GNO - HT.Thích Thái Không, thế danh là Hoàng Long Phi, sinh ngày 7-7-1902 (Nhâm Dần) tại Bến Tre...

Húy kỵ lần thứ 31 cố Đại lão HT.Thích Thái Không

GNO - Sáng 23-2 (nhằm ngày 24 tháng Giêng năm Giáp Ngọ), BTS GHPGVN tỉnh Trà Vinh phối hợp tổ đình Lưỡng Xuyên tổ chức lễ húy kỵ lần thứ 31 cố Đại lão HT.Thích Thái Không và hiệp kỵ chư vị tiền bối tổ sư tại chùa Lưỡng Xuyên (số 03, đường Lê Lợi, TP.Trà Vinh, tỉnh Trà Vinh).

>> Trà Vinh: Khai mạc Đại giới đàn Thái Không

1 Thai Khong.jpg
Chùa Lưỡng Xuyên - Trà Vinh

HT.Thích Thái Không, thế danh là Hoàng Long Phi, sinh ngày 7-7-1902 (Nhâm Dần) tại xã An Nhơn, huyện Thạnh Phú, tỉnh Bến Tre.

Xuất thân từ một gia đình nông dân nghèo, có truyền thống tin đạo. Năm 1917 (Đinh Tỵ), ngài xuất gia đầu Phật nơi Tổ Khánh Hòa tại chùa Tuyên Linh thuộc xã Minh Đức, huyện Mỏ Cày, tỉnh Bến Tre. Tại ngôi chùa này, ngài đã cần mẫn miệt mài tu học, rồi được lần lượt thọ Sa-di và Cụ túc.

Năm 1930, phong trào chấn hưng Phật giáo ở miền Nam phát khởi từ Hòa thượng Khánh Hòa, Bổn sư của ngài. Vì thế ngài được tiếp xúc thường xuyên với Sư Thiện Chiếu, cùng nhau hợp tác với Hội Nam Kỳ nghiên cứu Phật học. Ngài lấy bút hiệu bằng chính pháp danh của mình, để tham gia viết bài cho tờ báo Từ Bi Âm, góp phần chuyển tải những giá trị tinh hoa Phật học cũng như lịch sử Phật giáo nước nhà, un đúc thêm niềm tin yêu Phật pháp và khêu gợi lòng yêu nước, tự tôn dân tộc trong mọi tầng lớp độc giả.

Khi các hoạt động của Hội Nam Kỳ Nghiên cứu Phật học tạm lắng bởi những khó khăn khách quan, ngài trở về với Hội Phật học Lưỡng Xuyên, tiếp tục cống hiến tài sức làm lợi ích cho sự nghiệp chánh pháp, phụ lực với Tổ Khánh Hòa, Huệ Quang, Khánh Anh và cư sĩ Trần Quỳnh là chủ bút tạp chí Duy Tâm để đào tạo Tăng tài cho Phật giáo miền Nam.

Năm 1944, ngài trở về trú xứ chùa Tuyên Linh thuộc xã Minh Đức, huyện Mỏ Cày, tỉnh Bến Tre. Nơi đây, vì giúp đỡ che giấu nhiều chiến sĩ cách mạng, ngài bị giặc Pháp bắt điều tra, đánh đập và giam cầm sáu tháng. Nhờ Tổ Khánh Hòa lãnh ra cho về chùa Viên Minh ở một thời gian. Sau đó, vì e rằng ngài tiếp tục hoạt động móc nối với các chiến sĩ cách mạng, thực dân Pháp không còn cách nào khác hơn là quản thúc ngài tại chùa Viên Giác, thị xã Bến Tre, hòng cách ly với quần chúng Phật tử và dập tắt lòng yêu nước nơi ngài. Nhưng ngài vẫn giữ lòng kiên định với dân tộc và đạo pháp.

Cuối năm 1941, do chiến tranh giữa thực dân Pháp với các lực lượng kháng chiến, Hội Lưỡng Xuyên Phật học không thể tiếp tục hoạt động vì thiếu nguồn tài trợ. Ngài chọn con đường kháng chiến chống Pháp, theo cách mạng ra chiến khu. Năm 1945, ngài được bầu làm Trưởng ban Chấp hành Hội Phật giáo cứu quốc tỉnh Bến Tre và là thành viên Mặt trận Việt Minh tại quận Giồng Miếu.

Từ năm 1947 đến năm 1949, ngài còn là Trưởng ban chia cơm xẻ áo cho Vệ quốc đoàn tỉnh Bến Tre.

Năm 1951, ngài được điều về công tác tại xã Long Hòa kết hợp với nhiệm vụ xây dựng lại từ đầu công việc hoằng hóa.

Năm 1960, tại Bến Tre phát động cuộc Cách mạng Đồng Khởi, ngài được đề cử giữ chức Ủy viên Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam tỉnh Bến Tre, kiêm Chủ tịch Mặt trận Dân tộc Giải phóng huyện Thạnh Phú.

Năm 1969, ngài trú xứ tại xã An Nhơn, huyện Thạnh Phú, được Hội đồng Lưỡng viện GHPGVNTN đề cử trụ trì chùa Lưỡng Xuyên - Trà Vinh ngày 11-10-1970 và được suy cử làm Trưởng ban Giáo dục Tăng Ni và Giám Luật.

Từ đó cho đến năm 1975, với danh nghĩa GHPGVNTN, ngài hoạt động công khai và giữ liên lạc thường xuyên với cách mạng, nhất là với các cán bộ tôn giáo kiều vận Trung Nam bộ.

Năm 1975, sau khi đất nước thống nhất, ngài được cử vào UBMTTQVN thị xã Trà Vinh.

Năm 1976, ngài được bầu vào HĐND tỉnh Cửu Long, nhiệm kỳ I. Và đến năm 1977, là UV MTTQVN tỉnh Cửu Long nhiệm kỳ I, II đồng thời là UV HĐND thị xã Trà Vinh nhiệm kỳ III.

Năm 1981, ngài là thành viên ban trù bị Đại hội Phật giáo thống nhất họp tại thủ đô Hà Nội.

Sau khi GHPGVN được hình thành, ngài được suy cử làm thành viên HĐCm GHPGVN nhiệm kỳ I.

Ngài đã xả báo an tường sau cơn bạo bệnh vào ngày 24 tháng Giêng năm Quý Hợi (8-3-1983). Trụ thế 81 năm và 60 năm đạo nghiệp.

T.Trí Minh


Về Menu

Húy kỵ lần thứ 31 cố Đại lão HT.Thích Thái Không

築地本願寺 盆踊り La triet ly nhe nhang trong am nhac cua trinh cong 蒋川鸣孔盈 ä ç æžœ 佛教書籍 ส ะนนะ 阿那律 luận về dục nguồn gốc của khổ đâu 경전 종류 Lược sử Đức Thánh tổ Ni Đại Ái Lễ giỗ Tam Tổ Huyền Quang tại an tru bay gio 七五三 大阪 仏壇 おしゃれ 飾り方 佛教教學 Chén cơm đầy của Me Tưởng niệm Tổ khai sơn chùa Phước tang พ ทธโธ ธรรมโม ทาน Giữ sức khỏe khi ôn thi mùa đông yêu thương hiếu TÃÆ binh Sự thật về Bồ Đề Đạt Ma đại sư Cấu câu rá ng Nét chữ của mẹ tôi 供灯的功德 曹洞宗総合研究センター 度母观音 功能 使用方法 อธ ษฐานบารม Thư gửi mẹ từ nước 上座部佛教經典 福生市永代供養 Nhà hàng chay Nguyệt Tâm giảm giá 20 願力的故事 phÃp Ngày Tết nói chuyên ăn chay 墓の片付け 魂の引き上げ 精霊供養 Tuân thủ năm giới bình an cho chính Thế giới nhỏ nhoi Làm gì để giảm biểu hiện của 俱緣果 Mỡ ÄÆ khai niem can ban cua dao phat giao ly duyen thể