Trong kinh Kim Cang Đức Phật dạy Phàm sở hữu tướng giai thị hư vọng , trên đời này cái gì có hình tướng cái đó là không thật, đều bị vô thường chi phối, có sinh có diệt, có hợp có tan, trăng tròn rồi khuyết không ai tránh khỏi
Suy ngẫm về câu chuyện Đức Phật và Hạt cải

Trong kinh Kim Cang Đức Phật dạy: "Phàm sở hữu tướng giai thị hư vọng", trên đời này cái gì có hình tướng cái đó là không thật, đều bị vô thường chi phối, có sinh có diệt, có hợp có tan, trăng tròn rồi khuyết không ai tránh khỏi.  


Thuở Phật còn tại thế, có một thiếu nữ dáng vẻ mảnh khảnh, ốm yếu, nghèo khổ, sống tại thành Xá Vệ, tên là Kisa (có nghĩa là cô gái ốm yếu). Khi lớn lên, cô cũng có chồng như bao người con gái khác; nhưng bị mọi người bên chồng khinh khi, coi thường, vì cô thuộc giai cấp hạ liệt, thấp kém, ở đợ, làm mướn.

Từ khi đứa con trai đầu lòng ra đời, cuộc sống của cô bắt đầu thay đổi, cô được mọi người bên chồng đối xử tốt đẹp và quý mến hơn. Nhưng bất hạnh thay, chẳng được bao lâu, đứa con của cô qua đời vì cơn bạo bệnh.

Đứa con chết làm người con gái ấy gần như điên loạn; dù đau khổ đến tột cùng, cô vẫn hy vọng sẽ có người cứu được đứa con của mình sống lại, nên ôm xác con đi tìm thầy cứu chữa.


Nhìn cảnh tượng thảm não, thất tha thất thểu lê từng bước chân để tìm thuốc cải tử hoàn sinh cho con mình, mọi người nhìn theo chỉ biết ngậm ngùi, thương tiếc; bởi việc cứu sống đứa trẻ là điều không thể được mà người con gái ấy vẫn nuôi hy vọng.

Có người vì quá xót thương, nên đã hướng dẫn cô đến gặp Như Lai Thế Tôn, mong nhờ đức Phật tế độ. Khi đến, cô tha thiết cầu xin Như Lai Thế Tôn cứu sống cho con mình.

Biết được nhân duyên sâu xa, đức Phật liền hứa sẽ giúp cô cứu sống đứa trẻ. Nghe vậy, lòng cô dâng trào lên niềm hy vọng vô biên, cô nghĩ con mình chắc chắn được cứu sống.


Chờ cho nhân duyên đã chín mùi, đức Phật liền chỉ dạy, “này thiếu nữ, con hãy đến nhà nào chưa từng có người chết xin về đây cho ta vài hạt cải, ta sẽ cứu sống đứa bé cho con".

Tin chắc rằng con mình sẽ được cứu sống nếu có được vài hạt cải trong một gia đình không có người chết, cô liền phấn khởi ra đi, trong lòng mừng thầm vô hạn. “Hạt cải nhà nào cũng có”, cô nghĩ như thế, nên sung sướng đến tột cùng, lòng tràn đầy hy vọng, vì trong chốc lát đây, con cô sẽ được cứu sống nhờ những hạt cải nhiệm mầu ấy.


Hạt cải thì nhà nào cũng có, nhưng tìm nó trong một gia đình không có người chết thì quả thật là không thể được. Bởi vì sao? Vì nhà nào cũng có người chết.

Cô thất tha, thất thểu đi hết làng trên xóm dưới, từ làng này qua xóm nọ, cô đi khắp hang cùng hốc hẻm, nhưng không tìm ra một gia đình nào không có người chết như yêu cầu của Như Lai Thế Tôn.


Quá thất vọng và mệt mỏi, cô ngã quỵ bên lề đường, trên tay vẫn còn ôm chặt xác con của mình. Thế là bao nhiêu hy vọng không còn nữa. Cô nhìn con với lòng trìu mến, dù xác đứa bé đã cứng đờ.

Lúc này, cảm giác rùng rợn cùng với sự thương tâm phủ đầy trong lòng cô; bỗng nhiên, tâm trí cô loé lên một tia sáng, cô hiểu rằng, trên đời này, ai rồi cũng sẽ chết, chỉ đến sớm hay muộn mà thôi, đau thương mất mát là một sự thật của kiếp người, yêu thương mà phải xa lìa đó là một nỗi khổ, niềm đau, có hợp phải có tan, đó là định luật nhân duyên quả của cuộc đời.


Trong sự đau khổ tột cùng, cô đã nhận ra, có sinh là có chết, ai rồi cũng phải lần lượt như vậy, chỉ đến sớm hay muộn mà thôi.

Từ nhận thức sáng suốt đó, cô không tìm hạt cải nữa, mà đem xác con mình vào rừng Thi Lâm (theo phong tục, tập quán Ấn Độ, xác người chết đem bỏ vào rừng cho thú ăn), rồi thanh thản trở về bạch Phật, “Kính bạch Thế Tôn, con đã tìm ra hạt cải của sự vô thường rồi, con đã đưa xác đứa bé bỏ vào rừng. Bây giờ con cảm thấy trong lòng thoải mái và nhẹ nhõm hơn”.


Nhân đó, đức Phật khai thị đạo lý duyên sinh trong cuộc sống cho cô nghe, “trên đời này, có sinh là có tử, yêu thương xa lìa khổ, không có cái gì là cố định cả, tuỳ theo nhân duyên, tuỳ theo điều kiện mà nó đổi thay sớm hay muộn mà thôi”.

Ngang đây, cô chứng được quả Dự Lưu, tức đã vào dòng Thánh, từ nay về sau không còn đoạ vào ba đường ác: địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh.

Sau đó, cô phát tâm xin đức Phật cho xuất gia làm Tỳ kheo ni; nhờ luôn siêng năng, tinh tấn tu hành, cuối cùng cô đã chứng quả A-La-Hán.

 Khổ đau luôn bám víu thân phận con người, khổ đau về vật chất như thiếu cơm ăn, áo mặc, rồi đến cái khổ vì già-bệnh-chết, nên ngày xưa người ta hay cố gắng luyện thuật trường sinh bất tử để sống đời, nhưng có ai không chết bao giờ đâu?

 

Theo Thích Đạt Ma Phổ Giác
Trích Biết sống trong vô thường



 

 

Về Menu

suy ngẫm về câu chuyện đức phật và hạt cải suy ngam ve cau chuyen duc phat va hat cai tin tuc phat giao hoc phat phat phap thien phat giao

ånh 市町村別寺院数順位 พ ทธโธ ธรรมโม คนเก ยจคร าน ทาน hôn nhân và niềm tin tôn giáo hang tram ngon nen lung linh dang len cha me 佛教書籍 皈依是什么意思 阿那律 緣境發心 觀想書 qua trinh hinh thanh gioi luat 饿鬼 描写 dao 別五時 是針 bÃn chùa diệu đức Thêm loi khuyen quy bau cho nhung nguoi da lap gia dinh Xuân có đi có đến bước đi không còn cô đơn 佛曰 Tôi hạnh phúc vì tôi đang có mẹ お仏壇 お供え dao duc gia dinh dang bi xuong cap Bát nhã tâm kinh xin dung tran tuc hoa chon thien mon cac nha su chau a tren dat my Món chay cho những ngày mưa nen chang mot quyen nghi thuc tung niem thuan 66 câu thiền ngữ trong kinh điển n蘯ソu suy nghi ve the ky moi cua nguoi tu phat nguon goc hinh tuong rong viet trong kien truc my 地风升 phụ ï¾ï½½ 上座部佛教經典 弥陀寺巷 曹村村 乃父之風 song don gian Vài về Đức Dhakpa Tulku Rinpoche háºnh tịnh xá ngọc trung tịnh nghiệp đạo æ æ Šäº å å ƒå trái tim biết trở về với nguồn 净土网络 Á อะระห งส มมาส มพ 每年四月初八