Những lời dạy ấy của đức Phật đến A Nan Ða chứng tỏ rằng Ngài biết rõ phẫm hạnh của 500 đệ tử đang có mặt nơi đó
Cuộc Đời Thánh Tăng Ananda (phần 7)

 Thánh Tăng Ananda 

"Nầy A Nan Ða! Khi ông thốt câu ấy, ông có chắc chắn là ở đây thực sự chẳng có tỳ khưu nào còn những điều thắc mắc chăng?! Ông nên biết rằng, rất có thể có nhiều thắc mắc, mà một tỳ khưu không muốn nói ra! Hoặc cũng có thể có quá nhiều câu hỏi mà họ không biết phải nêu vấn đề nào trước!?..."

, chỉ có một thiểu số đắc quả Thánh từ Tu Ðà Hườn trở lên, thì không còn hoài nghi trong Phật Giáo. Nhưng hơn phân nữa còn lại, thánh tâm chưa được nẩy nở! Và lời dạy của Ngài vốn cũng để nhắc nhở A Nan Ða chớ nên dùng sự suy đoán thông thường căn cứ theo bên ngoài của mình, mà ấn định trình độ hiểu biết của cộng đồng tăng chúng!

Rồi một lần cuối cùng, đức Thế Tôn lại quay sang 500 người đệ tử thốt, những lời vĩnh biệt và chúc lành như sau:

"Giờ đây! Nầy chư tỳ khưu! Như Lai nhắc lại lần chót rằng bản chất của mọi vật có hình dạng là sẽ tiêu hoại, tan rã! Các ông hãy cố gắng lên thêm lên! Ðừng để Giác tâm bị che mờ, bị bao phủ, bị cầm tù bởi xác thân ngũ uẩn nầy!..."

(Theo Mahà Parinibbàna Sutta, Kinh Niết Bàn)

Nói xong những lời tối hậu ấy, đức Phật liền Nhập Ðịnh: Ngài bắt đầu từ Nhất Thiền, Nhị Thiền, Tam Thiền, rồi Tứ Thiền... để bước vào Thiền Vô Sắc. Chỉ trong chốc lát, tâm Phật đã trụ vững trong bậc an định Vô Sở Hữu Xứ. Ngài không còn khái niệm, hay cảm giác gì về ngũ căn và thế gian nữa!

Phật an định như thế qua năm khắc đồng hồ (khoảng 2 giờ) mà phong lực (ám chỉ hơi thở) trong thân thể của Ngài chưa gián đoạn, nên Ngài tiến lên các cõi Thiền cao hơn là Phi Tưởng, Phi Phi Tưởng, Thức Vô Biên Xứ, rồi Không Vô Biên Xứ...!

Trong bốn cõi Thiền Vô Sắc vừa kể: Khi an trụ ở hai bậc đầu, đức Phật không còn Tâm Sở vi tế nữa, và khi an trụ ở hai bậc sau, Tâm Vương (hay tâm Phật) tự động trở nên vô lượng vô thượng, và vũ trụ hạn chế! Mà Ngài còn vượt qua vạn pháp và hằng hà vũ trụ vô hạn chế nữa!

Trong khi đức Phật đang nhập định trên thạch sàng (tảng đá dùng làm giường) thì A Nan Ða thỉnh thoảng hỏi sư huynh Anaruddha, một người anh em ruột của ông, và cũng là một thiền sư có định lực, siêu đẳng, gần bằng đức Phật, xem đức Thế Tôn đã nhập Niết Bàn chưa? A Nan Ða đã gọi Anaruddha là đại huynh (bhante), mặc dù hai anh em cùng xuất gia, thọ giới trong một ngày!

Anaruddha lúc ấy cũng ngồi thiền, sử dụng định lực để theo dõi đức Phật. Thỉnh thoảng ông xả thiền để thông báo cho chư tông đồ biết tình trạng tâm linh của đức Bổn Sư ra sao...

Khi Anuruddha nghe A Nan Ða hỏi câu: "Bạch sư huynh! Ðức Thế Tôn đã Nhập Diệt chưa?!" thì ông trả lời rằng:

"Nầy sư đệ A Nan Ða! Tâm Phật còn đang ở cõi Thiền Không Vô Biên Xứ, tức là Phẩm Vô Sinh đã kết quả trong Ngài, còn Phẩm Bất Diệt mới vừa "chớm nỡ"! – Nghĩa là đức Phật đang kề sát Niết Bàn, chứ chưa Viên Tịch!"

Anuruddha trả lời như vậy, vì ông đã sử dụng tối đa thiền lực mình. Ông chỉ có thể "theo Phật" lên tới cõi thiền thứ 8, rồi dừng ở đó, chứ không thể "đi cao" hơn nữa!

Về phần đức Phật, sự nhập Niết Bàn của Ngài quả là một điều kỳ diệu. Phật không bắt buộc mình phải chết! Ngài cũng không cố ý kéo dài sự sống! Khi tâm Phật vượt qua Tam Giới, lên đến cõi thiền thứ 9 rồi, mà hơi thở trong nhục thân chưa tắt, một số tế bào của xác thịt còn hoạt động, thì Ngài quay lại cõi thiền thứ nhất, để cho chúng nó (những tế bào "còn sống") được cân hữu với tâm linh mà hoạt động! Rồi Ngài lần lượt tiến lên các cõi thiền cao hơn, từ thứ 2, thứ 3, thứ 4 ..v..v... cho đến tuyệt đích nhập Niết Bàn! Cứ như thế mà Phật tuần tự, hết lên rồi xuống, hết xuống rồi lên..., chờ đợi các cơ quan trong thân thể của Ngài hết tuổi thọ, tự động chấm dứt!

Và khi nhóm tế bào cuối cùng trong thân thể Phật ngưng hoạt động, thì thiền tâm Phật đang ở cõi định thứ 4, Ngài ung dung phủi sạch bụi luân hồi, tiến lên các bậc thiền cao hơn thứ 5, thứ 6, thứ 7, thứ 8, thứ 9 rồi Nhập Diệt!

Lần chót nầy Anuruddha cũng tận dụng thiền định theo Phật, để làm bổn phận thông tin. Nhưng khi ông lên đến cuối bậc thiền thứ 8, thì ông không còn tiếp xúc với thần quang của đức Phật nữa! Anuruddha thận trọng quay lại các bậc thiền thấp hơn để "tìm" Phật, nhưng chẳng thấy Ngài đâu cả, ông mới biết chắc rằng đức Bổn Sư đã nhập Niết Bàn!

Lúc ấy vào đúng nửa đêm, ngày trăng tròn tháng tư âm lịch! vầng trăng khuya đã chênh chếch về phương tây!...

Khi toàn thân của đức Phật thực sự ngừng hoạt động thì... bỗng nhiên quả đất rung rinh, bầu khí quyễn chuyển động, cấm sét nổi lên trên không trung...! Ðúng như lời tiên đoán của đấng Toàn Giác!

Phạm Thiên Sahampati, bậc đã đắc quả Bất Lai mà cũng là vị trời đã yêu cầu Phật thuyết pháp lần đầu trên thế gian (trước đó 45 năm) liền xuất hiện để cúng dường Phật bằng câu kệ:

"Luật vô thường hằng chi phối vạn vật!

Ngay cả một vị Phật còn không tránh khỏi"

Vua trời Ðế Thích cũng hiện ra hình và lập lại ý nghĩa một câu Phật ngôn mà vua đã từng nghe rằng:

"Tử sinh là cõi phù du,

Sinh còn, tử mất, công phu luân hồi!"

Trời Ðế Thích vốn là một vị tiên đã đắc quả Nhập Lưu, nên ông thuộc lòng rất nhiều Phật ngôn!

Người thứ ba cúng dường Phật là Anuruddha. Ông ứng khẩu mấy câu kệ ngôn như sau:

"Thanh tịnh thay là giờ Nhập Diệt!

Ðấng từ bi thanh khiết vô lường!

Buồn vui, sướng khổ không còn,

Vượt ra tam giới mười phương Niết Bàn!"

Nhưng A Nan Ða thì âu sầu, than tiếc, nói ;

"Còn chi khi đã mất thầy,

Cõi trần vô nghĩa, thân nầy vô duyên!"

Sau cùng là toàn thể 500 tỳ khưu đệ tử Phật, vì hầu hết chưa đắc Quả Thánh, tâm tư còn chứa nhiều phàm tình, ái dục, nên họ đồng loạt khóc lóc, thương tiếc đức Phật một cách thảm thiết chẳng kém gì A Nan Ða.

Trưởng Lão Anuruddha thấy vậy liền khuyên nhủ, nhưng chư phàm tăng chẳng vơi được nổi buồn. Anuruddha là một thiền sư có thần nhãn, nên ông thấy cả các hàng thiên chúng cũng đang than khóc. Ông bèn nhắc lại lời dạy của Phật về định luật vô thường cho chư phàm tăng nghe. Ðoạn để lôi kéo sự chú ý của họ, hầu giảm bớt nỗi đau đớn, ông cũng nói cho các phàm tăng biết hiện có động đảo chư thiên đang lui tới lẽ bái nhục thân đức Phật...

Suốt đêm hôm đó Anruddha nói chuyện không ngừng về Pháp bảo với mọi người. Ðối với A Nan Ða, suốt 45 năm trường, sống đời sống xuất gia, và cùng có chung một Bổn Sư, ông chưa bao giờ có những giây phút "đàm đạo" thân thiết, cởi mở, như trong trường hợp nầy! A Nan Ða quả thật vô cùng khổ não và cần sự an ủi của ông, một người anh ruột, mà cũng là một đạo huynh trong đời sống phạm hạnh!

Khi trờì gần sáng thì Anuruddha bảo A Nan Ða mang tin tức Phật đã nhập Niết Bàn, truyền rao trong quần chúng Mallas. Giữa giới những đại tông đồ của đức Phật, hiện diện nơi ấy, Anuruddha được coi là bậc huynh trưởng, nên đương nhiên ông phải gánh vác nhiệm vụ đôn đốc mọi việc.

Sau đó, dân chúng Mallas từ thành Kusinàrà đã mang đến đầy đủ, mọi vật dụng cần thiết, để tổ chức đại lễ Trà Tỳ hỏa táng cho đức Phật. Họ đã tuyển chọn những tràng hoa trầm hương, gỗ quý, vải đẹp và thảm mầu tốt nhất, để thiết lễ trong bảy ngày. Những điệu nhạc dành an táng các hàng vua chúa và những vũ khúc cao trọng nhất cũng được họ trình diễn cúng dường Phật.

Ngoài ra, dân chúng Mallas, trong khi nói chuyện họ chỉ bàn bạc với nhau xung quanh đến những vấn đề có liên quan đến đức Phật mà thôi. Chẳng hạn như họ nói:"Chúng ta ngưỡng mộ đức Phật thì phải tổ chức lễ hỏa táng thật trọng thể! Chứ buồn bã hối tiếc có ích gì?!". Một số người thì nói:"Suốt cuộc lễ Trà Tỳ nầy, chúng ta phải thường trực dâng hương bằng vũ điệu, và đọc kinh bằng kệ ngâm, để nói lên sự cung kính của chúng ta!". Còn những người trí thức thì bảo rằng:" Ðức Phật xuất hiện trên đời là mang ơn ích lại cho toàn thể chúng sinh! Ngài đã đi khắp đó đây cả nước Ấn Ðộ để ban bố Pháp Giải Thoát, và bây giờ đã Viên Tịch, Ngài còn để lại cho chúng ta, cộng đồng tăng lữ gương mẫu, và tám muôn bốn ngàn Phật ngôn là quý báu lắm rồi!"

Vào ngày thứ bảy thì họ dựng lên một giàn hỏa để thiêu thân đức Phật...

Khi ấy, đại trưởng Lão Ca Diếp (Mahà Kassapa, người trước đó không có mặt trong cuộc hành trình cuối cùng của đức Phật, bỗng được linh tính xui khiến, dẫn một đoàn tùy tùng hướng về thành phố Kusinàrà. Ðại ca Diếp lúc gặp một tu sĩ đạo Lõa Thể hỏi tin tức đức Phật thì mới hay đức Bổn Sư đã Nhập Niết Bàn cách đó 7 ngày.

Một lần nữa, người ta lại chứng kiến cảnh những phàm tăng trong đoàn tùy tùng của Ðại Ca Diếp bắt đầu than khóc, thương tiếc đức Phật...

Tuy nhiên, trong số nầy, có một tỳ khưu mới xuất gia, lòng trần chưa dứt, không muốn khép mình vào giới luật nhà Phật. Ông hay tin ấy liền tỏ ra mừng rỡ, tuyên bố rằng: "Như vật là từ nay về sau không còn ai coi chừng hạnh kiểm nữa, chúng ta có thể làm bất cứ chuyện gì chúng ta thích! Ðức Thế Tôn qua đời chính là một sự giải thoát cho chúng ta!"

Và điềm báo hiệu Phật Giáo suy đồi cũng bắt đầu từ đó! Tỳ khưu nầy là tượng trưng của khát vọng, của sân hận và của si mê tăm tối! Tỳ khưu ấy đã bị chư phàm tăng trong đoàn tùy tùng của trưởng Lão Ðại Ca Diếp gọi là "kẻ phá hoại" quả thật không sai!

Khi vua và toàn dân Mallas được mời mỗi người đốt một que diêm bỏ lên giàn thiêu nhục thân đức Phật thì tất cả đều vụt tắt, không có ai có thể mồi lửa được! Anuruddha biết rõ nguyên nhân bèn tuyên bố rằng:"Hiện tượng ấy là do chư thiên đã ngăn cản..., vì cuộc lễ Hoả Táng phải đựợc Trưởng Lão Ðại Ca Diếp chủ tọa...!"

Anuruddha nói mấy câu ấy không bao lâu thì đoàn tăng lữ do Ðại Ca Diếp dẫn đầu cũng vừa đến. Vị Trưởng Lão nầy không nói không rằng, Ngài dẫn đoàn tỳ khưu tăng tùy tùng đi xung quanh linh cữu của đức Phật ba vòng, thì lửa tự nhiên bốc cháy ...! (Hành động đi xung quanh nhục thân của đức Phật ba vòng là một việc làm tượng trưng cho sự kính trọng cao nhất thuở bấy giờ!).

Khi đóm lửa sau cùng của giàn thiêu tắt, người ta chỉ tìm thấy thân Phật biến thành những hạt nhỏ màu trắng, mà không có tro tàn trong linh cữu bằng sắt chứa Ngài!.

Khi các vị quốc vương của mấy nước lân cận hay tin đức Phật đã nhập Niết Bàn, gần thành Kusinàrà. Họ lập tức gởi nhiều sứ giả đến chia phần hài cốt (hay xá lợi) của Phật để đem về xây tháp phụng thờ.

Vua bộ lộc Mallas, lấy lý do đức Phật đã nhập Niết Bàn trong lãnh thổ của ông, nên ông không muốn phân chia xá lợi cho bất cứ kỳ ai khác. Lý lẽ của ông đã gây ra một sự tranh cãi sôi nổi, suýt gây chiến tranh.

Lúc bấy giờ có một đạo sĩ hiền triết thuôc giai cấp Bà La Môn thấy tình hình căng thẳng như thế, vội can gián rằng: "Thật là vô lý phải dùng chiến tranh để giải quyết sự giữ phần hài cốt của một bậc trọn đời chỉ biết gieo rắc hạt giống hòa bình?! Bần đạo đề nghị xá lợi nên chia đều ra 8 phần: 7 phần cho 7 vị sứ giả và một phần cho quốc vương Mallas!".

Nhờ thế mà cuộc tranh cãi đã trở thành êm dịu! Và để cám ơn sự trọng tài của đạo sĩ hiền triết Bà La Môn kia, quốc vương Mallas liền tặng cho ông chiếc bình bằng đá, dùng đựng Xá Lợi Phật trước khi chia! Còn tro tàn của các loại củi và trầm hương làm lò thiêu thân Phật, sau đó được trao cho một giai cấp phật tử đến muộn.

Kết quả: về sau có đến 10 thánh tích, 10 bảo tháp tôn thờ hài cốt của đức Phật!(tức là 8 phần xá lợi cộng với phần thứ 9 là cái bình và phần thứ 10 là tro tàn của củi quý!).

10. A Nan Ða Sau Khi Ðức Phật Viên Tịch.
Theo Tôn túc kệ ngôn (Theragathà) số 1035 và 1036 thì sau lễ Hỏa Táng của đức Phật A Nan Ða đã trở thành ít nói và thích ẩn thân trong tịnh thất của mình.

Một hôm ông tự thán rằng:

"Ðạo huynh đà khuất bóng (1)

Tôn sư cũng mất rồi!

Hợp tan như giấc mộng...

Mình phải liệu thân thôi!

Gương lành không còn nữa!

Gương xấu thấy dẫy đầy (2)

Tự mình lo tu sửa...

Thiền lực nhẫn nại xây!

Như cánh chim giữa gió

Tổ là sức định tâm!

Lục căn gìn giữ nó.

Theo thiện pháp chớ nhầm!"

(N. Ð thoát dịch thành thơ và xin chú giải: (1) "Ðạo huynh đà khuất bóng" ám chỉ đức Xá Lợi Phất đã tịch! (2) "Gương xấu thấy dẫy đầy" tức là sau đức Phật nhập Niết Bàn, các phàm tăng bắt đầu dễ duôi).

Kể từ đó A Nan Ða tự biết rằng mình chỉ còn một phận sự là tinh tấn giải thoát bản thân, theo như lời Phật đã dạy!.

Khi chia tay, Trưởng Lão Ðại Ca Diếp đã từ bi khuyên ông nên đến tịnh tu trong ngôi rừng thuộc địa phận Kosala, vì ở đó gần hai bộ tộc Mallà và Sakyans (giòng Thích Ca), ông sẽ được chư Phật tử nhiệt thành hộ độ.

Khi dân chúng trong các vùng phụ cận hay tin đệ tử thân nhất cũng là anh em chú bác của đức Phật về ngụ tu trong rừng đó, họ kéo nhau đến thăm A Nan Ða rất đông...

A Nan Ða tưởng chỉ có mình là nhớ thương đức Phật và Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên dai dẳng thôi, nào ngờ chư Phật tử xung quanh rừng ông ở, cũng luyến tiếc ba bậc ấy vô cùng. Lại nhằm lúc vị vua cha xứ Kosala được nhiều thần dân thương mến là Pasenadi, cũng vừa băng hà, nên họ kéo nhau đến nhờ A Nan Ða an ủi họ, không những về sự khuất bóng của đức Phật, và của hai vị thánh tăng Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên, mà họ còn xin được an ủi về sự băng hà của Thái Thượng Hoàng Pasenadi nữa! Vị cố Thái Thượng Hoàng nầy càng nhân đức bao nhiêu thì các hoàng tử con ông lại tàn ác, hiếu chiến bấy nhiêu, nên sự băng hà của Thái Thượng Hoàng đã làm cho toàn thể thần dân chịu một cảnh mất mát rất lớn!

Bốn sự từ trần: của đức Phật, của Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên cũng như của Thái Thượng Hoàng Pasenadi đã xảy ra trong cùng một năm, nên ngày đêm dân chúng ở các vùng xung quanh ngôi rừng A Nan Ða ẩn tu, không chịu được những tiếc buồn dồn dập, liền kéo đến tịnh thất của A Nan Ða...khiến cho ông không bao giờ cô độc!

Ngoài ra, còn có một vị thần, sống trong rừng ấy hiện ra để lễ bái A Nan Ða. Vị thần nầy đã khen ngợi sự tiến bộ tâm linh của ông và khuyên A Nan Ða tịnh tâm bằng mấy câu kệ rằng:

"Giờ bên gốc cây ngồi yên tĩnh...

Tâm Ngài theo Thiền Ðịnh Niết Bàn!

Khuyên Ngài dạ chớ hoang mang.

Tập trung ý chí linh quang sẽ bừng!

A Nan Ða được vị thần ấy khích lệ như vậy thì tự kinh cảm, nên sau đó tinh tấn vô cùng. (theo Samyutta Nikàya: Tạp A Hàm số 9.5).

Về phiá đại Trưởng Lão Ca Diếp, vị tôn túc cao hạ nhất trong các hàng sa môn đệ tử Phật, thì việc thi hành những di chúc cuối cùng của đức Bổn Sư rất quan trọng. Ngài đã quyết định triệu tập chư tỳ khưu thánh tăng để lập lại những giáo lý và kinh luật Phật truyền. Theo đó khoảng 500 vị A La Hán còn tại thế phải có mặt đông đủ, cộng thêm sự hiện diện của một phàm tăng là A Nan Ða. Vì ngoài A Nan Ða ra, không có một sa môn nào có hữu phúc được nghe hầu hết những bài pháp của Phật thuyết.

Nhưng tình hình chính trị của xứ Kosala nhất thời đang bất ổn, các vị hoàng tử tranh nhau ngôi vua, nên địa điểm kết tập Kinh Luật Phật Giáo lần thứ nhất ấy phải dời đến Vương xá Thành, thủ đô xứ Ma Kiệt Ðà (Magadha) và đặt dưới sự che chở của vua A Xà Thế (Ajàtasattu).

Khi đến gần ngày kết tập kinh luật (1) thì Anuruddha lại đề nghị: Sư đệ A Nan Ða chỉ được chấp nhận vào đại hội nếu ông đắc quả A La Hán (1) (Ðại hội kết tập giáo điển lần thứ 1, không có Tạng Luận, chỉ có Tạng Kinh và Tạng Luật mà thôi!). Anuruddha nhờ có tha tâm thông, biết rõ sự quyết tâm của A Nan Ða ra sao, nên mới đề nghị như thế, để khích động và thúc dục Tôn giả A Nan Ða, tinh tấn hơn nữa, cho mau đạt đến Thánh Quả Giải Thoát!

A Nan Ða lúc hay tin đó, ông không những chẳng buồn giận chút nào, mà còn tình nguyện chăm chỉ tối đa, tận dụng khả năng Minh Sát của mình, đã được đức Phật đích thân chỉ dạy, để tiến lên Thánh Quả Giải Thoát. (Trong kinh còn gọi quả nầy là quả Hữu Dư Niết Bàn: tức là hành giả đã đắc Niết Bàn rồi, mà nhục thân vẫn còn sống!).

Vào buổi bình minh ngày hôm sau, khi A Nan Ða đang an trụ trong một bậc thiền thì ông chợt cảm thấy một cách không nghi ngờ rằng tâm tư ông đã trở nên trong suốt, mọi dục tình, phiền não biến mất. Ông biến thành một thánh nhân A La Hán...!

Và ngày đại hội kết tập kinh luật cũng đến. Ðịa điểm là một cái động nằm sâu trong lòng núi, chỉ có một cửa vào được khóa kín. Năm trăm vị thánh tăng A La Hán phải dùng thần thông để vô dự hội. Khi họ đã có mặt đầy đủ và chổ ngồi của A Nan Ða còn bỏ trống ; chư thánh tăng đang chờ đợi thì một luồng ánh sáng xuyên qua khe cửa, chiếu vào chổ ngồi còn trống ấy, đồng thời A Nan Ða xuất hiện!

Chư thánh tăng, nhất là Anuruddha và Ðại Ca Diếp (Mahà Kassapa) thấy A Nan Ða đã viên tròn hạnh nguyện, liền tán dương công đức và khai mạc đại hội. Lúc ấy nhằm mùa thu, nên chư phàm tăng các vùng phụ cận không thể đến, để lễ bái cộng đồng thánh tăng được. Còn chư phàm tăng ở xa thì tự nhiên phải vắng mặt!

Ðại Ca Diếp được bầu là chủ toạ và diễn tiến cuộc kết tập kinh luật như sau:

1 - Trưởng Lão Ðại Ca Diếp đã đặt những câu hỏi về mọi điều luật, đến sa môn Upali, người được mệnh danh là "kẻ nhớ rõ các pháp cấm"! Sa môn Upali nầy đã trả lời đầy đủ, nhắc lại cả lý do, địa điểm, thời gian và nhân chứng, khi đức Bổn Sư chế ra giới luật ấy! Rồi cứ như thế mà tiếp tục, nên Tạng Luật đã được kết tập trước tiên!

2 - Tiếp theo Trưởng Lão Ðại Ca Diếp hỏi A Nan Ða về các kinh Phật đã thuyết: Mở đầu là những bài kinh dài, có chung sử đề, để kết tập thành một bộ gọi là Trường A Hàm (Dìgha Nikàya). Kế đến là những bài kinh trung bình, cùng chung một sử đề, góp lại thành một bộ, gọi là Trung A Hàm (Majjhima Kikàya). Sau đó là những bài kinh ngắn, cũng chung sử đề, xếp đặt thành một bộ, gọi là Tiểu A Hàm (Khuddaka Kikàya). Chót hết A Nan Ða nhắc đến những bài kinh rời rạc, khác sử đề, để gom lại thành Tạp A Hàm (Samyutta Nikàya), hay nhắc đến những bài được liệt kê bằng các chi số, sử đề độ lập, gọi là Tăng Nhất Chi A Hàm (Anguttara Nikàya) v.v...

3 - Sau khi Tạng Luật và Tạng Kinh đã được đúc kết đầy đủ, A Nan Ða bèn trình bày những di chúc của đức Phật để lại. Ông thuật trước đại hội rằng đức Bổn Sư trước khi nhập Niết Bàn, đã cho phép tăng chúng hủy bỏ những giới luật không cần thiết. Nhưng đại hội thánh tăng đã không đồng ý, vì ý nghĩa của ba chữ "Không cần thiết" chẳng có tiêu chuẩn rõ ràng!

Chủ tọa Ðại Ca Diếp (Mahà Kassapa) liền đề nghị:

"Nếu chúng ta hủy bỏ một số điều răn của đức Phật thì các hàng tại gia sẽ dị nghị, cho rằng chư sa môn xuất gia, không bao lâu sau khi đức Bổn Sư viên tịch, đã bắt đầu biếng nhác, không muốn giữ giới luật! Hơn nữa, Phật cũng không dạy rõ điều luật nào là điều luật không cần thiết! - Tốt hơn hết là đừng hủy bỏ bất cứ pháp răn nào cả! Như vậy chúng ta sẽ chắc chắn không sợ làm sai tôn ý của đức Phật!?"

Và lời đề nghị của đại Trưởng Lão Ca Diếp đã được hoàn toàn hội thánh tăng chấp thuận!

Qua phần phụ hội, các sa môn nghiêm tính đã phàn nàn rằng: Thứ nhất có một khuyết điểm liên quan đến Tạng Luật. A Nan Ða đã không hỏi Phật điều luật nào là điều luật không cấn thiết! Khuyết điểm ấy bây giờ A Nan Ða nên sám hối! Và thứ hai, A Nan Ða, lúc Phật còn tại tiền, thường dậm lên y Phật, căng ra để vá ...

A Nan Ða vui vẻ trả lời rằng: "Khuyết điểm thứ nhất, khi đức Thế Tôn lâm trọng bệnh, bần đạo tâm tư quá bối rối, nên quên mất. Thứ hai, lỗi lầm đứng lên y Phật vì sơ ý muốn tiện lợi để vá, chứ không vì bất kính đối với đức Phật! Tuy nhiên, nếu chư đạo huynh đã nhắc nhở, thì bần tăng xin sám hối!"

Rồi liên quan đến với cách đối xử của A Nan Ða cuối cuộc lễ Hỏa Táng của đức Phật, các vị sa môn nghiêm túc còn tiếp: Thứ ba, A Nan Ða khi ấy đã dành ưu tiên cho phái nữ đến lễ bái Xá Lợi Phật trước cả hàng cao đồ Phật giáo!(?).

A Nan Ða liền vui vẻ trả lời: "Vì lúc ấy bần tăng chưa đắc Quả Giải Thoát, và đối với một người còn phàm tính, khi những tín nữ muốn được chiêm bái Phật mà bắt họ chờ lâu, là một điều tội nghiệp! Giờ đây bần tăng là Bậc Giác Ngộ vậy xin sẵn sàng nhận lỗi!"

Sau cùng, một số thánh tăng cũng không quên nhắc cho A Nan Ða nhớ rõ: hành động không thỉnh Phật Khoan Nhập Niết Bàn của ông là một lỗi lầm vô cùng quan trọng!

A Nan Ða tự biết lỗi, nên thành thật tỏ bày rằng: "Chính Ma Vương (Mara) đã ám ảnh ông, khiến cho tâm trí tăm tối. Chứ trên thực tế ông mới là người đệ tử sợ Phật sớm nhập Niết Bàn nhiều hơn ai hết!"

Cử chỉ của A Nan Ða đối với những lời phê bình ấy, quả thật đáng kính trọng. Ông đã phục tùng trước sự phán quyết của chư thánh tăng, mà không một mảy may bất mãn! - Dù trong thâm tâm, ông tự biết rằng: Những lỗi lầm do vô tình phạm phải thì luôn luôn đáng tha thứ!

Sau đó, A Nan Ða thuật tiếp, đến một di chúc khác mà đức Phật đã dạy, ngay trước khi Ngài nhập Niết Bàn. Di huấn nầy có liên quan đến thẩm quyền của Giáo Hội về việc trừng phạt tỳ khưu Channa, một người đã bất tuân nghiêm giáo của đức Bổn Sư.

Nghe A Nan Ða trình bày xong, đại hội đồng thánh tăng liền yêu cầu A Nan Ða đích thân áp chuyển di giáo lệnh ấy đến Channa. A Nan Ða thực thà nói rằng "Ông không thể một mình làm được công tác nầy, vì Channa là một người cộc cằn và vô kỷ luật!".

Ðại hội đồng thanh ủy nhiệm cho A Nan Ða dẫn theo một số tỳ khưu để áp đặt giáo lệnh Phật đến tỳ khưu Channa.

Thế là A Nan Ða vâng lời, dẫn một đoàn tỳ khưu tăng, lên đường đi Kosambi, nơi Channa ẩn ngụ, để công bố giáo lệnh cuối cùng của đức Phật. Giáo lệnh ấy ấn định rằng: "Nếu tỳ khưu Channa tiếp tục chống lại giáo hội, thì ông sẽ bị khai trừ khỏi Phật Giáo!" (Lời thêm của dịch giả: Theo nguyên văn trong kinh Ðại Niết Bàn, thì tỳ khưu bất tuân Phật huấn sẽ bị "khai tử" khỏi giáo hội! - Tức là xem như đương sự đã "chết" rồi, không còn kể trên cộng đồng tăng chúng nữa!).

Sự trừng phạt nầy, đức Phật lúc sinh tiền cũng đã từng giải rõ: Ngài lấy thí dụ như một người tập ngựa kiên nhẫn và đầy kinh nghiệm, nhưng không huấn luyện nổi một con ngựa! Cuối cùng người tập ngựa phải đem nó bán vào lò sát sinh, vì giữ nó không ích lợi chi cả! Một con ngựa mà không chịu kéo xe, không biết kéo cày, không muốn mang bất cứ cái gì trên lưng hết, thì chỉ có lò sát sinh chờ đợi nó! – Tương tự như thế: Nếu một bậc xuất gia mà không chịu thuần thục trong thiện pháp ví chẳng khác nào họ tự "khai tử", gạch tên họ, trong danh sách tăng già Giáo Hội!

Trường hợp một tỳ khưu mất dạy như thế cứ ở lỳ trong cộng đồng tăng lữ thì Phật ra lệnh cho chư đệ tử không được nói chuyện, không được tiếp xúc, không được khuyên nhủ hay dạy dỗ chi cả! Tất cả đồng tẩy chay kẻ cố ý sống vô kỷ luật ấy!

Channa nghe A Nan Ða thuật xong di giáo của đức Phật thì kinh cảm và hoảng sợ vô cùng, ông kinh sợ đến phải ngất xỉu. Lúc ông tỉnh dậy, một niềm hổ thẹn sâu xa lại dày vò tâm tư ông! Nhất là ông xấu hổ vì sự trừng phạt ấy đã do chính đức Phật giao lại cho giáo hội thi hành, trước khi Ngài viên tịch!

Và cũng vì chuyện hổ thẹn sâu xa ấy, mà ông càng lúc càng thức tỉnh, đồng thời quyết lòng phục thiện! - Người ta không ngờ sự cứng đầu của một Channa ương nghạnh, trước lời di huấn trừng phạt của đức Phật, đã nhường chỗ cho một tinh thần phục thiện, mạnh mẽ đến mức, kể từ đó ông chỉ biết chăm lo tu hành, để chẳng bao lâu, ông đã đắc quả A La Hán.

Bởi thế, sự trừng phạt của đức Phật, tự nó đã chứng tỏ rằng: vào phút chót, trước khi nhập Niết Bàn, đức Phật đã để lại cho di huấn tối hậu, có thể chuyển hóa nổi một tâm hồn si mê, tăm tối, mà ít ai ngờ trước được! Từ đó, trong Phật Giáo, chỉ có một Channa thánh tăng, rất thanh tịnh, lúc nào cũng sống với sự an lạc, chứ không còn một tỳ khưu tên Channa ngoan cố nữa!

Sau khi Quả Thánh đã đạt rồi, một hôm sa môn Channa đến yêu cầu A Nan Ða triệu tập hội đồng giáo hội để ông sám hối và xin A Nan Ða hủy bỏ lệnh trừng phạt. A Nan Ða liền thân thiện trả lời rằng: "Tất cả tăng chúng đều hay tin sư đệ đắc Quả Bất Lai rồi! Sư đệ chỉ cần đến lể bái trước xá lợi của đức Bổn Sư, hầu tăng lên phúc đức! Còn lệnh trừng phạt tự nó đã hết hiệu lực kể từ khi hiền đệ chứng Quả Giải Thoát!"

Và câu chuyện của Channa đã kết thúc một cách toàn thiện như thế!

Kế đến, là thời gian hậu Phật bắt đầu: Các thứ bậc lãnh đạo trong giáo hội tăng già tự nhiên được thành hình như sau:

- Trưởng Lão Ðại Ca Diếp (Mahà Kassapa) là vị thượng thủ cao hạ nhất, lớn tuổi nhất và dày đức hạnh nhất được tín nhiệm vào vai trò lãnh đạo toàn thể Giáo Hội. Chúng ta có thể gọi Ngài là vị Tăng Thống đầu tiên trong Phật Giáo! Còn đức Phật là bậc Giáo Chủ, sáng lập ra Phật Giáo. Xin chớ lầm lẫn!

Bởi thế những kẻ thiện tâm sau nầy, khi muốn nhập đạo Phật Giáo, họ sẽ xin quy y Phật, quy y Pháp, và quy y Tăng (đại diện là giáo hội), chứ họ không quy y với vị Tăng Thống. Chính Ðại Ca Diếp khi nhận lãnh phận sự tối cao đã xác nhận điều đó!

Theo lời Phật dạy thì Trưởng Lão Ðại Ca Diếp có đủ mười chi để đóng vai trò một bậc lãnh đạo cao cả. Mười chi ấy là:

1- Ðức hạnh giữ đúng Tạng Luật và hoàn toàn trong hành vi cử chỉ.

2- Học rộng và nhớ nhiều

3- Ðẩy đủ pháp tri túc

4- Vững chắc và thuần tục trong bốn bậc thiền.

5- Nhiều khả năng phi thường đối với cõi người và cõi trời.

6- Ðắc thiên nhĩ thông (nghe xa vạn dặm)

7- Ðắc tha tâm thông (biết chuyện kẻ khác đang suy nghĩ)

8- Ðắc túc mạng thông (biết quá khứ, vị lai)

9- Ðắc thiên nhãn thông (thấy xa vạn dặm)

10- Tâm không còn tham, sân, si: Phiền não nữa!

Trưởng Lão Ðại Ca Diếp quả là biểu tượng xứng đáng của một đại tông đồ hộ pháp vậy!

Người đứng hàng thứ hai trong Giáo Hội là A Nan Ða, vì ông là người được hầu hết (nếu không muốn nói là toàn thể) tăng tín đồ thương mến! A Nan Ða cũng là người đã được cộng đồng tăng lữ giao cho trách nhiệm hầu hạ đức Phật trong suốt 25 năm trường. Nếu tính từng giai đoạn thì A Nan Ða có 40 năm là sa môn trước khi trải qua 25 năm hầu hạ Phật. Rồi sau khi đức Bổn Sư viên tịch, ông sống thêm 40 năm nữa để phục vụ Phật Giáo. So sánh trong rất hiếm những người đại trường thọ như ông, thì chỉ ông là một bậc dày công tu luyện nhất!

Khi chư thánh tăng kết tập kinh luật Phật Giáo lần thứ hai, đúng 100 năm kể từ đức Phật nhập Niết Bàn, thì có một đệ tử chánh truyền của A Nan Ða còn sống. Vị nầy tên là Sabbakàmin, đã được coi như trưởng lão duy nhất còn sót lại từ thời đức Phật! (theo Cùlavagga XII (tiểu phẩm, chương 12) trong Tạng Luật, thì hoà thượng Sabbakàmin trường thọ đến 120 tuổi!)

Về phần thánh tăng A Nan Ða, khi Ngài sống tới 120 tuổi thì cảm thấy Niết Bàn gần kề. Thánh tăng A Nan Ða liền rời vương xá thành (Ràjagaha) đi về hướng Vesali, giống như đức Phật trước đó đã làm, để tìm nơi Viên Tịch, thì tin tức thấu tai vua nước Magadha (Ma Kiệt Ða) và thấu tai các vị hoàng tử xứ Vesali. Tất cả đồng loạt tìm tới Ngài để yêu cầu Ngài nhập Niết Bàn trong lãnh thổ của họ. Thánh tăng A Nan Ða không muốn cho xá lợi (hài cốt) của Ngài sau đó sẽ gây bất hoà trong những người ngưỡng mộ, bèn dừng chân tại biên giới giữa hai nước, rồi dùng thần thông nâng thân thể mình lên không trung...

Ðoạn thánh tăng dùng lửa tam muội tự động thiêu lấy thân, rồi chia xá lợi ra làm hai phần rơi ngay ngắn trên hai lãnh thổ, để họ nhặt về dựng bảo tháp tôn thờ!

Ðể tưởng nhớ tới sự nhập Niết Bàn linh diệu ấy, trong tôn túc ngôn số 1049 (Theraganthà 1049), có câu thơ rằng:

"Ðại La Hán, A Nan Ða đức hạnh!

Một anh hùng trong biển khổ trầm luân!

Toàn hào thay bậc chấp pháp trọn lành.

Giờ nhập diệt cũng tránh điều tranh luận!"

(N. Ð mạo muội thoát dịch)

Và với những giòng thơ tán dương ấy, dịch giả xin thành kính kết thúc sử đại lành nầy của A Nan Ða, một vị A La Hán Phật!

(Dịch xong tại Paris ngày 11 tháng 8 năm 1991 – Dương lịch – Phật lịch: 2535)

Thơ Cúng Dường Thánh A Nan Ða

Ðêm hôm trước Người còn Tu Ðà quả.
Rạng ngày sau, A La Hán đắc rồi!
Tám mươi hai ngàn Pháp Bảo tinh khôi (1)
Người đã thuật vẹn toàn trong động đá!
Vào đại hội Thánh Tăng bằng phép lạ...
Oai đức nào hơn giác lực tinh anh?!
Một tia sáng xuyên vào nơi lỗ khóa...
Người nghiễm nhiên trên tọa cụ an lành!
Giữa cõi thế, thần thông là của quý.
Giải thoát rồi thì có nghĩa gì đâu?!
Ðời sống thánh là cuộc đời dung dị.
Ðộ tận người mê, giải bớt niềm đau!
Khi tuổi thọ hết rồi thì nhẹ gánh...
Người lên đường tìm nhập diệt phương xa...
Nhưng xác thịt vẫn còn phần phúc hạnh.
Vương tước tranh nhau giữ lại đất nhà!
Ðể giải quyết cho vẹn toàn ân đức.
Người nâng mình lên, thiêu giữa không trung.
Lửa tam muội đốt thân bừng sáng rực ...!
Xá lợi chia đội di tặng hai vùng!
Sự viên tịch đưa Người vào sử sách,
Kỳ diệu ngày xưa cho đến ngàn sau...
Một vị thánh tăng A La Hán Phật!
Ðời sống Anan, kiếp chót nhiệm mầu!

N. Ð kính tưởng niệm
(1) Trong Phật Giáo có 84000 pháp môn mà thánh tăng A Nan Ða đã thuộc lòng 82000 rồi!

Một Bài Thánh Thi Của Tôn Giả A Nan Ða

Ðã nhớ rồi, tám mươi hai ngàn chân lý.
Và hai ngàn nghe lại của đệ huynh!
Cộng tám mươi bốn ngàn Phật Pháp cao minh (1).
Giải thoát cho mình và năm mươi thế kỷ (2)!
Người không hiểu, không nghe điều chân chánh (3)
Thì đời trôi như con vật kéo xe...
Tuy bắp thịt tỏ ra chiều khỏe mạnh.
Nhưng tâm linh bị tham ái mù che!
Ai đã học nhiều pháp lành cứu rỗi.
Mà chẳng hành, còn khinh mạn phàm phu.
Ví như kẻ có đèn không đốt rọi!
Thấy gì chăng trên biển khổ sa mù?!
Gặp bạn tốt, ta hiểu rành Pháp Bảo...
Không buông trôi, ta cố gắng thực hành!
Và nhờ thế ta sẽ vào thánh đạo.
Hộ pháp sau nầy hậu thế nêu danh!
Bậc thiện trí trước sau hằng phân biệt.
Nghĩa lý nhân duyên, hạt quả rõ ràng!
Ngôn ngữ ví như phương trình đã viết (4),
Ðáp số nằm trong minh sát thiền quang!
Giác tĩnh càng chuyên, định tâm càng vững.
Theo dõi sắc danh thấy nó mọi đàng ...!
Giác ngộ đến rồi, thánh tâm liền chứng!
Trí huệ bừng lên soi thấu Niết Bàn!
(Nguyễn Ðiều thoát dịch theo Tôn Túc kệ ngôn, các câu số 1024, 1025, 1026, 1027, 1028 và 1029 = Theragathàs 1024-1029)

Ghi Chú:

(1) Giáo lý đức Phật tổng cộng có 84000 pháp môn (Dhammakhandhas)

(2) "Năm mươi thế kỷ" là tuổi thọ của đạo Phật Thích Ca! Sau 5000 năm thì lời dạy của đức Giáo Chủ Cồ Ðàm sẽ không còn được thế gian tin nữa!

(3) Thời cổ Ấn Ðộ, sự học không xuyên qua sách vở như ngày nay mà chỉ nhờ khẩu khẩu tương truyền. Nên người ta đã sử dụng lỗ tai nghe để học nhiều hơn.

(4) Theo nguyên bản tiếng Phạn, thì câu này ám chỉ nghĩa, lý, nhân và duyên nằm trong một tổng hợp phức tạp gọi là "ngôn ngữ". Vì vậy bậc thiện trí thức phải dùng "Tuệ Phân Tích" (Patisambhidà) để hiểu một vấn đề theo nghĩa đen (văn phạm) và theo nghĩa bóng (hàm lý)!


Về Menu

cuộc đời thánh tăng ananda (phần 7) cuoc doi thanh tang ananda phan 7 tin tuc phat giao hoc phat phat phap thien phat giao

nhung loi ich cua viec tin va song theo dinh luat Ăn nho đừng bỏ vỏ Thương chet khat ben canh dong song học ban nang va ly tri theo quan niem phat giao cÃƒÆ dung bao gio de nan au dam giet chet giac mo cua Tập Chá như bóng không rời hình voi Khởi động Ngày Chay Thế giới ngẫm lời đức phật dạy la hầu la về Ngó nguoi nam cham bi mat cua luat hap dan Lòng ẩm thực và những giới luật liên quan Khái lùi giá hạnh vua a xa the va hoc thuyet tay phuong cuc lac vòng Tờ nằm テス đức ngá thu gian Cảm thảnh sửa cậu nguong cải Để lòng nhẹ nhàng bình an hoằng pháp đối với tuổi trẻ Chùa Làm thế nào để có quả tim khỏe 5 tan o thai lan Nước dinh đẻ thuê dưới góc nhìn của một tu sĩ 10 tu tanh sau xa cua tam phan 2 phát nghĩ Tôi con đường dẫn tới bình an Lạc Ung hồi Sen làng đã mọc 2 nỗi Ống giã trầu của nội