Có
một cuộc hành trình hùng tráng và vi diệu đã được thực hiện
trong chính thế gian này mà lịch sử nhân loại đã đón chào và ghi
nhận như một niềm tự hào về tư tưởng. Đây là một bản thiêng hùng
ca hơn cả những sử thi huyền thoại vì mang giá trị thật hoàn
toàn chứ không hề vẽ tô một chút sắc màu hư cấu. Đó chính là
cuộc hành trình đi tìm nguồn sáng tâm linh của đức Phật.
Không như
những khách lữ du phương hay những hành hiệp giang hồ ngoạn thủy
du sơn, đức Phật thực hiện cuộc hành trình của Ngài mà không
mang theo trong tay một thứ vật dụng hành trang hay một gang khí
giới phòng thân, bởi vì cuộc hành trình đó được thực hiện nhằm
chinh phục lấy cái thế giới nội tại nhiệm màu chứ không phải
phiêu lưu với bầu trời ngoại tại . Thế nên, với Ngài chỉ cần có
tư lương của ý chí hùng cường hướng tâm tầm cầu ánh sáng giác
ngộ hoàn toàn là trọn vẹn.. Cái "hoài
bão ước vọng giác ngộ” nơi Ngài không phải do biến cố
thất bại trong kiếp sống của đời người, mà đó là lí tưởng đã
được xác định bằng trí tuệ tuyệt vời hướng tới mục tiêu xuất ly
vĩ đại sau những gì đã được kiểm nghiệm từ thực tế của cuộc đời
với bát ngát tình thương và mật ngọt. Schopenhauer nhìn nhận
rằng: “Một tôn giáo nếu lấy
biến cố làm nền tảng và còn tự hào coi biến cố ấy làm thời trục
cho thế giới và cho mọi hiện hữu, là một tôn giáo có một nền
tảng quá mong manh, và sẽ không thể tồn tại được một khi con
người đã bắt đầu biết suy tư đôi chút.”
Đức Phật là
hiện thân của mật ngọt và tình thương giải thoát trong cuộc đời,
điều đó cũng có nghĩa là khi nào và nơi đâu có sự hiện hữu của
tình thương và mật ngọt thì khi ấy và nơi ấy có sự hiện hữu của
Ngài. Đúng như lời của John Ruskin- nhà cách tân giáo dục xã hội
Anh nói: “Chỉ có đời sống
mới là thứ của cải giá trị nhất. Đời sống bao gồm các giá trị
cuả yêu thương, của vui tươi và nhận thức.Nơi nào nuôi dưỡng
được nhiều nhất những con người có tâm hồn cao quí và sung mãn
thì nơi ấy giàu mạnh nhất. ” Đó chính là một phần sắc
màu kì diệu được toả chiếu từ muôn ánh hào quang trong đêm thành
đạo của đức Phật Thích Ca mà chúng ta cùng hướng đến trong niềm
tôn kính vô tận này.
Điểm Sáng Bắt Đầu Từ Thánh Hạnh - Siddhattha.
Thực ra đức
Phật không bao giờ có ý tưởng hướng đến một sự tôn vinh nào đó
dành cho chính Ngài bằng những gì Ngài đã thực thi cho cuộc đời
này. Và dù cho cuộc đời này có tận dụng hết mọi khả năng và
phương cách để tôn vinh Ngài thì cũng không sao tô vẽ được một
cách vẹn toàn những nét đẹp sâu thẳm ở nơi Ngài. Tất cả mọi ngôn
ngữ đều là bế tắc, còn biểu tượng thì cũng không sao biểu hiện
được đến chỗ tận cùng. Ở đây chỉ biết xin tạm mượn ngôn ngữ của
khái niệm “ ánh sáng” để tôn vinh một phần thánh hạnh tuyệt vời
với trí tuệ và tình thương bao la của đức Phật như muốn bày tỏ
một niềm tôn kính Ngài trong đêm thành đạo vậy.
Các
pháp của thế gian thì luôn phải chịu chi phối bởi những giới hạn
của những phạm trù ước lượng, chỉ có duy nhất những gì được
thành tựu nơi đức Phật mới vượt ra ngoài những kiến giải của nhị
biên để biến hiện châu viên cùng khắp.
“Mặc trời chiếu sáng ban ngày. Mặt trăng chiếu sáng ban đêm.
Nhung giáp và gươm đao chói sáng khi nhà vua xung trận. Lúc
thiền định, hào quang chư Phạm Thiên chiếu sáng. Nhưng đêm cũng
như ngày, đức Phật sáng ngời với giới hạnh thanh cao”.(Kinh Pháp
Cú)
Không phải
không có căn cứ khi học giả H.G. Wells nhận định: “
Nơi đức Phật ta thấy rõ ràng là
một con người giản dị, có tâm đạo nhiệt thành, một mình phát huy
ánh sáng tươi đẹp, một nhân vật sống, một con người như mọi
người chứ không phải một nhân vật thần thoại ẩn hiện trong những
truyền thuyết hoang đường…Đức Phật dạy rằng tất cả những gian
lao sầu khổ và bất hạnh trong đời đều do lòng ích kỉ sanh ra.
Trước khi có thể trở nên vắng lặng con người cần phải ngừng sống
cho giác quan mình, nghĩa là cho chính mình.Từ đó vượt lên trên
tất cả mọi người và sống cuộc đời của bậc siêu nhân.”
Phẩm chất
của đức Phật trong suốt cuộc hành trình ở thế gian này là như
thế. Ngài hiện hữu cũng như bao hiện hữu của những con người, có
khác chăng là ở tánh đức của một thứ từ bi vô hạn. Nó xuất phát
hình như tự uyên nguyên của trái tim không chỉ rung động trong
phạm vi địa hạt của một con người mà còn thổn thức đến khôn cùng
thế giới khổ đau của muôn loại và cũng không hề có một ý niệm
phân biệt nào sanh khởi .
Trái tim đó đã từng thông cảm và xót xa cho cả nỗi đau của chú
Thiên nga gặp hoạn nạn: “Thiên
Nga ơi! Con đã bị giam cầm trong đôi tay âu yếm của ta kể từ khi
con bị nạn. Tuy được ta nâng niu nhưng làm sao được hưởng cái
thú tiêu dao với muôn ngàn nước mây ngoài phương trời cao rộng.
Hôm nay cánh con đã lành mạnh, giữa bầu trời quang tạnh gió
thuận từ phương Bắc thổi về, ta thả con ra để con bay về rừng
Hy-mã cùng đàn con sum họp.Ta gởi theo con đây một tấm lòng
thương mến, con hãy về mách lại với đàn con rằng ở đây có một
người nguyện sẽ đem cả cuộc đời ra bênh vực và cứu giúp những kẻ
yếu hèn…” (Ánh Đạo Vàng). Và đó hình như không phải
là một hứa hẹn trong cuộc hội ngộ tình cờ rồi quên lãng, mà đó
lại là dấu ấn đã khắc tận vào sâu thẳm tâm tư mà rồi Ngài sẽ
mang theo suốt cuộc hành trình đi tìm phương dược để xoa dịu đau
thương.
Chỉ là một
hoàng Thái Tử trẻ tuổi mà trong lòng luôn trĩu nặng những suy tư
mà chưa một ai có thể trăn trở được như thế. Chỉ từ hình ảnh và
những cảnh tượng diễn ra trong một buổi lễ Trạch Điền mà Ngài
chứng kiến, bao trăn trở của tình thương vạn vật đã khơi dậy
thật mênh mông như muốn nguyện mở lòng yêu thương đến cùng khắp:
“Chao ôi! Bao nhiêu mồ hôi
và nước mắt đã nhỏ trong chén cơm của người đi cày! Bao nhiêu
sức lực của đôi bò chỉ đem ra để đổi lấy một nắm cỏ! Và khốc
liệt thay, sự tương tàn giữa vạn vật sinh linh. Ôi! không lẽ
chúng sanh lại cứ ăn thịt nhau mãi như vậy sao?” Nếu
không phải là trái tim của Bồ Tát hiện thân, hay thánh hạnh siêu
trần của một bậc xuất thế thì làm sao biết xót thương và thông
cảm với nỗi khổ đau tột cùng của muôn loài đến như vậy. Trong
kinh Thủ Lăng Nghiêm đức Phật cũng bày tỏ:
“Nỗi thống khổ của người cũng
chính là nỗi thống khổ của ta, và niềm hạnh phúc của người cũng
chính là niềm hạnh phúc của ta vậy.”
Những
Plato, Socrates, hay Aristotle và nhiều nhà hiền triết khác, chỉ
là những triết gia, những nhà tư tưởng và những nhà đi tìm chân
lý; họ thiếu tình yêu thương cảm kích đối với nỗi khổ đau của
nhân loại. Tất cả những triết gia, tâm lý gia, khoa học gia, nhà
duy lý, những nhà cải cách xã hội, những tư tưởng gia vĩ đại và
những vị đạo sư của các tôn giáo khác làm sao có thể so sánh
được với sự vĩ đại của đức hạnh, tinh thần phục vụ, trí tuệ,
lòng từ bi và sự giác ngộ nơi đức Phật.Chính vì vậy mà triết gia
người Đan Mạch, ông Fausboll đã bày tỏ sự tôn kính đức Phật như
sau: “Càng hiểu biết Ngài
tôi càng quí mến Ngài.Càng quí mến, tôi càng hiểu biết Ngài.”
Còn gì hơn khi Siddhattha có quyền hưởng trọn một cung điện huy
hoàng được dựng lên giữa trần gian thật nguy nga lộng lẫy để
không thấy được những gì đang diễn ra ở cảnh ngoài thành’. “Khi
vén rèm bước vào phía trong cung điện, người ta không còn nhớ
nữa thời gian. Ở đây ngày đêm không phân biệt. Một thứ ánh sáng
màu sữa chảy lai láng giữa những bức màn nhung tía, trên những
đệm gấm có điểm từng chấm sao vàng, trên những mặt bàn có chạm
ngà bóng loáng đặt những án lư trầm.Trầm hương bay đêm ngày hoà
trong ánh sáng, tiếng đàn buông quấn quít khói hương bay. Những
khay vàng được dâng đưa trên đôi bàn tay cẩn trọng và từng đĩa
ngọc đơm những trái cây còn đọng lại sương mai.Những món giải
khát hoà với tuyết đem về từ Hy-mã, đựng trong chén ngà bóng
loáng tinh nguyên.Những điệu hát tình suốt đêm ngày ru đưa để ru
hồn say sưa cho Thái Tử. Những mỹ nữ bàn chân đeo lục lạc, thơn
thơn lướt trên điệu nhạc đơn vui. Những bàn tay mềm dẻo nối theo
nhau, chuyển từng gợn sóng để dìu giọng tiêu cao vút.” (Ánh Đạo
Vàng)
Thế nhưng cái thánh đức từ bi đã
được
thấm nhuần từ thuở nào trong mạch sống của Ngài lại theo cùng
Ngài mà hiện vào soi tỏ tất cả mọi sự giả tạm của cảnh sa hoa.
Điệu nhạc mê li của những cung đàn kì diệu trong tai Ngài lại
trở thành những tiếng thở than đau khổ của bao nỗi niềm tự tình
đầy trăn trở: “Ôi lang
thang! Chúng tôi là gió lang thang của muôn ngàn thế kỉ, đang đi
tìm mọi sự an nghỉ không thể có ở trần gian./Chúng tôi bay từ
đâu lại, khởi từ lúc nào, và bao giờ được yên nghỉ, và sẽ đi về
đâu? Nào chúng tôi có biết!/ Vì thế có khi chúng tôi đã kêu gào
trên biển cả, gầm thét trên núi đồi; nhưng ôi đau đớn! sự giận
hờn của chúng tôi nào có ai hay!/ Có lúc qua ngàn thông cao
chúng tôi vừa bay vừa khóc; có những lúc vừa nhọc vừa buồn,
chúng tôi đã để tuôn từng luồng sầu hận./ Đau đớn, giận hờn, van
lơn, khóc lóc; thôi đã đành phận gió. Nhưng đó cũng là số phận
của kiếp người./ Một kiếp người qua, một hơi gió thoảng! Chúng
tôi đã trải qua biết bao sông núi, chứng
kiến biết bao sự tiêu vong nên chúng tôi chỉ biết kể lể những
nỗi đau buồn./ Chúng tôi đã thấy đầy dẫy những tấm thân quằn
quại trong đau thương, những cánh tay vươn chơi vơi lên cao
trước khi chìm trong thất vọng, những cổ họng khát khao đã kêu
gào trong tăm tối!/Chúng tôi đã mang về đây những lời thối khét
của những thây ma thiêu trên giàn hoả, chúng tôi đã mang về đây
mùi tanh hôi của những vũng máu đọng thành hồ trên bãi chiến!/
Và Ngài hãy nghe đây, tiếng rạt rào của bao làn sóng lệ, những
niềm kể lể của những con tim héo tàn!/ Ôi trần gian một tiếng
than dài vô kể, làm sao Ngài có thể say mê hoài giữa những khoái
lạc mong manh./ Dậy đi thôi! Chúng tôi mong Ngài tỉnh dậy.Trần
gian mù quáng đang sờ soạn quanh mình,hỡi người con của Ma gia,
hãy đưa nhân loại ra khỏi vũng lầy tăm tối ấy!/
Đi đi thôi! Chúng
tôi mong Ngài đi tìm một con đường giải thoát cho nhân loại noi
theo! Dậy đi thôi! Đi đi thôi! Ôi Thái tử.”(Ánh Đạo Vàng)
Đây chính là lời
tự sự trăn trở cho sự thật của kiếp người và cũng là sự thôi
thúc của ý chí xuất trần đã được nuôi dưỡng từ lâu trong chính
trái tim con
người của Thái tử.
Nếu những
sự rung động của
cái đẹp thơ ca trong tâm hồn
của thi sĩ được trào vọt ra từ trái tim tràn đầy hoan lạc của
những truy tìm cảm giác sau bao thuở lang thang phiêu bạt tận
nơi gốc bể chân trời, thì ở đức Phật được nhận thấy từ sự trầm
lắng hùng hồn của trái tim giàu tình thương và hiểu biết đến tận
cùng sâu thẳm uyên nguyên. Như vậy, từ bản tình ca của bao nhiêu
niềm hoan lạc, trái tim Ngài chuyển hoá thành tiết điệu của bản
hùng ca giải thoát. Vì sao thế? Có lẽ vì Ngài đã xác định:
Ta là một bông hoa
Từ lòng đất nở ra
Mang hương thơm đi khắp
Xông ngát nẽo gần xa.
-Sông Thu-
Hướng Về Một Ánh Quang Minh
Có thể nói chuyến
du
hành ra bốn cửa thành của Thái tử là một dấu mốc lịch sử cho sự
xác định lí tưởng và chí hướng xuất gia cũng như thành đạo sau
này. Đây có thể là chuyến du hành từ bóng tối của những giới vức
vô minh mà đi vào vùng sáng với những thứ quang minh trí tuệ
giác ngộ tuyệt luân.
Thái
tử Siddhattha suy niệm: “Chính
ta phải chịu sanh, già, bịnh, chết, phiền não và ô nhiễm. Tại
sao vẫn mải mê chạy theo những điều mà bản chất cũng còn như
vậy. Vì chịu sanh, lão, bệnh, tử, phiền não và ô nhiễm; ta đã
nhận thức sự bất lợi của những điều ấy. Hay ta thử đi tìm cái
chưa thành đạt, cái tối thượng và tuyệt đối châu toàn là Niết
Bàn.
Đời sống tại gia rất tù túng chật hẹp, là chỗ ẩn náu của bụi
trần ô trược, nhưng đời của người xuất gia quả thật là cảnh trời
mênh mông bát ngát! Người đã quen với nếp sống gia đình ắt thấy
khó mà chịu được đời sống đạo hạnh thiêng liêng với tất cả sự
hoàn hảo và trong sạch của nó.”(Kinh
Trung A Hàm). Đây là cái nhìn bắt đầu mở ra phương hướng cho
hành trình đi tìm nguồn sáng cho thế gian.
Và con đường từ
đây
Ngài vạch rõ: “Ta sẽ dấn
thân trong cát bụi.Trong im lặng của đêm đen, ta đọc thấy thân
phận ta viết bằng chữ bạc của trăng sao! Ta phải đi! Ta sẽ ruồng
bỏ ngôi báu. Ta không muốn chinh phục đất cát bằng lưỡi kiếm
nhọn. Ta không muốn làm một kẻ chinh chiến, tắm bánh xe trong
máu đào của muôn bãi chiến trường để lưu lại cho hậu thế một kỉ
niệm gớm ghê! Ta muốn để chân trinh bạch trên đường chông gai,
lấy đất làm giường, lấy cỏ cây làm áo, kiếm hạt cơm bố thí để
nuôi thân. Tiếng kêu đau thương của thế giới xé rách màng tai,
lòng từ bi của ta chỉ muốn xoá bỏ những cảnh khổ của nhân loại.
Ta phải hi sinh tất cả và phấn đấu cho đến ngày tìm ra được
phương thuốc cứu khổ. Ta tin rằng phương thuốc ấy thế nào cũng
có, nhưng ta tìm chưa ra đấy thôi...Nay ta ra đi, bỏ hết những
lạc thú ở cung điện, mang một tình thương rộng lớn, một thân thể
cường tráng, chưa hề bị tật bệnh tàn phá, một trí tuệ minh mẫn
chưa hề bị dục vọng làm lu mờ, ta tin chắc thế nào cũng tìm ra
được ánh sáng, thấy rõ con đường chánh để đưa chúng sanh đi.”
(Ánh Đạo Vàng).
Rồi cuộc hành trình của Ngài bắt đầu từ bên dòng A-nô-ma nhiều
sóng, tựa như một báo hiệu những phong ba chướng ngại mà Ngài sẽ
phải đối mặt trong chuyến đi này. Hành trình của Ngài đi không
phải được trải sẵn thảm đỏ với hoa tươi cỏ lạ mà luôn phải trực
diện với những cam go thử thách. Chỉ có ý chí quật cường của một
vị anh hùng không bao giờ biết khuất phục trước thế lực cám dỗ
của ác ma mới xác quyết khẳng khái như vầy:
“ Nầy con người xấu xa quỉ
quyệt, thân quyến của tội lỗi và lười biếng! Ngươi đến đây chỉ
vì lợi ích của riêng ngươi…Máu có cạn, mật lại khô, thịt hao
mòn; nhưng tâm ta vẫn thanh tịnh, vẫn sáng suốt và an trụ vững
vàng….Đội quân của ngươi chỉ lưu trú bên trong những hạng người
xấu xa và nhu nhược…Ta thà chết trên chiến trường còn hơn sống
mà chịu thất bại bởi các ngươi.” Đó là lời Ngài đã
tuyên thệ bên dòng Ni-Liên-Thiền khi trực diện trước bao đạo
binh thử thách của Ma Vương.
“Ta như voi xung trận,
hứng chịu nhiều cung tên,
chịu đựng mọi phỉ báng,
Ác giới rất nhiều người.”(Kinh
Pháp Cú 320)
Đây là một tinh
thần
quả cảm cao độ, một ý chí cương quyết như viên ngọc tỏa sáng
lung linh nhiều màu sắc. Trước hết, Ngài từ bỏ ngôi nhà thế gian
không phải vì lợi ích cá nhân mà vì lợi ích và giải thoát sự khổ
đau của nhân loại. Với Ngài, toàn thể nhân loại là một gia đình.
Có chứng kiến được những buổi chia tay đầy lưu luyến, có thực
hiện những chuyến đi thật xa... thì chúng ta càng cảm phục ý chí
cương quyết, quả cảm của Ngài. Trải qua biết bao nhiêu thử thách
như từ cách tu khổ hạnh hành thân cho đến những khi bị các thứ
ác ma nội ngoại quấy phá, cuối cùng Ngài xét thấy: “
Một thân thể tiều tuỵ sẽ không
có một tinh thần minh mẫn, tinh thần minh mẫn chỉ có trong một
thân thể khoẻ mạnh,”. Để tiếp tục cho cuộc chiến
chinh phục mục tiêu giác ngộ, Ngài tiến đến bờ sông
Ni-liên-thiền để tiếp thêm nguồn sống. Và trong nguồn sống đó,
nơi Ngài khởi lên một tia sáng của niềm tin sẽ thành đạo. Từ nơi
làn gió nhẹ thổi đưa những con sóng của dòng sông, ngài thoảng
nghe tiếng vọng của âm ba vang lên nguồn giải thoát: “Hỡi
người con rất anh linh của vũ trụ, đấng vương giả mà xa hoa
không thể ràng buộc, muôn ngàn dục vọng không thể làm mù quáng!
Ngài đã đem ý chí mạnh mẽ như thác đổ, vững chắc như núi đồi, để
thắng vượt những nỗi ràng rịt của xác thịt và nhất là tình cảm.
Ngài đã đem trí tuệ sáng như mặt trời để tìm con đường giải
thoát, Ngài sắp đến đích! Nhanh lên! Còn phải thắng trong một
cuộc chiến đấu cuối cùng, và công đức của Ngài sẽ được trọn vẹn!
Nhanh lên! Bóng tối từ muôn vạn đời của trời đất đang đợi Ngài
rọi ánh sáng vào đây.” Và chính nơi đây, lời nguyện
cuối cùng của ý chí giác ngộ đã được Ngài tuyên thệ: “Dù
máu ta có khô, xương ta có mục, ta cũng sẽ không rời chỗ này,
nếu ta chưa tìm ra được đạo.”
Đây chính là
nhiên liệu để nhen nhóm cho nguồn sáng được bừng toả rạng ngời
trong đêm thành đạo và chiếu đến mãi tận sau này mà chúng ta
cũng đã được triêm hưởng.
Nguồn Sáng Bừng Sinh Khi Bao Tinh Hoa Thánh Hạnh Đã Hội Đủ Sức
Toả Chiếu Lung Linh.
Như vậy đến đây nguồn sáng dường như đã được hội tụ vẹn toàn và
đã đủ nhân duyên toả chiếu.Nguồn sáng mà trong đó hội tụ của
những gì nhỏ nhặn nhất, nhưng lại tinh anh nhất từ nơi muôn ngàn
thế giới của thời gian vô hạn bao la. Và cũng chính từ những
tinh ba nhỏ nhặn này lại là những tia sáng có sức mạnh lan toả
đến tận cùng mà không gì có thể làm trở ngại.
"Vi trần nơi Bạt địa
Kết tụ thành Huyền môn
Nhiếp tâm nhờ Lục diệu
Tuệ chiếu tỏ Càn Khôn".
- Giác Hiệp -
Từ trong bản thể sâu thẳm toả ra một hào quang lan rộng diệu
huyền đến khắp vô biên. Cả sơn hà đại địa và những tinh tú càn
khôn vũ trụ sáng chiếu dịu dàng với những sắc màu tinh khôi lung
linh toả ra từ nguồn vĩnh cữu. Một phương trời được thêu dệt
bằng ánh sáng của hàng ngàn hào quang rực rỡ. Nguồn sáng này là
sự toả chiếu rạng ngời cho hàng ức triệu thế giới vận hành nhịp
nhàng trong vầng sáng uyên viên. Toàn thể không trung chỉ còn là
một bầu sáng ngời vô hạn.
Sự vĩ đại
của nguồn
sáng diệu kì ấy vẫn còn lan
toả và phát tán mãi cho đến ngày nay giống như mặt trời chói
sáng rực rỡ hơn mọi ánh sáng mờ đục của những vật sáng kém khác.
Bóng tối đêm trường bấy lâu nay vây phủ con người bởi si mê lầm
lạc đã bị xua tan, ánh sáng của vầng thái dương xuất hiện để dẫn
lối đưa đường cho tất cả sinh linh đi tìm nguồn sống mới giá trị
hơn.
Chắc không
phải là vô tình mà đức Phật lại hốt nhiên đại ngộ vào lúc sao
mai mới mọc. Phải chăng đó là giây phút đẹp nhất? Giây phút mà
vũ trụ vừa thức tỉnh sau một đêm dài bị bóng tối vây phủ. Giây
phút màu nhiệm mà những hội tụ viên mãn của thứ ánh sáng diệu kì
khi không còn một chỗ ngự trị của thứ bóng tối vô minh vụt bừng
sáng. Cái ánh sáng ấy phát tán ra từ nơi sâu thẳm nhất của sự
đen tối chứ không từ một vùng sáng ở bên ngoài vào.Đấy là giây
phút hiện bày tất cả những uyên nguyên mà từ vô thỉ bị khuất che
u ám bởi bóng ma của si mê lầm lạc. Có lúc Ngài im lặng trước sự
thách đố mà ác ma luôn tuyên chiến với sứ mệnh của Ngài “Này
Thái tử! Ánh sáng của người được bao nhiêu mà dám đem ra soi
đường cho nhân loại?...Người càng tìm ra ánh sáng, chúng ta lại
càng trút thêm bóng tối. Mỗi ngày mỗi ít, chúng ta đã gieo rắc
qua mấy muôn triệu năm rồi những hạt si mê và bây giờ tất cả thế
gian đều ngập lụt”(Ánh Đạo Vàng).Tưởng chừng đây là
sự im lặng của một kẻ đã chấp nhận sự thất bại. Nhưng nào hay sự
im lặng lúc này là cần thiết đối với Ngài nhằm huy động mọi sức
mạnh để tiếp cho nguồn sáng. Đức Phật đã tận dụng được lợi thế
này và chính đó là sự chinh phục ngoạn mục mà ác ma không thể
nào xoay trở và chỉ biết ngoan ngoãn phục tùng. Và thế là điều
kì diệu mà Ngài đã vô cùng mong đợi từ rất lâu và đã phấn đấu
hết khả năng nay đã được thành tựu. “
Bình minh bừng dậy. Ánh sáng
làm mờ hẳn sao mai- kẻ soi đường cho người đi khuya- vừa lại ở
ven đường. Bóng đêm rạn vỡ tan biến rất nhanh.Nắng vàng bắt đầu
xối chảy xuống trần gian. Nắng vàng gội rửa những chóp núi cao,
nắng vàng tuôn tràn ra hai bên sườn, eo chảy xuống chân núi, lan
dần ra trên đồng bằng, khoả một lớp mỏng trên mặt sông, mặt
biển, làm lấp lánh những ánh kim cương trên muôn ngàn làn sóng”(Ánh
Đạo Vàng).
Như vậy,
giây phút mà đức Phật giác ngộ đó, nếu ta nhìn theo cách nhìn
của thi nhân thì đó là giây phút mà đức Phật đã nắm bắt được cái
đẹp thiên thu của vũ trụ chính trong lòng bàn tay của ngài. Đến
đây Ngài có thể điều khiển và chuyển hoá tất cả bằng sức mạnh
nội tâm mà Ngài đã đạt được không hề bị ngăn ngại bất cứ một thứ
gì.
Carl Jung,
một nhà
tâm lý học, phát biểu rằng:
"Bao giờ cái nhìn của bạn
cũng bị giới hạn bởi những gì bạn đang có và đang là."
Nhưng ở Đức Phật chướng ngại của mọi bóng tối vô minh với những
kiến chấp của những phạm trù “đang
có”, “đang là
”kia đều bị xua tan đi mà không còn một chút vết tích hiện hữu.
Đó chính là yếu tố không thể thiếu trong nguồn sáng rạng ngời mà
không bị chướng ngại đã được đức Phật thắp lên cho thế gian này.
Một văn hào
Âu châu
nhận định rằng: "Không có
nơi nào trong thế giới tôn giáo, sùng bái và tín ngưỡng mà chúng
ta có thể tìm thấy một vị giáo chủ sáng ngời như thế ! Trong
hàng loạt các vì sao, ngài là vì tinh tú khổng lồ, vĩ đại nhất.
Một số các khoa học gia, triết gia, các nhà văn hóa đã tuyên bố
về ngài "Con người vĩ đại nhất chưa từng có." Ánh hào quang của
vị Thầy vĩ đại nầy soi sáng cái thế giới đau khổ và tối tăm,
giống như ngọn hải đăng hướng dẫn và soi sáng nhân loại." (Phật
Giáo dưới Mắt các Nhà Trí Thức). Và cái nguồn sáng làm thế gian
phải vô vàn kính phục được xuất hiện như thế:
“Đêm trăng tròn ánh sao mai
vừa điểm
Cây Bồ đề rực rỡ ánh hào quang
Khắp nơi nơi ngào ngạt tỏa thiên hương
Nhạc thành đạo cả bầu trời vang động
Sáu ngã luân hồi vui không xiết kể
Mười phương hướng về chào đón Thế Tôn
Hoa Từ Bi lòng người đều bừng nở.” - Quảng Thiệp-
Đó là sức mạnh của
nguồn
sáng chơn không. Vì là chơn không nên không có gì có thể ngăn
ngại:
“Là chơn
không, rỗng sáng vô biên
Là cõi Tâm vắng lặng diệu huyền”
-Huyền Linh-
Và cứ như
thế, từ ánh
sáng sao mai bừng toả giữa
đêm trường dưới chân dãi
Himalaya, một con đường với ánh
sáng đầy hoa thơm cỏ lạ và
những
điều bí diệu được khai mở.
Nếu trong
giờ phút Đản Sanh của Thái tử Tất-đạt-đa đã xảy ra những sự lạ
khác thường với bao nhiêu kỳ hoa dị thảo trong vườn Lâm-tỳ-ni
khoe sắc đua màu, hương thơm ngào ngạt khắp nơi, chim chóc ríu
rít hoan ca hoà cùng với lòng người rộn rã để cùng đón Đấng cứu
khổ của chúng sanh xuất hiện, thì trong giờ phút Thành Đạo lại
là sự toả sáng chiếu diệu thiêng liêng mầu nhiệm xua tan cảnh
màng đêm u tịch để bừng sinh cả một vũ trụ với hết thảy đều lung
linh mang nét đẹp của chính mình.
Một bản
khải hoàn đã được đức Phật thực hiện thật viên mãn, một vầng
thái dương được bắt đầu toả chiếu mọi tâm linh: “Quả
thật vậy, khi các chân lí phát hiện hiển nhiển trước bậc thánh
nhơn đã có cố gắng và thiền định thì Ngài vững vàng phá tan vây
cánh của Ma Vương cũng như ánh thái dương phá tan đêm tối và rọi
sáng bầu trời.”
Bài học sâu sắc về
việc
chinh phục nội tâm của Đức Phật, có lẽ Hoà thượng K. Sri
Dhammananda cảm nhận trọn vẹn: "Ngài
dạy mỗi người chúng ta con đường có thể chinh phục thế giới
riêng tư của mình – cái thế giới chủ quan
nội tâm trong địa hạt riêng tư của mỗi cá nhân. Bằng một ngôn
ngữ đơn giản, Ngài nói cho chúng ta biết rằng cả cái thế giới
này là ở trong chúng ta và thế giới được chỉ huy bởi tâm thức,
cho tâm thức được huấn luyện và thanh lọc một cách đúng đắn."
Và có thể nói, cái ảnh hưởng lớn nhất và đẹp đẽ nhất của nguồn
ánh sáng kia là toả sáng bao tâm linh nhân loại đang loay hoay
trong những lớp bụi vô minh mịt mù của vòng sanh tử.
Nguồn Sáng Diệu Kì Mang Ánh Huy Hoàng Toả Rạng Bất Diệt Với Muôn
Phương.
Vượt qua vô
tận không gian những bến miền khắt nghiệt của thứ giá băng dục
vọng và những cánh đồng hoang vu của những kiến thủ lạc lầm, đức
Phật là tiêu biểu tuyệt vời của sức mạnh trí tuệ và tình yêu với
tinh thần vô uý mang cho khắp nhân gian . Sự thành đạo và giáo
thuyết của Ngài không những đã tác động không nhỏ cho sự hoàn mỹ
một thế giới bên ngoài, mà còn âm thầm ngấm ngầm mạnh mẽ vào tận
sâu thẳm tâm tánh huyền diệu của muôn ngàn thế hệ chúng sanh để
chuyển hoá. Cùng với vô biên thời gian vẫn vang vọng mãi khúc
nhạc tấu thanh tao đi vào nguồn sống mênh mông của Á Châu với
muôn sắc màu huyền diệu.
“Ôi! những vì sao như mắt ai
Từ vô lượng kiếp
Đón chờ một bình minh …
Phía trời Đông
Ánh sao Mai xuất hiện
Từ đường chân trời lấp lánh nói cùng ai
Ánh quang minh
Tràn ngập thế gian này
Không như mặt trời
Chỉ soi sáng một nửa thời gian.
Một nửa kia là bóng đêm ngự trị
Không như đóa hoa
Bừng hương sắc
Và tàn lụi.
Nụ cười Cồ Đàm từ trí giác vô biên.
Đêm bình an cho ba ngàn thế giới
Đêm vời vợi
Ai về tắm gội hồng ân.”- Thích Nữ Giới Hương -
Trong
kinh
Kutadanta xưng tụng đức Phật: “Thật
vi diệu thay tôn giả Cồ Đàm! Như người dựng đứng lại những gì bị
quăng ngã xuống, phơi bày ra những gì bị che kín, chỉ đường cho
kẻ lạc hướng, đem đèn sáng vào trong bóng tối để những ai có mắt
có thể nhìn thấy được sắc.” (Trung
Bộ Kinh).
Để rồi, từ
những căn nhà nghèo khổ tăm tối nhất của tiện nhân ẩn mình tận
trong chốn hoang vu sâu thẳm của núi rừng mê vọng, Ngài vì sự
thống khổ của muôn loài mà xây dựng những cung điện nguy nga
tráng lệ của tâm thức tỏ ngộ nguồn chơn. Đôi mắt sâu thẳm của
Ngài luôn mãi nhìn vào tận xa xăm những cảnh giới đen tối mà
nuôi dưỡng tình thương và đi vào trao cho nguồn sáng diệu kì.
“Này các Tỳ Kheo! Các Thầy hãy ra đi để mang lại sự tốt đẹp cho
nhiều người, mang lại hạnh phúc cho nhiều người. Vì lòng từ bi
hãy đem lại sự tốt đẹp và hạnh phúc cho chư Thiên và nhơn loại…
Hãy phất lên ngọn cờ của bậc thiện trí. Hãy truyền dạy giáo pháp
cao siêu. Hãy mang lại sự tốt đẹp cho người khác. Được vậy thì
hạnh nguyện của các Thầy đã hoàn mãn.”(Tương Ưng Bộ Kinh)
Và như
thế,
từ thuở pháp âm giải thoát vang lên nơi vườn Lộc Uyển, Núi Linh
Thứu, Tịnh Xá Kỳ Viên cho đến các cung điện nguy nga của cảnh
Thiên chúng,...và cuối cùng dưới bóng mát của rừng Sa La song
thọ sau hơn 2550 năm trước đã được xiễn dương khắp mọi phương xứ
và cứ thế mà tiếp tục vang vọng mãi đến khôn cùng.
“Ta đi mãi giữa rừng nhiều lá chết
Tiếp chồi xanh và thú dữ, hoang tàn
Những cảnh sống thâm u và cô độc
Những mảnh đời trần tục khác thế gian
Những thác loạn
Màu đen và vực thẳm
Những hố sâu vô đáy thiếu trăng vàng…
… Ðể gội nhuần và độ
khắp nhân gian
…”
-Như Tạng-
Hiểu về cuộc
hành
trình vi diệu của Đức Phật để chúng ta xác định được hoạt dụng
đa phương của ý nghĩa viễn ly mang tính xuất trần để đi tìm
những giá trị giải thoát. Ý nghĩa ấy là ánh sáng mặt trời xua
tan những vầng mây chấp thủ, làm nóng chảy những tảng băng tham
luyến về sắc chất thế nhân.
Tiếp nhận
cuộc
hành trình vi diệu của Đức Phật để chúng ta hòa nhập vào đại thể
bao la của biển lớn tỉnh thức. Đó là sự kết tinh của muôn ngàn
hương hoa Bi – Trí – Dũng tỏa ngát muôn phương. Hương thơm vi
diệu ấy được tiếp nối và truyền thừa trong mạch sống của sứ mệnh
Tăng già về sau, theo dấu chân và mang hạnh nguyện Ngài mà đi
vào khắp tận cùng mọi xứ sở để trấn tĩnh và làm lắng đọng tâm tư
những trái tim hiếu chiến và thấm nhuần hương đức hiếu sinh.
Tinh thần ấy được thể hiện trọn vẹn trong bài kệ khất sĩ:
“Nhứt bát thiên gia phạn,
Cô thân
vạn
lí du,
Kì vị sanh
tử sự,
Giáo hoá
độ
xuân thu.”
Bậc đạo sư vĩ đại
tuy đã nhập
diệt, song thông điệp về tình thương và trí tuệ của Ngài vẫn còn
hiện hữu trong hình thức thuần khiết bất diệt tinh khôi. Thông
điệp này vẫn có ảnh hưởng quan trọng đối với vận mệnh của nhân
loại. Ngài là bậc thầy từ bi nhất đã làm toả sáng thế gian này
bằng tình thương và lòng nhân từ.
Mong sao đêm
Thành
đạo này dưới ánh sáng lấp lánh lung linh của
ngàn sao chiếu sáng trên trời, dưới ánh nến cháy đỏ thiêng liêng
bất diệt của hàng ngàn trái tim đang toả sáng bên cội Bồ đề, cầu
nguyện cho tất cả hữu tình và vô tình trên khắp thế giới đều
được đượm nhuần hồng ân ánh sáng giác ngộ của Ngài.
Linh Sơn Pháp Bảo- Cuối Thu- PL 2551-
THÍCH TÂM
TÔN