Xứ tôi ở gần biên giới Campuchia, trước mặt là ruộng, sau lưng là những dãy núi che chở. Đất nầy thích hợp cho người lỡ vận, sa cơ. Dân Khmer ở thành từng sóc biệt lập dọc theo chân núi, mỗi sóc đều có ngôi chùa cổ khang trang, kiến trúc cùng một mẫu, hai mái chồng lên nhau, gió luồn vào chùa mát mẻ. Trên nóc có Thần Rắn nằm, dưới mái có Thần Hầu đỡ. Ông Tà Ul chỉ ngôi chùa Préa Theat nói: “Hồi ông ngoại tôi đã có chùa vậy rồi, ba mươi mấy ông sãi cả”.

	Làm phước

Làm phước

Xứ tôi ở gần biên giới Campuchia, trước mặt là ruộng, sau lưng là những dãy núi che chở. Đất nầy thích hợp cho người lỡ vận, sa cơ. Dân Khmer ở thành từng sóc biệt lập dọc theo chân núi, mỗi sóc đều có ngôi chùa cổ khang trang, kiến trúc cùng một mẫu, hai mái chồng lên nhau, gió luồn vào chùa mát mẻ. Trên nóc có Thần Rắn nằm, dưới mái có Thần Hầu đỡ. Ông Tà Ul chỉ ngôi chùa Préa Theat nói: “Hồi ông ngoại tôi đã có chùa vậy rồi, ba mươi mấy ông sãi cả”.

Ở đâu có khói có lửa là có người Hoa. Góc núi Sóc Mẹt, trước thời Pháp không biết lý do gì mà dân Hoa cũng tới đây. Họ tới bằng cách nào khi đế sậy ngập đồng, nước tràn mênh mông? Nhiều ông già Khmer da đen, mặt Khmer, nói tiếng Khmer rặt, mà họ Huỳnh, họ Trần, họ Lâm… Chùa Ông Bổn (gọi tắt là chùa Ông) là trung tâm tinh thần.

Dân “An Nam” mình không nhiều, có lẽ đến đây theo những đợt di dân, đào kinh của ngài Thoại Ngọc Hầu và Nguyễn Hữu Cảnh. Họ ở dọc theo bờ kinh Tây đào, sống nhờ ruộng và cá. Nghèo mà xây được cái đình rộng, cây song quanh tường bằng gỗ sao. Không có thần để thờ, họ đành mượn sắc thần chợ Cây Me thờ.

Người Việt và người Khmer ít chung đụng. Việt ở theo kinh, làm ruộng bưng. Khmer sống dọc theo núi, làm ruộng trên, thêm nghề làm rẫy trồng rau. Người Việt thì rất Việt, người Khmer thì rất Khmer, như nước với dầu chứ không phải như nước với lửa. Xóm người Việt thì không có người Khmer, sóc người Khmer thì không có người Việt, chỉ buôn bán đổi chác ở chợ. Xưa, dư ăn dư để nên không cần cạnh tranh lấn lướt nhau, chưa va chạm nhau lần nào.

Dân Hoa ở quanh chợ, lúc đó nhiều người “Từng Xua chẻm lái” (bên Đường Sơn vừa qua), tiếng Việt không rành, hiếm có người biết chữ Hoa ở trình độ viết được cái thư. Biết chữ thì ai bỏ xứ đi? Vì dốt, vì nghèo mới qua Nam Việt. Ở Chợ Lớn không kham, ở lục tỉnh không nổi, trôi giạt về đây, có cơm ăn cơm, có cháo ăn cháo. Dân Hoa hòa đồng được với Việt và Khmer nhưng có vẻ thân Khmer hơn vì Khmer hiền, Việt thì khôn hơn.

Nói cho ngay dân Khmer nếu là đàn ông mới có cơ hội biết chữ Khmer lõm bõm nhờ vô chùa tu mấy tháng trả ơn cha mẹ. Học xong trả hết lại cho mấy ông sãi. Dân Việt còn vài người già biết chữ Nho. Năm 1963 còn thấy được một người già, mặc bà ba đen, đầu quấn khăn, ngồi viết liễn chợ tết. Chữ quốc ngữ đàn ông ai cũng biết, trình độ cao nhứt là lớp 3. Các bà không biết chữ, bắt mấy đứa cháu đọc giảng truyện Hoa, thơ Vân Tiên cho nghe. Thằng bé có cơ hội tập đọc nhuần nhã, cả hai bà cháu, người đọc, người nghe rồi thuộc luôn.

Bà chết đi, thằng bé lớn lên được thấm nhuần chút văn hóa cũ, trong đó mọi người đều tin ở “phước đức”. Hai chữ phước và đức đi liền nhau, người có đức mới có phước, người làm phước mới tạo đức. Ý niệm nầy tôi không nghe nói và không biết tìm từ ngữ nào tương đương trong Anh ngữ.

Chữ Đức tôi tìm không ra từ nguyên và cách giải thích trong chữ Nho. Chữ này gồm bộ xích (bước đi ngắn), chữ thập (số 10), chữ tứ (số 4), chữ nhứt (số 1) và chữ tâm (tấm lòng).

Học trò xưa đọc cho dễ nhớ: “Chèo bẻo vắt vẻo cành tre (bộ sách giống con chim chèo bẻo đứng trên cành tre), thập trên tứ dưới, nhất đè chữ tâm”.

Chữ Phước bộ kỳ bên là chữ nhất (một), khẩu (miệng), điền (ruộng), có một miệng ăn, có ruộng là giàu, được sức mạnh thiêng liêng che chở (kỳ). Ý nói mấy ổng làm ăn phát tài là nhờ mấy ổng ngay thẳng, ngay thẳng theo kiểu mấy ổng đặt ra, buôn bán phải giữ chữ tín, thiếu tiền thì phải trả; nhưng làm ăn, ai vốn lớn càng ngày càng phát, đè bẹp người có vốn nhỏ. Phước chỗ nào?

Ở xứ nầy đặc biệt có chữ “làm phước”.

Chữ Phước đọc theo âm hai môi (bi-labial) /p-/ chứ không đọc theo âm môi răng (labio-dental) /f/, đây là âm rất xưa.

Chữ “làm phước” của dân Việt Nam xứ nầy làm chớ không nói. Dân Hoa, ngoài việc cúng chùa Ông Bổn, cũng bắt chước làm theo.

Dân Khmer cũng có chữ đồng nghĩa với “làm phước” của Việt Nam: “thơ buln”, “thơ” là làm, “buln” là phước.

Ba sắc dân với ba nếp sống văn hóa khác nhau, lại gặp nhau ở đất “phước địa”, nhờ sự trùng hợp này mà người giàu có cơ hội tạo phước đức cho con cháu. Như người ăn xin ngoài chợ: “Cô bác ơi, thân tôi đui tối tật nguyền, cô bác làm phước gặp phước”. Người nghèo không có gia sản cũng theo đó góp công làm phước. Kẻ công ngưòi của, người tận cùng khốn khổ nhận được cái lộc, đỡ khổ.

Dân Khmer thường đóng góp xây dựng chùa chiền, họ “thơ buln” tại chùa, có nhạc ngũ âm. Có khi làm ở nhà, phát tiền gạo cho người nghèo, thường thì “thơ buln” vài ngày, có khi cả tuần nếu nhà khá giả.

Trên những cánh đồng mùa khô đất nẻ, thỉnh thoảng có cái “xala” - nhà nghỉ mát, chỉ có bốn cây cột, cái mái đơn giản, bên cạnh là giếng nước. Buổi trưa nắng gắt giữa đồng không một bóng cây, người cày ruộng vào xala nghỉ mệt chốc lát, múc nước giếng lên uống đỡ khát. Mùa mưa, họ chen chúc đứng đụt mưa dưới mái xala.

Người Khmer theo đạo Phật Nam tông, có sẵn ý niệm thơ buln làm phước, bố thí trong đạo Phật, cụ thể hóa bằng cái xala và giếng nước giữa đồng, cũng như người Việt có để khạp nước và cái gáo dừa trước nhà đãi khách đi qua.

Quên kể, ông ngoại tôi thấy giếng nước Chơn Phnum ai đào sẵn dưới chân đồi. Trên đồi là nghĩa địa, chắc vậy mà nước trắng đục - “nước cốt”. Ông sửa sang, xây thành giếng, vét giếng, rồi để tên hiệu tiệm “Đức Phong” của ông. Ông làm phước nhờ cái giếng đó, bằng cách sửa chữa hàng năm để “lấy phước”. Có mấy người có tiền, muốn “chia phước” xin sửa giếng, đề tên trên thành giếng nhưng ông không cho. Theo tôi, ông giành phước chứ không phải làm phước. Làm phước còn đề tên cho người ta biết. Ông độc quyền làm phước, hưởng phước, không cho ai tham gia, giống như ông độc quyền đại lý xăng dầu, lúa gạo, nước mắm trong xứ.

Dân Việt dựa vào cơ sở sẵn có như đình chùa để làm phước. Người có của đóng góp tiền bạc, người khác lấy công mình đặt mua cây cỏ thuốc trên núi, ngày ngày chặt cây thuốc ra phơi hay sao thủy thổ, ông thầy thuốc nam hốt thuốc cho người bịnh miễn phí. Đây là lối làm phước thông thường nhứt ở quê tôi, chỉ giới hạn trong nhu cầu thuốc men.

Cá nhân làm phước cũng rất nhiều. Họ làm âm thầm, nếu lộ liễu quá thì không kham nổi. Bà già tôi nhờ người bạn ngoài kinh, biết ai bịnh bà bạn này sẽ tới tiệm thuốc bắc Bảo An Xương lấy thuốc, phát cho người bịnh; cuối tháng bà già tôi trả. Ông già tôi những ngày cuối cùng, biết mình sắp đi, mỗi sáng ông lấy tiền mới, ngồi trước cửa nhà, ai nghèo đi qua ông kêu lại cho. Cuối đời ông mới chịu xả, làm phước, dù lúc đó, sau 1975, không còn dư dả. Côn ngoại tôi xưa hơn, chỉ có ba bộ quần áo Tiều, may thêm quá ba bộ là ông cho, đầu đội nón chóp tre, chống gậy như cái bang. Con cháu cung cấp rượu Martel ngâm Cao Ly sâm, ông không uống lại mời bạn bè tới uống. Ông còn “làm phước hy hữu”: Mỗi sáng ông ghé trạm xăng củ Út tôi “tởi tiền” (quyên tiền) rồi mang ra chợ phân phát. Có lúc lẩm cẩm, ông xách gậy cái bang ghé nhà củ Sáu tôi (ông nầy hai, ba vợ, có chức sắc, thích uy quyền, ít qua lại với thân nhân, trừ khi mượn tiền). Ông vô tiệm gặp kiểm Sáu tôi, xin tiền. Bà nầy đang bán buôn chộn rộn, tưởng ông lẩm cẩm, không trả lời. Ông cứ đứng nằn nì xin cho được. Có người quen kéo ông ra khỏi tiệm, dẫn ông về. Hỏi ông xin tiền làm gì, ông chậm rãi nói: “Tao xin tiền nó để làm phước cho nó, ai cũng đưa tiền cho tao làm phước, chỉ có mình nó chưa đưa”. Ông tin như thiệt là làm phước gặp phước. Mà thực tế, gia đình tôi ai làm phước đều gặp phước, gia đình ai cũng khá, hầu hết ở ngoại quốc, còn ở Việt Nam cũng khá, trừ gia đình củ Sáu tôi, nghèo tới bán nhà, anh em không ai nhìn. Việc đó nhãn tiền, tôi muốn không tin cũng không được.

Ngày nay, việc làm phước quê tôi có tổ chức rộng lớn hơn, lấy căn bản chọn mặt gởi vàng, người đứng đầu phải có đạo đức. Thế hệ hiện tại, dù xa xứ mỗi lần trở về đều có người mua gạo phát cho người nghèo. Trẻ mà có lòng, đi xa thành công còn nhớ người nghèo, quý biết chừng nào.  

Bản thân tôi chưa làm được việc gì xứng đáng là “làm phước”, quanh quẩn quà biếu thân nhân, bạn bè quen biết ở xứ sở. Tâm tôi còn mong cầu “làm phước gặp phước”.

Quán chiếu chính mình, tâm tôi còn giới hạn, giúp ai cũng có điều kiện, chỉ nghĩ đến người gần nhứt. Tâm tôi chưa mở rộng. Làm điều gì tốt cho ai, tâm tôi còn cầu, có thể là một lời cám ơn, có thể mong tương lai được đền bù khi gặp khó khăn.

Từ đây về sau, hoàn cảnh tôi không cho phép tôi làm phước, tôi lại ở tư thế người nhận. Cứ ba tuần vào bệnh viện nằm nhận 750ml máu, máu cùng loại của người hiến máu. Nhiều lần thấy xe ngân hàng máu đậu ở khu phố, người ta đứng dưới cơn nắng nóng chờ tới lượt hiến máu. Anh lái xe truck vạm vỡ, tay chân mình mẩy xâm hình lạ lùng, hiến máu xong leo lên xe, cầm chai Coca ngửa cổ tu một hơi rồi mở máy xe chạy đi giao hàng. Anh làm phước theo nghĩa Việt Nam, nhưng anh coi đó bình thường như việc anh nốc cạn chai Coca giải khát, hết chuyện. Anh không nghĩ ngợi chuyện tội phước. Người Úc có quan niệm công bằng xã hội, mình có dư thì mình cho người đang cần, khi mình cần thì sẽ có người khác cho lại. Sòng phẳng.

Ngày nay xứ tôi người ta tiếp tục làm phước rất nhiều. Nhiều người làm thiện nguyện có uy tín, trong sạch, nấu cơm chay cho bịnh nhân và người thăm bịnh. Cơm gạo Thần nông, canh rau, củ cải kho mặn, qua bữa ăn cho người nghèo. Dân bổn phố đóng tiền, người bán rau cải thì cho rau cải bán dư. Sau mùa gặt, ghe nhóm từ thiện đi góp gạo qua các cánh đồng, người tự nguyện đóng góp vài giạ gạo, đầy ghe, đủ cho người bịnh ăn cơm mãn năm. Trong bếp sau nhà thương, người bửa củi, người nấu ăn, người lái xe chở bịnh. Người nghèo chết cũng được cái hòm bằng gỗ cây gòn, ván mỏng, sơn đỏ, đỡ tủi lòng.

Dân quê tôi dù sống nhiều năm trong xã hội nhiễu nhương, vẫn còn thấm nhuần tinh thần tương trợ, làm phước, âm đức dày, tương lai tất phải khá.

LƯU NHƠN NGHĨA (theo Tuổi Trẻ)


Về Menu

Làm phước

hạnh phục vụ Hoạ gio Magnesium khoáng chất cần thiết cho cơ 必使淫心身心具断 cần quốc sư thích phước huệ 1869 Để khỏe hãy vận động 30 phút mỗi dai sãi Đà Nẵng Húy nhật Hòa thượng Thích Tiền Giang Tưởng niệm 2 năm ngày HT Đức tin Tôi ông Gút gồ phan lam con hay hieu thuan kip thoi Tỉ tê với má Các món chay với bắp con quỷ vô thường 9 lưu ý để giảm nguy cơ ung thư 父母呼應勿緩 事例 18 ky nang song cho tuoi tre Chuyến xe cuối năm 西南卦 duong Ăn nhiều đậu nành có tốt cho sức tác dan Vai trò của Ni giới Việt Nam trong xã há ng cơm ï½ cà chua xấu ï¾ å Phát cau chuyen ve tam Cách thức rồng chìa Thiền trong cuộc sống Mối liên hệ giữa thầy 禮佛大懺悔文 Tiếng dân chuông vọng Viên minh yêu nhau là hiểu nhau cầu nguyện hay cầu xin hãy tu mau kẻo không mẹ