Tuyển tập
truyện ngắn Phật Giáo
Huỳnh Trung Chánh
---o0o---
Mở toang
cửa địa ngục
Không hẹn mà ba
người bạn nối khố, sanh sống ở ba tiểu bang khác nhau, sau hai mươi lăm
năm xa cách, đã trùng phùng trong chuyến hành hương Trung Quốc. Cả ba là
bạn đồng khóa sĩ quan Ðà Lạt và cùng mang cấp bậc trung tá, và tuy cùng
định cư tại Hoa Kỳ, nhưng thể thức ra đi của họ có những duyên nghiệp khác
hẳn nhau. Phương may mắn di tản kịp thời sang Mỹ từ năm 1975, và đã tạo
nên sự nghiệp vững vàng tại tiểu bang Virginia. Thanh học tập cải tạo 5
năm, vừa về nhà thì vợ chồng liền được đám con bảo lãnh sang Houston,
Texas. Luân kém may mắn hơn, chịu đựng đến 8 năm cải tạo, rồi phải mòn mỏi
chờ đến khi chương trình ra đi theo diện tù cải tạo (H.O.) ra đời thì mới
đưa được gia đình sang miền Nam California sinh sống. Kẻ trước người sau
đến xứ người lập nghiệp, cơ hội khác nhau, tiền bạc tích lủy nhiều ít cách
biệt... nhưng tựu trung thì ai cũng an cư lạc nghiệp, nhà cửa ấm cúng và
cũng thừa tiền an hưởng lúc tuổi già. Sau khi tay bắt mặt mừng, rối rít
thăm hỏi chuyện gia đình, nhà cửa..., họ hào hứng nhắc nhớ lại quãng thời
ngang dọc xa xưa, rồi bùi ngùi hồi tưởng đám bạn bè kẻ còn người mất, kẻ
bệnh tật ngặt nghèo, người tình duyên lỡ dở... Cả ba tự nhận họ thuộc vào
hạng có phước có phần, bản thân mạnh khỏe, gia đình yên ổn, con cái nên
người..., ngoài ra, họ còn may mắn ý thức được việc tu dưỡng thân tâm và
nhân đó mới tham dự chuyến hành hương nầy để vừa thưởng thức cảnh đẹp xứ
người, vừa đáp ứng được lòng tôn kính đối với chư Bồ Tát. Cả ba hân hoan
theo phái đoàn lần lượt chiêm bái Ngũ Ðài, Nga Mi, Cửu Hoa và sau cùng
vượt biển đến Phổ Ðà sơn. Cả bốn đại danh sơn đều được mọi người quy
ngưỡng, nhưng địa điểm nào được chấm là đặc biệt nhất, là điều mà ai cũng
phân vân và đó cũng là câu hỏi mà ban tổ chức đã yêu cầu Phật tử góp ý.
Trong suốt chuyến đi, sáng dậy sớm lên đường, tối mịt mới nghỉ ngơi, ba
lão già oải gân ráng sức theo cho kịp phái đoàn lại vừa phải phân tâm lo
lắng cho mụ vợ hom hem cũng đã hụt hơi nên dù gặp nhau hằng ngày, mà chẳng
mấy khi họ có thời giờ rảnh rổi hàn huyên tâm sự. Mãi đến khi lên máy bay
về Mỹ, ba người bạn già mới có dịp ngồi xúm xít bên nhau tán gẫu chuyện
đời, rồi vô tình câu hỏi của ban tổ chức bỗng được nhắc lại.
Thanh khơi mào :
-Bốn đại danh sơn đều linh
thiêng mầu nhiệm, phong cảnh mỗi nơi mỗi khác mà đều hùng vĩ tuyệt vời,
chiêm bái nơi nào tôi cũng cảm thấy xúc động vô bờ, nên khi phải chọn lựa
xếp hạng là một quyết định rất gian nan. Suy đi nghĩ lại, tôi đã chọn Cửu
Hoa sơn, còn hai anh thì thế nào?
- Tôi cũng nhận thấy có duyên
đặc biệt với Ngài Ðịa Tạng., Luân đáp.
- Lạ quá! tôi cũng giống y
chang như hai anh. Ðúng là tư tưởng lớn gặp nhau rồi! Chúng mình đều hướng
về Cửu Hoa sơn, nhưng lý do thầm kín thì có lẽ mỗi người mỗi khác. Ừ nhỉ!
sao mình không trình bày nỗi niềm riêng của mình cho bạn bè cùng chia xẻ
cho vui?, Phương góp ý.
Luân cũng lên
tiếng :
- Hì ! hì ! Nên lắm! phải lắm!
Thế nhưng ai là người phải kể trước đây? Phương đã đề nghị thì phải xung
phong làm gương sáng cho anh em noi theo mới đúng?
Phương biết tranh
cãi với hai bạn cũng vô ích, nên cười hì hì nhận chịu. Anh mơ màng đưa hồn
quay về với chuỗi ngày niên thiếu xa xưa, rồi bắt đầu vào chuyện :
- Tôi sanh ra tại cù lao Phố,
nay là xã Hiệp Hòa, Biên Hòa. Ðây là một địa điểm lịch sử và làø một trong
những cơ sở tiên khởi của ông cha ta trên con đường khai phá miền Nam, nhờ
vậy đã có những ngôi cổ tự xây dựng lâu đời như chùa Ðại Giác và Chúc Thọ.
Thuở nhỏ tôi thường theo bà nội đi chùa Chúc Thọ tụng kinh Ðịa Tạng, và
tại đây, hơn một lần tôi đã nghe cô bác nhắc nhở đến giai thoại Thủ
Huồng(1), một giai thoại đã tạo ảnh hưởng sâu đậm cho niềm tin kính của
tôi đối với Ngài Ðịa Tạng. Theo truyền thuyết thì Oâng Thủ Huồng, tên thật
là Võ thủ Hoằng, nguyên là một viên thơ lại tại dinh Trấn Biên vào buổi
giao thời Gia Long phục quốc. Nương vào thời kỳ chánh trị bất ổn, kinh tế
xáo trộn, Thủ Huồng mặc sức làm giàu bằng đủ mọi hình thức. Ông lạm dụng
quyền thế, gian lận của công, hối lộ, sách nhiễu tiền bạc, cướp đoạt tài
sản của dân chúng, ngoài ra, ông cũng không từ nan những thủ đoạn kiếm
tiền khác như đầu cơ tích trữ, cho vay nặng lãi, lường công bóc lột tá
điền, tổ chức bài bạc lấy xâu... Sau 20 năm cần cù làm việc, gầy dựng nên
một tài sản kếch sù, ruộng đất cò bay thẳng cánh, Thủ Huồng mới từ dịch an
hưởng đời sống phong lưu của bậc đại trưởng giả. Thủ Huồng không con nối
dõi, chỉ có người vợ yêu tâm đồng ý hiệp, sớm hôm bàn kế hoạch làm giàu và
lấy chuyện tích lủy tiền của làm niềm vui. Thế nhưng, bỗng dưng ngưòi vợ
yêu lâm bạo bệnh rồi từ trần. Thủ Huồng cực kỳ đau khổ, nhưng thương vợ
thì y chỉ có phương cách là tổ chức đám tang linh đình, đốt giấy tiền vàng
bạc, lầu kho thật nhiều với hi vọng người vợ yêu có thừa tiền của để hối
lộ và tiêu pha tại chốn âm ty. Vợ chết được mấy tuần thì Thủ Huồng bỗng
chiêm bao nghe tiếng vợ kêu gào rùng rợn khóc la, như đang bị ngục tốt
dùng cực hình tra khảo. Thủ Huồng thoạt nghĩ chỉ vì quá thương tưởng vợ
nên sanh mộng mị, và mộng mị sẽ biến dạng lần theo thời gian. Không ngờ
tiếng kêu la của vợ cứ tái diễn hằng đêm, khiến Thủ Huồng lo sợ thất thần
ăn ngủ không yên. Thủ Huồng hoảng hốt tìm lương y chạy chữa bệnh tâm thần,
mặt khác, ông ta cũng nghĩ đến việc cầu cạnh đám thầy cúng và đồng cốt,
hạng người tự nhận có khả năng liên lạc với cõi âm để nhờ họ dùng lễ lộc
cúng vái quỷ thần chuộc tội cho vợ. Do đó, nghe ai chỉ bày đồng cốt hay
thầy cúng nào cao tay ấn, ông ta liền ân cần triệu thỉnh, tiền bạc chẳng
nệ hà tốn kém, nhưng thời gian kéo dài cả năm, lễ lộc liên miên mà những
cơn ác mộng hằng đêm vẫn không thay đổi. Nguyên trước kia Thủ Huồng cũng
có đến chùa đôi lần, nhưng nhận thấy chốn nầy chẳng sanh lợi lộc chi cả -
bị kêu gọi cúng dường tốn hao thì có - chưa kể còn bị nghe dạy dỗ “ăn hiền
ở lành” chán phèo, nên ông ta tránh né chùa chiền. Mãi đến khi lâm vào
bước đường cùng, Thủ Huồng buộc lòng phải tìm đến chùa Từ Ân, Gia Ðịnh lạy
lục khẩn cầu hòa thượng Phật Ý Linh Nhạc(2) cứu giúp. Sau khi nghe Thủ
Huồng thuật lại cơn ác mộng, hòa thượng ôn tồn phán dạy : “Vợ chồng con
mang tâm địa giống nhau lại thương yêu quấn quít chẳng rời, đồng vợ đồng
chồng tạo tác ác nghiệp chung, do đó tâm ý tương thông nhau khiến con cảm
ứng được tiếng kêu than của vợ vọng lên từ cõi địa ngục. Trường hợp nầy
chỉ là một trong những hình thức của thần giao cách cảm, tuy hiếm hoi
nhưng vẫn xảy ra”. Hòa thượng hướng dẫn Thủ Huồng đến chiêm bái tượng Ðịa
Tạng Vương Bồ Tát(3), rồi phán dạy tiếp : “Ðây là tượng Bồ Tát Ðịa Tạng.
Ngài là vị Bồ Tát mang đại nguyện là đời đời kiếp kiếp cứu độ hết thảy
chúng sanh cho đến khi địa ngục trống không thì mới thành Phật, vì lẽ đó,
Ngài được tôn xưng là vị Giáo chủ cõi U Minh, ai muốn thoát cái khổ địa
ngục thì phải chiêm bái Ngài, hành hạnh nguyện của Ngài. Con hãy quan sát
kỹ tượng Bồ Tát, tay trái Ngài nâng hạt minh châu, tay phải Ngài cầm tích
trượng. Minh châu tượng trưng cho trí tuệ, dùng minh châu soi sáng cõi u
minh cũng có nghĩa là phát triển trí tuệ sáng suốt hầu thấy rõ con đường
chánh đạo để tu tập mà xa lìa địa ngục. Tích trượng có gắn mười hai khoen
tượng trưng cho giáo lý 12 nhân duyên. Tích trượng là cây gậy dùng để phá
tan địa ngục, phá địa ngục không phải bằng vũ lực mà là dựa trên giáo lý
nhân duyên tu tập. Cách phá hay nhất là không tạo nhân địa ngục thì sẽ
không sanh quả địa ngục. Còn nhược bằng đã lỡ gieo nhân địa ngục, thì phải
thành tâm sám hối, bố thí, trì giới... tạo nhân lành, để giũa mài cho mỏng
dần cái quả địa ngục... rồi cứ thế mà liên tục thực hành thì cái quả địa
ngục mới có ngày hoàn toàn biến dạng. Giờ đây nhà chùa có thể giúp đỡ con
bằng cách hướng dẫn con lễ bái, cúng dường, tụng niệm kinh Ðịa Tạng bổn
nguyện... hoặc giả nếu như con phát tâm từ bi nhà chùa cũng sẵn sàng thiết
lập đại thủy đàn chẩn tế để con hành hạnh bố thí hồi hướng cho vợ con thì
càng tốt. Tuy vậy, con nên nhớ rõ rằng chính con phải tự cầm tích trượng
phát tâm dõng mãnh sám hối, bố thí, trì giới, nhẫn nhục... để phá địa ngục
thì địa ngục mới thực sự tiêu tan. Con và vợ con đã có thần giao cách cảm,
con phát tâm thì vợ con cảm ứng, nên cái khổ địa ngục của vợ con chắc chắn
sẽ vơi lần...”. Nghe hòa thượng nhắc nhở lý nhân duyên nghiệp báo, Thủ
Huồng lo sợ cuống cuồng. Oâng ta thừa hiểu tội ác của mình ngập đầu ngập
cổ, như vậy nếu rơi vào chốn địa ngục thì chắc chắn sẽ bị cực hình đau đớn
gấp trăm, gấp ngàn lần cái khổ mà vợ đang gánh chịu nữa. Thủ Huồng vội vã
thỉnh cầu hòa thượng thương xót tổ chức hướng dẫn tụng niệm cúng dường Bồ
Tát Ðịa Tạng và thiết lập trai đàn thủy lục để bố thí cầu nguyện cho vợ,
ngoài ra, ông ta cũng kính thỉnh tượng Ðịa Tạng về nhà, ngày đêm lễ bái,
thành tâm sám hối thề không tái phạm lỗi lầm nữa. Trong chiêm bao, tiếng
rên la kêu gào của vợ bắt đầu giảm lần, hai tháng sau, thì dường như đã
dứt hẳn khiến Thủ Huồng cảm thấy có thể ăn ngon ngủ yên được rồi. Một hôm
Thủ Huồng chiêm bao thấy vợ thân thể bèo nhèo tiều tụy hiện về cho biết
nhờ chồng lễ bái, cúng dường Bồ Tát Ðịa Tạng và lập đàn phát chẩn tế hồi
hướng nên tội nghiệp giảm thiểu dần, giờ đây nàng không còn bị hành hạ ôm
trụ đồng lửa tại ngục Bảo Trụ hay bị cày lưỡi tại ngục Canh Thiệt nữa.
Nàng đang được quỷ tốt dẫn giải sang ngục gông cùm để chịu tội tiếp, nàng
năn nỉ quỉ tốt cho ghé nhà một phút thông báo tin mừng cho chồng rồi chạy
đi ngay. Thương vợ quá, hồn Thủ Huồng tức tốc chạy theo. Ông thấy vợ bị
hai con quỷ hung dữ nanh dài lôi kéo, tuy run sợ nhưng cũng lẽo đẽo theo
sau dù phải giữ một khoảng cách khá xa, chớ chẳng dám đến gần. Thủ Huồng
cứ thế mà len lỏi đi theo xuyên qua bao địa ngục khủng khiếp, thấy cảnh
tội nhân bị móc mắt, cắt lưỡi, phanh thây, kẻ bị bỏ vào vạc dầu sôi, ôm
trụ đồng lửa... đang đau đớn kêu gào kinh rợn. Ðến địa ngục gông cùm, Thủ
Huồng đang đứng xa xa lấm lét nhìn cảnh vợ mang gông, bỗng bị viên cai
ngục khám phá, chỉ mặt hét lớn : “Thằng kia! ngươi là tội nhân địa ngục
nào sao dám lảng vảng ở đây?”. Thủ Huồng sợ hãi run lẩy bẩy, tuy vậy, nhờ
hơn hai tháng qua, ngày đêm lễ bái Bồ Tát Ðịa Tạng, lúc lâm nguy bèn nhớ
ngay đến Ngài nên còn giữ chút bình tĩnh. Thủ Huồng lên tiếng : “Nam mô
Ðịa Tạng Vương Bồ Tát. Tôi không phải là tội nhân ở cõi địa ngục nào cả.
Tôi tới đây vì lòng tò mò mà thôi!”. Tên cai ngục bỗng đổi giọng nhỏ nhẹ :
“Anh biết nương về với Bồ Tát thì rõ ràng không phải là tội nhân ở đây
rồi. Anh có điều chi thắc mắc mà muốn tìm hiểu chốn nầy?”. Thủ Huồng lanh
trí nhìn quanh quất thấy có chiếc gông vĩ đại, to gấp ngàn lần cái gông
bình thường, liền đáp : “Cái gông bự tổ bố kia dùng vào việc gì vậy
ông?”. Viên cai ngục tra xét quyển sổ tội phạm dày cộm, rồi trả lời :
“Gông nầy dành riêng cho tên Võ thủ Hoằøng. Hắn là kẻ đại gian ác hiện
đang sanh sống tại dinh Trấn Biên, xứ Ðại Nam. Sau khi mãn số, hắn sẽ bị
hành hình dài dài ở khắp các địa ngục tên lửa, xe sắt, giường sắt, nước
đồng sôi, cày lưỡi, móc mắt, cắt lưỡi, cưa răng... rồi mới tới đây”. Thủ
Huồng cám ơn viên cai ngục, rồi phóng chạy một mạch về nhà thì tỉnh mộng,
mà nỗi kinh hoàng vẫn còn đeo đẳng đến độ tay chân rụng rời không xê dịch
được. Nhờ hằng ngày nghiền ngẫm pháp từ của hòa thượng Phật Ý Linh Nhạc,
Thủ Huồng đã hiểu rõ rằng chính mình phải dõng mãnh cầm tích trượng nhân
duyên để phá tan địa ngục của chính mình bằng cách phát lồ sám hối, bố thí
trì giới và xả thân phục vụ pháp giới chúng sanh. Thế rồi, Thủ Huồng truy
tầm những nạn nhân trước kia đã bị ông ta cưởng đoạt, lường gạt, bóc
lột... để đền bù lại những gì có thể bồi hoàn được. Mặt khác, ông cũng mở
lòng nhân từ giúp đỡ những gia đình nghèo đói, dưỡng nuôi kẻ già nua cô
quạnh, rước thầy hốt thuốc cho kẻ bệnh tật, lo ma chay tống táng cho kẻ
chết bờ chết bụi... Oâng tận tụy phục vụ cho mọi người, ở đâu mà nghe
tiếng kêu than khóc lóc, thì ông liền tìm đến an ủi cứu giúp. Sau hai năm
hành hạnh nguyện bố thí, chi phí hơn nửa gia sản, một hôm, Thủ Huồng lại
chiêm bao thấy vợ. Lần nầy bà tươi vui cho biết nhờ chồng thức tỉnh tu tập
rồi hồi hướng công đức mà bà đã thoát khỏi cảnh địa ngục, nay sắp đi đào
thai nên vội lẻn về báo tin rồi từ giã ngay. Thủ Huồng thương vợ bịn rịn
chẳng muốn rời nên lốc cốc chạy theo. Bà vợ nhanh chân quá, mới thấy đó đã
biến mất đằng nào. Thủ Huồng len lỏi theo con đường cũ tìm kiếm. Oâng cũng
xuyên qua bao địa ngục rùng rợn, rồi cuối cùng lang thang đến đúng địa
ngục gông cùm năm xưa. Lần nầy Thủ Huồng rất bình tĩnh, ông chào viên cai
ngục rồi vui vẻ lên tiếng : “Nam mô Ðịa Tạng Vương Bồ Tát! Xin chào Oâng.
Oâng còn nhớ tôi không?”. Viên cai ngục đáp : “Dĩ nhiên là nhớ. Anh còn
thắc mắc điều chi mà lò dò đến đây?”. Thủ Huồng trả lời : “Tôi muốn xem
lại cái gông to lớn năm xưa để biết hình dạng nó giờ đây đã thay đổi như
thế nào?”. Viên cai ngục lắc đầu ra vẻ ngạc nhiên : “Lạ quá anh ạ! Chẳng
biết thằng cha Võ thủ Hoằøng đó đã ăn năn sám hối ăn hiền ở lành như thế
nào, mà cái gông đó teo nhỏ dần. Anh hãy nhìn xem kià! Nó nhỏ xíu, và có
lẽ sắp biến dạng đến nơi rồi...”. Thủ Huồng mĩm cười đáp : “Thú thật với
ông cai, Võ thủ Hoằøng chính là tôi đây. Từ ngày quy ngưỡng Bồ Tát Ðịa
Tạng, tỏ tường lý nhân duyên, tôi đã phát lồ sám hối, thề tránh điều dữ,
nguyện làm việc lành... chỉ mong chuộc lại lỗi lầm năm xưa mà thôi. Tôi hi
vọng sẽ không phải theo nghiệp dữ mà đến đây mang gông mang cùm làm bận
rộn cho quí ông. Xin cám ơn ông và xin chào ông.” Trở về trần thế, Thủ
Huồng bền bĩ tiếp tục hạnh nguyện cứu giúp kẻ bần cùng. Ngoài ra, ông còn
bỏ tiền ra đắp đường, vét sông rạch, xây cầu, dựng bè xây nhà ngay ngã ba
sông Ðồng Nai và Saigon cho thuyền nhân qua lại có chỗ tạm trú chờ con
nước thuận. Những năm cuối cùng của cuộc đời, ông gom hết tài sản còn lại,
xây dựng ngôi chùa Chúc Thọ dâng lên hòa thượng Phật Ý Linh Nhạc, rồi
thanh thản từ giã cõi đời, ra đi không vướng bận một đồng xu ten dính túi.
Tuy vậy, sự nghiệp của ông : ngôi chùa Chúc Thọ, con rạch, cầu đá, con
đường lộ... vẫn còn tồn tại cho người đời sau hưởng dụng, riêng cái “nhà
bè” dầu dấu vết đã biến mất mà địa danh Nhà Bè vẫn còn phảng phất trong
câu hát điệu hò :
“Nhà Bè nước
chảy chia đôi.
Ai về Gia Ðịnh,
Ðồng Nai thì về...”
Trong khi làm lễ tống táng Thủ
Huồng, hòa thượng Phật Ý Linh Nhạc muốn lưu lại sự tích đặc biệt của người
Phật tử nầy nên có biên mấy chữ son trên lòng bàn tay phải của ông ta.
Mười mấy năm sau, vua Ðạo Quang nhà Thanh cho sứ giả sang Việt Nam yêu cầu
triều đình Huế dò la tung tích Thủ Hoằng, vì trên lòng bàn tay của một
hoàng tử khi sanh ra có hàng chữ “Ðại Nam, Gia Ðịnh, Thủ Hoằng”. Sau khi
truy tầm được, vua Ðạo Quang có gởi tặng chùa Chúc Thọ ba tượng Phật bằng
gỗ trầm hương và bia đá ghi lại sự tích, mà đến ngày nay vẫn còn lưu giữ
tại chùa. Từ thuở thiếu thời, sự tích nầy đã gây ảnh hưởng rất sâu đậm
trong lòng tôi. Tôi thành tâm ngưỡng mộ Bồ Tát Ðịa Tạng, vẫn dặn lòng phải
luôn luôn tự soi sáng hành động mình bằng lý nhân duyên, nhờ vậy đến từng
tuổi nầy, khi có dịp nhìn lại quãng đời qua, tôi rất mừng rằng mình đã
không đến nỗi gây ra những ác nghiệp nặng nề.
Phương vừa chấm
dứt câu chuyện, thì Luân liền lên tiếng :
- Tôi phục vụ tại tiểu khu
Biên Hòa đến sáu năm, vậy mà không có duyên để biết câu chuyện Thủ Huồng.
Tiếc thật! Không may mắn như anh Phương, nhân duyên hướng dẫn tôi đến với
Bồ Tát Ðịa Tạng trễ lắm. Nguyên tôi vốn chẳng quan tâm mấy đến những vấn
đề liên hệ tôn giáo, mãi đến khi đi học tập cải tạo mỏi mòn hơn bảy năm
trời, nổi khổ đau chất ngất đến độ muốn quyên sinh cho nhẹ nợ trần thì bất
ngờ tôi nhận được quyển kinh Ðịa Tạng Bồ Tát bổn nguyện. Trong một chuyến
thăm nuôi, bỗng dưng bà xã liều lĩnh mang quyển kinh dấu trong giỏ thực
phẩm trao cho tôi, dặn dò nhớ tụng niệm để được Bồ Tát gia hộ mà thoát
khổ. Như hai anh cũng biết, họ kiểm soát cẩn mật lắm, kinh sách là loại
cấm kỵ, họ mà khám phá thì bị tống vào chuồng cọp chớ chẳng chơi, vậy mà
qua hai lần lục lạo móc moi không sót chỗ nào, họ vẫn không thấy được
quyển kinh. Sự kiện nhiệm mầu đó là động cơ thúc đẩy tôi đọc tụng tìm hiểu
từng lời kinh, và chỉ trong thời gian ngắn đã chuyển biến con người không
có niềm tin Trời Phật như tôi, thành kẻ biết quy kính Tam Bảo chân thành
học Phật tu thân. Thật vậy, ngay khi vừa mới đọc tụng kệ khai kinh, xướng
lên hạnh nguyện của Bồ Tát : “Ðịa ngục vị không, thệ bất thành Phật. Chúng
sanh độ tận, phương chứng Bồ Ðề”(4) thì tôi đã xúc động run rẩy, nước mắt
ngập tràn. Thân phận tội tù của chúng mình là đối tượng cho người ta hành
hạ thể xác lẫn tinh thần, mình bơ vơ, lạc lõng chẳng còn chút niềm tin.
Bây giờ, mình được trao cho niềm tin, mình có nơi nương tựa, mình hiểu rõ
rằng, dù có bị đọa đầy ở chốn địa ngục tàn khốc như thế nào, thì Bồ Tát
Ðịa Tạng cũng đến tận nơi để cứu độ mình. Ý nghĩ Bồ Tát luôn luôn kề cận
bên mình thật là kỳ diệu. Từ đó, dù là lúc lên rừng đốn cây hay làm tạp
dịch quanh trại, mỗi khi nghe tiếng chim hót, thấy con bướm nhởn nhơ, một
đóa hoa dại hé nở, một cụm mây bay... tôi đều có cảm giác như Bồ Tát đang
hiện hữu dưới hình dáng đó để an ủi tôi, để chở che đùm bọc tôi. Nhờ vậy,
tôi cảm thấy lòng mình an vui thanh thản lạ thường, nỗi niềm khổ đau, thù
hận không còn dày dò nữa, có thể nói, tuy thân xác vẫn ở tù mà tâm thì đã
thơi thới không bị buộc ràng. Hằng ngày tôi âm thầm tụng kinh, đi đứng làm
lụng tôi niệm danh hiệu của Ngài, nên không có thời giờ trống trải để vớ
vẩn âu lo, thậm chí tôi cũng không quan tâm đến chuyện về hay ở nữa. Càng
tụng kinh tôi càng ý thức rằng cái quả khổ đau ngày nay tôi gánh chịu là
do cái nhân bất thiện mà tôi đã gây ra, nên tôi chân thành sám hối, nguyện
sửa đổi lỗi lầm, tránh làm điều ác, siêng làm việc lành. Ðúng ba tháng sau
thì tôi được trả tự do. Trước khi rời trại tôi bàn giao quyển kinh cho
Thiếu Tá Cử, nguyên trưởng Phòng ba, tiểu khu Bình Dương và anh Cử cũng
được về nhà trong vòng 6 tháng. Người ngoài có thể cho sự kiện trên chỉ là
một sự trùng hợp, nhưng riêng tôi, tôi tin tưởng là có sự cảm ứng nhiệm
mầu, và Bồ Tát Ðịa Tạng đã gia hộ cho tôi. Từ đó đến nay, lòng tôi lúc nào
cũng hướng về Ngài để thành tâm quy ngưỡng, và nương tựa Ngài mà tinh tấn
tu sửa thân tâm. Khi tham gia chuyến hành hương tứ đại danh sơn, dĩ nhiên
ưu tiên của tôi là chiêm bái thánh địa của Ngài. Tôi thao thức mong đợi
từng giây từng phút nên ngày đầu tiên đến thánh địa trời sụp tối không
chiêm bái liền được, tôi trằn trọc suốt đêm không ngủ. Liên tiếp hai ngày
sau, tôi theo phái đoàn chân thành chiêm bái khắp nơi : Hồi Hương Các, Vạn
Niên tự, Kỳ Viên tự, Ðại Nguyện tự, Ðịa Tạng thiền tự, và Nhục Thân bảo
điện, nơi nào cũng trang nghiêm hùng vĩ, và nơi nào tôi cũng xúc động với
cảm giác là Bồ Tát Ðịa Tạng vẫn hằng hiện hữu đâu đây. Ðiểm đặc biệt là
trong khi chiêm ngưỡng nhục thân bất hoại của Ngài Vô Hàø tại chùa Vạn
Niên(5) và Ngài Từ Minh tại chùa Ðịa Tạng, tôi cảm thấy vừa hân hoan vừa
thương cảm, nước mắt ràn rụa như trẻ thơ gặp mẹ vì tôi tin tưởng chắc chắn
rằng nếu như tôi dõng mãnh tinh tấn tu tập thì tôi cũng sẽ gần gũi với Bồ
Tát Ðịa Tạng như những vị nầy.
Thanh gật gù ra vẻ
tán đồng, rồi chậm rãi lên tiếng :
- Hai anh đều sẵn có nhân
duyên lớn với Bồ Tát Ðịa Tạng, còn phần tôi, thú thiệt rằng phải nhờ
chuyến hành hương nầy tôi mới am hiểu sơ lược về Ngài, dầu vậy, tôi cũng
cảm thấy mình được chuyển hóa nhiều lắm. Tuy nhiên, chuyện của tôi là
chuyện tình cảm riêng tư vụn vặt, chẳng cao sâu hay hào hứng đặc biệt gì
cả, nên tôi xin hai anh cho được miễn trình bày nhé?
Luân phản đối tức
khắc :
- Ðâu có chuyện kỳ cục vậy
Thanh! Tụi mình đã hẹn với nhau thì phải làm theo đúng lời hứa chứ. Vả
lại, mình là dân nhà binh mà, phải thi hành trước rồi mới được khiếu nại
sau, anh đâu thể viện lý do nầy kia để tránh né như vậy được!
Phương cũng kỳ kèo
:
- Ðối với anh em mình thì đâu
có chuyện riêng tư nào phải giữ kín anh Thanh! Vả chăng chuyện đạo mà đem
áp dụng vào cuộïc đời mới có giá trị thực tiển để học hỏi chớ. Xin anh
trình bày cái suy tư hay tâm tình của anh về Bồ Tát Ðịa Tạng hầu anh em
tùy nghi rút tỉa kinh nghiệm mà tu tập. Tôi tin chắc câu chuyện sống thực
của anh sẽ mang lợi lạc cho tôi nhiều lắm!
- Hai anh nhứt quyết đòi nghe
thì tôi đành phải vâng lời thôi! Thú thật với hai anh là vợ chồng tôi tuy
bề ngoài sống rất ư là hạnh phúc, nhưng thật ra thì tôi cũng có nỗi khổ
tâm riêng, thậm chí đôi khi tôi có cảm giác bứt rứt như mình bị tù hãm
vậy, đây chính là lý do đã đưa tôi tìm về suối nguồn Phật giáo làm nơi
nương tựa.
Thanh ngừng lại,
buồn hiu buông tiếng thở dài, khiến cho Phương và Luân đâm ra ái ngại. Họ
thật lòng chỉ muốn nài ép Thanh kể chuyện cho vui không ngờ vô tình lại
khơi dậy nổi khổ thầm kín trong lòng bạn, nên vội vã lựa lời an ủi. Luân
lên tiếng :
- Ðừng buồn Thanh ạ! trời đất
còn có khi mưa khi nắng, thì tình vợ chồng sao chẳng có lúc mặn nồng khi
lại đắng cay. Hoàn cảnh tôi nào có khác chi hoàn cảnh anh. Tuổi đời chồng
chất, thân thể bệnh hoạn, bà xã tôi dễ sanh cau có, quạu quọ ngay cả với
những chuyện vu vơ. Con cái đều ra riêng, quanh đi quẩn lại trong nhà chỉ
có hai vợ chồng già hủ hỉ, nên dĩ nhiên tôi phải lãnh trọn vẹn những tiếng
cằn nhằn của bả. Hai anh nghĩ coi, suốt ngày tôi cứ bị cái âm điệu khàn
khàn dai dẳng xoáy vào lỗ nhĩ hoài nhức nhối buốt óc, buốt tim thì làm sao
chịu đựng nỗi, có lúc, tôi muốn phát điên lên được. Lần đó bả gọi tôi ra
ăn cơm, tôi mê đọc sách ra trễ chừng năm phút thì thấy mặt mày bả đã chầm
dầm, rồi bả lại bắt đầu mở máy nói khiến tôi nóng mặt nuốt cơm chẳng trôi.
Bỗng nhiên tôi nhớ lại thuở ban đầu xa xưa ấy, tôi thường ham vui với bè
bạn về trễ, có khi để người vợ trẻ phải chờ cơm đói meo cả mấy tiếng đồng
hồ, thế mà nàng chỉ buồn buồn chớ không trách tôi một lời. Lúc đó tôi chỉ
cần nựng nàng rồi an ủi một câu : “Tội nghiệp em cưng! anh về trễ làm cho
em phải chờ cơm! thương quá là thương!”, thì nàng đã đổi buồn thành vui,
ríu rít bên tôi như con chim sơn ca rồi. Tôi liền tự hỏi còn bây giờ thì
sao? Tôi nhìn kỹ bả. Oâi, người con gái duyên dáng tràn đầy nhựa sống năm
xưa đã biến thành già nua lụm cụm, bả tàn tạ thảm thương, bả bệnh hoạn mệt
mỏi rã rời, thảo nào bả chẳng dễ sanh phiền muộn. Phần tôi, tôi cũng khô
cằn còm cõi, tôi đâu còn tươi mát tán tỉnh cợt nhã với bả ngọt ngào như
xưa, thành thử đời sống vợ chồng đâm ra lê thê buồn nãn. Bỗng dưng tôi
nghĩ không phải chỉ cái thời gian mà chính tôi và lũ con tôi cũng là những
nguyên nhân lớn đã tàn phá con người bả. Cả đời bả ăn không no ngủ không
yên, dành hết thời giờ tẩn mẩn chăm sóc chồng con từng miếng ăn, từ cái
mặc, rồi đến khi tôi lâm cảnh lao lung, một mình bả phải tảo tần ngược
xuôi trăm cay ngàn đắng kiếm sống, lại còn phải gian nan lặn lội thăm nuôi
chồng tại những trại tập trung heo hút. Tình thương vợ bỗng dâng tràn, tôi
vuốt mấy sợi tóc bạc lòa xòa trên trán bả, âu yếm nói : “Oâi! thương làm
sao á! em suốt đời chăm lo săn sóc chồng, mà anh hư quá để em chờ đợi cơm
canh nguội lạnh! tội nghiệp em cưng quá!” Ðang hờn giận nhau, chúng tôi
cảm thấy thương nhau hơn bao giờ hết, vì vậy, từ dạo đó, tôi thường lưu ý
bả, chăm sóc đùa giỡn với bả như thời trẻ trung nhờ vậy chuỗi ngày già đỡ
tẻ nhạt, và tình nghĩa vợ chồng lại dào dạt đầm ấm như xưa.
Phương cũng góp ý
:
- Ðúng như anh Luân nhận xét.
Bọn đàn ông chúng mình, thời trẻ trung thường hào hoa phong nhã, biết săn
sóc tán tỉnh vợ, thỏ thẻ những lời âu yếm nồng nàn, nhưng đến khi lớn tuổi
rồi thì lại “quá đứng đắn” thành thử đời sống vợ chồng lợt lạt dần, đến
nỗi khi chuyện gối chăn thưa thớt, con cái có đời sống riêng tư thì hai vợ
chồng già lủi thủi chán chường, trơ mắt nhìn nhau khô khan tình cảm. Họ
gượng gạo sống bên nhau mà chẳng chút niềm vui, thì có khác gì là đang
sống trong địa ngục. Tại sao những người già không có thể nói những lời
thiết tha âu yếm với nhau như thời trẻ để làm gia vị thêm cho đời sống vợ
chồng, tôi nghĩ “mụ vợ già” cũng có nhu cầu và có quyền được chồng tán
tỉnh, cợt nhã như thời còn là người vợ trẻ phải không hai anh?
Thanh bỗng tũm tĩm
mĩm cười lên tiếng :
- Khâm phục! khâm phục lắm! Ý
kiến của hai anh thực tiển vô cùng, tôi sẽ lưu ý áp dụng để có thêm lợi
lạc, ngặt một điều là trường hợp vợ chồng tôi lại không giống hoàn cảnh kẻ
khác. Lý do là chuyện trục trặc của chúng tôi xảy ra chẳng qua chỉ vì bà
xã tôi thương tôi quá mức, săn sóc tôi kỹ quá nên tôi cảm thấy tù túng mà
thôi...
Luân cướp lời :
- Vậy mà anh làm người ta
tưởng anh bị vợ hành hạ chớ! Anh làm tụi tôi lo lắng tìm lời phân giải để
anh cười chơi phải không?
Phương cũng trách
:
- Ðúng là gừøng càng già càng
cay, anh càng già càng độc, tôi bị anh giăng bẫy sụp hoài, mà lần nầy vẫn
hấp tấp nên lại rơi vào tròng.
- Hì! hì! coi kìa! tự hai anh
hiểu lầm chớ tôi nào mở miệng oán trách bà xã câu nào đâu? Còn chuyện được
thương quá mức, được săn sóc quá mức thì cũng bị ngột ngạt tù túng chứ!
Người ta nói bị nhốt trong nhà đá, lò giam sắt, trong tháp ngà hay trong
vòng tay âu yếm cũng đều là ở tù kia mà! Ðúng ra, phải nói tình thương của
bả mang tính chất chiếm hữu nên dính mắc và độc tài. Bả quá sức thương tôi
mà độc tài thành thử tôi bị ràng buộc mất hết tự do, ngay việc tu tập cũng
bị ngăn trở nữa. Phần bả tuy phát nguyện Niệm Phật để vãng sanh cõi Tây
Phương Tịnh Ðộ mà vướng mắc bi lụy thì làm sao thành công cho được. Tôi
nghĩ vợ chồng chúng tôi phải học lối thương yêu theo tinh thần từ bi hỷ xả
của chư Bồ Tát thì mới không gây phiền não cho nhau, và đó là lý do chúng
tôi tham gia chuyến hành hương nầy. Tôi chỉ nhập đề thôi mà...
Phương cười xuề
xòa lên tiếng :
- Thôi anh khỏi ngụy biện nữa,
tôi đồng ý là anh chỉ mới nhập đề thôi, vậy xin anh hãy đi thẳng vào
chuyện Cửu Hoa sơn cho rồi, kẻo hai đứa tôi ngóng chờ hoài, cái cổ đã dài
nhằng mà vẫn còn được nghe được đây nè!
- Hì hì! Chuyện như thế nầy
đây : Trước ngày hành hương, tôi có nghiên cứu sử liệu về bốn đại danh
sơn, thì được biết tại ba đại danh sơn kia, Bồ Tát Văn Thù đã hiển thánh
xuất hiện tại Ngũ Ðài, Bồ Tát Phổ Hiền tại Nga Mi và Bồ Tát Quán Thế Âm
tại Phổ Ðà, sự tích rất rõ ràng, nhưng riêng Cửu Hoa sơn thì không điển
tích nào kể lại sự xuất hiện của Ngài Ðịa Tạng cả. Cửu Hoa sơn, đúng ra
chỉ là đạo tràng của vị thánh tăng tục danh Kim kiều Giác. Ngài nguyên là
hoàng tử nước Cao Ly, xuất gia rồi vượt biển sang Trung Quốc ẩn tu tại
một ngôi am cổ trên ngọn Phù Dung. Ðức hạnh của Ngài không lâu đã vang
lừng khắp huyện Thanh Dương, rồi lan rộng đến kinh đô. Vua Ðường hâm mộ
Ngài nên đã truyền xuất công quỷ lập ngôi chùa “Hóa Thành” để Ngài có nơi
rộng rãi hoằng dương Phật Pháp. Ngài an nhiên thị tịch năm 99 tuổi, đệ tử
theo di huấn đặt nhục thân Ngài trong chum. Ba năm sau mở chum, nhục thân
Ngài không hư rữa mà vẫn tươi như lúc sống, lại thoang thoảng mùi hương.
Khi nhấc nhục thân ra khỏi chum, thì bỗng nghe phát ra tiếng khua tợ như
chuỗi xích vàng rung chuyển. Do hiện tượng nầy, người đời sau tin tưởng
Ngài là một ứng hóa thân của Bồ Tát Ðịa Tạng và tôn xưng Ngài là Kim Ðịa
Tạng. Tóm lại, tôi thầm nghĩ dù sao Cửu Hoa cũng không có sự hiển thánh
nên tôi khó tin tưởng đây là một linh địa ngang hàng với Ngũ Ðài, Nga Mi
và Phổ Ðà. Thế nhưng ngay đêm đầu tiên tại đây, vừa chợp mắt tôi chiêm bao
thấy mình phủ phục lễ lạy tượng Bồ Tát Ðịa Tạng, khi tôi đứng dậy thì lạ
lùng thay, trước mắt tôi không là một pho tượng đơn độc nữa, mà là một
pháp hội vĩ đại có vô số Bồ Tát Ðịa Tạng tề tựu. Tôi đang ngây ngất chiêm
ngưỡng pháp hội kỳ diệu đó thì giật mình tỉnh dậy trong niềm an lạc vô
biên tràn ngập. Trạng thái kỳ diệu nầy vẫn tiếp tục miên man trong lòng
tôi trong suốt hai ngày hành hương chiêm bái, nhất là trong khi nghe thầy
giảng giải về sự tích Ngài Vô Hà tại cung Bách Tuế, chùa Vạn Niên. Nguyên
sư Vô Hà đã tìm đến Cửu Hoa với hoài bảo chiêm bái chân thân Ngài Kim Ðịa
Tạng nhưng vào thời buổi loạn lạc, cảnh Phật điêu tàn, sư không thể truy
tầm dấu vết chân thân Ngài Kim Ðịa Tạng được. Thế rồi sư ở lại ẩn tu cho
đến khi viên tịch năm vào năm 110 tuổi và cũng để lại một nhục thân bất
hoại như người xưa. Lúc đó, tôi bỗng rung động ràn rụa nước mắt nghĩ rằng
Ngài Vô Hà không gặp mà đã gặp. Ngài không thấy chân thân người xưa nhưng
đã thực sự gặp Bồ Tát Ðịa Tạng bằng chính hạnh nguyện tu tập của Ngài. Thế
rồi, tôi bỗng liên tưởng đến giấc chiêm bao về pháp hội hiện diện vô số Bồ
Tát Ðịa Tạng, và trực nhận ra một điều là bất cứ ai mà có đồng hạnh nguyện
với Ðịa Tạng Vương Bồ Tát, thì cũng đều là hiện thân của Bồ Tát Ðịa Tạng
cả. Tôi thầm nhủ : “Vậy thì, các vị thánh tăng Kim kiều Giác, Vô Hà, Từ
Minh... không phải đều là những Bồ tát Ðịa Tạng sao? hà huống mình phải
nhọc lòng sưu tầm sự tích hiển thánh khác chi nữa?” Trong giây phút xuất
thần đó, tôi bỗng xúc động quì xuống, chấp tay phát nguyện : “Kính lạy Ðức
Bồ Tát Ðịa Tạng. Con xin học hạnh nguyện của Ngài. Con nguyện sẽ tinh tấn
tu tập để làm sáng tỏ tâm Ðịa Tạng nơi con, hầu con có thể hội đủ dũng lực
để mang ánh sáng của Ðạo Pháp đến với những kẻ đang sống trong tăm tối của
tội lỗi, trong tù ngục của ngu dốt, hận thù, kỳ thị... Kính xin Bồ Tát gia
bị cho con”...
Phương nức nở khen
ngợi :
- Suy tư của anh về tự tánh
Ðịa Tạng thật là đặc biệt! nếu ai mà quay về với tự tánh Ðịa Tạng thì tự
thân người đó là một Ðịa Tạng, tự thân người đó đã “Vung tích trượng mở
toang cửa địa ngục”(6) mà chính họ đã xây rồi.
Luân cũng vỗ tay
tán thưởng :
- Hoan hô Thanh! Tôi cũng xin
bắt chước anh, nguyện sẽ tinh tấn tu tập để làm sáng tỏ tâm Ðịa Tạng trong
tôi!
Tháng 7.2000
Ghi chú :
1. Sự tích Thủ Huồng và
chùa Chúc Thọ được truyền tụng trong dân gian và có ghi lại trong Ðại Nam
nhất thống chí, Gia Ðịnh thành thông chí của Trịnh hoài Ðức và nhiều sử
liệu khác. Các giai thoại Thủ Huồng về đại cương tương đối giống nhau,
nhưng về cách thức mà Thủ Huồng đã viếng địa ngục thì có ít nhất là ba
thuyết khác biệt : a. Thủ Huồng được Hà Bá sông Ðồng Nai đưa đi b. Thủ
Huồng được đồng cốt tại chợ Mãnh Ma, Phan Rang đưa đi gặp vợ đã chết. Vợ
Thủ Huồng đang làm thị nữ cung Diêm Vương, vận động xin cho chồng giấy
phép thăm viếng các địa ngục và c. thuyết đã ghi trong tập truyện nầy.
2. Thiền sư Phật Ý Linh
Nhạc (1725-1821) : sư là đệ tử xuất sắc của hòa thượng Thành Ðẳng Minh
Lượng, chùa Ðại Giác, dinh Trấn Biên. Sư đã tiên phong đi theo di dân vào
huyện Tân Bình, Gia Ðịnh, lập chùa Từ Ân hoằng hóa, sau đó, đã kiêm nhiệm
trụ trì luôn cả chùa Khải Tường, Gia Ðịnh và chùa Ðại Giác, Ðồng Nai. Sư
là vị đạo đức cao tăng bực nhất miền Nam vào cuối thế kỹ thứ 18, đã đào
tạo nhiều bậc tăng tài xuất chúng như : 1. Thiền sư Tổ Aán Mật
Hoàng(1735-1835), trụ trì chùa Ðại Giác, được vua Gia Long triệu thỉnh làm
tăng cang chùa Thiên Mụ, sau trụ trì chùa Quốc Ân, Huế 2. Thiền sư Thiệt
Thành Liễu Ðạt, được vua triệu thỉnh làm tăng cang chùa Thiên Mụ 3. Thiền
sư Tổ Tông Viên Quang(?-1828), trụ trì chùa Giác Lâm, khai sơn chùa Giác
Viên 4. Thiền sư Tổ Ðạt Trí Tâm, trụ trì các chùa chùa Khải Tường, Gia
Ðịnh, chùa Long Thạnh, Bà Hom và chùa Chúc Thọ, Ðồng Nai.
3. Tượng Bồ Tát Ðịa Tạng
phổ biến nhất là tượng Bồ Tát trong dáng xuất gia, cạo đầu, mặc áo ca sa,
tay mặt cầm tích trượng có mười hai khoen, tay trái nâng hạt minh châu,
ngồi trên lưng bạch khuyển tên Ðế Thính (cũng còn gọi là linh khuyển tên
Thiện Thính hoặc Ðề Thính). Tượng Bồ Tát Ðịa Tạng tạc phảng phất theo hình
dáng của Ngài Kim kiều Giác (giống như trường hợp tượng Bồ Tát Di Lạc tạc
theo Ngài Bố Ðại hòa thượng), với những thâm nghĩa như sau :
- đầu tròn áo vuông là hình
ảnh giải thoát, muốn giải thoát khỏi địa ngục thì phải dấn thân tu tập như
một tu sĩ.
- hạt minh châu tượng trưng
cho trí huệ. Trí huệ bừng nở thì vô minh tan biến, cũng như ánh sáng chói
rọi thì bóng tối không còn nữa. Do phát triển trí huệ hành giả mới đón
nhận được chánh pháp để dấn thân tu tập.
- tích trượng có 12 khoen
tượng trưng cho giáo lý 12 nhân duyên. Giáo lý căn bản để phá địa ngục là
giáo lý nhân duyên, thâm nhập giáo lý nầy thì không còn gieo ác nghiệp nữa
thì làm sao bị đọa xuống địa ngục.
- Bạch khuyển (con chó trắng
tức trung tín nơi thiện pháp) Ðế Thính (nghe chân thật) : tượng trưng lòng
trung kiên thấy nghe pháp chân thật để phát triển thiện nghiệp.
Tinh thần tự lực
thể hiện rất rõ rệt qua hình tượng của Bồ Tát Ðịa Tạng, theo đó thì chính
hành giả phải tự mình nâng hạt minh châu trí tuệ, vung tích trượng mười
hai nhân duyên để phá tan cái địa ngục do chính mình đã xây cho mình.
4. Ðịa ngục chưa trống không,
quyết chẳng thành phật. Ðộ hết thảy chúng sanh, mới chứng quả Bồ Ðề.
5. Vạn niên tự (Bách
Tuế cung) : Ngài Vô Hà, pháp danh Hải Ngọc, sanh năm 1513, xuất gia năm 24
tuổi tại Ngũ Ðài, sau đó đến Nga Mi tu tập cho đến năm 1573, Ngài đến Ma
Không Lãnh, Cửu Hoa sơn dựng am tu tập, dân chúng gọi đó là am Trích Tinh.
Ngài chỉ dùng trái cây, uống nước suối (không dùng thức ăn nấu nướng) và
không xuống núi. Hòa thượng nghiêm trì tu tập, hàng ngày tự cắt đầu ngón
tay lấy máu sao chép bộ Ðại Phương Quảng Hoa Nghiêm kinh liên tục trong 28
năm, mới hoàn tất. (Bộ huyết kinh nầy vẫn còn tồn tại và được lưu giữ tại
Nội Quán Văn Vật Lịch Sử Cửu Hoa sơn). Ngài viên tịch năm 1623 (110 tuổi),
ba năm sau, đệ tử theo di huấn của Ngài mở hàng ra thấy di thể của Ngài
vẫn nguyên vẹn như xưa. Nhục thân Ngài được tôn trí lên điện thờ, được tô
vàng phủ lên, nên gọi làm Kim tượng. Ðể đáp ứng nhu cầu lễ bái cho số
lượng đông đảo Phật tử, một ngôi chùa khang trang, mang danh hiệu Vạn Niên
tự đã được xây dựng thay cho ngôi am nhỏ. Sau đó, vua Minh Sùng Trinh sắc
phong Ngài Ưùng Thân Bồ Tát, ban hiệu Bách Tuế cung thay cho tên am Trích
Tinh cũ.
6. Phỏng dịch từ câu : “Thủ
trung kim tích, chấn khai địa ngục chi môn”, trong bài tựa Xưng tán Bồ Tát
Ðịa Tạng.
---o0o---
Mục
Lục Tuyển tập Truyện Ngắn Phật Giáo
của Huỳnh Trung Chánh
---o0o---
Trình bày: Nhị Tường
Cập nhật :
01-05-2003