1- Huệ Viễn Đại sư: Đại sư Huệ Viễn (334-416) người Nhạn Môn, Sơn Tây. Thuở nhỏ tinh thông Nho, Lão cùng Bách gia chư tử. Trưởng thành xuất gia với Pháp sư Đạo An, chùa Nghiệp Trung, Hằng Sơn.

Lược sử 13 vị Tổ Tịnh Độ Tông

 

cacvito-1.jpg

1- Huệ Viễn Đại sư

Đại sư Huệ Viễn (334-416) người Nhạn Môn, Sơn Tây. Thuở nhỏ tinh thông Nho, Lão cùng Bách gia chư tử. Trưởng thành xuất gia với Pháp sư Đạo An, chùa Nghiệp Trung, Hằng Sơn.

Năm Thái Nguyên thứ 6 (nhà Tấn) Đại sư du hóa đến Tầm Dương, Giang Tây, thấy cảnh Lô Sơn rộng rãi đến lập tịnh xá tu trì. Sau ngài đến phía Đông Lô Sơn lập chùa tên Đông Lâm Thần Vận tự.

Tại chùa Đông Lâm, Đại sư Huệ Viễn đã lập Bạch Liên xã, xiển dương pháp môn niệm Phật, trước tác kinh luận hoằng dương Phật pháp như các bộ: Đại trí luận yếu lược, Pháp tánh luận, Sa môn bất bái vương giả luận… cho đến ngày vãng sanh.

cacvito-2.jpg

2- Thiện Đạo Đại sư

Đại sư Thiện Đạo (613-681), người đời Đường. Năm Trinh Quán, nhân đọc Tịnh độ Cửu phẩm đạo tràng của Thiền sư Đạo Xước, ngài nhận ra: “Đây mới thật là cửa mầu đi vào cảnh Phật”.

Từ đó ngài tinh cần niệm Phật và truyền bá pháp môn Tịnh độ. Hơn ba mươi năm, Đại sư vừa hóa đạo, vừa chuyên tu, chưa từng ngủ nghỉ. Có đến hàng vạn người theo ngài tu tập niệm Phật.

cacvito-3.jpg

3- Thừa Viễn Đại sư

Đại sư Thừa Viễn (712-802), người đời Đường. Lúc mới xuất gia, Đại sư theo học với Đường thiền sư ở Thành Đô, sau đến Kinh Châu tham học với Chân thiền sư ở chùa Ngọc Tuyền.

Sau khi ngộ đạo, Đại sư Thừa Viễn đến Hoành Sơn hoằng hóa. Ngài lập nguyện khổ hạnh, tùy theo căn cơ chúng sanh mà chỉ dạy Thiền hoặc Tịnh. Về sau ngài dựng chùa Di Đà, khuyến hóa mọi người niệm Phật đông đến hàng vạn.

cacvito-4.jpg

4- Pháp Chiếu Đại sư

Đại sư Pháp Chiếu (747-821) người đời Đường, tu tập ở chùa Vân Phong tại Hoành Châu.

Năm Đại Lịch thứ năm, Đại sư đến chùa Phật Quang ở huyện Ngũ Đài. Tại đây, Đại sư được Bồ tát Văn Thù khai thị pháp môn niệm Phật, cầu vãng sanh Tây phương.

Từ đó về sau, Đại sư chuyên tâm niệm Phật và mở nhiều đạo tràng niệm Phật từ dân gian cho đến hoàng cung, hóa độ cho vô số người.

cacvito-5.jpg

5- Thiếu Khang Đại sư

Đại sư Thiếu Khang (?-805) họ Châu, người đời Đường. Tuổi nhỏ đã xuất gia, căn tánh lanh lợi, 15 tuổi đã thông suốt được năm bộ kinh.

Sau Đại sư đến viếng chùa Bạch Mã ở Lạc Dương. Nhân đọc Tây Phương Hóa Đạo của Đại sư Thiện Đạo nên phát nguyện hoằng truyền pháp môn niệm Phật.

Về sau, Đại sư thành lập Tịnh độ đạo tràng ở Ô Long Sơn. Tín chúng phát tâm niệm Phật rất đông.

cacvito-6.jpg

6- Diên Thọ Đại sư

Đại sư Diên Thọ (904-975), tự Xung Huyền, người đời Tống. Lúc thiếu thời, thích tụng kinh Pháp Hoa. Sau xuất gia với Thiền sư Thúy Nham, tham học với Thiều Quốc sư ở Thiên Thai, tỏ ngộ tâm yếu. Năm Kiến Long thứ hai, trụ trì chùa Vĩnh Minh, trước tác Tông cảnh lục, Vạn thiện đồng quy… mỗi ngày đêm tụng một bộ kinh Pháp Hoa, niệm 10.000 câu Phật hiệu. Người đương thời tôn xưng Diên Thọ Đại sư là Phật A Di Đà ứng hóa.

cacvito-7.jpg

7- Tỉnh Thường Đại sư

Đại sư Tỉnh Thường (959-1020), tự Thứu Vi, người đời Tống. Bảy tuổi xuất gia, sau trụ trì chùa Chiêu Khánh, thành lập Liên xã. Nhân việc trích máu chép phẩm Tịnh Hạnh của kinh Hoa Nghiêm nên đổi tên Liên xã thành Tịnh Hạnh xã. Đại sư hóa độ hàng vạn người đều tu tập theo pháp môn niệm Phật.

cacvito-8.jpg

8- Châu Hoằng Đại sư

Đại sư Châu Hoằng (1532-1612), hiệu Liên Trì, người đời Minh. Tuổi trẻ thông minh học rộng, có căn duyên với pháp môn Niệm Phật. Năm 32 tuổi, Đại sư xuất gia, học đạo với Tiếu Nham thiền sư, tham cứu câu “Niệm Phật là ai?” đạt ngộ. Niên hiệu Long Khánh thứ năm, Đại sư trú tại núi Vân Thê, trước tác bộ Phật thuyết A Di Đà kinh sớ sao, tận lực xiển dương pháp môn Tịnh độ.

cacvito-9.jpg

9- Trí Húc Đại sư

Đại sư Trí Húc (1599-1655), tự Ngẫu Ích, người đời Thanh. Thuở niên thiếu học Nho, sau nhân xem bộ Trúc song tùy bút của Đại sư Liên Trì và đọc kinh Địa Tạng phát ý xuất trần, phát tâm niệm Phật.

Về sau, Đại sư trụ trì trải qua các nơi: Ôn Lăng, Chương Châu, Thạch Thành, Thánh Khê, Trường Thủy và Tân An, rộng truyền giáo pháp Thiên Thai và pháp môn niệm Phật.

cacvito-10.jpg

10- Hành Sách Đại sư

Đại sư Hành Sách (1628-1682), tự là Triệt Lưu, người đời nhà Thanh. Năm 23 tuổi, xuất gia với Hòa thượng Nhược Am ở chùa Lý An.

Niên hiệu Khang Hy thứ hai, Đại sư cất am ở núi Pháp Hoa, tại Hàng Châu, chuyên tu Tịnh độ. Sau Đại sư trụ trì chùa Phổ Nhân ở Ngư Sơn, đề xướng thành lập Liên xã. Học giả các nơi hưởng ứng tu tập niệm Phật rất đông.

cacvito-11.jpg

11- Thật Hiền Đại sư

Đại sư Thật Hiền (1686-1734), hiệu Tĩnh Am, người đời Thanh. Khi xuất gia, tham cứu câu “Niệm Phật là ai?” được tỏ ngộ. Kế tiếp, Đại sư nhập thất ba năm ở chùa Chân Tịch, ngày đọc kinh, đêm chuyên trì danh hiệu Phật.

Đại sư lập Liên xã, soạn văn “Khuyên phát lòng Bồ đề” để khuyến khích tứ chúng, trọn đời tinh tấn tu tịnh nghiệp.

cacvito-12.jpg

12- Tế Tỉnh Đại sư

Đại sư Tế Tỉnh (1741-1810), tự Triệt Ngộ, hiệu Nạp Đường, người đời Thanh.

Thuở bé ngài đã thông thuộc kinh sử. Sau khi xuất gia, tham học với Tụy Như Thuần thiền sư ở Quảng Thông, tỏ ngộ thấu suốt, được truyền tâm ấn.

Đại sư trụ trì chùa Giác Sanh, kế đến là chùa Tư Phước ở Hồng Loa Sơn. Tăng chúng về nương ngày càng đông, khiến nơi đây trở thành đại tòng lâm. Đại sư chuyên tu tịnh nghiệp, chủ trương Liên tông, hàng ngày chuyên tâm lễ sám, niệm Phật. Vì pháp lợi sanh, Đại sư hoằng hóa không mệt mỏi, tất cả đều dùng Tịnh độ làm chỗ quy thú.

cacvito-13.jpg

13- Ấn Quang Đại sư

Đại sư Ấn Quang (1862-1940), hiệu Thường Tàm. Thuở bé Ngài học Nho, 21 tuổi xuất gia với Hòa thượng Đạo Thuần tại chùa Liên Hoa Động ở núi Chung Nam. Nhờ xem bộ Long Thơ Tịnh Độ, biết rõ công đức niệm Phật, nên quy hướng Tịnh độ, và khuyên người niệm Phật. Từ đó, Đại sư tiến bước trên đường tu học trải qua các danh lam như  chùa Từ Phước, Long Tuyền, Viên Quảng và sau cùng đến chùa Pháp Võ ở Phổ Đà Sơn.

Đại sư khuyến hóa đồ chúng giữ trọn luân thường, tin chắc nhân quả, lánh dữ làm lành, tín nguyện niệm Phật, cầu sanh Tây phương.

Sau Đại sư thành lập Tịnh Độ đạo tràng tại chùa Linh Nham, rộng truyền pháp môn niệm Phật.

TÂM NGUYÊN (Theo Liên Tông Thập TamTổ)


Về Menu

Lược sử 13 vị Tổ Tịnh Độ Tông

Lumbini mùa sếu về làm tổ Những lời chưa nói với ba 文殊 ta đi để lại gì không 南懷瑾 Chùa Phú Hòa tặng cơm chay mỗi tháng 2 bồ tát đạo hay tám tiết thơ giúp tập Ä Ã 唐朝的慧能大师 hương linh có bị đoạ địa ngục không kim điều quý giá nhất của đời người 三身 Mì Quảng chay của me coi sach 正智舍方便 phat giao la mot triet hoc hay la mot ton giao 全龍寺 結制 禅心の食事 Đường mạt Dấu hiệu bệnh khi thường xuyên khát minh sat tue 濊佉阿悉底迦 doc dao le hang thuan cua 14 cap doi ha thanh Mùng 1 Tết Nhà hàng chay Hoan Hỷ vẫn Quan niệm Phật giáo về thiên 阿摩羅識 åº Tóm liên trì cảnh sách một câu chuyện đáng suy ngẫm về lục nghĩ về điều giác ngộ thứ nhất trong Dấu chân chợ Tết thien tap cua he phai khat si ngay nay Điều trị lo âu Trò chuyện hiệu quả nên giáo dục cho trẻ em những giá trị Ăn Tết Ăn văn hóa một nén hương lòng tiễn đưa hương linh bạn có tin tưởng tái sinh không Phòng và trị Alzheimer Thay đổi lối Tra i cây ruô t tră ng ngư a đô t quỵ Dấu chân chợ Tết hoãƒæ hai khuynh hướng lớn trong lịch sử tư Nên ăn nhiều rau củ quả để giảm công đức phóng sanh chữ không trong kinh bát nhã Chữa hóc xương hoặc dị vật ở cổ xa punyayasas