- Xuất Xứ Trực Tiếp Của Bồ
Tát Giới Phạn Võng
Bấy giờ đức Thích ca mâu ni từ
Hoa tạng thế giới mà khởi đầu ngài đãhiện ra ở đó, hướng
về phía đông, đi vào cung thiên vương, nói xong kinh Ma vương chịu
giáo hóa, rồi hạ sinh ở nước Ca di la thuộc châu Diêm phù, mẹ
là hoàng hậu Ma da, cha là hoàng đế Bạch tịnh, " Như lai tên Tất
đạt, bảy nãm xuất gia, thành đạo lúc ba mươi tuổi, danh hiệu Thích
ca mâu ni, đầu ti? ngồi Kim cang tòa đầy bông hoa ánh sáng tại Tịch
diệt tràng, cuối cùng đến cung Đại tự tại thi? vương, tuần tự
thuyết pháp cả mười chỗ". Trong khi thuyết pháp tại cung Đại
tự tại thi? vương, đức Thích ca mâu ni nhìn tràng lưới của các
Đại phạn thiên vương, nhân đó nói với họ, rằng vô lượng thế
giới in như mắt lưới, mỗi mỗi khác nhau, vô cùng vô tận ; pháp
môn đức Lô xá na dạy cũng y như vậy. Như lai nay đến thế giới
này đãtám ngàn lần, vì cả thế giới Sa bà mà ngồi Kim cang tòa
đầy bông hoa ánh sáng, nói về mười biển cả thế giới, cho đến
đến cung Đại tự tại thi? vương này, tóm tắt khai thị hoàn tất
phẩm Pháp môn tâm địa cho đại chúng ở đây.
Rồi từ cung thiên vương ấy, Như lai
trở xuống, ngồi dưới cây bồ đề của châu Diêm phù, vì hết
thảy chúng sinh phàm phu mê ám trên đất này, nói lại giới pháp
duy nhất mà đức bản thân Lô xá na của Như lai đãnói trong phẩm
Pháp môn tâm địa của ngài, giới pháp mà từ khi mới phát tâm
ngài đã thường tụng. Giới pháp ấy như ngọc kim cang sáng chói,
và là bản nguyên của chư Phật, của Bồ tát, là hạt giống Phật
tánh. Hết thảy chúng sinh đều có Phật tánh, nên toàn bộ thân
tâm của chúng sinh, thân ấy tâm ấy đều nhập vào trong giới pháp
Phật tánh, và đương nhiên có cái nhân như vậy thì đương nhiên
thực hiện pháp thân thường trú. Về mười Ba la đề mộc xoa mà
Như lai sẽ nói lại như sau đây, khi xuất hiện ở thế giới này,
thì đó chính là giới pháp của Phật pháp, là giới pháp mà hết
thảy chúng sinh trong quá khứ vị lai và hiện tại nên kính phụng thọ
trì. Như lai sắp sửa vì cả đại chúng ở đây mà trùng tuyên
phần Giới pháp vô tận - giới pháp của hết thảy chúng sinh, bản
nguyên là tự tánh thanh tịnh.
Xuất Xứ Của Bồ Tát Giới Phạn
Võng Bằng Văn Chỉnh Cú
- Như lai Lô xá na
- an tọa Liên hoa đài
- xung quanh Liên hoa đài
- có cả một ngàn cánh.
- Trên ngàn cánh hoa ấy
- Như lai hiện ngàn Phật,
- tất cả đồng một hiệu
- hiệu Thích ca thế tôn.
- Mỗi cánh hoa nói trên
- có trãm ức thế giới,
- mỗi thế giới lại có
- một đức Thích ca nữa;
- các đức Thích ca này
- cùng trong một thì gian
- ngồi dưới bồ đề thọ
- thành tựu vô thượng giác.
- Ngàn và ngàn trăm ức
- đức Thích ca nói tr?,
- toàn thể chỉ là một
- bản thân Lô xá na.
- Một ngàn lần trăm ức
- đức Thích ca như vậy
- cùng tiếp dẫn đại chúng
- số lượng như vi trần,
- tất cả đều đưa đến
- chỗ Như lai an tọa,
- để nghe Như lai tụng
- giới pháp của chư Phật.
- Như lai tụng hoàn tất
- giới pháp của chư Phật
- là cửa ngõ Cam lộ
- tức thì được khai mở.
- Bấy giờ ngàn trăm ức
- đức Thích ca thế tôn
- về lại bồ đề tràng
- ngồi dưới bồ đề thọ,
- cùng tụng lại giới pháp
- của đức Phật bản thân,
- gồm có mười giới nặng
- và bốn tám giới nhẹ.
- Giới pháp ấy in như
- vầng thái dương sáng chói
- ánh trãng rằm quang rạng
- và chuỗi ngọc quí báu;
- hết thảy các Bồ tát
- nhiều như số vi trần,
- đều do giới pháp này
- mà thành Đẳng chánh giác.
- Giới pháp đức bản thân
- Lô xá na đãtụng,
- Như lai cũng tụng lại
- hoàn toàn y như vậy.
- Nên tất cả các người -
- Bồ tát mới tu học,
- hãy hết lòng tôn kính
- thọ trì giới pháp ấy.
- Các người đãthọ trì
- giới pháp như vậy rồi,
- lại đem giới pháp ấy
- chuyền trao cho chúng sinh.
- Vậy tất cả các người
- hãy chú ý lắng nghe
- Như lai tụng chính xác
- giới tạng trong Phật pháp.
- Giới tạng ấy chính là
- Ba la đề mộc xoa,
- nên hết thảy đại chúng
- chí tâm mà thâm tín ;
- thâm tín rằng chính mình
- là đức Phật sẽ thành,
- y như Như lai đây
- là đức Phật đãthành,
- thường thâm tín như vậy
- giới pháp đãđầy đủ.
- Bất cứ là loài nào
- hễ vốn có tâm tánh,
- thì đều nên lãnh thọ
- giới pháp của chư Phật.
- Chúng sinh mà lãnh thọ
- giới pháp của chư Phật,
- thì kẻ ấy tức thì
- nhập vào cương vị Phật;
- cương vị đãđồng thể
- với chư Phật đại giác,
- thì người ấy đích thực
- là con của chư Phật.
- Vậy tất cả đại chúng
- cung kính mà lắng nghe
- Như lai sẽ tụng lại
- giới pháp của chư Phật.
Qui Định Mấy Điều Cốt Yếu Về Bồ
Tát Giới Phạn V?g
Bấy giờ đức Thích ca mâu ni ngồi
dưới cây bồ đề, thành tựu tuệ giác vô thượng rồi, bắt đầu
qui định về Bồ tát giới, rằng sự hiếu thuận đối với cha mẹ,
đại sư, chư tãng, đối với Tam bảo - sự hiếu thuận ph?hợp
chánh pháp chí thượng, sự hiếu thuận ấy gọi là giới, cũng gọi
là năng lực chế ngự đình chỉ mọi sự tội lỗi. Đức Thế tôn
liền từ miệng vàng phóng ra ánh sáng vô lượng. Lúc ấy đại
chúng có đến trãm vạn ức, các vị Bồ tát, các vị Phạn thi?
trong mười tám tầng trời cõi Sắc, các vị thiên nhân trong sáu
tầng trời cõi Dục, các vị quốc vương của mười sáu nước
cường đại, đều chắp tay, khuynh tận tâm trí, lắng nghe đức Thế
tôn tụng lại giới pháp đại thừa của hết thảy chư Phật.
Đức Thế tôn dạy các vị Bồ tát,
nay Như lai cứ nửa tháng nửa tháng đích thân tụng lại giới pháp
của Phật pháp. Các người, những vị Bồ tát mới phát tâm, cho
đến những vị Bồ tát mười phát thú mười trưởng dưỡng
mười kim cang và mười địa, cũng phải tụng y như vậy. Vì lý do ấy
mà ánh sáng giới pháp từ miệng Như lai tuôn ra. Ánh sáng ấy có
lý do chứ không phải không có. Nhưng ánh sáng ấy không phải xanh
vàng đỏ trắng đen, không phải vật lý tâm lý, không phải khái
niệm có không, không phải tính cách nhân quả; mà là bản nguyên
của chư Phật, là căn bản của Bồ tát, cãn bản của chính đại
chúng Phật tử các người. Vì vậy, đại chúng Phật tử các
người phải thọ trì, phải đọc tụng, phải khéo học.
Phật tử, lắng nghe cho ky? Muốn lãnh
thọ giới pháp của chư Phật thì không cứ quốc vương, vương tử,
tể tướng, bách quan, tỷ kheo, tỷ kheo ni, phạn thiên mười tám tầng
trời cõi Sắc, thiên nhân sáu tầng trời cõi Dục, tất cả dân
chúng, những kẻ hoàng môn, dâm nam dâm nữ, nô bộc tỳ thiếp, quỉ
thần trong tám bộ, thần Kim cang, súc sinh, cho đến những kẻ biến
hóa, hễ ai hiểu được tiếng nói của vị pháp sư truyền giới, thì
đều có thể thọ giới và được giới - đều có thể trở thành
người thanh tịnh bậc nhất.
10 Giới Nặng Của Bồ Tát Giới
Phạn Võng
Đức Thế tôn dạy, các Phật tử,
giới pháp nặng có mười điều. Nếu thọ Bồ tát giới mà không
tụng mười giới pháp nặng ấy thì không phải Bồ tát, không phải
hạt giống làm Phật. Vì chính Như lai cũng tụng như vậy, hết thảy
Bồ tát thì đã học sẽ học và đang học. Và như vậy là Như lai
đã vắn tắt nói đến tướng mạo Bồ tát giới. Các người phải
học, kính cẩn mà phụng trì.
(1. không được tàn sát)
Phật tử nếu tự mình tàn sát,
bảo người tàn sát, tàn sát bằng phương tiện, bằng cách tán
dương sự tàn sát, bằng sự tán đồng khi thấy kẻ khác tàn sát,
cho đến tàn sát bằng chú thuật - tàn sát với nguyên nhân, trợ
duyên, phương pháp và động tác của sự tàn sát; nhưng, đối với
bất cứ loài nào, hễ có sinh mạng thì không được cố ý tàn
sát. Là Bồ tát thì phải phát khởi lòng từ bi và lòng hiếu
thuận thường trú, phương tiện cứu giúp và che chở cho hết thảy
mọi loài sinh vật, vậy mà đảo ngược lại, mặc sức khoái ý mà
tàn sát, thì đó là tội ba la di của Bồ tát.
(2. không được trộm cướp)
Phật tử nếu tự mình trộm cướp,
bảo người trộm cướp, trộm cướp bằng phương tiện, bằng chú
thuật - trộm cướp với nguyên nhân, trợ duyên, phương pháp và
động tác của sự trộm cướp; nhưng, cho đến tài vật quỉ thần,
tài vật có chủ, tài vật đạo tặc, tài vật công cộng, dẫu bằng
cây kim ngọn cỏ mà thôi, cũng không được cố ý trộm cướp. Là
Bồ tát thì phải phát sinh tâm hiếu thuận và tâm từ bi của Phật
tánh, thường xuyên giúp người làm phước đức và được yên
vui, vậy mà đảo ngược lại, đãkhông làm như trên mà còn trộm
cướp tài vật của người, thì đó là tội ba la di của Bồ tát.
(3. không được dâm dục)
Phật tử nếu tự mình dâm dục,
bảo người dâm dục; nhưng, đối với bất cứ nữ nhân nào, cho
đến giống cái trong súc vật, phái nữ trong chư thiên và quỉ thần,
hoặc những chỗ không phải bộ phận sinh thực, đều không được
cố ý dâm dục - dâm dục với nguyên nhân, trợ duyên, phương pháp
và động tác của sự dâm dục. Là Bồ tát thì phải sinh tâm hiếu
thuận, cứu độ tất cả, bằng cách đem pháp thanh tịnh mà cho
người, vậy mà đảo ngược lại, đãkhông làm như trên mà còn
nổi dậy sự dâm dục đối với mọi người, không chừa cả súc
vật, đến nỗi đối với mẹ, con gái, chị, em gái, bà con nội ngoại,
cũng hành dâm cả, không còn gì gọi là lòng từ bi, thì đó là
tội ba la di của Bồ tát.
(4. không được vọng ngữ)
Phật tử nếu tự mình vọng ngữ,
bảo người vọng ngữ, vọng ngữ bằng phương tiện - vọng ngữ với
nguyên nhân, trợ duyên, phương pháp và động tác của sự vọng
ngữ, cho đến không thấy nói thấy, thấy nói không thấy, vọng ngữ
cả thân thể lẫn tâm trí ; nhưng Bồ tát thì phải thường tự phát
sinh ngôn ngữ chân chính và kiến thức chân chính, lại phát sinh cho
người hai thứ ngôn ngữ chân chính và kiến thức chân chính ấy,
vậy mà đảo ngược lại, đãkhông làm như trên mà còn làm nổi
dậy nơi mọi người những thứ ngôn ngữ bất chính, kiến thức
bất chính và hành động bất chính thì đó là tội ba la di của Bồ
tát.
(5. không được buôn rượu)
Phật tử nếu tự mình buôn rượu,
bảo người buôn rượu - buôn rượu với nguyên nhân, trợ duyên,
phương pháp và động tác của sự buôn rượu; nhưng hết thảy loại
rượu đều không được mua bán, vì lẽ rượu là yếu tố gây ra
mọi thứ tội lỗi. Là Bồ tát thì phải phát sinh cho chúng sinh cái
tuệ minh đạt, vậy mà đảo ngược lại, đãkhông làm như trên mà
còn phát sinh cho người cái tâm thác loạn, thì đó là tội ba la di
của Bồ tát.
(6. không được nói xấu đồng
đạo)
Phật tử nếu tự mình nói xấu
những sự lầm lỡ của những người xuất gia tại gia thọ Bồ tát
giới, hay của các vị tỷ kheo, tỷ kheo ni, lại bảo người khác nói
xấu - nói xấu với nguyên nhân, trợ duyên, phương pháp và động
tác của sự nói xấu ; nhưng Bồ tát nghe những kẻ ác tâm trong
hàng ngũ ngoại đạo và nhị thừa công kích sự phi giáo pháp và
phi giới luật trong tổ chức Phật giáo, thì thường sinh tâm từ bi,
giáo hóa những kẻ ác tâm ấy, làm cho họ có được đức tin
đại thừa, vậy mà đảo ngược lại, đãkhông làm như trên mà
còn tự mình nói xấu những sự lầm lỡ trong tổ chức Phật giáo,
thì đó là tội ba la di của Bồ tát.
(7. không được khen mình chê
người)
Phật tử nếu tự tán dương mình
mà phỉ báng người khác, lại bảo kẻ khác phỉ báng - phỉ báng
với nguyên nhân, trợ duyên, phương pháp và động tác của sự
phỉ báng; nhưng Bồ tát thì phải thay thế hết thảy chúng sinh mà chịu
lấy bao nhiêu sự phỉ báng và tủi nhục, việc xấu thì xoay về nơi
mình, việc tốt thì đừa cho người khác, vậy mà đảo ngược lại,
tự khoe cái hay của mình, dấu cái tốt của người, làm cho họ phải
chịu mọi sự phỉ báng, thì đó là tội ba la di của Bồ tát.
(8. không được tiếc lẫn tài pháp)
Phật tử nếu tự mình tiếc lẫn,
bảo người tiếc lẫn - tiếc lẫn với nguyên nhân, trợ duyên,
phương pháp và động tác của sự tiếc lẫn; nhưng Bồ tát thì bất
cứ người nghèo thiếu nào đến cầu xin, cũng phải tùy nhu cầu
của họ mà cung cấp những thứ mình có, vậy mà đảo ngược lại,
vì tâm địa không tốt, tâm lý hờn giận, nên đến nỗi một đồng
tiền, một cây kim, một ngọn cỏ cũng không cho ai; có ai đến cầu xin
Phật pháp, đãkhông nói cho họ được một câu đủ nghĩa, một bài
chỉnh cú, một chút bằng hạt bụi, lại còn nhục mạ họ nữa, thì
đó là tội ba la di của Bồ tát.
(9. không được giận dữ không
nguôi)
Phật tử nếu tự mình giận dữ,
bảo người giận dữ - giận dữ với nguyên nhân, trợ duyên,
phương pháp và động tác của sự giận dữ; nhưng Bồ tát thì phải
phát sinh cho người mọi thứ thiện căn, nhất là đức tính hòa
bình, thường phát sinh nơi mình tâm từ bi và tâm hiếu thuận, vậy
mà đảo ngược lại, đãkhông làm như trên mà, đối với chúng
sinh, thậm chí đối với phi chúng sinh, cịn nhục mạ bằng miệng tiếng
độc dữ, da th? sự đánh đập bằng tay chân và khí cụ, lòng vẫn
chưa nguôi,người ta cầu xin sám hối, tạ tội bằng ngôn ngữ khả
ái, cũng vẫn giận dữ không thôi, thì đó là tội ba la di của Bồ
tát.
(10. không được phỉ báng Tam bảo)
Phật tử nếu tự mình phỉ báng Tam
bảo, bảo người phỉ báng - phỉ báng với nguyên nhân, trợ duyên,
phương pháp và động tác của sự phỉ báng; nhưng Bồ tát nghe cái
tiếng của những kẻ ngoại đạo hay những người ác tâm buông một
lời phỉ báng đến Phật thì đãthấy như tim mình bị ba trăm mũi
nhọn đâm vào, huống chi chính miệng mình phỉ báng; đã không phát
sinh sự tín ngưỡng và lòng hiếu thuận cho mọi người mà còn
đảo ngược lại, giúp thêm vào sự phỉ báng của những kẻ ác
tâm, những người tà kiến, thì đó là tội ba la di của Bồ tát.
Các nhân giả khéo học, như thế
đó là mười giới pháp nặng của Bồ tát, các nhân giả phải
học. Trong đó nhất nhất không được phạm vào bằng một hạt bụi,
huống chi phạm đủ cả mười giới pháp. Ai phạm thì người đó
thân hiện tại không thể phát bồ đề tâm, phẩm vị quốc vương và
luân vương đãmất, lại mất phẩm vị tỷ kheo tỷ kheo ni, mất các Bồ
tát vị mười phát thú mười trưởng dưỡng mười kim cang và
mười địa, bao nhiêu thành quả vi diệu và thường trú của Phật
tánh cũng mất tất cả, sa vào ba đường dữ, đến nỗi hai kiếp ba
kiếp không nghe được cái tiếng Cha mẹ hay danh hiệu Phật pháp tãng.
Vì lẽ ấy, nhất nhất không nên phạm. Bồ tát các người đang học
bây giờ, sẽ học về sau, đãhọc trong quá khứ, đối với mười
giới pháp nặng như vậy phải cung kính phụng trì, như Như lai sẽ nói
rộng rãi trong phẩm Tám vạn uy nghi.
48 Giới Nhẹ Của Bồ Tát Giới Phạn
Võng
Đức Thế tôn dạy các vị Bồ tát,
Như lai đãnói mười giới pháp nặng rồi, bốn mươi tám giới
pháp nhẹ bây giờ Như lai sẽ nói.
(1. không được bất kính thầy bạn)
Phật tử nếu sắp nhận địa vị quốc
vương, địa vị luân vương, địa vị bách quan, thì trước đó phải
l?h thọ Bồ tát giới. Những người như vậy sẽ được quỉ thần
hộ trì, được chư Phật hoan hỉ. L?h thọ Bồ tát giới rồi, phải
sinh tâm hiếu thuận và tâm tôn kính ; khi thấy các vị thượng tọa,
hòa thượng, xà lê, các vị đại đức, thấy các người c?g một
sở học, cùng một kiến giải, cùng một sở hành, thì hãy đứng
lên, đón tiếp, thi lễ, hỏi han. Là Bồ tát mà đảo ngược lại,
sinh tâm kiêu ngạo, tâm khinh lờn, tâm ngoan cố, tâm giận dữ,
không chịu đứng l?, đón tiếp, thi lễ, hỏi han, mọi sự nhu cầu
cũng không cung phụng đúng với chánh pháp; trong khi lẽ đáng n? hy
sinh cả bản thân, địa vị, con cái, của báu và tài vật linh tinh mà
hiến cúng các ngài. Nếu không làm như vậy thì phạm tội kinh cấu.
(2. không được uống các thứ
rượu)
Phật tử nếu cố ý uống rượu,
mà rượu thì dẫn ra vô số lầm lỗi; tự tay mình trao rượu cho
người khác uống mà năm trãm đời kiếp cánh tay không có, huống
chi chính mình tự uống. Cũng không được chỉ bảo cho mọi người
uống rượu hay luyện tập cho các sinh vật khác uống, huống chi chính
mình uống lấy. Nên bất cứ rượu gì cũng không được uống. Nếu
cố ý tự uống hay bảo người khác uống thì phạm tội khinh cấu.
(3. không được ãn các thứ thịt)
Phật tử nếu cố ý ãn thịt, nhưng
thịt nào cũng không được ãn. Ãn thịt thì hỏng mất hạt giống
Phật tánh vốn rất từ bi, mọi loài sinh vật thấy thì bỏ chạy. Vì
lý do ấy, tất cả Bồ tát không được ãn d?g bất cứ thứ thịt
gì của sinh vật nào. Ăn thịt thì tội lỗi vô lượng. Nếu cố ý
ãn thì phạm tội khinh cấu.
(4. không được ãn đồ cay nồng)
Phật tử thì không được ãn nãm
loại cay nồng là tỏi, kiệu, hành, nén, hẹ. Năm loại ấy, trong bất
cứ thức ãn nào cũng không được ãn. Nếu cố ý ãn thì phạm
tội khinh cấu.
(5. không được không khuy? sám
hối)
Phật tử nếu thấy ai phạm tám
giới, nãm giới, mười giới, các giới khác, bảy tội nghịch, và
những tội ác bị tám tai nạn, thấy tất cả tội phạm giới như vậy
đều phải khuy? và chỉ cho họ cách thức sám hối. Là Bồ tát mà
không khuyên và chỉ cho họ cách thức sám hối, lại cùng họ cư
trú, cùng họ nhận đồ hiến cúng, cùng họ bố tát và đồng chúng
thuyết giới mà không cử tội để khuyên và chỉ cách cho họ sám
hối, thì phạm tội khinh cấu.
(6. không được không cầu chánh
pháp)
Phật tử nếu thấy các vị pháp sư
đại thừa, các vị c?g học cùng hiểu và cùng làm về đại thừa,
đến tãng phường, đến nhà cửa, thành thị, thôn ấp của mình, và
dẫu ở xa cách trăm dặm ngàn dặm mà đến đi nữa, cũng tức thì
đứng l?, đón rước, tiễn đưa, kính lạy, hiến cúng. Mỗi ngày
hiến cúng ba lần, và giả sử tốn đến vài ba lạng vàng đi nữa,
hết thảy đồ uống, đồ ãn, đồ nằm, đồ ngồi, đồ mặc, thầy
thuốc, thuốc, đều cung đốn cho vị pháp sư. Mọi sự nhu cầu của vị
ấy cung phụng đủ cả. Mỗi ngày ba lần, phải thường thỉnh cầu vị
pháp sư thuyết pháp cho. Mỗi ngày kính lạy ba lần mà vẫn không nổi
dậy trong lòng sự giận dữ, phiền bực. Vì pháp mà mất mạng đi
nữa cũng vẫn cầu pháp không chán. Nếu không như vậy thì phạm
tội khinh cấu.
(7. không được không đi nghe pháp)
Phật tử thì bất cứ chỗ nào có
diễn giải kinh luật nói về giới pháp, chỗ ấy dầu là nhà to cửa
lớn mà có đặt chỗ diễn giảng, các vị Bồ tát mới học cũng
phải đem kinh luật đến mà lắng nghe, tiếp nhận và thưa hỏi nơi vị
pháp sư. Trong núi rừng, dưới đại thọ, nơi tãng địa, trong tãng
phường, bất cứ chỗ nào có giảng thuyết giới pháp thì càng
đến để lắng nghe, tiếp nhận. Nếu không đến thì phạm tội khinh
cấu.
(8. không được phản đại thừa
giới)
Phật tử nếu có tư tưởng phản
bội kinh luật thường trú của đại thừa, cho rằng kinh luật ấy
không do Như lai tuyên thuyết, và đảo ngược lại, thọ trì những
kinh luật của nhị thừa thanh văn và ngoại đạo ác kiến mà nội dung
gồm có giới pháp và lý thuyết phủ nhận Phật tánh, thì phạm tội
khinh cấu.
(9. không được không giúp bịnh
tật)
Phật tử nếu thấy bất cứ người
bịnh tật nào cũng phải giúp đỡ thường xuyên y như phụng sự
Phật đà. Bởi lẽ trong tám đám ruộng sinh trưởng phước đức,
sự chãm sóc bịnh tật là đám ruộng tốt nhất. Nếu cha mẹ, đại
sư, chư tãng, hay đệ tử bị bịnh tật, bị thiếu các bộ phận nơi cơ
thể, bị hàng trăm thứ bịnh dày vò, thì mình phải chăm nuôi cho
lành mạnh. Là Bồ tát mà vì tâm lý tàn nhẫn, tâm lý giận ghét,
nên không chăm sóc bịnh tật cho người, đến nỗi nơi tãng phường,
nơi thành thị, thôn ấp, nơi hoang dã, núi rừng, nơi đường sá,
thấy bịnh nhân cũng không cứu giúp, thì phạm tội khinh cấu.
(10. không được tàng trữ khí cụ)
Phật tử thì không được tàng
trữ dao, gậy, cung, tên, giáo, mác, và những khí giới chiến đấu
khác. Bao nhiêu dụng cụ để bẫy lưới sãn bắn, sát hại sinh vật,
cũng không được tàng trữ. Là Bồ tát thì đến nỗi kẻ giết cha
mẹ mình, mình cũng không giết lại để báo thù, huống chi đối với
người khác và vật khác. Nên không được tàng trữ khí giới
và dụng cụ tàn sát. Nếu cố ý tàng trữ thì phạm tội khinh cấu.
Mười giới pháp nhẹ như vậy các
người phải học, phải cung kính phụng trì, như trong sáu phẩm sau Như
lai sẽ nói rõ.
(11. không được làm kẻ quốc tặc)
Phật tử thì không được vì lợi
lộc hay vì ác ý, làm sứ thần cho quốc gia mà liên minh quân sự,
động binh đánh nhau, tàn hại vô số sinh mạng. Là Bồ tát thì sự
qua lại trong quân binh còn không được có, huống chi cố ý làm tên
quốc tặc. Nếu cố ý làm thì phạm tội khinh cấu.
(12. không được buôn bán tàn
nhẫn)
Phật tử nếu cố ý buôn bán lương
dân, buôn bán nô bộc tỳ thiếp, buôn bán súc vật, buôn bán quan
quách và những dụng cụ tẩn liệm; nhưng mọi sự buôn bán ấy
chính mình còn không được làm, huống chi chỉ bảo người khác. Nếu
cố ý tự làm hay chỉ bảo người khác thì phạm tội khinh cấu.
(13. không được phỉ báng không
thật)
Phật tử nếu vì tâm địa độc ác
mà, một cách không có sự thật, phỉ báng những người hiền
lương, những vị thiện đức, những bậc pháp sư, đại sư hịa
thượng, đại sư xà lê, quốc chúa, quí nhân, rằng phạm bảy tội
nghịch, mười giới nặng ... Nhưng, đối với những người nên coi
như cha mẹ chú bác anh em trong hàng lục thân ấy, mình phải phát sinh
tâm hiếu thuận, tâm từ bi, vậy mà đảo ngược lại, đãkhông
làm như trên, lại còn gia thêm sự trái ý, sự tổn thương, khiến
họ hãm vào tình trạng khổ tâm, thì phạm tội khinh cấu.
(14. không được cố ý thi? đốt)
Phật tử nếu vì tâm địa tàn ác
mà phóng lửa lớn, đốt cháy núi rừng, đồng nội; tháng tư đến
tháng chín cũng phóng lửa; phóng lửa đến nỗi có thể cháy lan
đến cả nhà cửa, phòng ốc, thành thị, thôn ấp, tăng phường,
ruộng vườn và cây cối của người, cháy lan đến vật quỉ thần,
vật công hữu. Nhưng hết thảy đều là vật có chủ, không được
cố ý thi? đốt. Nếu cố ý thi? đốt thì phạm tội khinh cấu.
(15. không được chỉ dạy sai lệch)
Phật tử thì với những người
cùng là Phật tử như mình, với ngoại đạo, với kẻ ác, với bà
con, với những người quen biết tốt, với ai cũng hướng dẫn cho
họ thọ trì kinh luật đại thừa, hướng dẫn cho họ lý giải được
nghĩa ý của kinh luật ấy, làm cho họ phát bồ đề tâm; mười tâm
phát thú, mười tâm trưởng dưỡng, mười tâm kim cang, ba mươi
tâm ấy nhất nhất hướng dẫn cho họ hiểu rõ pháp dụng thứ tự.
Nếu là Bồ tát mà vì tâm lý xấu xa, tâm lý hiềm ghét, một cách
rất vô lý chỉ dạy cho người kinh luật của nhị thừa thanh văn và
học thuyết của ngoại đạo tà kiến thì phạm tội khinh cấu.
(16. không được nói pháp rối
loạn)
Phật tử thì bằng tâm nguyện tốt
đẹp, trước tiên học tập uy nghi và giới pháp của kinh luật đại
thừa, lý giải một cách sâu rộng nghĩa lý và ý vị của uy nghi và
giới pháp ấy. Rồi thấy các vị Bồ tát mới học mà có người
từ trăm dặm ngàn dặm đến cầu học kinh luật đại thừa, thì phải
nói cho họ, một cách đúng như chánh pháp, về những khổ hạnh như
thi? đốt thân phần, cánh tay, ngón tay. Nếu thấy họ tỏ ý e ngại
sự thi? đốt ấy, mặc d?đãđược bảo là thiêu đốt để hiến
l? chư Phật đi nữa, thì biết không phải là Bồ tát xuất gia; Bồ
tát xuất gia thì dẫu đến hổ lang, sư tử và quỉ thần đang đói,
cũng n? xả thịt hay tay chân của mình mà cung cấp. Sau khi nói những
pháp khổ hạnh rồi, nhất nhất tuần tự nói cho họ về giới pháp
chính yếu, làm cho tâm của họ mở rộng, ý của họ giải tỏa. Nếu
là Bồ tát mà vì ý niệm lợi lộc nên điều đáng giải đáp
không giải đáp, nói một cách rối loạn vãn nghĩa của kinh luật
đại thừa, không có thứ tự trước sau, nói tóm, nói một cách
phỉ báng Tam bảo, thì phạm tội khinh cấu.
(17. không được ỷ thế ham cầu)
Phật tử nếu tự mình vì đồ ãn,
vì thức uống, vì tiền của, vì quyền lợi, vì danh vọng, thân cận
với quốc vương, vương tử, tể tướng, bách quan, rồi ỷ thế làm
oai, yêu sách, hành hung, chiếm đoạt tiền tài sản vật của người
một cách ngang ngược; nhưng mọi sự cầu lợi như vậy là ham cầu
tàn ác, ham cầu quá đáng, vậy mà còn chỉ bảo kẻ khác ham cầu
nữa, không còn gì là từ bi, là hiếu thuận, thì phạm tội khinh
cấu.
(18. không được m?mờ làm thầy)
Phật tử nếu học và tụng Bồ tát
giới thì ngày đêm sáu buổi nắm giữ giới ấy trong trí, lý giải
ý nghĩa giới ấy, nghĩa là lý giải về tánh của Phật tánh. Là
Bồ tát mà không lý giải được một câu đủ nghĩa, một bài chỉnh
cú, lý do của giới pháp cũng không rành, lại nói dối trá rằng
lý giải được, như vậy là tự lừa đảo mình và lừa đảo
người khác. Nên, nhất nhất mù mờ, giới pháp giáo pháp nào
cũng không hiểu, vậy mà làm pháp sư truyền thọ giới pháp cho kẻ
khác, thì phạm tội khinh cấu.
(19. không được phỉ báng giữ
giới)
Phật tử nếu vì tâm lý xấu và
ác, thấy vị tỷ kheo giữ giới tay nâng lư hương thực tập Bồ tát
hạnh, mà đâm thọc bên này bên kia, phỉ báng vu khống người thánh
thiện, không từ điều xấu nào mà không dựng đứng lên, thì
phạm tội khinh cấu.
(20. không được không cứu phóng
sinh)
Phật tử thì phải đem tâm từ bi
mà thực hành sự phóng sinh. Phải nghĩ như vầy: tất cả nam tính là
cha ta, tất cả nữ tính là mẹ ta, ta đời đời kiếp kiếp không khi
nào không sinh ra từ cha mẹ ấy. Nên sáu đường chúng sinh đều là
cha mẹ của ta, ta giết mà ăn là giết mà ăn cha mẹ của mình. Lại
cũng giết mà ăn chính thân cũ của mình, vì lẽ hết thảy thể
cứng thể lỏng và sức nóng sức động toàn là thân thể cũ của
ta. Vì nghĩ như vậy nên thường phóng sinh. Đời đời thọ sinh, đó
cũng là một sự thực có tính cách bất biến, nên càng phải chỉ
bảo khuyến khích mọi người phóng sinh. Khi thấy thế nhân tàn sát
sinh vật thì phải tìm cách cứu hộ, giải thoát khổ nạn cho chúng.
Rồi thời thường phải giáo hóa, giảng nói Bồ tát giới cho
người để cứu hộ chúng sinh. Gặp ngày chết của cha mẹ anh em thì
phải cung thỉnh pháp sư diễn giảng kinh luật của Bồ tát giới. Cái
phước ấy giúp cho người chết được thấy chư Phật, hoặc sinh trong
nhân loại hay tr? chư thiên. Nếu không làm như vậy thì phạm tội
khinh cấu.
Mười giới pháp nhẹ như vậy các
người phải học, phải cung kính phụng trì, như trong phẩm Diệt trừ
tội lỗi Như lai sẽ nói rộng rãi về mỗi một giới pháp ấy.
(21. không được giận dữ báo th?
Phật tử thì không được đem sự
giận dữ trả lại sự giận dữ, không được đem sự đánh đập
trả lại sự đánh đập, cũng không được giữ tâm niệm trả th?
những kẻ tàn sát cha mẹ anh em bà con của mình hay những kẻ sát
hại quốc chúa. Tàn sát sự sống để trả thù sự sống là điều
không thuận với đạo hiếu. Không nuôi nô bộc tỳ thiếp mà đánh
đập mắng chưởi, ngày ngày ba nghiệp bùng dậy, nhất là tội lỗi
khẩu nghiệp lại càng vô lượng, huống chi cố làm đến bảy tội
nghịch. Là Bồ tát xuất gia mà không có tâm từ bi, cố giữ ý
niệm trả thù đến nỗi trong hàng bà con cũng quyết không tha, thì
phạm tội khinh cấu.
(22. không được ki? ngạo không
học)
Phật tử nếu mới xuất gia, chưa lý
giải gì, mà tự thị thông minh, tự thị cao sang, tự thị tuổi tác,
tự thị dòng họ, tự thị giai cấp, kiến thức to lớn, phước đức
to lớn, giàu có to lớn, đủ cả thất bảo, ỷ thị những thứ ấy
mà kiêu ngạo, không chịu học hỏi kinh luật với các vị pháp sư
đã học hỏi trước mình. Các vị pháp sư ấy có thể có người
dòng họ nhỏ, tuổi tác nhỏ, giai cấp nhỏ, nghèo nàn, thấp thỏi,
các giác quan không hoàn chỉnh, nhưng thật là người có đức, lý
giải thấu đáo hết thảy kinh luật. Nếu các vị Bồ tát mới học
mà dòm ngó dòng họ và giai cấp, không chịu đến học hỏi đệ
nhất nghĩa nơi vị pháp sư ấy, thì phạm tội khinh cấu.
(23. không được không truyền kinh
giới)
Phật tử nếu, sau khi Như lai nhập
niết bàn rồi, muốn đem tâm nguyện tốt đẹp l?h thọ Bồ tát giới
mà bằng cách tự nguyện lãnh thọ giới ấy trước hình tượng
Phật đà, hình tượng Bồ tát, thì phải bảy ngày sám hối trước
hình tượng Phật đà, hình tượng Bồ tát, hễ thấy được tướng
tốt thì thọ giới là được giới. Nếu chưa thấy được tướng
tốt, thì phải hai lần hay ba lần bảy ngày, cho đến một nãm, phải
sám hối cho thấy được tướng tốt. Thấy được tướng tốt rồi
thì có thể thọ giới trước hình tượng Phật đà, hình tượng Bồ
tát. Nếu không thấy được tướng tốt, thì dẫu thọ giới trước
hình tượng Phật đà, hình tượng Bồ tát, cũng không thể gọi là
được giới. Nếu l?h thọ Bồ tát giới bằng cách hiện diện đối
trước vị pháp sư đãthọ giới ấy trước mình, thì không cần
phải thấy được tướng tốt, tại sao, vì vị pháp sư ấy đã do các
vị pháp sư trước nữa truyền giới cho nhau, và nay truyền lại cho
mình, nên không bắt buộc phải thấy tướng tốt. Và thọ giới
trước vị pháp sư như vậy thì được giới liền, được bởi cái
tâm c?g cực cẩn trọng phát sinh trong lúc ấy. Nếu trong vòng ngàn
dặm, không ai có thể làm vị pháp sư truyền thọ Bồ tát giới, thì
người muốn thọ giới ấy có thể tự nguyện mà lãnh thọ trước
hình tượng Phật đà, hình tượng Bồ tát, nhưng với điều kiện
phải sám hối thấy được tướng tốt. Nếu là vị pháp sư mà tự
thị sự lý giải của mình đối với kinh luật và giới pháp đại
thừa, chỉ làm bạn với quốc vương, vương tử và bách quan, còn
các vị Bồ tát mới học đến xin hỏi hoặc nghĩa ý của khế kinh,
hoặc nghĩa ý của giới luật, vị pháp sư ấy vì tâm lý khinh miệt,
tâm lý xấu xa, tâm lý kiêu ngạo, không nhất nhất giải đáp một
cách tốt đẹp những câu của họ thưa hỏi, thì phạm tội khinh cấu.
(24. không được học các sách
khác)
Phật tử nếu có chánh pháp đại
thừa trong kinh luật Như lai đãdạy, chánh pháp đủ cả chánh kiến,
chánh tánh, chánh pháp thân, mà không nỗ lực học hỏi tu tập,
lại bỏ chánh pháp quí báu như thất bảo ấy mà học tập sách vở
phủ nhận Phật tánh của nhị thừa, ngoại đạo và thế tục, như các
bộ a tỳ đàm, các luận thuyết hỗn tạp, những thi vãn truyện ký,
thì thế là làm mất Phật tánh, làm cản đạo nghiệp, chứ không
phải thực hành Bồ tát đạo. Nếu cố ý học tập thì phạm tội
khinh cấu.
(25. không được lạm dụng gây rối)
Phật tử nếu, khi Như lai nhập niết
bàn rồi, làm chủ sự thuyết pháp, làm chủ sự hành đạo, làm
chủ nơi tăng phường, làm chủ sự giáo hóa, làm chủ sự tọa
thiền, làm chủ sự đi lại, thì phải phát sinh tâm từ bi, khéo hòa
giải mọi sự mâu thuẫn, khéo hộ vệ vật của Tam bảo, đừng sử
dụng vô độ như là của riêng. Nếu trái lại, làm cho Tăng chúng
rối loạn vì sự tranh chấp, mặc sức sử dụng của Tam bảo, thì
phạm tội khinh cấu.
(26. không được không đ? khách
tãng)
Phật tử nếu đãở trước trong
tãng phường, sau thấy các vị tỷ kheo hay tỷ kheo bồ tát, đến nơi
tãng phường, đến nơi nhà cửa, thành thị hay thôn ấp của mình,
đến nơi nhà của quốc vương thiết lập, đến nơi chỗ đang kiết hạ
an cư, hay nơi chỗ đang thiết lập đại hội cầu phước, thì mình là
chư tăng ở trước, phải đón rước, tiễn đưa, và hiến cúng ẩm
thực; phòng ở, đồ nằm, giường giây hay giường cây, mọi sự
đều cung cấp. Nếu không có sẵn, thì dẫu phải bán mình, bán cả con
cái, cũng gắng mà cung phụng những thứ các vị ấy cần dùng. Rồi
nếu có thí chủ đến thỉnh chư tãng, thì các vị khách tãng ấy cũng
có đồng phần, n? vị chủ tãng phường phải y theo thứ tự mà
mời các vị khách tãng ấy thọ thỉnh. Nếu chư tãng ở trước chỉ
thọ thỉnh ri?g, không mời các vị khách tãng, thì vị chủ tãng
phường tội lỗi vô lượng, không khác gì loài vật, không phải sa
môn, không phải dòng giống họ Thích. Nếu cố ý làm như vậy thì
phạm tội khinh cấu.
(27. không được thọ thỉnh ri?g
biệt)
Phật tử thì trường hợp nào cũng
không được thọ thỉnh riêng biệt, thu đồ hiến cúng về cả nơi
mình. Đồ hiến cúng là thuộc về chư tăng mười phương. Nếu thọ
thỉnh riêng biệt thì ấy là lấy vật của chư tăng mười phương thu
về nơi mình ; lại xâm phạm đến vật của Phật đà, thánh giả,
đại sư, chư tãng, cha mẹ và bịnh nhân trong tám ruộng phước, vì
lẽ mình chỉ dùng cho mình mà thôi, nên phạm tội khinh cấu.
(28. không được thỉnh tăng riêng
biệt)
Phật tử thì dầu xuất gia thọ Bồ
tát giới, dầu tại gia thọ Bồ tát giới, hay vị trí thí chủ nào,
khi muốn thỉnh chư tăng để hiến cúng cầu nguyện, cũng phải đến
tãng phường, hỏi vị tri sự mà bạch rằng muốn theo thứ tự thỉnh
chư tãng để hiến cúng cầu nguyện. Như vậy là thỉnh được Hiền
thánh tãng mười phương. Nếu thỉnh ri?g biệt như thế nhân, thì
thỉnh năm trãm vị tãng La hán và Bồ tát, cũng không bằng thỉnh
một vị tãng phàm phu trong thứ tự của chư tãng. Thỉnh ri?g là nề
nếp của ngoại đạo, bảy đức Phật không có qui chế thỉnh ri?g.
Sự ấy không thuận với đạo hiếu. Nếu cố ý thỉnh ri?g thì phạm
tội khinh cấu.
(29. không được sống bằng tà
mạng)
Phật tử nếu vì độc ác và vụ
lợi mà buôn bán dâm nam dâm nữ, tự tay làm đồ ãn, tự xay
tự gi? coi tướng nam nữ, đoán mộng tốt xấu, đoán thai trai gái,
làm các chú thuật, xảo thuật, luyện tập chim sãn thú sãn như
luyện chim ưng, pha chế thuốc độc bằng trãm ngàn thứ độc hợp
lại, độc rắn, độc vàng bạc sống, độc sâu cổ, không cịn gì là
từ bi, hiếu thuận. Nếu cố ý làm thì phạm tội khinh cấu.
(30. không được bất kính hảo
thời)
Phật tử nếu vì tâm lý bất lương,
chính mình phỉ báng Tam bảo bằng cách tỏ ra thiết cốt với Tam bảo,
nhưng, mở miệng ra là nói về không mà việc làm thì toàn ở trong
có: kinh lý cho thế nhân, vì thế nhân mà mai mối nam nữ, kết hợp
sắc dục, tạo ra đủ thứ hệ lụy; sáu ngày chay trong mỗi tháng, hay
ba tháng chay trong mỗi năm, cũng sát sinh trộm cướp, phá trai phạm
giới, thì phạm tội khinh cấu.
Mười giới pháp nhẹ như vậy, các
người phải học, phải cung kính phụng trì, như trong phẩm Thiết chế
giới luật Như lai đã giải thích đầy đủ.
(31. không được không cứu không
chuộc)
Phật tử nếu, sau khi Như lai nhập
niết bàn, trong thời kỳ dữ dội, thấy ngoại đạo và những kẻ
tàn ác, những kẻ đạo tặc, chiếm đoạt và đem bán hình tượng
Phật đà, hình tượng Bồ tát, những hình tượng mà mình tôn thờ
như cha mẹ, bán kinh bán luật, bán các vị tỷ kheo, tỷ kheo ni, bán
bồ tát mới phát bồ đề tâm, cho quan lại sai sử hay cho kẻ khác
làm nô bộc tỳ thiếp - Nếu là Bồ tát thì thấy những sự tình
ấy phải phát sinh tâm từ bi, tìm mọi phương cách mà cứu hộ, đi
khắp nơi khuyến hóa mọi người để kiếm tiền của mà chuộc hình
tượng của Phật đà và Bồ tát, chuộc các vị tỷ kheo, tỷ kheo ni,
và bồ tát mới phát tâm, chuộc kinh chuộc luật. Nếu không chuộc
như vậy thì phạm tội khinh cấu.
(32. không được tổn hại chúng sinh)
Phật tử thì không được cất
chứa buôn bán dao gậy cung tên, buôn bán bình thường mà dùng
dụng cụ cân lường nhẹ và nhỏ, dựa vào uy thế của quan quyền
mà chiếm đoạt tài vật của người, giam cầm và phá hoại sự
thành công của người bằng tâm địa độc hại, nuôi lớn những
loài mèo chồn heo chó. Nếu cố ý làm những việc như vậy thì phạm
tội khinh cấu.
(33. không được tà tâm làm quấy)
Phật tử thì không được bằng tâm
lý đen tối mà xem sự đấu sức của nam nữ, của quân trận, của
tướng sĩ, của giặc cướp ... Không được xem nghe ca vũ, không
được cờ bạc, không được bói toán, không được làm liên
lạc cho đạo tặc. Những việc như vậy nhất nhất không được làm.
Nếu cố ý làm thì phạm tội khinh cấu.
(34. không được rời bồ đề tâm)
Phật tử thì phải nghiêm trì giới
pháp, bằng cách trong mọi cử động đi đứng nằm ngồi và ngày
đêm sáu buổi đều phải đọc tụng giới pháp ấy, và giữ với
lòng bền chắc như ngọc kim cương, giữ như giữ chiếc phao nổi khi
bơi qua biển cả, giữ với quyết chí của vị tỷ kheo bị buộc bằng
cỏ, vĩnh viễn phát sinh nơi mình đức tin cao đẹp của đại thừa,
là tự biết chắc mình là Phật sẽ thành như chư Phật là Phật đã
thành, tâm bồ đề không một thoáng nào rời khỏi tâm trí. Như
vậy mà nếu nổi lên một ý niệm của tâm lý nhị thừa hay ngoại
đạo thì phạm tội khinh cấu.
(35. không được không phát đại
nguyện)
Phật tử thì phải thường phát
khởi mọi lời nguyện, như nguyện hiếu thuận cha mẹ, đại sư, chư
tãng, Tam bảo; nguyện gặp được vị pháp sư tuyệt hảo và các vị
thiện tri thức đồng một sở học, để luôn luôn dạy cho mình kinh
luật đại thừa và các bồ tát vị là mười phát thú, mười
trưởng dưỡng, mười kim cang và mười địa, làm cho mình lý giải
và thực hành chính xác ; nguyện kiên trì giới pháp của Phật, dầu
phải mất tánh mạng đi nữa, một thoáng cũng không để rơi mất
khỏi tâm trí cái niệm ki? trì ấy. Nếu là Bồ tát mà không phát
khởi mọi lời nguyện như vậy thì phạm tội khinh cấu.
(36. không được không phát đại
thệ)
Phật tử thì phát khởi mười lời
nguyền rộng lớn rồi, để kiên trì giới pháp của Phật, lại có
những lời thề như sau. Thà đem thân này gieo xuống hố lửa, núi
dao, quyết không phá hủy giới pháp của tam thế chư Phật bằng cách
làm sự bất tịnh với bất cứ nữ nhân nào. Lại thề rằng thà
bị lưới sắt nóng ngàn lớp quấn lấy thân thể, quyết không đem
cái thân phá giới mà mặc y phục của tín đồ hiến cúng; thề
rằng thà miệng phải nuốt viên sắt nóng hay dòng lửa dữ đến cả
trãm ngàn đời, quyết không đem cái miệng phá giới mà ăn thực
phẩm của tín đồ hiến cúng; thề rằng thà thân này phải nằm trong
lưới sắt đỏ hay trên đất sắt nóng, quyết không đem cái thân
phá giới mà nằm ngồi giường ghế của tín đồ hiến cúng; thề
rằng thà thân này một đời vài đời chịu hàng trãm mũi giáo
đâm vào, quyết không đem cái thân phá giới mà dùng dược phẩm
của tín đồ hiến cúng; thề rằng thà thân này gieo vào vạc sắt
nóng đến cả trãm ngàn đời, quyết không đem cái thân phá giới
mà ở phòng ốc, nhà cửa, vườn tược và đất đai của tín đồ
hiến cúng. Lại thề rằng thà thân này bị chùy sắt giáng đập từ
đầu đến chân nát như bụi nhỏ, quyết không đem cái thân phá
giới mà nhận sự cung kính lễ bái của tín đồ. Lại thề rằng thà
bị cả trãm cả ngàn khí cụ bằng sắt nóng móc mất đôi mắt đi,
quyết không đem đôi mắt ấy với tâm phá giới mà nhìn vào sắc
đẹp; thề rằng thà một đời hai đời bị cả trãm cả ngàn dùi
sắt đâm vào hai tai, quyết không đem hai tai ấy với tâm phá giới
mà nghe đến tiếng hay; thề rằng thà bị cả trăm cả ngàn dao bén
cắt mất mũi đi, quyết không đem cái mũi ấy với tâm phá giới
mà ngửi đến hơi thơm; thề rằng thà cái lưỡi bị cả trãm cả
ngàn dao bén cắt đứt, quyết không đem cái lưỡi ấy với tâm
phá giới mà nếm vào mùi ngon; thề rằng thà thân này bị chặt bị
xả bởi búa sắc, quyết không đem cái thân ấy với tâm phá giới
mà chạm vào chỗ ưa thích. Lại phát khởi lời thề như sau, thề
làm cho hết thảy chúng sinh đều thành Phật đà. Nếu là Bồ tát
mà không phát khởi những lời thề như vậy thì phạm tội khinh
cấu.
(37. không được mạo hiểm tai nạn)
Phật tử thì thường mỗi nãm phải
có hai kỳ thực hành đầu đà, mùa đông mùa hạ phải tọa thiền
an cư. Thực hành đầu đà thì thường dùng nhánh dương để làm
tăm, đậu để rửa, ba pháp y, bình, bát, tọa cụ, tích trượng, lư
hương, đ? lọc nước, khãn tay, dao con, đồ lấy lửa, nhíp, giường
giây, kinh luật Bồ tát giới và tượng Phật Bồ tát. Là Bồ tát
thì khi thực hành đầu đà và khi đi du hóa, dầu đi lại cả trãm
dặm ngàn dặm đi nữa, mười tám vật ấy vẫn thường mang theo mình.
Hai kỳ đầu đà là từ rằm tháng giêng đến rằm tháng ba, từ
rằm tháng tám đến rằm tháng mười, trong hai kỳ ấy, mười tám
vật cũng thường mang theo mình như hai cái cánh với con chim. Bố tát
tụng giới thì các vị Bồ tát mới học đã phải nửa tháng nửa
tháng bố tát, tụng mười giới nặng và bốn mươi tám giới nhẹ ;
khi tụng thì đối trước tượng Phật Bồ tát mà tụng; một người
bố tát thì một người tụng, mà hai ba cho đến hàng trăm hàng ngàn
người cũng chỉ một người tụng ; người tụng ngồi cao, người nghe
ngồi thấp, ai cũng mang pháp y chín điều bảy điều hay nãm điều.
Kiết hạ an cư thì nhất nhất phải làm cho đúng phép. Khi thực hành
đầu đà thì đừng đến chỗ tai nạn ; chỗ nguy hiểm, chỗ quốc chúa
tàn bạo, chỗ đất quá cao thấp, chỗ cây cỏ rậm rạp, chỗ cọp beo
sư tử, chỗ hay bị nạn nước lửa gió, chỗ có đạo tặc, chỗ
đường sá đầy rắn độc, những chỗ tai nạn như vậy đều không
được đến đó. Thực hành đầu đà, cho đến kiết hạ an cư, đều
không được đến ở những chỗ tai nạn như vậy. Nếu cố ý đến
thì phạm tội khinh cấu.
(38. không được ngồi không thứ
tự)
Phật tử thì sự ngồi phải có
thứ tự đúng như chánh pháp, nghĩa là ai thọ giới trước thì
ngồi trước, ai thọ giới sau thì ngồi sau. Không kể già trẻ, tỷ
kheo tỷ kheo ni, quí nhân quốc vương vương tử, cho đến hoàng môn nô
bộc tỳ thiếp, tất cả đều nên ai thọ giới trước ngồi trước,
ai thọ giới sau thì tuần tự mà ngồi. Đừng như ngoại đạo ngu si,
già cũng như trẻ không trước không sau, ngồi hỗn tạp như binh nô.
Trong chánh pháp của Như lai, người trước ngồi trước, người sau
ngồi sau. Nếu là Bồ tát mà ai nấy không ngồi theo thứ tự đúng
như chánh pháp, thì phạm tội khinh cấu.
(39. không được không làm lợi
lạc)
Phật tử thì thường khuyến hóa
mọi người kiến thiết tăng phường, tạo lập núi rừng, ruộng
vườn, xây dựng tháp Phật, thiết lập những chỗ để m? đông
m? hạ tọa thiền an cư, nói tóm, tất cả những cơ sở hành đạo
đều nên kiến thiết. Là Bồ tát thì lại phải diễn giảng cho mọi
người về kinh luật đại thừa. Những lúc tật bịnh, quốc nạn,
giặc giã, những ngày mạng vong của cha mẹ, anh em, của đại sư hòa
thượng và đại sư xà lê thì từ ngày ấy cho đến ngày tam thất
và chung thất, cũng nên trì tụng và diễn giảng kinh luật đại
thừa. Những lúc làm chay cầu phước, đi lại làm ăn mà có thể
bị lửa dữ thiêu đốt, nước lớn trôi chìm, gió bão thổi bạt
thuyền bè nguy khốn trong sông to biển cả đầy nạn la sát, thì
trước đó cũng nên đọc tụng giảng nói kinh luật đại thừa. Cho
đến hết thảy khổ báo là ba ác, bảy nghịch, tám nạn, gông cùm,
xiềng xích, trói buộc, đa dâm, đa sân, đa si, đa bịnh, đều n? giảng
nói kinh luật đại thừa. Nếu vị Bồ tát mới học không làm như
vậy thì phạm tội khinh cấu.
Chín giới pháp nhẹ như vậy các
người phải học, phải cung kính phụng trì, như Như lai sẽ nói rõ
trong phẩm Phạn đàn.
(40. không được chọn lựa truyền
giới)
Phật tử thì khi cho người thọ Bồ
tát giới không được chọn lựa. Hết thảy quốc vương, vương tử,
tể tướng bách quan, tỷ kheo tỷ kheo ni, thiện nam tín nữ, dâm nam
dâm nữ, phạn thiên mười tám tầng trời cõi Sắc, thiên nhân
sáu tầng trời cõi Dục, những kẻ vô căn, hai cãn, hoàng môn, nô
bộc, tỳ thiếp, tất cả quỉ thần, ai cũng được thọ Bồ tát giới
cả. Phải dạy người thọ Bồ tát giới nhuộm pháp y bằng hoại sắc
cho hợp với chánh pháp. Hoại sắc là nhuộm tất cả pháp y và
ngọa cụ bằng màu sắc phá hủy các màu sắc chính là xanh vàng đỏ
trắng đen tía. Mọi thứ y phục khác cũng nhuộm hoại sắc như vậy.
Nói tổng quát, tại bất cứ quốc độ nào, dân chúng ở đó ãn
mặc ra sao thì vị tỷ kheo ãn mặc phải khác với lối ãn mặc ấy. Khi
sắp thọ Bồ tát giới, vị pháp sư bồ tát phải xét hỏi người
ấy, rằng thân hiện tại có làm bảy tội nghịch không ? Vị pháp sư
bồ tát không được cho những người thân hiện tại làm bảy tội
nghịch được thọ Bồ tát giới. Bảy tội nghịch là làm cho thân
Phật xuất huyết, giết cha, giết mẹ, giết hòa thượng, giết xà lê,
phá kiết ma tăng và pháp luân tăng, giết thánh giả. Nếu có bảy
tội nghịch thì kẻ ấy thân hiện tại không thể được Bồ tát
giới. Ngoài ra, ai cũng có thể thọ và được giới ấy. Cái phép
của người xuất gia là không lạy quốc vương, không lạy cha mẹ,
không lạy bà con, không lạy quỉ thần, nên không thiên vị hoặc
khước từ ai hết, hễ ai hiểu được tiếng nói của vị pháp sư bồ
tát, từ trãm dặm ngàn dặm vẫn đến cầu Bồ tát giới, mà vị
pháp sư ấy vì tâm lý xâu xa, tâm lý ghét giận, không truyền ngay
cho họ giới pháp mà tất cả chúng sinh đều có phần thì phạm tội
khinh cấu.
(41. không được vụ lợi làm thầy)
Phật tử nếu giáo hóa cho người
phát sinh đức tin đại thừa rồi, mình là Bồ tát làm vị pháp sư
chỉ bảo cho người, thì thấy người ấy muốn thọ Bồ tát giới,
mình phải chỉ bảo cách thỉnh hai vị đại sư là hòa thượng và xà
lê. Hai vị đại sư phải hỏi người ấy có hay không có phạm bảy
tội nghịch là bảy tội cản trở sự thọ và được Bồ tát giới.
Nếu thân hiện tại phạm bảy tội nghịch thì vị pháp sư không được
cho người ấy thọ Bồ tát giới ; nếu không phạm bảy tội nghịch
thì được cho họ thọ. Nếu người nào phạm mười giới pháp nặng
thì phải chỉ bảo người ấy sám hối bằng cách đối trước hình
tượng Phật đà, hình tượng Bồ tát, ngày đêm sáu buổi tụng
mười giới pháp nặng và bốn mươi tám giới pháp nhẹ, cực kỳ
khẩn thiết lễ bái ba ngàn đức Phật thuộc ba thì gian quá khứ
hiện tại và vị lai, cầu cho thấy được tướng tốt. Dầu một lần
bảy ngày hay ba lần bảy ngày, cho đến một nãm, cũng phải làm sao
cho thấy được tướng tốt. Tướng tốt là thấy được Phật đến
xoa tr? đỉnh đầu, thấy ánh sáng của Phật, thấy hoa sen của Phật,
hoặc thấy các tướng kỳ lạ khác, thì tội lỗi tức thì tan biến.
Nếu không thấy được những tướng tốt như vậy thì dẫu sám hối
cũng không có cái ích lợi làm cho người ấy thân hiện tại
được lại giới pháp, nhưng có cái ích lợi thọ lại giới pháp
ấy. Nếu ai phạm bốn mươi tám giới pháp nhẹ thì chỉ bảo người
ấy sám hối bằng cách đối diện mà phát lộ, thì tội lỗi tức
thì tan biến. Phạm giới nặng hay nhẹ đều không như bảy tội nghịch.
Làm pháp sư chỉ bảo thì trong các cách trên đây nhất nhất phải
thấu hiểu. Nếu không thấu hiểu sự đúng sai và tội nặng nhẹ của
giới pháp đại thừa, không lý giải đệ nhất nghĩa đế, tập
chủng tánh, trưởng dưỡng tánh, bất hoại tánh, đạo chủng tánh,
chánh pháp tánh, trong tất cả các tánh của Bồ tát vị như vậy
không thấu r?quán hạnh nhiều ít và ra vào như thế nào, cho đến
mười thành phần thiền định và bao nhiêu pháp hạnh khác, cũng
nhất nhất không thấu hiểu nghĩa ý trong đó ; mà, là Bồ tát, lại
vì quyền lợi, vì danh vọng, vì ham hố đồ đệ với tâm lý ham cầu
xấu xa và quá đáng, làm ra như thấu hiểu tất cả, thì ấy là tự
lừa dối mình lại lừa dối kẻ khác. Vậy mà cố ý truyền Bồ tát
giới cho người thì phạm tội khinh cấu.
(42. không được thuyết giới ác
nhân)
Phật tử thì không được vì quyền
lợi mà nói giới pháp vĩ đại của hàng ngàn đức Phật trước
những kẻ chưa thọ giới Bồ tát giới, những kẻ ngoại đạo và
ác nhân. Trước những kẻ phủ nhận Phật tánh cũng không được
nói. Trừ quốc vương, không được nói với ai cả. Những kẻ
ngoại đạo và ác nhân không lãnh thọ giới pháp của chư Phật thì
như loài vật, đời đời sinh ra ở đâu cũng không gặp được
Phật pháp tãng, như cây như đá không có tâm hồn, n? gọi là
ngoại đạo và ác nhân. Còn những kẻ phủ nhận Phật tánh thì
khác gì đầu gỗ. Là Bồ tát mà trước những kẻ như vậy nói
đến giáo pháp và giới pháp của bảy đức Phật đà thì phạm
tội khinh cấu.
(43. không được cố tâm phạm
giới).
Phật tử nếu đãđem đức tin đại
thừa mà xuất gia và lãnh thọ giới pháp chính yếu của chư Phật
rồi, lại cố ý sinh tâm vi phạm giới pháp phát sinh tuệ giác vô
lậu như vậy, thì không nên nhận mọi sự hiến cúng của thí chủ,
không đáng đi đất của quốc gia, uống nước của quốc gia. Cả nãm
ngàn quỉ dữ thường án trước mặt kẻ ấy mà bảo với nhau, rằng
đó là tên giặc lớn. Vào phòng ốc, thành thị, thôn ấp, nhà
cửa, thì bọn quỉ thường quét dấu chân của người ấy đi. Thế
nhân ai cũng nhục mạ, rằng đó là tên giặc trong Phật pháp. Chúng
sinh không ai muốn nhìn. Kẻ phạm giới có khác gì loài vật, đầu
gỗ. Nếu cố ý vi phạm giới pháp chính yếu của chư Phật thì phạm
tội khinh cấu.
(44. không được không trọng kinh
luật)
Phật tử thì thường phải nhất tâm
mà thọ trì đọc tụng kinh luật đại thừa, lột da làm giấy, thích
huyết làm mực, rút tủy làm nước, chẻ xương làm bút, để sao
chép giới pháp của chư Phật. Lại sao chép mà giữ bằng giấy vỏ
cây như giấy gió, giấy dạ, bằng lụa, lụa trắng, lụa tơ trần,
bằng thẻ tre. Rồi thường đem bảy thứ quí báu, hay những thứ tạp
ngọc vô giá, thơm và đẹp, làm hộp làm đãy mà tôn trí kinh luật
đại thừa ấy. Nếu không hiến cúng đúng cách như vậy thì phạm
tội khinh cấu.
(45. không được không có giáo
hóa)
Phật tử thì tâm đại bi phải
thường xuyên nổi dậy, khi vào những nơi thành thị, thôn ấp hay
nhà cửa, thấy bất cứ ai cũng đều nói lên như thế này : các
người nên lãnh thọ ba qui y và mười giới pháp. Nếu thấy tất
cả cầm thú thì bất cứ bò ngựa heo dê, đều nên tâm nghĩ miệng
nói như sau : cầm thú các con, các con nên phát bồ đề tâm. Là Bồ
tát thì đến bất cứ chỗ nào, dầu là núi non, rừng rú hay khe
suối, đồng nội, cũng làm cho hết thảy chúng sinh phát bồ đề tâm.
Nếu Bồ tát mà không giáo hóa chúng sinh như vậy thì phạm tội khinh
cấu.
(46. không được thuyết không đúng
phép)
Phật tử thì thường đi giáo hóa
với tâm niệm đại bi mà mình thường phát khởi. Nhưng, dẫu vào
nhà tín đồ hay nhà quyền quí, đối với bất cứ tập thể nào,
người xuất gia cũng không được đứng mà thuyết pháp cho người
tại gia. Phải ngồi lên chỗ cao, ở trước mặt họ. Pháp sư tỷ kheo
thì dẫu thuyết pháp cho cả bốn chúng, cũng không được đứng
đất mà nói. Khi thuyết pháp thì vị pháp sư phải được mời ngồi
chỗ cao, hương hoa hiến cúng ; còn bốn chúng thính giả thì ngồi chỗ
thấp, bằng ý niệm như hiếu thuận đối với cha mẹ mà kính thuận
những lời giáo huấn của vị pháp sư, lại kính thuận liên tục như
các đạo sĩ thờ lửa giữ lửa không tắt. Nếu người thuyết
pháp mà thuyết không đúng phép như vậy thì phạm tội khinh cấu.
(47. không được kềm chế phi lý)
Phật tử như quốc vương, thái tử,
bách quan hay bốn bộ, đãđem đức tin đại thừa l?h thọ giới
pháp của chư Phật rồi, lại tự thị quyền quí cao sang mà phá hoại
giáo pháp và giới pháp của Như lai, bằng cách đặt ra qui chế để
kềm chế bốn bộ đệ tử của Như lai, không cho họ xuất gia, hành
đạo, cũng không cho họ tạo lập hình tượng, chùa tháp và truyền
bá kinh luật. Lại đặt chức thống quản để chế ngự chư tãng,
lập sách tịch để kiểm k?chư tãng. Tỷ kheo bồ tát thì để cho
đứng đất, bạch y cư sĩ lại tự ngồi chỗ cao, làm nhiều điều phi
chánh pháp, tạo thành tình trạng như bắt binh nô thờ chủ. Nhưng tỷ
kheo bồ tát chính là bậc để cho mọi người kính trọng, có đâu
lại bị đem làm kẻ sai sử cho quan quyền một cách trái với giáo
pháp, trái với giới pháp. Nếu hàng quốc vương bách quan đã đem
tâm lý tốt đẹp lãnh thọ giới pháp của chư Phật rồi, thì đừng
làm những tội lỗi phá hoại Tam bảo như vậy. Nếu cố ý làm
những biện pháp phá hoại Tam bảo thì phạm tội khinh cấu.
(48. không được phá hoại đạo
pháp)
Phật tử nếu đãđem tâm lý tốt
đẹp mà xuất gia rồi, lại vì danh vọng và quyền lợi nên trước
mặt quốc vương và bách quan, nói về giới pháp của chư Phật mà
lại nói một cách rất phi lý, làm cho các vị tỷ kheo tỷ kheo ni và
những người thọ Bồ tát giới bị trói buộc bằng những hình
thức lao tù, những biện pháp quân dịch. Như thế đó là con sâu
trong thân sư tử tự ãn thịt sư tử, không phải con sâu ở ngoài:
chính những kẻ Phật tử như trên tự phá Phật pháp, không phải
ngoại đạo ma vương mà phá được. Nên người lãnh thọ giới
pháp của chư Phật thì phải ái hộ giới pháp ấy như người mẹ
thương đứa con một, như người con thờ cha mẹ, không được vi
phạm. Là Bồ tát thì khi nghe cái tiếng của ngoại đạo và ác nhân
đem lời nói ác phỉ báng phá hoại giới pháp của chư Phật, lúc
ấy khác nào tim mình bị ba trăm mũi nhọn đâm vào, thân mình bị
ngàn lưỡi dao vạn cây gậy đánh đập chém chặt. Thà là chính
mình vào trong địa ngục cả trãm kiếp, chứ không muốn một lần
phải nghe cái tiếng của kẻ ác đem lời ác phỉ báng phá hoại
giới pháp của chư Phật, huống chi tự phá hoại giới pháp của chư
Phật bằng cách tạo điều kiện khuyến khích kẻ khác phá hoại Phật
pháp, không cịn gì gọi là tâm hiếu thuận. Nếu cố ý làm như vậy
thì phạm tội khinh cấu.
Chín giới pháp nhẹ như vậy, các
người phải học, phải cung kính phụng trì.
Các Phật tử, bốn mươi tám giới
pháp nhẹ như trên đây, các người hãy thọ trì như chư Bồ tát
quá khứ đã tụng, chư Bồ tát vị lai sẽ tụng, chư Bồ tát hiện
tại đang tụng.
Kết Thúc Về Phần Bồ Tát Giới -
Phần Giới Pháp Vô Tận
Các Phật tử, hãy nghe cho ky? Giới
pháp gồm có mười điều nặng và bốn mươi tám điều nhẹ như
trên đây, các đức Phật đà trong ba thì gian đã tụng sẽ tụng và
đang tụng. Như lai nay cũng tụng y như vậy. Đại chúng các người,
không cứ quốc vương, vương tử, bách quan, tỷ kheo, tỷ kheo ni, thiện
nam, tín nữ, hễ l?h thọ Bồ tát giới thì phải thọ trì, đọc,
tụng, giảng thuyết và viết chép đối với cuốn kinh nói về giới
pháp của Phật tánh thường trú, truyền bá cho chúng sinh trong tất
cả thì gian, làm cho sự cảm hóa của giới pháp này được liên
tục mãi, không bao giờ đứt đoạn. Như vậy thì các người sẽ
được thấy ngàn đức Phật, đức Phật nào cũng trao tay cho, đời
đời không sa vào đường dữ, tám nạn, thường sinh trong nhân
loại hay chư thi?. Và như vậy là hôm nay, ở dưới cây bồ đề
này, Như lai đã tóm tắt khai thị giới pháp của cả bảy đức
Phật. Đại chúng các người hãy nhất tâm mà học giới pháp ấy,
và hoan hỉ mà phụng hành, như Như lai đã nhất nhất khai thị phong phú
trong phần Khuyến học của phẩm Vô tướng thiên vương. Bấy giờ ba
ngàn người học tập Bồ tát đạo trong số thính giả hiện diện lúc
ấy, nghe đức Thế tôn tự tụng lại giới pháp như vậy, ai cũng
tâm tâm kính thuận, hoan hỉ phấn chấn mà thọ trì.
Kết Thúc Toàn Bộ Phẩm Bồ Tát Tâm
Địa Giới - Phẩm Pháp Môn Tâm Địa
Bấy giờ đức Thích ca mâu ni nói
xong phần Giới pháp vô tận trong phẩm Pháp môn tâm địa của đức
bản thân Lô xá na ở Hoa tạng thế giới đãnói, thì một ngàn và
một ngàn lần trăm ức đức Thích ca khác cũng nói y như vậy. Sự
từ cung Đại tự tại thi? vương xuống đến cây bồ đề, trải qua
mười chỗ thuyết các pháp phẩm cho hết thảy Bồ tát, và cho đại
chúng nhiều đến số lượng không thể nói hết, được thọ trì,
đọc tụng và giảng nói, cũng như nhau. Nói tóm, một ngàn và một
ngàn lần trăm ức thế giới, Hoa tạng thế giới, và các Hoa tạng
thế giới khác nhiều như vi trần, cũng diễn về tất cả kho tàng
chánh pháp của chư Phật là kho tàng tâm, kho tàng địa, kho tàng
giới, kho tàng vô lượng hạnh nguyện, kho tàng nhân quả Phật tánh
thường trú. Và như vậy là chư Phật đã nói hoàn tất về tất
cả kho tàng chánh pháp. Hết thảy chúng sinh trong một ngàn và một
ngàn lần trăm ức thế giới đều thọ trì, hoan hỉ và phụng hành.
Nếu khai thị một cách rộng lớn các nghĩa tướng của tâm địa thì
phải như trong phẩm Phật hoa quang vương đã nói.
Phụ Lục Kết Thúc Bồ Tát Giới
Bằng Vãn Chỉnh Cú
- Những người thông minh thật
- thì đức tính nhẫn nhịn
- và khả nãng tuệ giác
- cả hai đều mạnh mẽ.
- Nhờ đó thọ trì được
- giới pháp Bồ tát này,
- từ nay đến thành Phật
- thường được nãm lợi ích:
- Một là được chư Phật
- thương tưởng hộ trì luôn.
- Hai là khi lâm chung
- chánh kiến, tâm hoan hỉ.
- Ba là sinh chỗ nào
- cũng làm bạn Bồ tát.
- Bốn là công đức tụ
- giới độ thành tựu cả.
- Nãm là trong đời này
- và các đời sau nữa
- đủ cả phước và tuệ
- của giới pháp tự tánh.
- Giới pháp như thế này
- là sở hành của Phật,
- với chỗ sở hành ấy
- trí giả hãy khéo nghĩ:
- Tâm hạnh như ngoại đạo
- trước tướng và chấp ngã,
- thì giới pháp như vầy
- không thể nào tín thọ.
- Tuệ giác của thanh vãn
- diệt tận chứng niết bàn,
- cũng không phải là chỗ
- gieo giống giới pháp này.
- Muốn nuôi lớn mầm mống
- lúa tuệ giác bồ đề
- để ánh sáng tuệ ấy
- chiếu tỏa cả thế gian,
- thì cần phải thường xuyên
- yên tịnh tâm trí mình
- mà quán sát thật tướng
- của tất cả các pháp
- siêu việt mọi khái niệm
- đối lập nhau như sau:
- phát sinh với tiêu diệt
- vĩnh cửu với hư vô
- đồng nhất với mâu thuẫn
- xuất hiện với biến dạng.
- Bằng sự quán sát ấy
- nỗ lực mà trang hoàng:
- việc Bồ tát phải làm
- phải tuần tự học tập.
- Với tất cả các vị
- tu học còn tiếp tục
- tu học đãhoàn tất
- đừng sinh tâm phân biệt,
- thì đó : đệ nhất nghĩa,
- cũng gọi là đại thừa.
- Mọi hý luận lầm lỗi
- đều bặt dấu ở đây,
- và từ đây xuất phát
- trí toàn giác của Phật.
- Thế nên các Phật tử
- hãy nổi đại dũng mãnh:
- đối với giới của Phật
- giữ như giữ ngọc sáng.
- Các bồ tát quá khứ
- đãhọc về giới ấy,
- vị lai thì sẽ học,
- như hiện tại đang học.
- Giới ấy chư Phật làm,
- giới ấy chư Phật khen,
- và tôi hôm nay đây
- đãkính theo chư Phật
- mà tụng lại giới pháp
- phước đức vô lượng ấy,
- hồi hướng cho chúng sinh
- để cùng nhau xoay về
- trí toàn giác của Phật,
- cầu nguyện cho các vị
- được nghe giới pháp này
- chóng thành đạt trí Phật.
Kính lạy đức Lô xá na như lai. Kính
lạy đức Thích ca mâu ni như lai. Kính lạy kho tàng Bồ tát giới
Phạn võng.
--- o0o ---
| Mục lục tác giả|
Source: www.buddhismtoday.com
Cập nhật ngày: 01-12-2001