1.-
TUỔI THƠ KHÔNG LO LẮNG: Trong
16 vị A La Hán được ghi trong kinh A Di Đà, có một vị tên là A Nậu Lâu
Đà, đó chính là tôn giả A Na Luật vậy. A Na
Luật đã được sinh ra trong vương tộc, vốn là em chú bác ruột của Phật.
Sau khi vua Tịnh Phạn (Suddhodana, phụ hoàng của đức Phật) thăng hà,
người lên ngôi kế vị là đại tướng Ma Ha Nam (Mahanama). Ông này chính là
anh ruột của tôn giả A Na Luật. (Ma Ha Nam là cháu kêu vua Tịnh Phạn
bằng bác ruột. Có thuyết cho rằng, ông Ma Ha Nam này với tì kheo Ma Ha
Nam, một trong năm vị đệ tử A La Hán đầu tiên của đức Phật, là một người.
Theo đó, sau khi vua Tịnh Phạn băng, vì xét thấy cả Nan Đà và La Hầu La
không có khả năng kế vị, nên đức Phật đã cho phép Ma Ha Nam hoàn tục để
kế thừa trị vì vương quốc Thích Ca. Thuyết này có lẽ không đúng. Ma Ha
Nam ở đây với A Na Luật là hai anh em ruột. Gia đình chỉ cho phép một
trong hai người đi tu, cho nên A Na Luật đã đi tu thì Ma Ha Nam phải ở
nhàn để quản lí việc nhà. Ông là một cư sĩ thuần thành, thường cúng
dường cơm áo và thuốc men cho tăng chúng. Tì kheo Ma Ha Nam trong nhóm
Kiều Trần Như là một người khác, còn có tên là Ma Ha Nam Câu Lị -
Mahanamakoliya - Chú thích của người dịch). Từ
thuở ấu thơ, A Na Luật đã là một cậu bé hết sức chân thật, nhưng cũng
rất thông minh, mẫn tiệp và hoạt bát; đối với âm nhạc, ca múa thì lại
càng tỏ rõ là có thiên tài. Lúc bảy, tám tuổi, cậu đã từng cao giọng ca
hát, cũng như từng biểu diễn nhiều trò vui nho nhỏ một cách rất tự nhiên
trước mọi người; cho nên ai cũng yêu mến cậu. Suốt ngày cậu chỉ quanh
quẩn bên cạnh các cung nữ hầu cận hoặc các vương tử cùng trang lứa khác,
hết ăn uống lại nô đùa, nô đùa xong lại ăn uống. Trò chơi thích thú nhất
của cậu là đánh cuộc ăn thua. Trong cung lúc nào cũng sẵn bánh kẹo. Mỗi
lần chơi thua ai thì cậu lấy bánh chung cho người đó. Có ngày cậu thua
đến năm, sáu lần, và cứ phải làm nũng để xin mẹ cho bánh. Một
hôm, khi cậu bị thua đến lần thứ tư, chạy đến xin bánh mẹ thì bà bảo:
“Đã hết rồi!”, nhưng vì tình tình còn quá chơn chất, cậu không hiểu
câu “Đã hết rồi”, có ý nghĩa gì, bèn chẩu mõ lên nũng nịu:”Thì mẹ cho
con cái bánh ‘đã hết rồi’ ấy đi!” Bà mẹ chỉ biết bật cười, đưa cái đĩa
trống không cho cậu thấy, để cậu biết là bánh ngày hôm ấy đã hết. Nhưng
thật là kì lạ, không biết do phước báo gì của A Na Luật, khi bà mẹ vừa
mở cái nắp đậy ra thì trong đĩa lại có đầy bánh. Cậu mừng lắm. Thế là
hôm ấy cậu đã có được rất nhiều cái bánh “đã hết rồi”, tha hồ mà chung
cho chúng bạn. Từ
sau khi sự việc lạ lùng này xảy ra, mẹ của A Na Luật không còn coi con
mình là một đứa bé tầm thường nữa. Bà thấy rằng, con mình chắc phải có
một lai lịch bất phàm, trong tương lai thế nào cũng có nhiều phước báo. A Na
Luật tuy rất thông minh, nhưng vì được nuôi nấng quá kĩ càng, suốt ngày
cứ quanh quẩn trong cung điện, cho nên mãi đến tuổi mười lăm mà cậu vẫn
không biết được một chút gì về cái thế giới của xã hội ở bên ngoài vương
cung. Một hôm, A Na Luật, Bạt Đề (Bhaddiya) và Kiếp Tân Na (Kalpina -
Kapphina), nhân lúc cùng chơi đùa với nhau, họ đố nhau rằng: “Gạo từ
đâu mà có?” Kiếp Tân Na trả lời trước: - Gạo
từ trong cái chậu vo gạo mà có. Chính mắt tôi đã một lần trông thấy cung
nữ vo gạo. Bạt
Đề xua tay cho rằng Kiếp Tân Na nói không đúng, và bảo: - Gạo
có từ trong nồi. Chính mắt tôi đã thấy cung nữ xới cơm ra từ cái nồi. A Na
Luật, liền chê cả hai người, nói với vẻ đầy hiểu biết và tự tin: - Gạo
đã từ trong cái bát vàng mà ra. Mỗi
lần tôi ăn cơm, chính cung nữ đã lấy cơm cho tôi từ trong cái bát bằng
vàng. Đấy!
Đại khái là kiến thức về xã hội của các vương tử, vương tôn ấu trĩ đến
như thế! Các vương tử, vương tôn con này không hề biết gì về các điều
thường thức của đời sống xã hội, nhưng những hưởng thụ vật chất như cơm
ăn, áo mặc, nhà ở thì sang quí tột bậc; mọi thứ đều được dâng đến tận
tay, không bao giờ phải lo nghĩ gì cả. Kiến
thức của các cậu bé vương tộc ấy nông cạn như thế là vì sao? Nguyên vì
lúc trước, thái tử Tất Tạt Đa, sau khi dạo chơi bốn cửa thành, trông
thấy các cảnh khổ của sinh già bệnh chết rồi than thở chán chường, đến
nỗi đã bỏ cả việc thừa kế để đi xuất gia học đạo; từ đó, vương cung ra
luật lệ, nghiêm cấm các vương tử, vương tôn không được phép ra ngoài
thành du ngoạn, cứ phải sống kín cổng cao tường trong cung vi; cho nên
dù có thông minh đĩnh ngộ, các cậu bé ấy cũng không có chút hiểu biết
nào về thế giới bên ngoài. 2.-
NÓNG LÒNG MUỐN XUẤT GIA: Vài
năm sau khi thành đạo, đức Phật về cố hương Ca Tì La Vệ để thăm hoàng
tộc và giáo hóa chúng sinh. Sức cảm hóa của thật mạnh mẽ, cho nên chẳng
bao lâu, đã có rất nhiều thanh niên trong hoàng tộc xin xuất gia theo
Phật. Trước hết là thái tử Nan Đà (Nanda, người sẽ thừa kế ngôi vua của
vua Tịnh Phạn), rồi kế tiếp là hoàng tôn La Hầu La (Rahula), và sau nữa
là các thanh niên khác của hoàng tộc. Lúc
bấy giờ vương tử A Na Luật đã trưởng thành. Chàng không còn là một cậu
bé “không biết gì” của tuổi ấu thơ nữa, mà đã trở nên là một thanh niên
chững chạc, nghi hiểu đường đường, có được những hiểu biết chín chắn về
cuộc sống thế gian. Phong trào xuất gia của các thanh niên trong hoàng
tộc đã làm cho tâm hồn chàng bị chấn động. Chàng cũng lập chí xuất gia,
bèn nói anh là Ma Ha Nam: - Anh
ạ! Vừa rồi Phật về thăm hoàng cung, đã có nhiều anh em trong dòng họ
Thích Ca theo Phật xuất gia. Em nghĩ, làm một vị sa môn, đem pháp cam lồ
của Phật truyền bá bốn phương, thì cuộc sống ấy có ý nghĩa biết bao!
Thái tử Nan Đà đã bỏ người vợ sắp cưới vô cùng xinh đẹp là Tôn Đà Lị để
đi xuất gia; vương tôn La Hầu La tuổi nhỏ như vậy mà cũng biết theo Phật
tu học. Nếu hai anh em mình không có một người đi xuất gia thì khó coi
lắm ý anh thế nào? Ma Ha
Na lúc bấy giờ đã là một tướng quân anh dũng của triều đình vua Tịnh
Phạn, nghe A Na Luật nói thế thì trả lời: - Em
nói rất hợp ý anh. Chính anh cũng muốn gặp em để bàn chuyện này. Trong
hai anh em mình, nhất định phải có một người đi xuất gia. Vậy thì sự
hiếu dưỡng cha mẹ trong lúc tuổi già xin nhờ em gánh vác, để cho anh
được yên tâm xuất gia theo Phật tu học nhé! A Na
Luật lắc đầu lia lịa: - Anh
đi xuất gia không được đâu! Quốc gia đang rất cần những người như anh.
Em thì lại khác. Võ học em thua kém anh rất xa. Vả lại, hiện giờ em rất
nhàm chán nếp sống vương giả và chỉ thích nếp sống thanh tịnh của tăng
đoàn. Xin anh thương, để cho em được xuất gia. Thấy
ý chí xuất gia của em mình quá mạnh, Ma Ha Nam đành chiều theo, để cho A
Na Luật đi xuất gia. Nhưng lúc đó Phật đã qui định, những người trẻ tuổi
còn cha mẹ, muốn đi xuất gia phải có sự chấp thuận của cha mẹ; cho nên A
Na Luật cũng phải xin phép cha mẹ. Nhưng vì lòng thương con quá nặng, đã
ba lần chàng xin phép đều bị cha mẹ từ chối cả ba. Cuối cùng, vì sợ
chàng làm liều, mẹ chàng đành phương tiện bảo: - Con
hãy đến rủ vương tử Bạt Đề, nếu nó cũng thích xuất gia thì mẹ sẽ cho con
cùng đi với nó. Nếu nó không chịu thì con đừng có hi vọng gì nữa. Sở dĩ
bào bảo thế là vì bà nghĩ, việc Bạt Đề đi xuất gia là một việc không thể
nào xảy ra được. Số là, sau khi cả Nan Đà và La Hầu La đều theo Phật
xuất gia thì vua Tịnh Phạn đã chọn Bạt Đề lập làm thái tử, sẽ thừa kế
ngôi vị quốc vương sau này khi nhà vua thăng hà. Như vậy thì chắc chắn
Bạt Đề không thẻ nào đi xuất gia được! Nhưng A Na Luật nào để ý đến điều
đó. Khi nghe mẹ bảo thế thì mừng lắm, bèn chạy ngay đến vương phủ của
Bạt Đề, bày tỏ ý chí của mình, đồng thời thuyết phục Bạt Đề cùng đi xuất
gia. Nói xong, chàng cứ ngồi đó chờ đợi Bạt Đề trả lời. Trái
lại với A Na Luật, Bạt Đề cảm thấy việc xuất gia thật khó thực hiện vô
cùng. Làm sao chàng có thể bỏ được bao nhiêu dục lạc và vinh hoa phú quí
của thế gian để đi xuất gia làm sa môn! Nhưng đối với một người bạn chí
thân và đáng quí mến như A Na Luật thì từ chối cũng không đành. Sau một
hồi lâu suy nghĩ, chàng miễn cưỡng nói: - A
Na Luật! Một khi đã xuất gia làm sa môn thì không còn có thể luyến ái
dục lạc ở thế gian. Chúng ta tuổi còn rất trẻ, làm sao đủ nghị lực chịu
đựng điều đó! Thôi thì bạn hãy gắng đợi thêm bảy năm nữa đi, để cho tôi
tận hưởng hoan lạc rồi chúng mình sẽ cùng nhau đi xuất gia. Tuy
biết Bạt Đề có ý chối từ, nhưng A Na Luật vẫn cố gắng thuyết phục bạn
bằng cách trưng ra nhiều lí lẽ để chứng minh nếp sống xuất gia cũng rất
sung sướng, rất ích lợi. Chàng nói năng khéo léo đến nỗi, từ bảy năm Bạt
Đề giảm xuống còn một năm; từ một năm giảm xuống còn một tháng; rồi từ
một tháng giảm xuống chỉ còn bảy ngày! Hai người bạn thân thiết đồng ý
với nhau là bảy ngày nữa thì cả hai cùng di xuất gia. Lúc bấy giờ A Na
Luật mới chịu vui vẻ chào bạn trở về nhà. Thời
hạn bảy ngày đã qua. Hôm ấy, A Na Luật và Bạt Đề cũng rủ thêm A Nan
(Ananda), Đề Bà Đạt Đa (Devadatta), Kiếp Tân Na, Bà Sa (Vaspa - Vappa)
và Nan Đề (Nandi), cả thảy bảy vị vương tử cùng nhau hân hoan rời nhà ra
đi. (Có sách nói, trong bảy vị vương tử thì Nan Đà, đã xuất gia ngay
khi đức Phật còn ở Ca Tì La Vệ, cho nên lần đi này chỉ có sáu người là A
Na Luật, Bạt Đề, Đề Bà Đạt Đa, A Nan, Bà Cữu - Bhagu, và Kim Tì La -
Kimbila - Chú thích của người dịch). Họ lại còn dẫn theo chàng thanh
niên làm nghề thợ cạo tên là Ưu Ba Li (Upali) cùng đi xuất gia với họ. Họ
dõi theo bước chân hành hóa của Phật và đi thẳng đến đó. Khi đến rừng A
Nậu (Anupiya) thuộc ấp Di Na, họ cởi bỏ y phục vương tử, nhờ Ưu Ba Li
cạo sạch tóc, tự mặc áo ca sa, rồi cùng đến ra mắt Phật, Nhưng Phật đã
không chấp nhập cho họ gia nhập vào tăng đoàn ngay lúc đó, mà bảo họ ở
riêng trong một phòng trống, tĩnh tọa quán tưởng bảy ngày để quên hẳn
cái thân phận vương tử tôn quí của mình đi, bấy giờ họ mới chính thức
được Phật cho lễ xuất gia. 3.-
CỰ TUYỆT LỜI CẦU HÔN CỦA MỘT THIẾU NỮ: Sau
khi xuất gia, A Na Luật chỉ chuyên việc học kinh nghe pháp, sống đời đạm
bạc, luôn luôn vui vẻ thực hành các điều Phật dạy. Trong lòng vị tì kheo
trẻ tuổi ấy lúc nào cũng đầy ắp một niềm pháp lạc. A Na Luật cho rằng,
việc Phật chấp thuận cho mình xuất gia là một ân đức rất lớn lao, cho
nên dù chưa chứng quả thánh, tôn giả cũng muốn tham gia công tác hoằng
pháp để báo đền ân đức của Phật, Đối với những đệ tử có nhiệt tâm trong
việc hoằng pháp lợi sanh như vậy, Phật rất hoan hỉ và luôn luôn khuyến
khích; vì do công tác hoằng pháp lợi sinh mà đức tin nơi họ được trưởng
dưỡng, mà đức tin càng được nâng cao, vững chắc, thì sự khai ngộ, chứng
quả mới dễ đạt thành. Tôn
giả A Na Luật có nước da vàng, có chiếc mũi giống như mỏ chim anh vũ, có
cái nghi biểu trang nghiêm, một phong thái đẹp đẽ, đoan chính. Do vậy,
trên đường hoằng hóa, đã một lần tôn giả bị một thiếu nữ theo đuổi. Hôm
ấy tôn giả từ tu viện Kì Viên định đi về các thôn xóm trong nước Kiều
Tát La để giáo hóa. Rủi thay, trên suốt dọc đường không một nơi nào có
am cốc tự viện gì cả. Không có cách nào khác, tôn giả đành tìm đến đến
nhà dân chúng để xin tá túc qua đêm. Đến một thôn trang hoang dã kia,
nhà cửa không nhiều, tôn giả vào một ngôi nhà xin ngủ nhờ. Ngôi nhà này
lớn lắm, rộng thênh thang, nhưng oái ăm thay, hôm đó lại không có ai ở
nhà, ngoại trừ một cô gái trẻ. Thật là một điều ngoài ý muốn! A Na Luật
do dự. Một vị tì kheo ở trong một căn nhà với chỉ một cô gái, nên hay
không nên? Vì lúc bấy giờ, trong giáo chế của Phật, không có điều nào đề
cập đến điểm này. Đã vậy, lúc đó trời bỗng nhiên mây đen vần vũ, hứa hẹn
một cơn giông gió dữ dằn sắp đổ ập xuống trong giây lát, tôn giả không
còn chọn lựa nào khác, đành ở lại đó. Một
lát sau, lại có một cụ già vào xin tá túc, nhưng cô gái lại không cho
vào. Cô gái đối xử với người già như thế, làm cho tôn giả rất lấy làm
bất nhẫn. Trong khi đó thì cô đối đãi với tôn giả thật là ân cần, hết
bưng trà nước lại hỏi han chuyện trò, nhưng tôn giả chỉ một mực ngồi im
lặng, nhiếp tâm quán tưởng niệm Tam Bảo, trông cho mau sáng để lên đường
... Đến
nửa đêm, ánh sáng của ngọn đèn dầu đã bắt đầu yếu ớt. Chợt trong vùng
ánh sáng chập chờn ấy, bóng dáng cô gái từng bước ẻo lả tiến đến trước
mặt A Na Luật. Với giọng nói ngọt ngào, nàng thỏ thẻ: -
Chàng quả là một vị sa môn! Em biết rằng, có ý tưởng không phải đối với
một vị sa môn là tội lỗi lớn, nhưng từ lúc em trông thấy chàng thì em
yêu chàng ngay. Em muốn đè nén tình yêu ấy xuống mà không thể nào làm
được. Xin chàng hãy tin em. Em không phải là loại gái trăng hoa mất nết.
Đã có nhiều vị công tử tài danh đến đây cầu hôn mà em không chịu ai hết.
Vậy mà hôm nay nhìn thấy dung mạo thanh tú và cử chỉ đoan chính của
chàng, em liền cảm thấy yêu thương rạo rực. Hiện tại em thấy không có gì
xấu hổ mà xin tự nguyện hiến thân cho chàng. Xin chàng từ nay hãy ở luôn
tại đây vói em, cha mẹ em chắc chắn sẽ rất vui mừng. A Na
Luật vốn là một thanh niên anh tú, lại là một vương tử, xuất thân, nhưng
đối với tình yêu trái gái thì chàng hầu những không có kinh nghiệm gì,
đứng trước sự tỏ tình của các cô thì rất nhút nhát. Khi chưa xuất gia,
vì nổi tiếng là vương tử đẹp trai, tôn giả đã được không thiếu gì các
thiếu nữ trong hoàng tộc bu quanh để cầu hôn, nhưng tôn giả đã sớm biết
rằng dục tình chỉ là khổ đau chứ không phải là niềm vui chân thật; traí
lại, sự tu hành an tịnh mới chính là niềm vui chân thật. Trong giờ phút
hiện tại này, khi lửa dục đã dâng cao trong người con gái thì không dễ
dàng gì mà dập tắt được. Biết vậy, A Na Luật chỉ ngồi nhắm nghiền đôi
mắt, tỏ ý không thèm quan tâm tới nàng, như vậy thì hi vọng nàng tự biết
xấu hổ mà bỏ đi. Nhưng khốn nỗi, cô gái lại hiểu nhầm thâm ý của tôn
giả. Cô nghĩ rằng, vì cô chỉ nói suông nên tôn giả không vui lòng; bởi
vậy, cô liền tới sát hơn và nắm lấy hai tay tôn giả! Nhưng tôn giả vẫn
ngồi sừng sững như núi cao, uy nghiêm bất động. Thấy vậy, cô gái lại tấn
công mạnh bạo hơn, ôm chặt lấy tôn giả! Không nhịn được nữa, tôn giả
liền mở mắt ra, nghiêm nghị mắng: - Cô
nương! Sao cô không biết xấu hổ! Những người đoan chính đâu có cử chỉ
suồng sả như thế! Huống chi tôi là một người đã xuất gia làm tì kheo, cô
đối với tôi như vậy thật là quá vô lễ! Cô nên biết, dục tình ở thế gian
chính là nguồn gốc của khổ đau, sinh tử. Tất cả những thị phi, phiền lụy
ở thế gian đều do dục tình mà gây ra. Nếu biết được như vậy, giờ đây xin
cô hãy ngồi xuống, tự quán sát tâm niệm mình, và cố gắng dập tắt ngọn
lửa dục đang hực cháy trong lòng mình đi! Cô
gái như bừng tỉnh! Lời lẽ nghiêm khắc của A Na Luật đã làm cho cô thực
sự thấy hổ thẹn. Cô cúi đầu thật thấp để ăn năn tội lỗi. Sau cùng, cô
khẩn thiết xin tôn giả hướng dẫn cho cô qui y Tam Bảo và cô trở thành
một vị nữ cư sĩ của giáo đoàn. Từ lần đó trở về sau, A Na Luật không bao
giờ còn dám xin ngủ lại đêm ở nhà dân chúng nữa. 4.-
ỐC NẰM TRONG VỎ CHỈ THÍCH NGỦ: Trực
diện với sự cám dỗ mạnh bạo của nữ sắc mà không hề bị loạn động, điều đó
chứng tỏ cái tâm đạo của A Na Luật sáng rỡ, kiên cố biết chừng nào! Vậy
mà có một lần, vì cái tật mê ngủ mà tôn giả đã bị Phật quở tránh nặng
nề. Hôm
ấy, trong một thời giảng kinh của Phật, vì quá mệt mỏi và buồn ngủ, tôn
giả đã ngồi ngủ gục trong pháp hội. Phật nhìn xuống trông thấy liền quở: - Ôi,
thầy A Na Luật! Sao mà mê ngủ như vậy! Rồi cũng giống như ốc nằm trong
vỏ, ngủ vùi một giấc cả ngàn năm, đến cả một danh hiệu của Phật cũng
nghe thấy được! Một
vị ngồi bên cạnh phải lay mãi, tôn giả mới tỉnh ngủ. Phật lại hỏi: - A
Na Luật! Thầy vì sợ phép nước hay trộm cướp mà đi xuất gia phải không? Tôn
giả liền đứng dậy thưa: -
Bạch Thế Tôn!, không phải như vậy! - Vậy
thì vì lí do gì mà thầy đi xuất gia? -
Bạch Thế Tôn, vì con muốn được giải thoát khỏi những ràng buộc, những
khổ đau của sinh già bịnh chết. - Tất
cả đại chúng đều khen ngợi thầy có phẩm hạnh thanh cao, bị nữ sắc cám dỗ
mà giới thể không hề hoen ố; thầy cho như thế đã là đầy đủ rồi phải
không? Nếu không thì tại sao trong khi Như Lai nói pháp mà thầy vẫn ngủ? Tôn
giả sợ quá, vội vã quì ngay xuống, chắp tay thưa một cách cương quyết: -
Bạch Thế Tôn! Cúi xin Thế Tôn từ bi tha thứ cho cái tội lười biếng ngu
si của con. Từ nay cho đến suốt đời, con nguyện sẽ không bao giờ ngủ gục
nữa. Thấy
tôn giả thành tâm hối lỗi, Phật rất hoan hỉ và khuyên bảo tôn giả nên cố
gắng tu tập. Nhưng cũng từ đó, tôn giả đã lập hạnh “không ngủ”! Suốt
ngày, suốt đêm, tôn giả chỉ cố công tu tập, không giờ phút nào chịu ngủ
nghỉ. Một ngày, rồi hai ngày ... tôn giả cứ cố chịu đựng như thế, cho
đến một hôm thì hai mắt của tôn giả sưng vù! Khi
được tin này, Phật lo lắng lắm, bèn đến khuyên bảo: - Này
A Na Luật! Trong việc tu hành, sự bất cập cố nhiên là không được, nhưng
sự thái qua thì cũng không phải là điều tốt. Thầy nên bỏ cái cách tu ấy
đi! -
Bạch Thế Tôn! Nhưng con đã có lời nguyện kiên quyết với Thế Tôn trong
pháp hội. -
Thầy không nên câu nệ điều đó. Chính cặp mắt của thầy mới thật là quan
trọng. Tôn
giả vẫn không chịu. Phật phải bảo tiếp: - A
Na Luật! Tất cả chúng sinh đều phải cần thức ăn để sống. Con mắt cũng
phải có thức ăn mới sống; thức ăn đó là giấc ngủ. Vậy thầy không nên
nghĩ ngợi gì khác mà bây giờ nên ngủ đi! Thầy phải biết rằng, chính niết
bàn cũng vẫn cần có thức ăn! -
Thức ăn của niết bàn là gì, bạch Thế Tôn! -
Thức ăn của niết bàn là sự không buông lung. Phải không buông lung thì
mới đạt tới cảnh giới niết bàn. Tuy A
Na Luật rất cảm kích đối với lòng ưa ái của Phật, nhưng lại không muốn
làm ngược lại lời nguyện của mình, nên vẫn nhất định không chịu ngủ
nghỉ. Thấy cặp mắt của tôn giả càng lúc càng trở nên trầm trọng, Phật
cho người mời y sĩ Kì Bà (Jivaka) đến chữa trị. Kì Bà khuyên tôn giả nên
ngủ nghỉ trở lại bình thường thì cặp mắt sẽ lành, nhưng tôn giả cũng
không chịu. Chẳng bao lâu sau thì cặp mắt của tôn giả bị mù! 5.-
PHẬT GIÚP VÁ ÁO: Sau
khi bị mù mắt, cuộc sống của A Na Luật trong tăng đoàn thật là khó khăn,
bất tiện, nhất là đối với việc khất thực và may vá. Dù sao, trong tăng
đoàn đã có lệ, quí vị tì kheo mạnh khỏe, mỗi khi đi khất thực về thì
chia thức ăn cho quí vị tì kheo bịnh hoạn không đi khất thực được. Cho
nên về sự ăn uống, tôn giả đã có quí vị khác giúp đỡ, khỏi phải lo lắng
gì cả. Trái lại, vị bị mù lòa, không còn trông thấy ngoại cảnh thì đỡ
phải bị ngoại cảnh làm cho tâm loạn động; điều đó càng giúp cho tôn giả
tinh thục hơn, chuyên nhất hơn trong sự tu hành. Tuy thế, về y phục, đối
với tôn giả vẫn còn là một trở ngại lớn. Áo
của tôn giả đã rách, muốn vá nhưng không biết làm thế nào để vá, cho đến
khi cả ba chiếc áo đều rách hết mà tôn giả vẫn đành chịu. Một hôm, tôn
giả A Nan, nhân đi ngang qua chỗ ngụ của tôn giả, thấy thế liền nhắc: - Sư
huynh A Na Luật! Áo của sư huynh không vá không được. Đức Thế Tôn thường
dạy, y phục của tì kheo, mới cũ không thành vấn đề, nhưng phải luôn luôn
lành lặn và sạch sẽ. - Sư
huynh A Nan a! Tôi cũng đã thử vá mấy chiếc áo rách này, nhưng vì mù
lòa, cứ cố xâu chỉ mà không thể nào xâu được. Vậy nếu sư huynh có thì
giờ, xin xâu chỉ giúp tôi! Tôn
giả A Nan rất hoan hỉ, hứa sẽ trở lại ngay để giúp tôn giả. Nhưng khi
Phật trông thấy A Nan thì đã đoán biết được sự việc. Ngài hỏi: - A
Nan! Thầy muốn tìm người giúp thầy A Na Luật vá áo phải không! Sao thầy
không nhờ Như Lai giúp cho? Tôn
giả A Nan giật mình, vội thưa: -
Bạch Thế Tôn! Thế Tôn là bậc chí tôn chí quí, còn đây chỉ là việc nhỏ
nhặt của chúng con, chúng con đâu dám làm phiền đến Thế Tôn! -
Thôi thầy đừng nói thêm gì nữa, Như Lai muốn tự mình giúp cho A Na Luật.
Như Lai sẽ cùng với thầy đi đến đó. Lòng
từ ái của Phật đã làm cho A Nan và quí vị đứng quanh đó rất cảm động. Khi
đến nơi, Phật bảo: - A
Na Luật! Thầy hãy lấy kim chỉ ra, Như Lai sẽ giúp thầy vá áo! Nghe
tiếng của Phật, A Na Luật vô cùng sửng sốt. Trong đôi mắt mù ấy người ta
trông thấy có những giọt nước mắt chảy ra vì quá xúc động. Tôn giả chỉ
biết im lặng mà không nói được nên lời ... Và chỉ trong ngày ấy, Phật đã
giúp A Na Luật vá xong ba chiếc áo. 6.-
NGUYÊN NHÂN ĐỌA LẠC CỦA PHÁI NỮ: A Na
Luật tuy mắt đã bị mù, nhưng tâm trí thì vẫn rất sáng suốt. Mặc dù vậy,
đối với mọi sinh hoạt của đời sống, một người không thấy đường như thế
thì cũng có lắm điều không như ý. Riêng Phật thì thương xót tôn giả vô
cùng. Từ sau khi giúp tôn giả vá áo. Phật thường ngày dạy cho tôn giả tu
tập phép thiền định gọi là “Kim Cang chiếu sáng”, và chẳng bao
lâu thì tôn giả chứng được thiên nhãn thông! Kết quả đó đã làm cho tôn
giả vô cùng hoan hỉ, và Phật cũng chia sẽ niềm hoan hỉ ấy với tôn giả. Dĩ
nhiên là có nhờ vào oai lực từ bi của Phật, nhưng cũng chính là do sự
quyết tâm, trì chí và nổ lực của riêng mình, cho nên tôn giả mới đạt
được kết quả cao quí như thế. Bởi vậy tôn giả đã được mọi người trong
tăng đoàn hết sức ái mộ và kính trọng. Từ đó, những công việc thường
ngày như vá áo, rửa bát, v. v... đã không còn làm cho tôn giả bối rối
nữa. Với thiên nhãn thông này, tôn giả có thể trông thấy bất cứ ở đâu,
dù xa, dù gần, dù trong, dù ngoài ... Những gì mọi người không thể trông
thấy được, tôn giả đều có thể thấy. Trong kinh A Di Đà, danh hiệu
của tôn giả được sáp vào hàng thánh chúng (tức là A Nậu Lâu Đà), để
chứng minh rằng, vì nhờ có thiên nhãn thông mà tôn giả có thể thấy được
thế giới Cực Lạc, làm cho vững chắc thêm lòng tin nơi chúng sinh về cõi
Tịnh Độ của Phật A Di Đà. Không
những thấy được thế giới Cực Lạc, mà với thiên nhãn thông, tôn giả còn
thấy cả mọi sự việc nơi chốn địa ngục. Một ngày nọ, nhân thấy trong địa
ngục có quá nhiều phụ nữ bị đọa lạc, tôn giả bèn thỉnh ý Phật: -
Bạch Thế Tôn! Hôm nay con thấy có nhiều phụ nữ bị đọa vào địa ngục. Theo
con nghĩ, người đàn bà thường nhân từ hơn người đàn ông, và họ tín phụng
Phật pháp cũng hết sức dễ dàng. Vậy thì tại sao họ lại đọa lac vào địa
ngục nhiều như thế? - A
Na Luật! Đối với giáo pháp của Như Lai, người đàn bà tín phụng hết sức
dễ dàng, đó là sự thật; nhưng người đàn bà tạo các tội nghiệp cũng hết
sức dễ dàng, và đó cũng là sự thật! Nơi người đàn bà, lòng tham lam,
ghen ghét và dục vọng rất nặng nề, hơn hẳn người đàn ông, nên rất dễ gây
nên lỗi lầm, và đó là nguyên nhân của sự đọa lạc. Tôn
giả A Na Luật đã thành tựu quả thánh, lại chứng được thiên nhãn thông,
cho nên đã trở thành một trong các vị đệ tử cao cấp của Phật. Mặc dù
vậy, trong một lần đàm đạo cùng trưởng lão Xá Lợi Phất, tôn giả vẫn bị
trưởng lão Xá Lợi Phất quở trách một cách thẳng thắn. Câu chuyện như
sau: Hôm
đó, tôn giả hỏi trưởng lão Xá Lợi Phất: -
Thưa sư huynh! Với thiên nhãn thanh tịnh, tôi có thể trông thấy khắp cả
ba ngàn thế giới. Tôi luôn luôn tinh tấn, sống trong chánh niệm không
bao giờ quên lãng. Hiện tại tôi cảm thấy như thân thể tôi đang vân du
thanh thoát trong cõi đất trời vắng lặng. Tâm tôi đã xa lìa mọi sự chấp
trước, không còn bị lung lạc. Thưa sư huynh, có phải như thế là tôi đã
dứt trừ mọi phiền não và được giải thoát rồi không? Với
tư cách là vị thượng thủ cao cấp nhất của tăng đoàn, trưởng lão Xá Lợi
Phất đáp lời tôn giả: - Sư
huynh A Na Luật! Vừa rồi sư huynh bảo là sư huynh đã chứng được thiên
nhãn thông và thấy rõ cả ba ngàn thế giới, đó là tâm ngã mạn, sư huynh
bảo là sư huynh sống trong chánh niệm không bao giờ quên lãng, đó là tâm
cuồng vọng, sư huynh bảo là sư huynh đã xa lìa mọi sự chấp trước, không
còn bị lung lạc, đó là tâm giao động. Theo chỗ tôi hiểu về những lời dạy
của đức Thế Tôn, chúng ta phải diệt trừ được tâm ngã mạn, tâm cuồng
vọng, và tâm giao động thì mới không còn phiền não và được giải thoát! 7.-
NIỀM AN LẠC NƠI NÚI RỪNG TĨNH MỊCH: Lúc
bấy giờ Phật đang của trú tại Câu Thiểm Di (Kausambi - Kosambi). Một hôm
nọ, một cuộc tranh chấp mãnh liệt bỗng xảy ra trong đại chúng. Phật đã
đem câu chuyện về đức nhẫn nhục của vua Trường Thọ kể cho đại chúng
nghe, hầu chấm dứt cuộc tranh luận. Phật bảo: “Dùng oán hận để diệt
oán hận thì oán hận không bao giờ có thể diệt được. Chỉ có dùng đức từ
bi và lòng nhẫn nhục mới có thể tiêu diệt được lò lửa oán hận mà thôi”. Tuy
lời khuyên bảo của Phật đã có hiệu quả với phần đông đại chúng, nhưng
một số ít người vẫn bướng bỉnh, đã không chịu nghe lời Phật, lại còn
tiếp tục làm cho cuộc tranh cấp càng gay gắt thêm. Thấy vậy, Phật bỗng
nhớ tới con người rất mực khiêm cung, nhường nhịn, là A Na Luật, lúc ấy
đang hành đạo tại rừng Ba Lị Da, nước Bạt Kì. Phật liền một mình đi đến
đó để thăm A Na Luật. Tại
rừng Ba Lị Da, ngoài tôn giả A Na Luật ra còn có hai vị khác cùng tu là
Bạt Đề và Kiếp Tân Na. Cả ba vị vốn là anh em họ với nhau. Lúc còn tại
gia họ rất thương mến nhau, và sau khi xuất gia làng càng thương mến
nhau hơn, cùng giao ước với nhau là chỉ một lòng y chỉ nơi Phật và nhất
thiết đều tuân theo lời Phật dạy để tu hành. Cả ba vị đều đã chứng quả
thánh. (Danh sách ba vị này, ngoài A Na Luật ra, hai vị còn lại đã có
nhiều sách nói khác nhau: có chỗ thì Bà Cữu và Nan Đề; có chỗ thì Kim Tì
La và Nan Đề. - Chú thích của người dịch). Cuộc sống của họ tại đây
thật tịch tĩnh, hòa thuận và an lạc. Hàng ngày, buổi sáng mọi người đều
vào làng khất thực. Ai khất thực xong về trước thì tự động trải chỗ ngồi
cho cả ba người, rồi đi lấy nước uống, nước rửa cùng khăn lau để sẵn.
Khi ăn xong, thức ăn còn dư lại thì đem để chỗ mát và trống trải hoặc
trong nước sạch. Như vậy, người đi khất thực về sau, nếu thiếu thức ăn
thì có thể dùng thức ăn còn lại ấy của người trước. Mọi việc dọn dẹp
xong xuôi, vị ấy rửa tay chân, chỉnh đốn y áo, rồi về chỗ của mình để
thiền tọa. Người đi khất thực về sau, cũng cứ như thế mà hành trì, Buổi
thiền tọa có thể kéo dài tới chiều. Ai xuất thiền trước thì cũng cứ tự
động đi kiểm soát xem, việc gì đáng làm thì làm, như quét dọn, lấy nước
chẳng hạn. Việc gì nhắm làm một mình không nổi thì nhờ hai vị kia cùng
giúp. Tất cả mọi việc đều được làm trong yên lặng. Họ nói năng rất ít.
Cứ năm ngày thì họ họp một lần để chia sẽ với nhau về kinh nghiệm tu tập
hoặc trù liệu các chương trình sinh hoạt mới. Cứ thế, họ sống với nhau
thật hòa thuận và an lạc trong khu rừng u tĩnh ấy. Khi
Phật vừa đến phía ngoài khu rừng thì người giữ rừng liền chận Phật lại.
Ông ta từ trước đến giờ chưa từng trông thấy Phật, nên không biết. Ông
thưa: - Xin
ngài đừng vào rừng, vì trong ấy có ba vị thánh tăng đang tu hành. Phật
mỉm cười bảo: - Xin
ông vui lòng vào báo với ba vị ấy là có người đến thăm. Chắc chắn là ba
vị ấy sẽ rất vui vẻ đón tiếp tôi. Người
giữ rừng liền vào trong thông báo. Ba người nhìn ra thì biết ngay là
Phật quang lâm, nên rất hân hoan, đồng ra bìa rừng nghênh đón. A Na Luật
thì tiếp lấy y bát của Phật; Bạt Đề thì lo sửa soạn chỗ ngồi; còn Kiếp
Tân Na thì đi lấy nước rửa chân cho Phật. Phật hỏi thăm về nếp sống cũng
như sự tiến triển tu tập của họ. Ba vị đều cứ như thật trình bày. Nghe
họ nói cũng như nhìn thấy nếp sống chung của họ, Phật rất vừa lòng. Ngài
khen ngợi: - Quí
thầy cùng thờ một thầy, cùng tu một đạo, đồng tâm nhất trí, đang sống
chung với nhau trong một nếp sống an lạc, hòa hợp với nhau như nước với
sữa. Nếp sống tốt đẹp đó của quí thầy thật ít ai có thể so sánh được! Nhân
đó Phật bèn kể lại lịch trình tu hành của mình trong những tiền kiếp xa
xưa để khuyến khích thêm ba vị. Từ một nơi đầy tranh chấp đến đây và
chứng kiến được một nếp sống hòa thuận tốt đẹp của ba vị tại đây, Phật
rất lấy cảm kích và hoan hỉ vô cùng. Trong khi đó, A Na Luật và hai bạn
đồng tu, được Phật đến tận nơi xa xôi hẻo lánh này để thăm hỏi, cũng cảm
động vô cùng, lòng dâng lên một niềm vui khó tả. (Chính tại khu rừng
này, lấy ba vị thánh tăng trên làm đối tượng, đức Phật đã ban bố pháp
chế “Lục hòa” nhằm xây dựng một nếp sống hòa hợp, an lạc trong tăng
chúng. - Chú thích của người dịch). 8.-
TRỘM CƯỚP QUI Y TAM BẢO: Nhưng
không phải tôn giả A Na Luật chỉ biết ẩn mình mãi mãi nơi chốn núi cao
rừng rậm. Tôn giả thường nghĩ: “Sỡ dĩ mình có được niềm pháp lạc như
ngày nay là đều do ân điển của đức Thế Tôn. Muốn báo đáp ân điển đó,
mình phải ra sức hoằng pháp lợi sinh. Những nơi nào chưa có người đến
giáo hóa thì mình hãy đến ...” Con người trông bề ngoài có vẻ rất
lạnh lùng ấy, thực ra, trong lòng rất là nhiệt tình. Bởi vậy, từ cung
vua, hoặc phủ đệ của các vị quí tộc, cho đến những nơi núi rừng, làng
quê hẻo lánh, không chỗ nào là không in dấu bước chân hoằng hóa của tôn
giả. Tôn
giả rất hay đi thăm những người bị bệnh. Ở nước Chiêm Ba (Campa) có một
người tên là Ma Na Đề Na, bị bệnh nặng, chỉ nghe tôn giả thuyết pháp, rũ
bỏ âu lo phiền muộn, liền khỏi bệnh. Nhiều trường hợp tương tợ như vậy,
đối với các người bệnh, tôn giả chỉ cần nói pháp, an ủi là bệnh thuyên
giảm. Bởi vậy, tất cả những người đang bị bệnh, biết được có tôn giả tới
đều rất vui mừng. Không những có một phương pháp chữa bệnh rất đặc biệt,
tôn giả còn có cách khéo léo riêng để chuyển hóa tâm tính của dân trộm
cướp. Trong
một đoạn trước chúng ta đã biết, có một hôm tôn giả bị lỡ đường, phải
vào một ngôi nhà vắng bên đường xin tá túc qua đêm. Đến nửa đêm thì tôn
giả bị cô gái chủ nhà trêu ghẹo; và từ đó tôn giả nguyện không bao giờ
còn dám ban đêm vào nhà dân gian xin ngủ nhờ nữa. Lần này, tôn giả cũng
đang đi hành hóa ở một thôn trang nọ thì trời tối. Tôn giả bèn ra khu
rừng ở bên ngoài làng để tĩnh tọa chờ sáng. Ánh trăng tỏa chiếu mông
lung, bóng cây lờ mờ huyền ảo. Gió thổi nhè nhẹ. Thỉnh thoảng một vì sao
băng vụt qua khoảng trời không ... Bấy
giờ đêm đã về khuya, không gian hoàn toàn vắng lặng. Bỗng chập chờn một
đám đông bóng người, từ xa đang di động dần về phía tôn giả. Tôn giả
muốn ho lên một tiếng, nhưng đám người đã dừng lại phía trước tôn giả
không xa lắm. Tôn giả dùng cặp mắt thần để quan sát thì thấy rõ ràng đó
là bọn người trộm cướp. Họ dừng lại đó để chia nhau những của cải vừa ăn
trộm được. Tôn giả bèn buông một tiếng thở dài thật lớn. Bọn trộm biết
là có người trông thấy, tức thì vũ lộng binh khí sáng ngời. Một người
trong bọn xẵng giọng: - Ai
đó, Hãy ra đây cho bọn tao thấy mặt, đồ khốn kiếp! Không thì bọn tao
giết chết bây giờ! Tôn giả nói thật lớn: - Các
người muốn giết ta, cứ việc đến! Các ngươi giết ta thì tức khắc sẽ có
người giết các ngươi! Bọn
trộm nghe thế thì hoảng kinh, ngó nhìn giáo giác, chẳng biết nên làm thế
nào. Tên thủ lãnh liền lên tiếng: - Ông
bạn là ai! Đang đêm lại muốn phá hoại công việc tốt của chúng tôi! A Na
Luật nghiêm giọng trang nghiêm đáp: - Tôi
là một thầy tu, đang tĩnh tọa tại đây. Nếu bảo rằng tôi thấy các ông
đang làm việc quấy thì đúng, nhưng bảo rằng tôi phá hoại việc tốt của
các ông thì không đúng! - Ông
muốn tố cáo chúng tôi với quan phủ phải không? - Tôi
không có ý tố cáo các ông với quan phủ. Tôi chỉ muốn nói với các ông
điều này: Hành vi sai quấy của các ông, quan phủ có thể sẽ không bao giờ
biết được, nhưng luật nhân quả báo ứng thì sẽ không tha thứ cho các ông
đâu! Tôi vì nghĩ đến cái tương lai buồn thảm đang chờ đợi các ông mà cảm
thương các ông vô cùng! Lời
nói của tôn giả quả đã làm lay động được lòng trắc ẩn của đám người trộm
cướp. Trong phút chốc họ dứt bỏ hẳn tâm hung ác; và tính lương thiện,
giờ đây được cơ hội phát hiện. Họ thành tâm sám hối mọi lỗi lầm đã qua.
Nghe theo lời chỉ dạy của tôn giả, trước hết, ngay sáng hôm sau, họ đem
tất cả đồ vật đã lấy trộm trong đêm trước, hoàn trả lại cho các khổ chủ;
sau đó, nhờ sự giới thiệu của tôn giả, họ được đến yết kiến Phật để xin
qui y. Từ đó, họ quyết chí thay đổi hoàn toàn từ tâm ý, nói năng cho đến
mọi hành vi cử chỉ, trở thành những người lương thiện trong xã hội. 9.-
TU TẬP TÁM ĐIỀU GIÁC NGỘ CỦA CÁC BẬC ĐẠI NHÂN: Tôn
giả A Na Luật, một mặt cần cù trong việc hoằng pháp lợi sinh, một mặt
vẫn tinh tấn trong công phu tu học. Một hôm, trong lúc thiền tọa tại một
làng nọ thuộc nước Chi Đề (Cedi), tôn giả quán niệm rằng: “Không phải
do tham dục mà đạt được Đạo, mà chính là do tâm biết đủ (tri túc); không
phải ờ nơi ồn ào náo nhiệt mà tìm được Đạo, mà chính là ở nơi vắng lặng
tịch mịch; muốn thấy được Đạo cần phải siêng năng, thường xuyên có chánh
niệm, lại còn phải đa văn và rèn luyện trí tuệ”. Bấy
giờ Phật đang ngự tại một khu vườn ở nước Bà Kì Dũ. Trong lúc A Na Luật
quán niệm những điều như trên thì Phật thấy rõ được tâm ý ấy của tôn
giả, bèn đến tận nơi để khen ngợi và khích lệ. Lại được Phật quang lâm
thăm hỏi, tôn giả xúc động vô cùng. Nhân đó tôn giả đem tư tưởng của
mình trình bày lên, xin Phật ấn chứng, và thưa hỏi thêm: -
Bạch Thế Tôn! Theo tinh thần “Sáu nguyên tắc sống chung hòa hợp” (Lục
hòa), mỗi cá nhân trong tăng đoàn phải quên đi những gì riêng tư, phải
quên đi cái bản ngã nhỏ mọn của mình; đối với chúng sinh thì phải tuyệt
đối dùng đức từ bi và lòng nhân ái để đối xử; những điều đó chúng con
phải hiểu biết và phải thực hành trọn vẹn. Nhưng, bạch Thế Tôn các tín
đồ tại gia thì rất đông, và các vị đệ tử xuất gia của Thế Tôn thường
xuyên gần gũi với xã hội để hoằng pháp lợi sinh cũng rất đông; đối với
những vị này, muốn cầu được giác ngộ và chứng nhập niết bàn thì làm thế
nào, xin Thế Tôn từ bi khai thị. -
Thầy A Na Luật! Câu hỏi của thầy thật hữu ích! Những điều thầy đề cập
tới đúng là những điều cần thiết của những người muốn tu học theo hạnh
nguyện bồ tát. Thầy A Na Luật! Có tám điều giác ngộ của các bậc đại nhân
mà bất cứ là đệ tử của Như Lai, bất luận ngày đêm, đều phải tinh tấn
hành trì: -
Điều thứ nhất: Phải thường xuyên quán chiếu để thấy được những tính cách
vô thường, giả tạm, đau khổ, không thanh tịnh, không có tự ngã của thế
gian. Phải quyết chí xa lìa sinh tử thì được giác ngộ. -
Điều thứ hai: Phải thường xuyên quán chiếu để thấy được tâm tham dục và
bám chặt thế gian chính là nguồn gốc của mọi khổ đau. Phải sống một cuộc
sống thiểu dục, vô vi, thì thân tâm sẽ được tự tại. -
Điều thứ ba: Phải thường xuyên quán chiếu tâm mình để thấy rằng, suốt
ngày nó chỉ một mực lo tham cầu và tạo tội lỗi, không biết nhàm chán.
Phải biết an vui trong nếp sống đạm bạc, biết đủ, để có thể hoàn thành
sự nghiệp trí tuệ. -
Điều thứ tư: Phải siêng năng làm các việc lành, không từ chối bất cứ
việc gì làm lợi ích cho người, diệt trừ phiền não, hàng phục các ma
chướng; có thế thì mới mong vượt thoát được ngục tù của năm ấm và ba
cõi. -
Điều thứ năm: Phải biết rõ rằng, sự ngu si thật là đáng sợ. Cho nên, đối
với tất cả mọi ngành học thuật đều phải để tâm nghiên cứu và học hỏi;
rồi lại phải phát tâm đem những điều đã học hỏi mà giáo hóa chúng sinh,
khiến cho mọi loài đều được an vui. -
Điều thứ sáu: Phải thấy rõ rằng, vì nghèo khổ mà người ta sinh nhiều oán
hận. Người tu học theo hạnh bồ tát phải biết giúp đỡ họ về mặt vật chất
cũng như an ủi họ về mặt tinh thần, dù ai xử tệ với mình cũng không nên
khởi niệm oán hận. -
Điều thứ bảy: Dù phải sống ở trong thế gian cũng không bao giờ để cho
năm thứ dục vọng của thế gian làm chủ mình. Dù là người xuất gia hay tại
gia, không bao giờ để bị nhiễm ô bởi các thứ dục lạc của thế gian. Nhất
mực phải sống cuộc đời cao thượng. -
Điều thứ tám: Không nên cầu sự an lạc cho riêng bản thân mình. Phải phát
tâm đại thừa, cứu độ tất cả chúng sinh xa lìa đau khổ, cùng được an lạc. Nhân
lời thưa hỏi của tôn giả A Na Luật mà Phật khai thị tám điều tu tập của
hạnh bồ tát. Rất nhiều người đã nương theo đó mà tu tập, cải thiện được
đời sống, làm cho thân tâm được tự tại an lạc. 10.-
TUỔI GIÀ: Trong
cuộc đời tu học và hành đạo của tôn giả A Na Luật chắc chắn là có nhiều
sự tích huy hoàng, và kì vĩ, nhưng rất tiếc là đã không còn chứng liệu
gì lưu lại để có thể truy cứu được. Chúng ta chỉ biết được ràng, tôn giả
là một trong các vị đệ tử lớn của Phật, địa vị ngang hàng với các tôn
giả Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên v.v... Tôn giả viên tịch tại đâu, vào lúc
nào, cũng không biết được; có điều chắc chắn rằng, trong giờ phút Phật
nhập niết bàn ở rừng Câu Thi Na thì tôn giả cùng với tôn giả A Nan đều
có mặt và luôn luôn túc trực bên cạnh Ngài. Trong đêm Rằm tháng Hai năm
ấy, ánh trăng sáng tỏ chiếu khắp trời không, trong rừng cây Sa la, giữa
cái không khí trang nghiêm, vắng lặng và đầy buồn thương, Phật bấy giờ
đã 80 tuổi, đối trước đông đúc đệ tử ngồi vây chung quanh, đang dạy
những lời cuối cùng về việc giữ giới, nhẫn nhục, siêng năng, giữ gìn tâm
ý, v.v... Sau hết Ngài nói: - Này
quí thầy! Đối với những pháp môn Như Lai đã dạy, quí thầy hãy ghi nhớ
lấy, đừng để cho quên mất! Như Lai cũng như ông thầy thuốc, chẩn bệnh và
cho thuốc, còn uống thuốc hay không là do người bệnh; Như Lai cũng như
người chỉ đường, chỉ rõ con đường đúng, còn đi hay không đi thì không
phải là do lỗi của người chỉ đường. Này quí thầy! Những giáo pháp về Bốn
sự thật, Mười hai nhân duyên v.v... mà Như Lai đã đạy, đều là những chân
lí mà Như Lai đã chứng ngộ, là cây đèn sáng của thế gian, là chiếc
thuyền từ trên biển khổ. Những người đã hiểu rõ và tin tưởng vào chúng
thì chúng chính là cánh cửa đưa họ vào đường giải thoát. Giờ đây Như Lai
sắp nhập niết bàn, đối với các giáo pháp ấy, nếu ai còn chỗ nào nghi ngờ
thì hãy nên bày tỏ ra ngay để Như Lai giảng giải lại. Phật
bảo đến ba lần như vậy, đại chúng vẫn ngồi yên lặng, chứng tỏ tất cả đều
không có điều gì nghi ngờ. Sau khi quán sát tâm ý của đại chúng, tôn giả
A Na Luật thưa: -
Bạch Thế Tôn! Tất cả chúng con không có điều gì nghi ngờ về các giáo
pháp Bốn sự thật, Mười hai nhân duyên v.v... Đó là chân lí của vũ trụ
nhân sinh, Trên thế gian này, mặt trời có thể trở thành lạnh, mặt trăng
có thể trở thành nóng, núi Tuyết có thể trở thành biển lớn, cõi đất có
thể trở thành gò hoang, nhưng giáo pháp của Thế Tôn đã dạy thì không gì
có thể làm cho thay đổì được! Sau
khi Phật đã nhập niết bàn, trong kì kết tập kinh điển trong hang núi Kì
Xà Quật (Gijihakuta) của 500 vị A La Hán, chắc chắn là có mặt tôn giả A
Na Luật. (Trong chương nói về tôn giả Đại Ca Diếp, tác giả nói rằng,
kì kết tập kinh điển lần đầu tiên này đã được tổ chức tại hang núi Tất
Bát La nằm ở phía Đông Nam thành Vương Xá, khác với núi Kì Xà Quật được
tác giả nói ở đây, nằm ở phía Đông Bắc thành Vương Xá. Phật Quang Đại Từ
Điển - do tác giả làm chủ biên - cũng nói hang Tất Bát La là nơi kết tập
kinh điển lần đầu tiên. Hang Tất Bát La, cũng gọi là hang Thất Diệp -
Sapta Parnaguha, một động đá nằm trong núi Tì Bà La (Vebraha), là một
trong năm tu viện ở vùng Vương Xá - Chú thích của người dịch) Nhưng
dấu vết về sau đó của tôn giả thì hoàn toàn không được lưu truyền. Thật
là đáng tiếc! Tôn
giả A Na Luật là người có chí khí kiên cường, chỉ vì cái bệnh mê ngủ mà
thành ra mù lòa. Dù vậy, với sự tinh tấn không ngừng, từ chỗ bị mù lòa
tôn giả lại chứng được thiên nhãn thông, tu hành và hoằng hóa một cách
an tường tự tại, được mọi người đều xưng tán, thật không hổ là một bậc
thượng thủ của giáo đoàn!
Vi tính: Cao
Thân
(Mắt trời thấy suốt, không gì chướng ngại)
Trình bày: Nhị Tường
Nguồn: www.quangduc.com