hai: Đó là sự xót xa của nàng đối với
đứa con không cha và trong bốn tháng nữa, không mẹ. Nỗi đau đó nàng cảm
tưởng dù thân thể nàng có bị đốt ra tro bụi, nó cũng không tan. Nó sẽ
đọng thành khối bất diệt.
Lửa vẫn cháy; tiếng tù và, tiếng trống và tiếng kèn vang dội. Thấp
thoáng, Huyền Trân thấy bóng những đoàn vũ công nhảy múa quanh giàn hỏa,
những điệu múa nghi lễ tống tiễn linh hồn vua về thượng giới. Tiếng đọc
kinh văn trầm hùng kéo dài. Quanh giàn hỏa dân chúng quỳ trên mặt đất để
cầu nguyện đông đến hàng vạn. Giờ này, trên toàn quốc thổ Chiêm Thành,
già trẻ trai gái đều biết là Harijit thân yêu của họ đang nằm trên giàn
hỏa. Cả nước sẽ để tang cho Harijit, có người sẽ để tang trọn đời. Huyền
Trân nhớ lại những lời Văn Túc Vương dạy nàng về tục hỏa thiêu của người
Ấn Độ. Tập tục đó người Đại Việt gọi là trà tỳ. Tiếng Chiêm gọi là sati.
Văn Túc Vương kể rằng, tuy tập tục này người Đại Việt đã bỏ từ lâu,
nhưng vào đời Lý. Các cung phi có người vẫn còn chết theo vua và chôn
theo vua. Tục lệ này đến đời Trần đã gần như được bỏ hẳn, nhưng thỉnh
thoảng vẫn còn có những cung phi muốn được chết với vua một lần.
Lửa đã tắt, những tro xương còn lại của Jaya Simhavarman đệ tam được thu
nhập và cất chứa vào trong một cái bình bằng vàng gắn kín. Bình vàng này
được đưa lên kiệu và rước ra thuyền ngự đậu sẵn ở bờ biển. Đèn đuốc được
thắp lên, hàng trăm chiếc thuyền nhẹ phò chiếc thuyền ngư ra khơi. Huyền
Trân cũng được rước xuống một chiếc thuyền đi sát bên thuyền ngự. Từ
trên những chiếc khác, tiếng đọc kinh lại bắt đầu nổi dậy. Khi đoàn
thuyền ra tới ngoài khơi thì người ta làm lễ thả bình vàng đựng tro
xương của vua xuống biển. Tiếng kèn và tiếng tù và, lại nổi lên ai oán.
Đệm sau hai thứ âm thanh ấy, có tiếng trống từng hồi vang dội. Những
tràng hoa được liệng xuống biển. Lễ thủy táng chấm dứt. Đoàn thuyền từ
từ quay mũi hướng về đất liền.
Nhìn những tràng hoa nhấp nhô lên xuống trên sóng, lấp lánh dưới ánh
đuốc, Huyền Trân kêu thầm: "Vĩnh biệt, Harijit, vĩnh biệt". Thuyền nàng
cũng đã quay mũi hướng về đất liền. Nhìn ra chân trời phía đông, Hoàng
hậu thấy biển cả bao la bát ngát. Harijit đã trở về với thế giới bất
sinh bất diệt. Huyền Trân thầm đọc Tâm Kinh Bát Nhã cho chồng.
Vua Chế Mân băng vào tháng bảy Chiêm Thành, tức là vào giữa tháng năm
Đại Việt. Tháng sáu năm ấy Thị Khánh vẫn chưa chịu về nước. Nàng xin ở
lại cho đến khi Hoàng hậu sinh hạ thế tử. Huyền Trân gầy ốm hẳn đi. Vua
Harijitputra khuyên nàng nên giữ gìn sức khỏe. Vua nói với nàng là tuy
tục lệ Chiêm Thành buộc Hoàng hậu phải hỏa thiêu theo Vua, nhưng trong
thâm tâm vua không muốn bà hỏa thiêu. Không ai dám đi ngược truyền thống
của đất nước. Dân chúng cũng thương mến nàng như thương mến Harijit, và
họ muốn Harijit của họ không bị cô đơn ở thiên đường. Tuy vậy, theo vua,
việc hỏa thiêu của Hoàng hậu có thể được trì hoãn cho tới không những
sau khi thế tử qua đời mà có thể đên khi có sứ giả của Đại Việt tới.
Huyền Trân cám ơn vua và nói rằng ba không sợ hỏa thiêu, xin vua yên
tâm. Bà cũng ngỏ ý xin vua tổ chức lễ đăng quang nay cho Hoàng hậu mới,
đừng đợi đến sang năm. Vua Chế Chí nghe lời. Mười hôm sau, kinh thành
Vijaya lại treo đèn kết hoa. Cả nước lại tổ chức hội hoa đăng và hát
xướng. Trong hai năm liền Chiêm Thành đã làm lễ tấn phong cho hai vị
Hoàng hậu. Hoàng hậu của vua mới là con của một vị đại thần trong triều,
Huyền Trân bây giờ đã đứng lên hàng Hoàng thái hậu.
Đu tháng tư năm ấy, Huyền Trân lâm bồn và hạ sinh một thế tử, đúng như
nàng mong ước. Thế tử được đặt tên là Dayada; cái tên nà đã do Harijit
đặt cho hồi vua còn sinh tiền. Huyền Trân ôm con trong tay. Nhớ
tớiHarijit, nàng khóc như một đứa trẻ thơ. Thế tử rất bụ bẫm hai mắt đen
láy. Vua cho bốn thị nữ đến phục vụ cho thái hậu và săn sóc đứa bé. Thị
Khanh và Thị ngọc rất ít khi được ẵm Dayada.
Bảy ngày sau khi Thế tử Dayada sinh, Huyền Trân vào gặp vua Chế Chí, tức
là Jaya Simhavarman đệ tứ. Bà xin với vua phái một sứ đoàn qua Đại Việt
cáo ai về việc vua Chế Mân băng hà và đồng thời cũng để báo hỷ về việc
Thế tử Dayada ra đời. Vua bằng lòng và chỉ định một phái bộ do đại thần
Bảo Lộc Kê dẫn đầu, đem theo nhiều cống phẩm. Một thớt bạch tượng được
mang theo để dâng lên vua Anh Tông, nhân danh Thế tử Dayada. Huyền Trân
nhân dịp ấy cho Thị Khanh theo về. Nàng viết một lá thư cho Thượng hoàng
kể hết mọi việc và cũng để vĩnh biệt ngài. Nàng cũng viết một lá thư cho
Thái hậu Tuyên Từ và một lá thư khác cho vua Anh Tông. Ba lá thư này
nàng viết bằng chữ Hán và niêm phong cẩn thận. Nằng dặn Thị Khanh cất
giữ cả ba lá thư và khi về tới nơi thì lập tức dâng ngay lên vua Anh
Tông, không được chậm trễ. Rồi nàng vào cung lấy cho Thị Khanh một ít nữ
trang riêng của nàng để Khanh làm vốn liếng sau khi lấy chồng.
Sứ đoàn Chiêm Thành lên đường mười hôm sau đó. Huyền Trân tính thầm
trong bụng để xem chừng nào phái đoàn mới tới được Thăng Long. Có đem
voi theo thế nào cũng đi chậm. May mắn lắm thì đến cuối tháng chín, phái
đoàn mới tới được kinh sư. Một mặt nàng mong được phụ hoàng qua thăm
trước khi nàng lên hỏa đàn, một mặt lại sợ cảnh lên hỏa đàn của nàng sẽ
thương tâm qua đối với bậc cha già. Nàng chẳng biết nghĩ sao, chỉ biết
niệm đức Bồ Tát Quán Thế Âm, cầu mong Bồ Tát sắp đặt cho nàng mọi
chuyện.
Từ hôm ấy, Huyền Trân theo gương Phụ hoàng ăn chay. Mỗi buổi sáng nàng
thức dậy thật sớm và hàng sám theo nghi thức Lục Thời Sám Hối Khoa Nghi
của vua Trần Thái Tông soạn. Vua Thái Tông là vị vua đầu của triều Trần,
là ông cố của Huyền Trân. Ngài đã từng sáng tác nhiều sách Phật trong đó
có tác phẩm Thiền Tông Chỉ Nam mà hồi còn nhỏ nàng chỉ mới được đọc bài
tựa. Tác phẩm ấy hiện giờ không có đây. Huyền Trân rất làm tiếc. Nàng
muốn ngồi thiền như phụ hoàng nàng nhưng nàng chưa được dạy về cách thức
thiền tập. Tuy vậy, nàng cũng cứ ngồi, một ngày nhiều bận, và đem hết
tâm trí để niệm Phật. Thỉnh thoảng nàng cùng các thị nữ lên chùa lạy
Phật. Chùa này là ngôi vihara lớn nhất ở thủ đô Vijaya. Ngày xưa Phụ
vương nàng đã cư trú ở đây trong suốt thời gian làm thượng khách của
quốc vương Chiêm Thành. Các tăng sĩ ở đây rất kính mến nàng. Họ đã từng
biết mặt Phụ hoàng của nàng. Huyền Trân hỏi các thầy về cuộc viếng thăm
của Phụ hoàng ngày xưa. Các vị đưa nàng tới thăm liêu phòng mà ngài đã
từng cư trú, cho nàng xem đôi dép năm xưa mà ngài đã để lại chùa làm vật
kỷ niệm. Huyền Trân xúc động khi trông thấy những kỷ vật ấy.
Hồi Harijit còn sống, chàng đã nói cho Huyền Trân nghe về Phụ hoàng của
nàng. Vua kể lại rằng vua đã nhiều lần khẩn khoản mời Trúc Lâm đại sĩ
vào cư trú trong cung nhưng ngài không thuận, bảo rằng ngài chỉ muốn cư
trú tại vihara. Harijit từng hỏi các vị tăng sĩ trong chùa về ngài, và
vị nào cũng tỏ vẻ kính mến và khâm phục đức độc của đại sĩ. Họ nói Trúc
Lâm đại sĩ là một vị dhuta, nghĩa là một tăng sĩ tu theo khổ hạnh, y
phục đơn sơ, ăn mỗi ngày một bữa và rất chuyên cần về thiền định. Tất cả
các vị tăng sĩ trong vihara, kể cả vị trưởng lão, đều không theo kịp
ngài. Từ Đại Việt qua, ngài đã đi bộ theo sứ đoàn Chiêm mà không chịu
ngồi kiệu theo lời yêu cầu của sứ thần. Đi theo ngài có một vị tăng sĩ
làm thị giả cho ngài; vị tăng sĩ này biết nói tiếng Chiêm Thành. Nhờ vị
tăng sĩ phiên dịch, ngài đã giảng về Thiền học cho đại chúng tại vihara.
Mỗi khi Harijit cho người thỉnh ngài về cung thọ trai, ngài cũng chỉ đi
bộ. Harijit đã ngự tới chùa hơn mười lần để thăm ngài. Chàng nói là sự
gặp gỡ với vị tăng sĩ Đại Việt này đã làm thay đổi cuộc đời của chàng.
Harijit nói vói Huyền Trân rằng cũng như bất cứ người thường dân nào của
vương quốc Chiêm Thành, chàng lớn lên với ý niệm Đại Việt là kẻ thù
truyền kiếp của dân tộc Chàm. Tuy Chiêm Thành bị buộc phải sang triều
cống Đại Việt ba năm một lần, sứ Chiêm và sứ Việt gặp nhau ở nước Tống
không bao giờ nhìn mặt nhau, và thường trực tránh né nhau. Khi Thượng
hoàng nước Đại Việt mới vào đến Vijaya, Harijit vẫn nghĩ rằng một ông
vua mà đi tu thì đó không phải là ngoài mục đích chính trị. Nhưng đời
sống và nhân cách Thượng hoàng đã làm cho Harijit mở mắt, và từ sự ngạc
nhiên, vua Chàm đã đi tới sự mến phục. Các vị tăng sĩ Chàm có mặt ở kinh
đô Vijaya đều xác nhận với vua rằng vị Thượng hoàng Đại Việt là một bậc
chân tu. Trúc Lâm đại sĩ đã nói với vua Chế Mân rằng ngài rất mừng khi
thấy cuộc kháng chiến của Chiêm Thành đạt được thắng lợi vẻ vang và quân
binh Hốt Tất Liệt đã phải rút về. Ngài nói phải chi hai nước Chiêm Việt
xem nhau như hai nước anhh em để có đủ sức tự cương mã chống lại những
âm mưu xâm chiếm của phương Bắc. Ngài có nhắc tới những cuộc binh lửa
xưa nay giữa hai nước Chiêm Việt mà ngài mong ước rằng sẽ không bao giờ
những cuộc binh lửa như thế lại tái diễn. "Khi tôi còn chưa nhắm mắt thì
tôi quyết không để cho có một cuộc xung đột giữa hai nước chúng ta",
người đã từng nói với vua. Vua Chế Mân thấy được lòng dạ của ông thầy tu
Đại Việt. Thượng hoàng nói khi ngài mang bình bát vân du trong các làng
mạc Chiêm Thành, ngài cảm thấy thương yêu người dân Chiêm không khác gì
người dân Việt, và ngài nghĩ rằng đưa hai dân tộc vào binh lửa là một
điều tội lỗi lớn, vì vậy khi ngài đề nghị gã công chúa Huyền Trân cho
mình. Harijit thấy dây không phải là một việc xếp ngoại giao, có tính
cách chính trị. Đó là một tiếng nói của trái tim, của tình thương.
Thượng hoàng đem con mình mà phú thác cho vua Chiêm, đó cũng là đem trái
tim của mình mà phú thác cho dân Chiêm. Có thể là nhân duyên lịch sử này
sẽ xóa đi được bao nhiêu thù hận đã từng chất chứa lâu ngày trong lòng
người Chàm. Harijit thấy được rằng hòa bình là một điều quý hóa. Chân
Lạp đã từng đem binh qua xâm phạm lãnh thổ Chiêm Thành, và nhiều lần
kinh đô Vijaya đã bị họ tàn phá. Nếu Chiêm Thành cứ theo đuổi chiến
tranh liên miên với nước láng giềng miền Bắc thì tránh sao được cái ngày
lưỡng dầu thọ địch, làm sao nước nhà tồn tại được trong cảnh trên đe
dưới búa? Cũng vì vậy mà vua Chế Mân đã thấy được trong đề nghị của
Thượng hoàng câu trả lời thỏa mãn được cả lý trí lẫn con tim của vua, và
vua đã nghe theo lời Thượng hoàng.
Muốn cho cuộc hòa giải lịch sử này được thực hiện tốt đẹp, vua Chế Mân
quyết định cắt hai châu Ô và Ri để làm lễ nạp trung. Việc nhượng đất này
đã gây sóng gió trong triều Chiêm, nhưng cuối cùng triều thần đã chiều
theo ý vị vua anh hùng của họ. Thế là một năm sau, Huyền Trân về Chiêm.
Trong suốt thời gian nàng làm Hoàng hậu, ở vùng biên giới hai nước không
hề xảy ra một cuộc xung đột nào. Huyền Trân nghe nói dân Chàm tại các
thôn La Thủy, Tác Hồng và Đà Bồng thuộc châu ô không chịu thuận phục
triều đình Đại Việt, cho nên vua Anh Tông đã sai quan Hành Khiển Đoàn
Nhữ Hài vào đất mới, chọn người Chàm ra làm quan, cấp ruộng đất và miễn
tô thuế cho dân chúng trong vòng ba năm. Đất hai châu từ đó được đổi tên
là Thuận và Hoá, nhưng cuộc tình duyên giữa vua Chiêm và nàng công chúa
Đại Việt ngắn ngủi quá. Nàng về tới kinh đô vào cuối tháng sáu năm ngoái
thì đến giữa tháng năm năm nay vua Chế Mân băng. Mười một tháng làm
Hoàng hậu ở xứ Chiêm đã qua mau như một giấc mộng, nhưng đó không phải
là một giấc mộng. Thái tử Chế Đa Gia mà nàng đang ẵm trong tay là một
chứng tích của cuộc tình duyên kỳ lạ giữa nàng và quốc vương Chiêm
Thành.
Bây giờ là đã vào gìữa tháng mười một. Chỉ còn có mười hôm nữa là Dayada
được tròn ba tháng. Mắt Dayada rất sáng. Chú bé đã biết nhìn theo bàn
tay mẹ, và đã biết cười mỗi khi Huyền Trân nói nựng với nó.
CHƯƠNG V
Tối hôm đó, trong khi Huyền Trân buông màn cho Thế tử Dayada ngủ. Thị
Ngọc vào báo cho nàng biết đoàn sứ giả Chiêm Thành đã về. Cả đêm Huyền
Trân thao thức không ngủ. Nàng mong ước sứ giả có đem về thơ của Thượng
hoàng hay của vua Anh Tông cho nàng. Sáng hôm sau, quan đại thần Bảo Lộc
Kê vào chầu vua Chế Chí. Chiều hôm đó, Thái hậu cho vời quan đại thần
vào cung để hỏi han. Sau khi uống hết chén trà Thái hậu ban, vị đại thần
tường thuật về chuyến đi. Ông nói là ông đã được vua Anh Tông tiếp kiến
và lưu lại kinh đô Thăng Long mười hôm. Sau đó vua cho phái đoàn về nước
và dặn rằng một sứ đoàn Đại Việt sẽ qua Chiêm trong tháng tới để làm lễ
hỏa đàn Hoàng hậu. Huyền Trân thất vọng khi nghe vị đại thần nói là
không có thư từ gì cho nàng.
Giữa tháng mười một, phái đoàn Đại Việt qua tới. Phái đoàn này gồm có
mười hai người do quan thượng thư Tả bộc xa là Trần Khác Chung cầm đầu.
Trong phái đoàn có bốn vị tăng sĩ Đại Việt. Bốn vị này, theo sứ thần Đại
Việt, là những vị sẽ tổ chức trai đàn cầu nguyện cho vua Chế Mân theo
nghi lễ Phật Giáo Đại Việt. Thái hậu Paramesvari, tức là Huyền Trân, sẽ
đứng ra làm chủ đàn. Sau khi trai đàn hoàn tất, Thái hậu sẽ lên đàn hỏa.
Cả hai trai đàn và hỏa đàn đều được dựng trên bờ biển theo thủ tục Chiêm
Thành.
Vua Chế Chí tiếp sứ thần Đại Việt và phê y cho việc lập trai đàn bên
cạnh hỏa đàn. Ngày khai đàn được chỉ định vào rằm tháng Chạp. Quan
thượng thư Trần Khắc Chung cũng đã được Thái hậu vời vào cung uống trà.
Trước mặt nhiều nữ quan và cung nhân Chiêm Thành, Thái hậu không tiện
hỏi nhiều về sự tình đất nước. Quan thượng thư tâu rằng không có thư từ
gì của Thượng hoàng cũng như của vua Anh Tông, Đêm ấy Huyền Trân đã khóc
một mình trong tẩm điện. Nàng không ngờ Phụ hoàng và vua Anh Tông đã hờ
hững với nàng như thế. Hoặc giả Thị Khanh đã làm thất lạc những lá thơ
của nàng? Dù sao Huyền Trân cũng nhận thấy thái độ hơi khác thường của
quan thượng thư Trần Khắc Chung. Quan thượng thư trong khi nói năng vẫn
lễ phép nhưng phong cách của ông có vẻ rất xa lạ.
Ngày khai đàn đã tới. Vua Chế Chí ngự trên kiệu cùng với Hoàng hậu ra dự
trai đàn. Huyền Trân mặc y phục đại lễ của Hoàng thái hậu Chiêm Thành.
Ngồi trong kiệu của Huyền Trân có Thị Ngọc và một thị nữ Chiêm Thành
khác, tên là Ratna. Thế tử Dayada được các cung nữ ẵm theo trong một
chiếc kiệu che bằng lụa hồng, đi sau kiệu của Huyền Trân. Trai đàn đã
được thiết lập trang nghiêm có đủ cờ phướn và nhạc cụ. Hỏa đàn đã được
dựng sẵn toàn bằng gỗ trầm hương. Đám rước đông có tới gần một vạn
người. Huyền Trân được rước xuống thuyền cùng với bốn vị tăng sĩ Đại
Việt. Hai thị nữ cũng theo xuống với nàng. Thuyền của Huyền Trân sẽ ra
khơi làm lễ đón linh hồn của vị vua quá cố về dự trai đàn. Quan thượng
thư Trần Khắc Chung xin cho Thế Tử Dayada được xuống thuyền với mẹ,
nhưng vua Chế Chí không thuận. Ngài truyền khiêng kiệu của Thế Tử tới
bên kiệu của ngài.
Thuền của Huyền Trân vừa rời bến thì các vị tăng sĩ bắt đầu đốt nhang và
tụng niệm. Giọng đọc kinh tiếng Việt làm Huyền Trân nhớ nhà, rơi nước
mắt. Thị Ngọc cũng bưng mặt khóc. Thuyền càng lúc càng ra xa. Bây giờ là
vào khoảng giờ Ngọ, mặt trời chói lọi trên đỉnh đầu. Thuyền của Huyền
Trân đã ra tới ngoài khơi; bốn người thủy thủ Chiêm Thành kèm cho thuyền
đứng yên trong khi các vị tăng sĩ làm lễ chiêu hồn. Bỗng nhiên, không
biết từ đâu, bốn chiếc thuyền nhẹ lướt tới, trên chiếc nào cũng có bốn
năm người thủy thủ. Huyền Trân nhận ra đây là những thủy thủ người Đại
Việt. Trong phút chốc bốn chiếc thuyền nhẹ đã xáp lại vây quanh thuyền
của Huyền Trân. Các thủy thủ Đại Việt đã nhảy lên: Bốn người Chiêm lập
tức bị kềm chế. Huyền Trân, Thị Ngọc, người thị nữ Chàm và bốn vị tăng
sĩ được chuyền rất mau xuống các thuyền nhẹ. Người ta trói tay bốn người
thủy thủ Chàm và đặt họ nằm trong lòng thuyền. Lúc bấy giờ từ trong đất
liền, một chiếc thuyền khác cũng vừa ra tới. Huyền Trân nhìn kỹ thì thấy
trên thuyền có quan thượng thư Đại Việt và mấy vị tùy tùng. Phút chốc,
quan thượng thư và các vị tùy tùng cũng được đưa lên thuyền nhẹ. Bốn
chiếc thuyền lướt sóng như bay dưới những cánh tay lanh lẹ của các thủy
thủ. Huyền Trân biết rằng đây là một cuộc cướp người do sứ đoàn Đại Việt
tổ chức, thì ra vua Anh Tông đã sai quan thượng thư Trần Khắc Chung vào
cứu nàng. Quan thượng thư đã hành động một cách vô cùng cẩn mật. Chính
bốn vị tăng sĩ Đại Việt cũng không được biết một chút gì về mưu lược
này. Huyền Trân ngồi trên một chiếc thuyền với hai người thị nữ, không
ai nói với ai câu nào. Thị Ngọc hình như đã hiểu được cớ sự, nhưng Ratna
người thị nữ Chàm vẫn còn dương cặp mắt kinh ngạc lên nhìn. Huyền Trân
cầm ấy tay cô và bóp chặt cố ý cho cô biết rằng cô không nên sợ hãi. Các
thủy thủ vẫn ra sức chèo; bốn chiếc thuyền cùng lướt sóng nhanh như
những mũi tên bay về một hướng. Bỗng Huyền Trân nhận thấy một chiếc
thuyền lớn phía trước mắt. Đây chắc là chiếc thuyền sẽ đưa nàng về Đại
Việt. Các thủy thủ thấy dáng thuyền đều hò reo và càng ra sức chèo.
Trong giây lát cả bốn chiếc thuyền nhẹ đều đã cặp vào hai bên hông chiếc
thuyền lớn. Từ trong thuyền lớn, các thủy thủ đã liệng thang dây xuống.
Cuộc chuyển người lên thuyền bắt đầu. Hai thủy thủ phía trên giúp Huyền
Trân leo lên, trong khi hai thủy thủ phía dưới sẵn sàng đỡ nàng. Huyền
Trân leo lên được trên thuyền thì hai thủy thủ đưa nàng ngay vào trong
khoang. Quan thượng thư Trần Khắc Chung đã lên tới trước nàng. Đứng bên
ông là một vị quan chức khác của triều đình Đại Việt. Ông này cúi chào
nàng và tự giới thiệu là An Phủ Sứ Đặng Vân.
Ratna và Thị Ngọc đều đã lên tới; bốn vị tăng sĩ cũng vậy. Thuyền khá
rộng, Huyền Trân và cả hai thị nữ được mời vào một khoang riêng. Nhìn
ra, Huyền Trân thấy thuyền đã bắt đầu cưỡi sóng lướt đi. Thị Ngọc cho
nàng biết các lá buồm trên thuyền đều đã được dựng lên; căng phồng dưới
sức gió. Các thủy thủ được lệnh cho thuyền đi với tốc độ cao nhất để
vượt thoát sự truy tầm của người Chiêm.
Nói chuyện với quan thượng thư chiều hôm ấy, Huyền Trân biết rằng vua
Anh Tông đã phái ông và An Phủ Sứ Đặng Vân vào để tìm cách cứu nàng và
đưa nàng cùng thế từ Dayada về Đại Việt. Hai người đã vặch sẵn kế hoạch
trước khi lên đường. Họ khởi hành từ giữa tháng mười, đi đường bộ, và
tới Thuận Châu thì dừng lại để hội ý với quan kinh lược Đại Việt lưu
nhậm. Chính tại đây mà phái đoàn sắm được thuyền lớn, bốn chiếc thuyền
nhẹ và tuyển được một đoàn thủy thủ thiện nghệ. Quan An Phủ Sứ chịu
trách nhiệm đưa đoàn thuyền từ cửa Thuận An vào chực sẵn ngoài khơi cửa
Thị lị bì nại, trá hình làm thuyền ngư dân, và phái một thủy thủ người
Chiêm vào để liên lạc với quan thượng thư mà điều hợp thì giờ hành động.
Kế hoạch đã không thành công hoàn toàn như họ mong ước, vì họ không đưa
được Thế tử Chế Đa Gia cùng về.
Huyền Trân có cảm tưởng là mình không có quyền quyết định được gì trong
kế hoạch này. Đây là một kế hoạch của triều đình Đại Việt, nàng bắt buộc
phải tuân phục. Trong thâm tâm, nàng cảm thấy có một cái gì đổ vỡ. Kế
hoạch cướp người này chắc chắn sẽ gây nên ấn tượng xấu về Đại Việt trong
người dân Chàm. Niềm tin cậy của người Chiêm sẽ chết theo sự ra đi này.
Phụ hoàng của nàng chắc chắn không được thông báo về kế hoạch này. Nàng
biết nếu nàng có thể chấp nhận hỏa đàn để giữ nguyên vẹn tình giao hảo
Chiêm Việt thì Phụ hoàng nàng cũng có thể chấp nhận sự đau xót kia để
chu toàn ước nguyện hòa bình. Anh Thuyên của nàng chắc đã nghe lời những
vị triều thần như Đoàn Nhữ Hài và Trần Khắc Chung. Những người này làm
gì có được trái tim của Phụ hoàng. Họ khinh miệt dân Chàm, họ dòm ngó
lãnh thổ Chàm. Họ không làm sao thấy được cái đẹp của tình huynh đệ.
Hồi tưởng lại giây phút lên thuyền để ra khơi làm lễ chiêu hồn. Huyền
Trân bỗng giật mình. Nàng nghĩ rằng vua Chế Chí có thể đã biết được kế
hoạch của quan thượng thư Trần Khắc Chung, nhưng vua vẫn làm lơ để cho
nàng vượt thoát. Nội một việc vua truyền đưa Thế tử của Chế Đa Gia đến
gần vua cũng đủ chứng tỏ được điều ấy. Công chúa Đại Việt có thể trả về
cho Đại Việt, nhưng Thế tử Chiêm Thành phải ở lại Chiêm Thành. Vua không
nói, nhưng vua đã làm theo điều đó. Quan thượng thư Trần Khắc Chung
tưởng là đã đánh lừa được vua, kỳ thực ông đã được vua cho phép hành
động theo kế hoạch. Huyền Trân nhìn ra trời biển phiá sau thuyền. Nàng
biết rằng sẽ không có thuyền Chiêm Thành đuổi theo. Nàng nghĩ đến bốn
người thủy thủ Chàm bị trói nằm trong lòng thuyền, và nàng mong ước rằng
giờ này họ đã tự tháo gỡ được dây trói để cho thuyền trở vào bờ. Nàng
nghĩ đến đám quần chúng đông đến gần một vạn người ngồi bên hỏa đàn và
cảm thấy ruột nàng đau thắt lại. Nàng nghĩ đến Thế tử Dayada, đến trái
tim của nàng, để lại trong lòng đất nước Chàm.
Thuyền đi êm đềm suốt đêm hôm ấy, và cả ngày hôm sau nữa. Nhưng giữa đêm
sau, một trận bão dữ dội nổi lên làm thuyền suýt lật nhào. Các cột buồm
đều bị gãy. Cả đêm, hai mươi thủy thủ trên thuyền chống cự mãnh liệt với
cơn bão. Ratna bình tĩnh, nhưng Thị Ngọc có khi hoảng hốt ôm chặt lấy
Huyền Trân. Cơn bão tiếp tục. Sáng hôm sau, các thủy thủy cho thuyền ghé
sát một con vịnh để tránh gió. Cơn bão kéo dài đến bảy ngày bảy đêm.
Thuyền bị thiệt hại nặng, không thể tiếp tục cuộc hành trình. Quan An
Phủ Sứ phái hai thủy thủ dùng xuồng nhẹ vào bờ để để mua vật liệu sữa
chữa thuyền, và đồng thời lấy thêm nước ngọt và mua thêm thức ăn. Các
thủy thủ này đều nói được tiếng Chàm. May cho mọi người là thuyền lớn
của họ có dáng dấp một ngư thuyền Chiêm Thành nên đã không tạo nên nghi
ngờ gì trong óc những người người dân gần đó.
Thuyền phải đậu lại gần một tháng mới sữa chữa xong. Quan An Phủ Sứ ra
lệnh nhổ neo. Thuyền đi sáu hôm nữa thì tới được cửa Thuận. Thuyền vào
cửa được hai ngày thì mọi người lên bờ. Dù đây là lãnh thổ mới của Đại
Việt, đa số dân cư vẫn còn là người Chàm cho nên Huyền Trân và các thị
nữ đều phải cải dạng thường dân. Họ tìm tới tạm trú tại dinh quan kinh
lược sứ. Quan thượng thư Trần Khắc Chung bàn tính kế hoạch gửi người về
thành Phật Thệ để tìm cách bắt thái tử Chế Đa Gia đem về. Ông nói ông
chưa thể lên đường về kinh sư được khi mà ông chưa hoàn tất nhiệm vụ vua
Anh Tông giao phó. Mệnh lệnh ấy là đưa công chúa và thái tử Chế Đa Gia
về Đại Việt. Nay công chúa đã qua được phía bên này biên giới, ông phải
tìm cách đưa nốt Thế tử qua.Ông bàn với quan An Phủ Sứ và kinh lược sứ
về kế hoạch gửi người về Chiêm, những người được gửi đi đều phải là
người Chiêm, trung thành với Đại Việt, để cho kế hoạch khỏi bị nghi ngờ.
Huyền Trân không biết ăn nói làm sao để quan thượng thư bỏ ý định trở về
Vijaya bắt cóc thái tử. Nàng thương con, nàng ao ước có Dayada trong tay
nàng để cưng chiều, để sung sướng, nhưng nàng thấy hành động bắt cóc thế
tử bất nhẫn quá và có tính cách khiêu khích quá. Thế tử Chế Đa Gia thuộc
về honàg gia Chiêm Thành, từ trước đến nay bao giờ Huyền Trân cũng nghĩ
như thế. Nay nếu triều đình Đại Việt cho cướp thái tử về thì dân Chiêm
sẽ thấy là dân Việt tráo trở, thủ đoạn, không tôn trọng lời cam kết.
Huyền Trân không chịu đựng được ý tưởng đó, nhưng nàng biết nàng không
là gì cả trong một xã hội mà người đàn bà không có quyền gì về mặt chính
sự. Ai hiểu cho nàng ngoài Phụ vương của nàng. Cuối tháng hai năm đó,
một chiếc thương thuyền khởi hành từ cửa Thuận, trên thuyền có tám người
Chiêm đã được huấn luyện để về Vijaya bắt cóc con nàng. Lạ quá, tuy
Huyền Trân phản đối việc trở về bắc cóc Thế tử Chế Đa Gia, trong lòng
nàng lại phát sinh ra niềm hy vọng là cuộc bắt cóc sẽ thành công để nàng
có thể đoạt lại được cái hạnh phúc làm mẹ. Huyền Trân cảm thấy giận mình
vì cái niềm hy vọng đó. Nàng thấy nàng đang đồng lõa với tính cách thủ
đoạn và tráo trở của hành động bắt cóc. Nàng chiến đấu với tự tâm, muốn
loại bỏ ra khỏi lòng nàng cái niềm hy vọng này, nhưng lạ thay, càng muốn
đàn áp nó, nàng càng thấy nó lớn lên. Nó mạnh hơn nàng. Nàng đau khổ vì
chin1h nàng. Cuối cùng nàng tự cho rằng lý do của sự yếu đuối đó nằm ở
sự kiện nàng chỉ là một người đàn bà. Mơ hồ trong tiềm thức, nàng biết
rằng đó chỉ là một sự tự bào chữa. Nàng là một người đàn bà thật đấy
nhưng không phải là một người đàn bà yếu đuối.
Thương thuyền khởi hành từ cuối tháng hai mà tói giữa tháng năm vẫn
không có tin tức trở về. Nóng ruột quá, quan thượng thư và quan An Phủ
Sứ gửi tiếp một đoàn lái buôn khác, lần này theo lộ trình đường bộ,
nhưng đến đầu tháng bảy vẫn không có tin tức của đoàn nào nhắn về. Hiển
nhiên là sứ mạng của cả hai đều đã thất bại, chưa chừng mọi người đã bị
bắt bớ và tù đày. Rằm tháng bảy năm ấy, quan thượng thư và quan An Phủ
Sứ quyết định bãi bỏ kế hoạch bắt cóc Thế tử Chế Đa Gia. Ba chiếc thuyền
được lập tức trang bị cho Huyền Trân và hai vị đại thần trở về kinh sư.
Đoàn tùy tùng gồm có hai mươi bốn người, trong đó có cả Ratna và Thị
Ngọc. Bốn vị tăng sĩ đã lên đường về kinh sư từ trước ngày Phật Đản.
Kiệu đi ròng rã suốt hai mươi ngày mới về tới kinh đô Thăng Long. Huyền
Trân đã nhìn lại quê hương với những con mắt mới. Nàng luôn luôn nhìn ra
cảnh vật bên đường. Mỗi khi vượt đèo, qua sông, thấy nước non cẩm tú,
nàng không thể không nghĩ đến đất nước và dân tộc Chiêm Thành. Đất nước
kia và dân tộc kia cũng đã trở thành đất nước của nàng và dân tộc của
nàng. Người dân Chàm cũng như người dân Việt, ở đâu cũng lam lũ, cần cù,
đầy đủ sức chịu đựng và khao khát hòa bình. Nhìn những mái tranh thấp
thoáng sau lũy tre, nhìn những đoàn thợ cấy lom khom trên ruộng lúa,
nhìn những chú bé ngồi trên mình trâu, nàng ao ước được rỗ bỏ cái cốt
cách vương giả của nàng để có thể trở về sống đời sống dân dã của xóm
làng. Nàng muốn tái sinh trong một kiếp khác, thành một người dân quê.
Có thể Phụ hoàng sẽ giúp cho nàng toại nguyện.
Ngày mồng mười tháng tám, kiệu nàng về đến kinh sư. Về tới kinh sư, vua
Anh Tông và huệ Võ Đại Vương Quốc Chản, Huyền Trân được biết là Tuyên Từ
thái hậu, dì nàng, đã xuất gia vào ngày mồng tám tháng tư năm ấy, Bà đã
thọ Bồ Tát giới xuất gia tại chùa.
Báo Ân ở Siêu Loại và hiện bà đang tu ở am Bình Dương gần chùa Sùng
Nghiêm ở tỉnh Hải Dương. Nàng cũng biết là kế hoạch dùng thuyền để cướp
nàng đem về Đại Việt là do quyết định của vua Anh Tông và của triều
thần. Thượng hoàng đã không được thông báo gì về việc này. Sau một ngày
nghỉ ngơi để lấy lại sức khỏe. Huyền Trân quyết định đi thăm Thượng
hoàng trên núi Yên Tử. Nàng định sau đó nàng mới về am Bình Dương, ở Hạ
Lôi thăm thái hậu.
CHƯƠNG VI
Tiếng tụng kinh của chú Pháp Đăng đã im bặt từ lúc nào mà đến bây giờ
Huyền Trân mới nhận thấy am Long Động chìm trong một sự thanh tịnh tuyệt
đối. Chỉ trong mấy khoảng khắc thôi mà hình ảnh của bao nhiêu năm tháng
của cuộc đời nàng đã diễn lại đầy đủ trong trí hồi tưởng của nàng. Huyền
Trân có cảm tưởng là mình đã sống qua hàng thế kỷ, đã trải qua bao nhiêu
e ngại, sợ hãi, sung sướng, hồi hộp, lo âu, thất vọng và hy vọng. Nàng
đã từng cảm thấy mệt mỏi và chán nản, dù nàng biết mình mới có hai mươi
mốt tuổi đầu. Nàng nhớ lại lúc nàng mới thức giấc ở am Long Động, và cảm
thấy thoải mái an lạc mà nàng đã được thừa hưởng trọn vẹn trong lúc ấy.
Tâm hồn nàng lúc đó sao mà bình an và thanh thản một cách lạ. Chưa bao
giờ trong quá khứ mà nàng được hưởng cảm giác này. Huyền Trân nghĩ rằng
nếu cảm giác đó đã tới một lần thì nó có thể tới một lần khác, nhiều lần
khác, nếu nàng thật sự mong muốn. Nàng đã từng chấp nhận nằm trên giàn
hỏa rồi thì nàng không còn phải sợ hãi bất cứ cảnh huống nào của cuộc
đời. Có lẽ vì vậy mà nàng có khả năng nếm được sự tịch lạc. Nàng chưa
thực sự biết tu thiền, nhưng nàng nghĩ sự an lạc mà người tu thiền có
thể đạt đến cũng tương tợ như sự an lạc mà nàng vừa được biết tới mùi
vị. Huyền Trân duỗi hai tay theo chiều dài thân thể, ngước nhìn trần nhà
còn đen tối và lắng nghe sự yên tĩnh bên ngoài và bên trong tâm nàng.
Tiếng tụng kinh của chú Pháp Đăng không còn nữa, nhưng sự thanh tịnh vẫn
còn, và cảm giác an lạc lại bắt đầu trở lại. Huyền Trân bất giác cảm
thấy vui mừng, và trong đêm tối nàng mỉm cười. Nụ cười thật mầu nhiệm.
Nụ cười đến một cách bất ngờ. Chưa bao giờ nàng cười một nụ cười như
thế. Nụ cười này chỉ có nghĩa đối với nàng mà không có nghĩa với bất cứ
một ai khác. Nàng duy trì nụ cười ấy trên môi và cảm nghe hơi thở nhè
nhẹ và đều đặn của mình. Nàng tự dặn là đừng đánh mất giây phút an lạc
quý báu này trong những hồi tưởng và lo sợ vẫn vơ.
Có hai tiếng bảng của chú Pháp Đăng vọng lên. Hai tiếng bảng rành rọt và
nghiêm trang như một hiệu lệnh. Huyền Trân từ từ đứng dậy. Trời đã tờ mờ
sáng. Nàng mở cửa liêu bước vào tổ đường. Chú pháp Đăng đã dọn cháo sáng
trên bàn. Chú lễ phép:
- Mời lệnh bà dùng cháo sáng. Ăn cháo xong chúng ta sẽ khởi hành lên am
Đỉnh Trú.
Huyền Trân ngồi vào chiếc ghế gỗ. Trên bàn, trước mặt nàng, có một bát
cháo gạo đỏ nấu đặc, một đĩa dưa cải, một chén nước tương và một đôi
đũa. Chú Pháp Đăng ngồi phía bên kia bàn và trước mặt chú cũng có từng
ấy thứ. Chú chắp tay mật niệm rồi nâng bát cháo lên ăn thật thong thả và
im lặng. Huyền Trân bắt chước chú nàng cầm đũa và ăn cháo một cách thật
thong thả và im lặng. Bát cháo gạo đỏ sao mà ăn ngon lành đến thế, nàng
nghĩ. Chú tiểu ăn xong, lại chắp tay mật niệm rồi đi lấy cho Huyền Trân
một bát nước chè. Lâu quá Huyền Trân không được uống chè tươi pha gừng.
Nàng cảm thấy ấm cả bụng.
Khi hai người khởi hành thì trời sáng tỏ, tuy sương vẫn còn khá dày trên
chòm cây xa. Chú Pháp Đăng đưa tay chỉ cho Huyền Trân thấy ngọn đồi bên
cạnh am Long Động. Chú nói:
- Lệnh bà nhìn xem, quả núi này trông giống như con lân, cho nên người
ta thường gọi am này là am Lân.
Huyền Trân đưa mắt nhìn thì quả nhiên dáng núi hình con Lân thật. nàng
quay lại nhìn xuống phía trước am thì thấy dòng suối chảy giữa những gốc
thông già, bên suối có những tảng đá lớn nhỏ xen nhau. Năm xưa trước
ngày về Chiêm, nàng đã từng ngồi với Thượng hoàng một buổi chiều bên bờ
suối và trên những tảng đá đó. Nàng cảm tưởng là buổi chiều hôm ấy chỉ
là buổi hôm qua. Hai người theo con đường dốc sau am leo lên. Đường mòn
tuy dễ đi, nhưng hai người phải vượt qua nhiều con suối. Đã có những
chiếc cầu gỗ bắc qua các con suối cho nên không ai bị ướt chân. Huyền
Trân đếm được cả thảy chín con suối. Qua con suối thứ chín, hai người
gặp một ngọn núi chắn ngang trước mặt. Chú pháp Đăng nói về Huyền Trân
đó là núi Voi Xô. Dưới chân núi có một bãi cát trắng. Cát này chắc là do
nước mưa chuyên chở từ trên núi xuống, lâu ngày thành bãi. Chú lại nói
rằng mỗi khi vua Anh Tông lên núi thăm đại sĩ, ngài hay dừng kiệu nơi
đây để nghỉ ngơi.
Chú pháp Đăng đưa Huyền Trân vượt một cánh đồi thông, leo một con dốc,
rồi vượt một cánh rừng thông khác. Một hồi sau, hai người tới một dòng
suối lớn. Chú tiểu nói:
- Thưa lệnh bà, đây là suối Hồ Khê.
Nước suối màu đỏ, lòng suối rộng. Chú Pháp Đăng cho Huyền Trân biết là
suối này phát nguồn từ trên đỉnh núi, và vì chảy qua rừng lim cho nên
nước suối đỏ ngầu. Giữa lòng suối, Huyền Trân trông thấy những hòn đá
lớn. Nhìn lên, nàng thấy hàng ngàn cây thông vương cao trên núi. Đi sâu
vào đồi thông, hai người tới am Thạch Thất. Am này được xây toàn bằng đá
xanh lấy tại chỗ. Chú pháp Đăng cho Huyền Trân biết là chính trong am
này mà đại sĩ Trúc Lâm đả sáng tác Thạch Thất Mỵ Ngữ. Chú nói mấy năm
gần đây ngài ít ở Thạch Thất lắm và chỉ ưa cư trú trên am Ngọa Vân thôi.
Từ Thạch Thất trở đi, con đường bắt đầu khó đi nhưng cảnh trí rất ngoạn
mục. Có nhiều nơi phong cảnh thâm u và rậm rạp. Vượt ra khỏi một cánh
rừng, hai người đi tới một nơi thật sáng tươi và quang đãng. Đi một hồi
lâu nữa thì tới một cái dốc có cây cối um tùm và êm mát. Thấy Huyền Trân
có vẻ thấm mệt, chú Pháp Đăng bảo nàng:
- Lệnh bà vào đây ngồi nghỉ một chút cho đỡ mỏi chân đã.
Huyền Trân gật đầu. Chú tiểu đưa nàng tới dưới những cành cây sum sê. Ở
đây có mấy chiếc ghế ghép bằng thân cây cho người bộ hành ngồi nghỉ. Chú
nói:
- Chỗ này là Quán Mát. Đại sĩ hay ngồi nghỉ tại đây. Hoàng Đế Anh Tông
mỗi khi lên thăm đại sĩ cũng thường dừng kiệu tại đây.
Chú chỉ cho Huyền Trân thấy một cái am tranh ở phía xa, thấp thoáng sau
cành lá, và cho nàng biết đó là am Trung Thạch.
Chú nói sư huynh Pháp Loa của chú đã từng nhập thất tại am này.
Huyền Trân ngồi nghỉ trên một thân gỗ. Nàng bảo chú Pháp Đăng ngồi xuống
thân gỗ trước mặt nàng rồi hỏi:
- Này chú Pháp Đăng, ai dạy chú gọi tôi là lệnh bà thế hả chú?
Chú tiểu lễ phép:
- Thưa lệnh bà, có ai dạy đâu. Hôm qua cháu nghe chị Thị Ngọc, chị ấy
gọi như thế nên cháu cũng theo đấy mà gọi.
Huyền Trân mỉm cười. À thì ra chú này bắt chước Thị Ngọc. Nàng nói:
- Này chú, gọi tôi là lệnh bà thì nghe khách sáo lắm, mà chú xưng cháu
với tôi nghe càng buồn cười hơn nữa. Giờ tôi hỏi chú nhé: Chú có biết
tôi là con của đại sĩ không?
- Dạ chưa biết.
- Còn chú, chú là đệ tử của đại sĩ thì cũng như con của ngài. Vậy chú cứ
xem tôi là chị của chú, và chú gọi tôi là chị.
Chú Pháp Đăng cúi đầu:
- Thưa cháu không dám.
- Sao lại không dám? Tôi không phải là chị của chú hay sao? Tôi cũng sẽ
học đạo với đại sĩ và tôi cũng sẽ là đệ tử của đại sĩ. Vậy chú gọi tôi
là chị thì lại càng đúng nữa. Nói thật với chú, tôi ghét người ta gọi
tôi là lệnh bà lắm. Chú gọi tôi là chị đi, và đừng xưng cháu với tôi
nữa. Cứ xưng là em cũng được rồi.
Chú Pháp Đăng ngửng đầu nhìn bà công chúa mà khắp nước ai cũng biết tên,
rồi cúi đầu đáp khẽ:
- Thưa vâng.
- Vậy thì chú Pháp Đăng, chú đi tu được mấy năm rồi, nói cho chị nghe
đi.
- Thưa lệnh bà, à dạ thưa ... chị, em đi tu mới được hai năm thôi.
- Chú tụng kinh hay lắm. Giọng của chú rất trong. Đại sĩ yêu chú lắm
phải không?
- Vâng, em được đại sĩ thương yêu lắm. Em chỉ mới có mười hai tuổi thôi,
mà đã được đại sĩ cho viết lời "tán ngữ" trong sách Tuệ Trung Thượng Sĩ
Ngữ Lục rồi. Sách ấy mới được in xong chị ạ. Em có tới hai bản, em biếu
chị một bản.
- Ngoài chú ra, còn có ai được viết lời tán ngữ trong sách đó nữa hả
chú?
- Trước hết là đại sĩ, rồi đến sư huynh Pháp Loa, sư huynh Bảo Pháp, sư
thúc Tông Cảnh, cư sĩ Như Pháp, sư huynh Pháp Cổ, và sư huynh Huệ
Nghiêm. Em là người chót được viết lời tán ngữ. Lời tán ngữ nào cũng hay
hết chị ạ, chỉ có lời tán ngữ của em là dở, vậy mà đại sĩ cũng cho in
vào cuối tập.
- Chú viết như thế nào, đọc cho chị nghe đi.
- Em viết: "Thượng sĩ là một vị Bồ Tát, sanh trong nhà họ Trần, anh ruột
của vị anh hùng Vạn Kiếp Trần Hưng Đạo Đại Vương. Thuở nhỏ, thượng sĩ là
người trung hiếu, cư xử trọn đạo với vua cha. Gặp thời nước nhà bị nạn,
ngài đã hai lần ngăn giặc. Sau đó, ngài đưa mình vào cảnh thiền, rong
chơi cùng khắp". Dở không, thưa chị?
- Chú viết hay lắm. Mà chú nói cho chị biết chú đi tu để làm gì vậy hả
chú?
- Em cũng muốn được như sư huynh Pháp Loa.
- Sư huynh Pháp Loa là gì mà chú ưa thích như vậy?
- Sư huynh Pháp Loa là người nối nghiệp đại sĩ để duy trì và hoằng dương
chánh pháp. Sư huynh còn quan trọng hơn sư huynh Bảo Sát nữa, thưa chị.
Hồi đầu năm này em được đi hầu đại sĩ ở chùa Bảo Ân và được dự lễ đại sĩ
trao pháp y cho sư huynh Pháp Loa. Cảnh tượng trang nghiêm lắm chị ạ.
Chị muốn nghe em kể lại không?
Huyền Trân thấy trong lòng vui vui khi nói chuyện với chú tiểu. Nàng
thấy giọng chú thật ngộ nghĩnh, nhất là khi chú dùng những danh từ Phật
học như "hoằng dương chánh pháp", "pháp y" và "trang nghiêm". Nàng gật
đầu:
- Chú kể cho chị nghe đi.
- Sáng hôm sau mồng một Tết, sau khi tụng xong buổi công phu sáng, đại
sĩ đưa sư huynh lên lạy ở nhà tổ. Xong rồi, tất cả đại chúng xuống ăn
cháo sáng. Ăn sáng xong rồi thì mọi người mang y hậu đại lễ vào và lên
pháp đường. Chuông trống và đại nhạc được đánh lên uy nghi lắm thưa chị.
Vừa lúc đó Hoàng đế ngự giá tới chùa, có rất nhiều người đi theo hầu.
Hoàng đế là vị đàn việt lớn nhất của Phật pháp cho nên ngài ngự ở ghế
khách nơi pháp đường, trong khi Huệ Võ Đại Vương và các quan dều phải
đứng trước sân. À thưa chị, có phải Huệ Võ Đại Vương là anh ruột của chị
không, thưa chị?
- Phải, chú kể tiếp đi.
- Lúc ấy đại sĩ lên pháp tòa để thuyết pháp. Thuyết pháp xong, ngài đi
xuống, cầm tay sư huynh Pháp Loa dắt lên toà, bảo sư huynh ngồi lên đó.
Xong ngài đứng chắp tay trước mặt sư huynh mà làm lễ vấn tấn. Vấn tấn là
thăm hỏi đó thưa chị. Sau khi sư huynh đáp lễ, đại sĩ mới lấy pháp y
trao cho sư huynh khoác vào. Rồi đại sĩ ngồi xuống bên chiếc ghế khúc
lục để nghe sư huynh thuyết pháp. Sư huynh thuyết pháp xong, đại sĩ đứng
dậy. Trước mặt Hoàng thượng, bách quan và đại chúng, ngài lên tiếng bảo
rằng hôm nay ngài đem cả sơn môn Yên Tử và chùa Báo Ân trao lại cho sư
huynh, ủy cho sư huynh kế thế trụ trì và làm tổ thứ hai của Giáo Hội
Trúc Lâm. Sau đó, tất cả mọi người, từ Hoàng đế cho bách quan và đại
chúng, đều đứng dậy chắp tay làm lễ sư huynh.
Huyền Trân nhìn chú Pháp Đăng, cười:
- Nếu tôi là chú thì tôi không ước muốn được như sư huynh Pháp Loa đâu.
Làm tổ của một môn phái mệt lắm và phải lo nhiều chuyện lắm. Tôi chỉ ước
muốn được như chú mà thôi. Ở đây thanh tịnh và thảnh thơi biết bao
nhiêu. Chú lại được đại sĩ thương yêu không kém gì sư huynh Pháp Loa. À,
này chú, tại sao bây giờ ở trên núi ít người quá vậy? các thầy đi đâu
hết mà chùa Long Đông chỉ có một mình chú thôi hả chú?
- Các sư huynh đã xuống núi hết theo lời đại sĩ chỉ dạy. Chỉ còn có sư
huynh Bảo Sát ở lại trên am Tử Tiêu, thưa chị. Mùa hè năm nay đại sĩ an
cư ba tháng tại chùa Vĩnh Nghiêm ở Đức La, đại chúng đến kết hạ đông có
trên hai trăm vị. Ngài đã giảng sách Truyền Đăng Lục cho đại chúng nghe
suốt mùa an cư và đến ngày rằm tháng bảy, sau lễ Tự Tứ, ngài cũng đã làm
lễ ủy cho sư huynh Pháp Loa trụ trì luôn chùa này. Ngày mười sáu ngài về
đây và lên cư trú nơi am Tử Tiêu. Ngài bảo sư huynh Pháp Loa lên ở đó
hầu ngài và giảng cả bộ Truyền Đăng Lục cho riêng một mình sư huynh học.
Hết tháng bảy, ngài cho tất cả các sư huynh xuống núi và giữ lại một
mình sư huynh Bảo Sát. Ngài nói với sư huynh Bảo Sát là ngài muốn cùng
sư huynh đi thăm hết mọi nơi trên núi Yên Tử, và không muốn có ai trên
này. Do đó mà bây giờ ở đây chỉ có ba người là đại sĩ, sư huynh Bảo Sát
và em mà thôi.
Huyền Trân tính nhẩm trong trí và biết rằng năm nay Phụ hoàng nàng đã
năm mươi tuổi. Tuổi cao như vậy mà Phụ hoàng nàng còn phải lo bao nhiêu
là việc. Hết việc đời, tới việc dạo. Nàng mừng thầm khi biết cha sắp đặt
và giao phó công việc sơn môn cho sư huynh Pháp Loa. Ngài xuất gia như
vậy là đã gần mười năm rồi. Ngài đi tu năm bốn mười mốt tuổi, hồi đó
nàng mới mười hai. Nàng nhớ ngày Thượng hoàng xuất gia, cả nước náo
động, Thái hậu và tất cả các cung phi đều khóc và đưa tiễn ngài tới chân
núi Yên Tử. Nhiều người không chịu trở về cung. Họ lập am dưới chân núi
mà ở. Thượng hoàng không nở đuổi. Vì vậy dưới chân núi Yên Tử làng Nường
và làng Mụ được thành lập. Mấy năm sau, một ni viện được xây dựng lên để
làm chỗ tu hành cho các bà phi xuất gia. Cũng vào ngày Thượng hoàng đi
xuất gia, thầy Trí Thông trú trì chùa Báo Ân phát tâm đốt cháy bàn tay
của mình để cúng dường. Ông nói: "Một ông vua đi tu để xiển dương Phật
pháp là một cơ hội lớn chưa từng có trên đất nước này". Cả kinh thành
Thăng Long bàn tán về chuyện thầy Trí Thông đưa bàn tay lên ngọn nến để
cho bàn tay cháy từ ngón tay tới khủy tay từ sáng tới chiều mà sắc mặt
an nhiên không thay đổi. Huyền Trân đã xin phép Tuyên Từ thái hậu để đến
chùa Báo Ân xem và đã tự mình chứng kiến cảnh tượng lạ lùng ấy.
Huyền Trân biết rằng từ hồi còn thơ ấu, Phụ hoàng đã được học Phật pháp
với Thượng sĩ Tuệ Trung, thúc tổ của nàng, người mà cả thiên hạ đều cho
là bậc chứng đạo cao siêu, kinh luận uyên bác. Ngày Phụ hoàng xuất gia,
thượng sĩ đã khuất núi rồi, do đó quốc sư Đạo Nhất đã làm lễ xuất gia
cho ngài. Từ cuộc sống trong cung vàng điện ngọc, Phụ hoàng đã đi sang
suộc sống của người đạo sĩ không cửa không nhà. Hồi mới đi tu, ngài đã
tu luyện theo hạnh đầu đà khổ hạnh, cho nên ngài chỉ mặc áo vá, ngủ dưới
những mái lá trên núi Yên Tử, ăn uống sơ sài và kham khổ. Hồi ấy ngài
lấy hiệu là Hương Vân Đầu Đà. Giới Phật tử tôn xưng ngài là Hương Vân
Đầu Đà. Ở trên núi đã mười năm mà ngài chưa cho lập ngôi chùa nào cả.
Tất cả những nơi cư trú hành đạo của ngài và của trên mười vị đệ tử chỉ
là mười mấy cái am tranh, cao nhất là am Tử Tiêu và thấp nhất là am Long
Động. Am Ngọa Vân nằm vào vị trí trung ương, thấp hơn am Tử Tiêu, nhưng
cao hơn nhiều am khác.
Nghĩ đến am Ngọa Vân, Huyền Trân đứng dậy. Chú Pháp Đăng cũng đứng dậy
theo nàng. Chân của hai người giờ đã bớt mỏi. Họ đi băng qua một vài
cánh rừng và leo trèo một hồi nữa thì thấy dáng am Ngọa Vân:
Vào tới am, không thấy Trúc Lâm đại sĩ, chú Pháp Đăng biết là ngài đang
ngồi thiền bên am Thiền Định. Chú nói khẽ với Huyền Trân, tay chỉ về
phía một cái am nhỏ phía tay trái hiện sau mấy cội thông già:
- Đại sĩ đang ngồi thiền ở đó, mình không nên tới gần mà làm kinh động
đến ngài. Để em chỉ cho chị xem qua địa thế ngọn Ngọa Vân này.
Chú đưa Huyền Trân qua phía mặt đến một cái am dựng sát vào khe đá:
- Đây là am Một Mái, bởi vì nó chỉ có một cái mái mà thôi, như chị thấy.
Đại sĩ thường ngồi ở đây để đọc kinh và đọc sách. Chỗ này mát mẻ và
thanh tịnh lắm thưa chị. Còn cái am bên trái mà em vừa chỉ cho chị là am
Thiền Định, nơi đại sĩ ngồi thiền mỗi ngày nhiều bận. Lát nữa sau khi
đại sĩ xuất thiền em sẽ đưa chị sang đấy thăm. Gần đó có suối Rồng, thác
nước đẹp lắm chị ạ. Nước đổ như bay từ trên núi cao xuống, thưa chị.
Dưới suối có tảng đá vuông, ngài hay xuống tắm ở đấy, thưa chị. Chị xem,
con suối là đuôi con rồng, am Một Mái dựng sát khe núi là cái đầu rồng,
còn am Ngọa Vân đứng giữa là lưng con rồng. Chị lại đây mà xem. Đứng ở
trước am Ngọa Vân nhìn xuống chị có thể thấy được cả thiên sơn vạn thủy
đang chầu lại, đẹp lắm.
Huyền Trân nhìn xuống và thấy lời chú Pháp Đăng rất đúng. Cảnh tượng vừa
đẹp vừa hùng vĩ gây trong lòng nàng một cảm giác lâng lâng. Ước gì nàng
được ở lại đây vài hôm.
Huyền Trân cười:
- Cho nên ngọn núi này mới được gọi là Ngọa Vân phong.
Nói xong câu ấy nàng nghe tiếng chân dẫm trên lá khô phía sau. ngoảnh
lại, Huyền Trân thấy Trúc Lâm đại sĩ đang tươi cười bước tới. Chú Pháp
Đăng chắp tay trước ngực và cúi đầu chào kính cẩn. Huyền Trân cũng bắt
chước chú, chắp hai tay lại và cúi đầu. Đại sĩ bảo:
- Các con lên sớm lắm.
Ngài đưa Huyền Trân và chú Pháp Đăng vào am. Chú Pháp Đăng đứng dậy định
vào sau nhà trù nấu nước pha trà thì đại sĩ bảo:
- Thôi con đừng nấu trà nữa. Ta nên khởi hành lên am Tử Tiêu ngay. Thầy
có làm sẵn một nắm cơm và một gói muối vừng. Chúng ta sẽ thọ trai ở giữa
đường. Cơm và vừng để ở trên bàn, gần cây đèn đó con.
Chú Pháp Đăng đi lấy từ trên vách am xuống một cái túi gai, bỏ mo cơm và
gói vừng vào đấy rồi đeo lên vai. Đại sĩ ra khỏi am. Ngài đợi Huyền Trân
và chú Pháp Đăng ra rồi nhẹ tay khép cánh cửa gỗ lại. Ba người đi vòng
ra phía sau am và bắt đầu leo lên một cái dốc. Đường khó đi hơn trước,
có những nơi đường dốc cheo leo nhưng Huyền Trân nhận thấy đại sĩ vẫn
leo trèo thăn thoắt. Hai chân ngài có vẻ còn cứng cáp. Người mang theo
một cây gậy trúc. Mười năm không hề lên võng xuống kiệu, chắc ngài đã
quen lắm với sự leo trèo trên những con đường núi khó đi. Chú Pháp Đăng
cũng leo trèo rất giỏi. Nhiều lúc, chú phải đứng đợi nàng, hoặc đưa tay
giúp nàng để nàng khỏi trượt chân. Ba người đi tới am Trượng, Huyền Trân
ngửi thấy mùi hoa phảng phất. Đúng rồi, đây là mùi hoa mộc mà nàng rất
quen thuộc. Trước sân chùa Tư Phúc nàng đã từng hái hoa này cài lên tóc.
Nhìn lại, nàng thấy rất nhiều cây mộc trước am Trượng, cây nào cũng lốm
đốm hoa trắng.
- Chú Pháp Đăng, nàng gọi chú, lại đây xem những cây hoa mộc.
Chú Pháp Đăng lại gần nàng:
- Tất cả những cây hoa mộc này đều do đại sĩ trồng đó thưa chị. Ngài
trồng những cây này có lẽ vào năm em mới lên ba hoặc bốn tuổi.
Những cây hoa mộc đã lên cao quá đầu người. Hai người đi theo đại sĩ về
phiá trái của am. Tại đây, chú Pháp Đăng chỉ cho Huyền Trân thấy hai cái
am dựng gần nhau, một cái là am Thung, một cái là am Dược. Chú cho nàng
biết là tại các am ngày xưa ngự y thường lên đây để hái thuốc và luyện
thuốc. Am Thung là nơi để giả thuốc còn am Dược là nơi để bào chế thuốc
thành viên. Huyền Trân biết rằng thuốc luyện ở đây là vừa để cho hoàng
gia xử dụng vừa để cho triều đình cung cấp cho dân chúng trong những mùa
dịch lệ và đói lạnh. Nàng biết các viên Hồng Ngọc Sương mà dân chúng
khắp nơi đều biết tiếng đều được chế luyện nơi đây. Vào những năm mất
mùa, triều đình hay ủy các chùa phát gạo cho người đói, và những gia
đình có người bịnh thì được phát hai viên Hồng Ngọc Sương. Huyền Trân đi
vào am Dược thì thấy am khá rộng. Trong am có những hộc gỗ, có lẽ để
chứa đựng các món thuốc khác nhau.
Nhưng đại sĩ đã giục hai người đi tiếp. Từ am Dược có đường mòn dẫn lên
am Tử Tiêu. Sau một hồi leo trèo, đại sĩ dừng lại, dạy hai người ngồi
nghỉ chân trên một khoang đất có đá, và có những khóm trúc mọc xen kẻ
giữa những tảng đá. Chú Pháp Đăng lấy cơm và muốn vừng dâng lên đại sĩ.
Ngài ngồi trên một tảng đá trong tư thế kiết già. Sau khi mật niệm, ngài
nhận cơm và muốn rồi thong thả ăn từng miếng nhỏ. Chú Pháp Đăng đưa cơm
mời Huyền Trân. Đến phiên chú, chú cũng mật niệm như đại sĩ trước khi
ăn. Ăn xong, chú đi hái một tờ lá, uốn lại thành hình một cái phễu rồi
chạy ra dòng suối chảy ngang gần đó lấy nước đem về dâng đại sĩ. Huyền
Trân theo chú ra suối. Nàng quỳ gối trên một phiến đá, cuối xuống vốc
nước suối vào lòng bàn tay, rồi đưa lên uống. Nước suối thật mát.
Huyền Trân nhìn xuống dòng nước nhỏ đang len lỏi qua sỏi đá, trong suốt
như pha lê. Lòng nàng bình thản một cách lạ. Nàng thấy không có một sự
lo sợ nào hoặc ước muốn nào có thể đến làm náo động sự bình thản đó.
Nàng biết là mình đang ở trên núi Yên Tử, cao gần tới đỉnh núi, với
người mà nàng yêu kính nhất. Người ấy là cha nàng, nhưng cũng là người
hiểu nàng hơn ai hết trên cuộc đời này. Có bao nhiêu người trên đời hiểu
được tâm sự của đại sĩ, nàng không biết. Nàng chưa đọc hết những thư
tịch mà Phụ hoàng sáng tác, nhưng nàng có cảm tưởng là chưa chắc những
kẻ đã được đọc hết các sách của ngài như Thạch Thất Mỵ Ngữ, Thiền Lâm
Thiết Chủy Ngữ Lục, Trúc Lâm Hậu Lục và Đại Hương Hải Ấn Thi Tập v.v...
cũng không thể hiểu được ngài hơn nàng.
Chợt Huyền Trân chú ý đến chú ý Pháp Đăng. Chú đã vốc nước uống rồi và
hiện tại chú đang ngồi bên bờ suối và hai tay chú khoát nước đùa giỡn
tinh nghịch trên mặt suối. Hình ảnh bàn tay chú đập mạnh vào tâm não của
Huyền Trân. Ngày xưa, vào tuổi chú, nàng cũng rất ham đùa nghịch, nhưng
chưa bao giờ nàng dừng lại và thấy được bàn tay của mình một cách rõ rệt
như buổi chiều cách đây hai năm, ngồi bên bờ suối trước am Lân, được Phụ
hoàng mở mắt cho. Giờ phút này, nàng thấy được bàn tay của chú Pháp
Đăng. Hai bàn tay kia là của chú, nhưng chưa chắc gì chú đã thấy như
nàng đang thấy. Chú là đệ tử của đại sĩ, nhưng chắc là chú chưa được đại
sĩ mở mắt cho để có thể nhìn rõ được hai bàn tay của chú. Chú đi tu đã
hai năm rồi. Hiện giờ chú đang ở trong một thế giới thanh tịnh và an lạc
mà chú nào có hay biết. Chú đang nghĩ đến tương lai, chú đang cố gắng
học đạo để ngày mai có thể được như sư huynh Pháp Loa, ngồi trên pháp
tọa, trước con mắt kính ngưỡng của vua quan và trăm họ. Huyền Trân thấy
con đường chú đi còn dài quá, và trong lòng nàng, một mối thương cảm
chợt nảy sinh. Con đường dài không phải là chỉ dài cho một mình chú mà
còn dài cho cả chính nàng, bởi vì nàng nhận ra rằng chú và nàng không
phải là hai thực thể cách biệt.
Huyền Trân không ngờ là nhìn bàn tay chú tiểu nàng đã nghĩ tới Dayada,
con nàng. Mối thương cảm trong nàng dường như không phải chỉ được phát
sinh từ lòng nàng mà đã được phát sinh từ lòng người cha yêu kính. Bàn
tay của nàng còn đây, nhưng nàng cũng đã trao nó lại cho đứa vừa đầy một
tuổi của nàng. Dayada sẽ mang bàn tay ấy về đây, và sẽ trao cho ai trong
một tương lai mờ mịt? Và bàn tay của chú Pháp Đăng nữa. Phụ hoàng đã
trao sự thương yêu cho chú. Bàn tay của chú tuy không cùng trong một
huyết thống vẫn là bàn tay của ngài, vẫn là bàn tay của nàng. Chỉ mới có
một ngày thôi mà Huyền Trân đã thấy yêu mến chú Pháp Đăng như yêu thương
một đứa em ruột thịt của nàng. Chưa chắc nàng đã thấy gần gũi với anh
Quốc Chẩn của nàng hơn là với chú tiểu vốn xuất thân từ một nhà dân dã.
Huyền Trân bỗng cảm thấy mình đã đi vào tương lai và trái tim của nàng
cũng như bàn tay của nàng đã lên đường, không có cách gì kéo chúng lại
được. Nàng tự nhủ là sẽ đem những điều nàng vừa cảm thấy để hỏi cha
nàng, mong ràng đại sĩ sẽ soi sáng, đường đi nẻo về của tâm ý nàng.
- Chúng ta đi thôi, các con.
Huyền Trân giật mình, ngưng dòng suy tưởng. Đại sĩ đứng dậy. Chú Pháp
Đăng cũng đã đứng dậy. Chú mang chiếc đãy gai lên vai. Chiếc đãy bây giờ
nhẹ nhõm.
Ba người theo con đường mòn đi thành một hàng, đại sĩ đi trước, và chú
Pháp Đăng đi sau nàng. Dốc tuy cao nhưng con đường quanh co nên dễ đi.
Huyền Trân để ý thấy có nhiều bụi trúc thật là xinh đẹp. Thỉnh thoảng
nàng lại nghe tiếng nước suối chảy róc rách. Đi một hồi thật lâu nữa thì
ba người lên tới am Tử Tiêu.
Đứng trên am nhìn xuống núi, cảnh tượng thật là kỳ tuyệt. Huyền Trân
thấy cả những đám mây bay phía dưới. Chú Pháp Đăng chỉ cho nàng thấy núi
Đông Cứu xa xa. Nhìn về bên phải, nàng thấy biển Nam Hải, eo biển cong
như hình một con ngao. Ở đây thật là cảnh tiên, nàng có cảm tưởng là đã
xa lánh được vĩnh viễn cõi hồng trần.
Đại sĩ nói với chú Pháp Đăng:
- Sư huynh Bảo Sát đi vắng. Con vào quét dọn bên trong và bên ngoài am
đi, rồi hãy pha trà.
Ngài quay lại bảo Huyền Trân:
- Bây giờ ta đưa con lên đỉnh núi.
Đại sĩ Huyền Trân đi vòng bên bàn tay trái để đi lên sau am. Con đường
mòn đưa dần lên đỉnh núi. Hai người đi hồi lâu thì tới một ngọn đèo. Ở
đây trúc mọc rất nhiều và trên đọt trúc lại có hoa. Đại sĩ cho biết đây
là đèo Hoa Trúc. Vượt lên đèo, Huyền Trân theo đại sĩ lên tới đỉnh núi.
Đỉnh núi rộng có tới mấy mẫu, trúc và đá chen nhau. Trúc và đá phối hợp
thành những cảnh tượng rất ngoạn mục. Lại có cả hai cái ao sen. Các bông
sen đã tàn, duy chỉ còn các gương sen vươn thẳng trên mặt hồ.
Huyền Trân theo chân đại sĩ tới ngồi bên một phiến đá rộng, vuông và
phẳng. Nàng đã biết là nàng đang ngồi trên đỉnh cao nhất của núi Yên Tử,
bên cạnh người cha kính yêu của nàng. Nàng có cảm tưởng là hai cha con
nàng đã lên tới cõi trời. Người ta đồn rằng ở đây thỉnh thoảng có các vị
tiên trên trời bay xuống để đánh cờ và uống rượu. Phiến đá vuông trên đó
nàng đang ngồi với cha hẳn là bàn cờ của các vị tiên.
Đại sĩ ít nói quá, nhưng nhìn vào khuôn mặt hiền từ và trầm lặng của
cha, Huyền Trân biết ngài rất vui được ngồi với đứa con thân yêu trên
đỉnh núi này. Ở đây chưa có am thất gì hết, nhưng chắc chắn là đại sĩ đã
từng lên đây nhiều lần. Sen ở dưới mấy cái ao nhỏ chắc cũng đã do ngài
trồng. Huyền Trân đứng dậy nhìn ra bốn phía. Nàng chỉ thấy có trời xanh,
và biển cả dàn trải phía xa. Những ngày có mây trên đỉnh núi, có lẽ đứng
dậy sẽ không nhìn thấy gì, kể cả trời lẫn biển. Kinh thành Thăng Long
nằm về phương Tây, nơi do anh cả của nàng là vua Anh tông và triều thần
đang cư trú, nắm giữ vận mệnh của nước, nhưng mà ở đây, trên một phiến
đá vuông là ông thầy tu mà toàn dân thương kính. Ông thầy tu mà ngày xưa
đã từng đuổi được quân Mông Cổ phía Bắc, trấn an biên thùy phương Tây và
đem khúc ruột của chính mình cắt ra mà thiết lập tình hòa giải phương
Nam. Ở đây không có ngai vàng, không có thành quách, không có lính
tráng. Chỉ có mấy cái am tranh, nhưng mà ở đây có trái tim của đất nước,
của đạo pháp, Huyền Trân ngồi xuống và chiêm ngưỡng người cha già đáng
kính.
Vừa lúc ấy, đại sĩ quay lại nhìn nàng, trên môi người thoáng một nụ cười
hiền hậu. Ngài nói:
- Ta muốn con được gặp sư huynh Bảo Sát của con sáng hôm nay, nhưng con
phải đợi thêm vài hôm nữa. Sáng nay sư huynh của con đã được ta phái về
kinh sư có chút việc.
Rồi ngài cho Huyền Trân biết sư huynh Bảo Sát phải về kinh đô gấp rút
như vậy là vì ngài đã nhờ sư huynh nhắn vua Anh Tông một việc. Ngài đề
nghị với vua Anh Tông cho người đưa ba trăm người Chiêm Thành trả về
nước họ, để gián tiếp xin lỗi về việc quan thượng thư Trần Khắc Chung đã
cướp Huyền Trân đem về Đại Việt.
- Sư huynh con sẽ tới kinh sư ngày mai. Ta có dặn là hãy để cho những
người Chiêm ấy về nước mà đừng tiếc, dù trong só đó có những người thợ
chuyen môn thật khéo, và ta cũng đã đề nghị với quan gia là nên cho họ
về bằng thuyền, và ủy trại chủ Châu hoá đưa họ đi. Ta hy vọng việc này
sẽ làm dịu bớt nỗi bất bình của người bên đó.
Huyền Trân xúc động, thì ra người cha yêu quý báu của nàng dù ngồi trên
đỉnh núi cao vẫn nghĩ đến tình chung thủy và nghĩa chu toàn. Tại sao
người im lặng như thế mà hiểu được cuộc đời một cách thâm sâu như thế?
Huyền Trân có cảm tưởng nàng không cần thổ lộ cho cha một tí gì về nỗi
lòng của nàng. Nàng không thấy sự cần thiết. Người không hỏi nhưng người
đã nhìn thấu. Chắc người cũng đã nhìn thấu được sụ an lạc mới nảy sinh
trong lòng nàng từ sáng hôm nay. Một giọt nước chầm chậm hình thành trên
mi nàng. Giọt nước mắt ấy, long lanh như một hạt châu, đã lâu lắm mới đủ
sức nặng để rơi xuống. Huyền Trân mỉm cười thật nhẹ. Có lẽ đây là giọt
nước mắt đầu tiên của loài người đã rơi xuống trên phiến đá tiên, nhưng
đây không phải là một giọt lệ đau thương. Đây là một giọt lệ sung sướng.