Người thường ai chẳng đi đến cái chết. Biết nhận thức là biết mình sẽ chết, tại sao không ai chuẩn bị? Đời người, phần lớn có mấy chục năm để chuẩn bị, nhưng người ta lại dùng lượng thời gian đó sống vì bản ngã nên ngược chiều với Đạo.
Người ta sẽ đặt câu hỏi: Là một người trẻ, nghĩ đến cái chết bây giờ có quá sớm? Tôi sẽ trả lời: Không quá muộn song chẳng còn sớm nữa. Cái chết đến với chúng ta bất cứ lúc nào. Không ai dám khẳng định người đang hấp hối sẽ chết trước một thanh niên khỏe mạnh. Người thường ai chẳng đi đến cái chết. Biết nhận thức là biết mình sẽ chết, tại sao không ai chuẩn bị? Đời người, phần lớn có mấy chục năm để chuẩn bị, nhưng người ta lại dùng lượng thời gian đó sống vì bản ngã nên ngược chiều với Đạo. Nếu nghĩ đơn thuần, chuẩn bị cho cái chết nghĩa là viết tờ di chúc phân chia của cải, và cụ thể hơn: lo trước đám tang mình; thì hết sức sai lạc. Suýt nữa ông phạm sai lầm trầm trọng cuối đời. Hay nói khác đi, nhờ duyên phước nên con ông đã mời các cô ở chùa về tiếp dẫn. Các cô không phiền gì gia đình, đến cả bữa cơm cũng tự mua lấy. Thay nhau niệm Phật từ 7h sáng (lúc dượng tôi hấp hối) đến 6h tối. Vài người bắt đầu thấy khó chịu, bảo ông bị “ép” nghe A di đà Phật nên không muốn đi. Tội nghiệp, các cô đến niệm Phật những giờ phút cuối dượng tôi an lòng về bên kia, ai ngờ dượng vẫn còn... khỏe. Không khó để làm rõ điều này. Bên khoa học cho biết nhiều trường hợp chết lâm sàng; còn Phật giáo giải thích rất thỏa đáng. Khi một người ngừng thở, phải cần từ 8 đến 12 tiếng để các thức rời hẳn thân xác, gồm: nhãn thức, nhĩ thức, tĩ thức, thiệt thức, thân thức, ý căn, mạt-na thức, a-lại-da thức (tạng thức). (Người ngừng thở mà các thức rời bỏ nhanh chóng tức đã đắc Pháp, còn không thì người ấy quá gian ác - chết lập tức bị lôi đi đầu thai vào đường ác đạo hoặc xuống địa ngục luôn). Trong đám tang của dượng, tôi đã “cãi” một người; đến cùng người này vẫn muốn thấy linh hồn tròn méo thế nào mới tin. Tôi hỏi, có phải tất cả kiến thức có trong đầu anh hầu hết do học/đọc sách. Anh gật. Vậy anh đã đọc về sự sống sau cái chết? đã đọc phía bên kia cõi sống? đã “xem” cảnh giới thân trung ấm? Anh lắc. Ngài Karmapa Pagshi đã được chính các đệ tử tuyên nhận tái sinh của [vị tiền nhiệm] Karmapa Dusum Khyenpa, dựa trên chính những chỉ dẫn được để lại cho đệ tử bởi vị tiền nhiệm ấy. Đại sư Gedun Drub thị thịch vào năm 1474 ở tuổi 84. Hai năm sau, người ta buộc phải tuyên nhận đứa trẻ Sangye Chophel ra đời vào năm 1476 tại Tanak ở vùng Tsang bởi những gì đứa trẻ đó nói ra không chút sai trật về cuộc đời trong quá khứ. Quyền năng tư tưởng Phật giáo nghiễm nhiên thừa nhận việc người đã mất vẫn nhận được ý nguyện [phát liên tục] của người sống; điều này cũng áp dụng được giữa người sống với nhau nếu có nội lực tâm linh. Ví như ai đó ghét, căm thù ta nhưng ta luôn luôn cảm thương lại, một lòng nguyện cho họ tốt hơn, lúc gặp lại tự dưng sự ghét và căm thù đó được hóa giải. Ấy là sóng tâm như khoa học vẫn dùng một dạng sóng khác kết nối các điện thoại và nhiều loại máy lại với nhau không hạn định thời không. Dượng tôi thật may phước, vừa được các cô niệm A Di Đà Phật suốt 8 tiếng, lại có con cháu nguyện sinh. Riêng tôi luôn luôn “nhắn nhủ” ông hãy niệm đến lúc nào Phật hoặc Bồ tát xuống tiếp dẫn, theo các Ngài chứ không theo bất cứ ai, kể cả người thân. Theo kinh Địa Tạng, lúc lâm chung oan gia trái chủ sẽ biến hiện làm quyến thuộc để “rủ” họ vào ác đạo báo thù xưa. Bao nhiêu ý nghĩ trôi qua đầu; người sắp chết nghĩ về con cháu, nghĩ về vợ/chồng, bè bạn v.v, ý nghĩ nào đến ngay ở khoảnh khắc tắt thở, sẽ ảnh hưởng một cách “nghiêm trọng” đến kiếp sau. Người sắp chết nhập tâm A Di Đà Phật, sác xuất tạp niệm len vào những giây cuối đời càng ít, cơ hội Phật độ càng lớn. Tôi là một thứ gì đó còn rất mù mờ; chẳng rõ dượng mình đã tới đâu, song ít ra dượng tôi không vô cùng đau đớn trong khoảng thời gian các thức chưa rời hẳn. Đó là niềm an ủi lớn khiến tôi đỡ ân hận khi dượng đau yếu lại không có bên động viên an ủi. Ai cũng sẽ hao hụt người thân. Hiểu đúng về phía bên kia cõi chết, chúng ta sẽ bớt đau khổ. Chính sự khóc lóc thương xót người sắp về nơi vĩnh hằng là mang trọng tội bởi biết đâu họ sẽ luyến níu không bước nổi về vùng sáng mà chui vào màn tối ngạ quỷ, bị âm binh sai khiến hoặc đơn giản ở lại “sống” bên mồ mả của chính họ. Trên trời có bao nhiêu vì sao? Trái đất thậm chí còn nhỏ hơn cả chấm sáng dày đặc trên bầu trời? Con người trên trái đất đó, hãy tưởng tượng, bé xíu biết bao. Bây giờ các nhà khoa học đã tìm ra sự sống trên sao hỏa. Điều đó cho ta mường tượng về cuộc sống của lớp người nào đó từng tồn tại cho tới lúc sao hỏa khô kiệt bởi văn minh công nghiệp, họ đã di trú tới một hành tinh khác (như trái đất chẳng hạn).
Một chiều ngang qua vùng Hải Lăng - Quảng Trị, tôi dừng chân viếng tượng Địa Tạng lần ngài “trở lại” cõi nhân gian. Địa Tạng - kho tàng Tâm, nơi sinh ra các Pháp. Địa Tạng kinh - cuốn kinh quý nhất trong Phật giáo được mười phương chư Phật tới dự thính ghi lại nội dung quan trọng: khi Phật nhập diệt đã phó thác cho Bồ tát Địa Tạng giáo hóa cõi ta bà (gồm tam thiên đại thiên thế giới). Điều đặc biệt, Bồ tát nguyện cứu vớt hết thảy chúng sinh nơi địa ngục (Địa ngục vị không thệ bất thành Phật). Bây giờ tôi đang ngồi dưới “pháp thân” của Ngài, thật logich - nghĩ về cái chết.
Cái chết sẽ đến thình lình, chóng vánh. Nó khiến chúng ta không kịp trở tay, không kịp nói những điều cần nói và làm những điều cần làm. Tần Thủy Hoàng thời thịnh trị dễ chừng xoay được cả trái đất nhưng việc tìm thuốc trường sinh thất bại. Cuối cùng cái chết thảm thương đến với ông ngoài dự liệu. Không ai sống mãi trừ các vị Phật.
Xin dẫn ví dụ. Dượng tôi là giảng viên đại học môn Lý. Một người hiền lành, sống giản dị, cần kiệm, đặc biệt không tin thế giới tâm linh. Nghỉ hưu trên chục năm thì dượng phát hiện ung thư phải mổ 2 lần, bệnh viện trả về. Thời gian chưa đầy tháng, ông bình thản tỉnh táo lo việc chung gia đình và lên kế hoạch đám tang. Sợ phiền đến con cháu và mọi người, ông dặn không được để dài ngày. Lời dặn quan trọng thứ 2 là không nên tụng kinh...
Hiểu ý vài người thân của dượng, các cô lặng lẽ ra về. Sáng hôm sau nữa ông mới mất; nghe tin các cô lật đật tới liền. Ngoài đời có ai tự nguyện giúp vô tư như vậy? Chỉ có tấm lòng hướng nguyện của những người tu mới làm được thế. Các cô dặn ít nhất để dượng tôi nằm yên, tuyệt đối không ai chạm vào trong vòng ít nhất 8 tiếng, và các cô niệm Phật trong suốt thời gian đó. Thêm một nguyên cớ để số ít người nhà dượng tôi bằng mặt mà không bằng lòng.
Có thể ví người vừa ngừng thở như nồi nước sôi nhấc khỏi lửa, khoảng vài phút thì “lặng sóng”; lúc đó (lúc chưa đủ ít nhất 8 tiếng), ai đụng vào liền đau đớn chẳng khác ta nhúng tay vào nồi nước nóng đó. (Trong kinh ví như rùa sống lột mai). Người cố chấp cứng nhắc cho Phật giáo dành cho những ai tu; mình không tu cớ gì thực hành tâm linh như trên. Nhầm. Cái chết là sự chung, đâu riêng chúng sinh hay tăng - ni - Phật. Truyền giảng giáo Pháp, Thích Ca không phân biệt đẳng cấp thứ bậc, màu da.
Vậy sao tôi dâng lên trước mặt anh tất cả loại sách quý đó do các vị Lạt ma, Lama hóa thân, các vị từ cõi âm trở về viết lại, sao không ngó qua. Rất khó. Tôi vẫn biết không phải cứ thông minh uyên bác là thẩm thấu tâm linh, bởi Phật đi vào mỗi người bằng đường Tâm chứ không phải qua trí lộ. Đạt Lai Lạt Ma 14 lần đầu thai hóa độ thêm chúng sinh với đầy đủ minh chứng được cả thế giới thừa nhận, vẫn quá ít người tin.
Tại Việt Nam: đứa bé khoảng mươi tuổi giảng pháp không thua một vị tu học suốt nửa đời người. Đấy không phải kiến thức tồn lưu tại thức thứ tám từ những kiếp trước là gì?! Và mới đây, đứa trẻ vắt mũi chưa sạch lại viết tiểu thuyết mấy trăm trang dung chứa toàn kiến thức khoa học cao xa. Hay một trường hợp thật khác: người mẹ trên mình có hình xăm, con vừa lọt lòng cũng có hình xăm y chang; khoa học có mà giải thích đằng trời nếu không chịu thừa nhận thuyết luân hồi.
Nam mô A Di Đà Phật hướng về vùng sáng. Phía ấy có vùng xám đen và vùng sáng trắng. Vùng sáng chính là Phật tiếp dẫn. Vừa qua núi, linh hồn trở thành... mê hồn - hoang mang, đức lại mỏng nên thường sợ hãi chạy qua vùng đen - dễ nghiệp sinh, lâm vào địa ngục. Cho dù không tu, con người ta hấp hối và suốt nhiều giờ các thức rời khỏi, A Di Đà Phật cứ dội vào tâm não; chỉ cần cầm duy nhất câu đó qua bên kia đã thật nhiều hy vọng siêu sanh.
Đa phần những linh hồn [còn ngoài mộ] là những “người” đánh mất 7 lần cơ hội Phật và Bồ tát đến tiếp dẫn trong 49 ngày. Các nhà ngoại cảm ở Viện tiềm năng về con người từng trò chuyện với nhiều trường hợp chết đã mấy trăm năm. Không dứt được cái tình, họ ở lại quanh quẩn bên người thân, chẳng ngờ trượt đà chứng kiến cảnh con cháu chít chắt nối nhau về trời mình vẫn còn đứng đó.
Chuẩn bị cái chết đúng nghĩa, là sống đời thanh đạm không tham ái, không để tám ngọn gió thế gian (lợi dưỡng - không lợi dưỡng, danh vọng - không danh vọng, vui - buồn, khen - chê) cuốn theo dòng ô trược uế nhiễm của xã hội văn minh công nghiệp; là xả bỏ tham sân si, thanh lọc thân tâm, đập vỡ bản ngã trương phình che khuất cả mặt mũi tầm nhìn.
Chuẩn bị cho cái chết, chúng ta sẽ không còn sợ hãi cái chết nữa. “Nếu bạn thương yêu những cái cây, mặt trời hoàng hôn, những con chim, chiếc lá rơi; nếu bạn nhận biết được những người đàn ông và phụ nữ đang rơi nước mắt, những người nghèo khổ, và thực sự cảm thấy tình yêu trong quả tim của bạn, liệu bạn sẽ sợ hãi chết?" (Cuộc đời trước mặt - Krishnamurti).
Sau bao nhiêu thời gian, [vùng đất hoang hóa] sao hỏa hồi sinh, trong lúc trái đất đang già cỗi... Cuộc sống trần ai chỉ là lát cắt đồng đại trong thăm thẳm chiều thời gian vũ trụ. Nếu ta chỉ tính “cái chớp mắt” này mà không chịu hiểu con người còn phải trằn qua hàng tỉ kiếp trước và hàng trăm nghìn kiếp kế tiếp nếu không chịu hành Đạo, thì sẽ thấy rất nhiều bất công oan trái.
Chưa thể nhìn xa hơn, hãy sáng suốt nghĩ về sự chết của chính ta; hãy xem đây như một môn học rất bình đẳng với vô vàn các loại kiến thức khác vô tình hay hữu ý chúng ta đã nạp vào não trạng mình.
Thu Hương (Tuvien.com)