Vua Lý Thái Tông:
Tiếng dân chuông vọng
Theo sách “Đại Việt sử ký toàn thư”, cách đây 960 năm, cũng
vào năm Nhâm Thìn (1052), vua Lý Thái Tông đã xuống chiếu đúc chuông lớn để
trước thềm rồng Long Trì ở điện Thiên An thuộc hoàng thành Thăng Long, cho dân
ai có oan ức gì không bày tỏ được thì đánh chuông ấy để tâu lên. Trong một
chính thể phong kiến thực tình còn chưa thoát khỏi giai đoạn sơ khai, đây là
một hành động thân dân, thương dân cực kỳ tiến bộ xứng đáng được đánh giá cao.
Nhân hậu làm đầu
Lý Thái Tông, tên húy Phật Mã, là con trai trưởng của vua Lý
Thái Tổ, sinh năm Canh Tý (1000) ở chùa Duyên Ninh thuộc cố đô Hoa Lư. Có tài
liệu cho rằng, mẹ ông là Lê Thị Phất Ngân, con gái vua Lê Đại Hành (Lê Hoàn) và
“hoàng hậu hai vua” Dương Vân Nga.
Lý Phật Mã được lập làm Đông cung Thái tử năm 13 tuổi (Nhâm
Tý, 1012). Cũng năm này, ông được phong làm Khai Thiện Vương, lập cung Long Đức
ở ngoài hoàng thành, ý là để có thêm điều kiện hiểu biết các việc của dân.
Trong thời gian ngồi ghế Thái tử, ông nhiều lần được cử làm tướng cầm quân đi
dẹp loạn và đều lập được công.
Năm 1019, Khai Thiện vương được trao quyền Nguyên soái, hành
binh về phương nam đánh Chiêm Thành. Năm 1023, Khai Thiện vương lại phụng chiếu
vua cha mang quân đi đánh Phong Châu. Mùa đông năm 1025, ông đi đánh Diễn Châu.
Năm 1027, ông lên phía bắc đánh châu Thất Nguyên (Lạng Sơn).
Thế nhưng, khi Lý Thái Tổ qua đời năm Mậu Thìn (1028), việc
lên ngôi của Lý Phật Mã lại không diễn ra suôn sẻ. Vốn trong lòng có nhiều ấm
ức, hai người con khác của Lý Thái Tổ là Đông Chinh vương Lý Lực, Vũ Đức vương
(không rõ tên) cùng ông chú ruột là Dực Thánh vương (em vua Lý Thái Tổ, không
rõ tên) đã dấy quân làm phản.
Sách Khâm định Việt sử thông giám cương mục chép rằng, khi
hay tin, các bầy tôi tới cung Long Đức đón hoàng thái tử Phật Mã về để tôn lên
ngôi, Đông Chinh vương, Dực Thánh vương và Vũ Đức vương đã “phục quân ở phía
trong cửa Quảng Phúc, đợi Thái tử đến thì đổ ra tập kích.
Một lát, Thái tử từ cửa Tường Phù vào, đến điện Kiến Nguyên,
thấy động, cho đóng các cửa điện lại, sai các vệ sĩ bố trí phòng bị”. Vốn bản
tính nhân hậu, chỉ muốn “vẹn toàn tình cốt nhục”, nên Thái tử đã phân vân và
nói với các bầy tôi: “Ta đây ở với anh em không phụ ai một tí nào, thế mà bây
giờ các vương ấy làm sự bất nghĩa để nguy hại đến xã tắc! Vậy ý các khanh nghĩ
sao?”.
Vì nghiệp lớn của dòng họ nên Lý Phật Mã đành phải để cho
nội thị Viên ngoại lang là Lý Nhân Nghĩa và Vũ Vệ tướng quân Lê Phụng Hiểu
thẳng tay dẹp loạn. Rốt cuộc là Vũ Đức vương đã bị giết chết trong trận tiền.
Đối với người em là Đông Chinh vương và ông chú là Dực Thánh vương, sau khi mọi
việc ổn định, Lý Thái Tông đã xuống chiếu tha khi họ tới cửa cung khuyết xin
chịu tội và cho phục hồi tước cũ. Ngay cả khi người em là Khai Quốc vương Lý Bồ
đem phủ làm loạn ở Trường Yên, Lý Thái Tông cũng chỉ đích thân đi bình định và
xong việc thì cũng xuống chiếu tha tội chết cho em và cho giữ nguyên tước cũ…
Tất nhiên, như chim một lần trúng tên, Lý Thái Tông ngồi
trên ngôi báu càng hiểu rằng không thể mất cảnh giác với những bất trắc có thể
nảy sinh trong các triều thần.
Cũng theo Khâm định Việt sử thông giám cương mục, vụ làm
phản của ba vương kể trên đã được thần núi Đồng Cổ báo mộng trước cho Lý Thái
Tông phòng bị. Bởi vậy nên về sau, nhà vua đã sai lập miếu thờ thần Đồng Cổ ở
bên hữu thành Thăng Long (tại làng Yên Thái). Tại đó, ông đã cho xây đàn, giết
súc vật và cùng các quan lại uống máu ăn thề: “Làm con mà bất hiếu, làm tôi mà
bất trung, thì Thần linh chu diệt!”. Những ai lẩn tránh, không tới dự hội thề
Đồng Cổ đều bị phạt đánh đòn 50 trượng…
Cốt để yên dân
Vốn được vua cha chủ ý rèn luyện trong nghề binh đao và đã giao cho quyền điều hành quân tướng để dẹp loạn nên khi lên ngôi rồi, Lý Thái Tông vẫn không ngại thân chinh đi đánh đông dẹp bắc. Thời đó, nhà Lý không đặt tiết trấn, mọi việc binh và việc dân ở các châu đều giao cho các tù trưởng địa phương quản lĩnh. Theo phép nhân trị, nhà vua chỉ ràng buộc các tù trưởng này bằng các mối quan hệ tình cảm, lắm khi kết nối giao hảo chỉ bằng các cuộc hôn nhân. Thí dụ như gả công chúa Kim Thành cho châu mục Phong Châu là Lê Kim Thuận. Hay gả công chúa Trường Ninh cho châu mục Thượng Oai là Hà Thiện Lâm…
Chùa Một Cột do vua Lý Thái Tông khởi dựng năm 1049
Dù rất bận việc binh đao nhưng Lý Thái Tông vẫn không xao
nhãng những lo toan dân sinh. Ông rất hay bày tỏ lòng thương dân, hễ năm nào
đói kém hoặc sau khi đi đánh giặc về, thấy dân gian còn nhiều khốn khó là ông
lại giảm thuế cho dân trong hai ba năm. Năm Canh Thìn (1040), ông đã dạy cho
cung nữ dệt được gấm vóc. Lý Thái Tông cũng thường xuyên đích thân đi cày ruộng
trong Lễ Tịch điền.
Theo Khâm định Việt sử thông giám cương mục, mùa xuân năm
Mậu Dậu (1083), “nhà vua đi ra cửa Bố Hải, sai quan tư đắp đàn tế Thần Nông,
chính mình tự tay cầm cày làm lễ cung canh. Những người ở tả hữu ngăn rằng: “Đó
là việc của nông phu, bệ hạ cần gì phải làm?”. Nhà vua nói: “Trẫm mà không
chính mình cày ruộng thì lấy đâu có gạo làm tế phẩm để thờ cúng nhà tông miếu
và lấy gì để làm gương cho thiên hạ?”. Bấy giờ nhà vua mới cày ba luống rồi
thôi…”.
Lý Thái Tông cũng rất chú trọng tới việc sửa đổi luật pháp,
cấm quan lại thu thuế phù lạm và kích thích sự chủ động cáo giác các hành động
tội phạm của quan lại từ phía người dân. Khâm định Việt sử thông giám cương mục
chép: “Khi dân đóng thuế, ngoài mười phần trăm phải nộp vào kho công rồi, quan
lại được phép lấy một phần mười nữa, gọi là “hoành đầu”. Nếu kẻ nào thu quá số
ấy, thì bị xử theo tội ăn trộm. Quản giáp, chủ đô và người thu thuế nếu thu quá
lệ đều bị xử tội giống thế cả. Nhà dân nào cáo tỏ sự thu thuế phù lạm thì nhà
ấy được miễn lao dịch ba năm; người nào ở kinh thành mà cáo giác ra thì có
thưởng”. Lý Thái Tông cũng cho ban hành bộ Luật Hình thư, bộ luật đầu tiên
trong lịch sử nước ta.
Sách Đại Việt sử ký toàn thư chép: “Trước kia việc kiện tụng
trong nước phiền nhiễu, quan lại giữ luật pháp câu nệ luật văn, cốt làm cho
khắc nghiệt, thậm chí có người bị oan uổng quá đáng. Vua lấy làm thương xót,
sai trung thư san định luật lệnh, châm chước cho thích dụng với thời thế, chia
ra môn loại, biên thành điều khoản, làm thành sách Hình thư của một triều đại,
để cho người xem dễ hiểu…”. Khi bộ luật này được ban ra năm 1042, “ai cũng khen
là tiện lợi” (theo Khâm định Việt sử thông giám cương mục). Sử gia Ngô Sĩ Liên
về sau đã phải hạ bút ca ngợi rằng, Lý Thái Tông đã nêu gương cho thiên hạ, làm
những việc hữu ích dân sinh, giữ đức kiệm ước, “trong cái tốt lại có cái tốt
nữa”.
Là người được ở gần dân từ lúc còn rất trẻ khi được vua cha
cho ra lập cung Long Đức ở ngoài hoàng thành, Lý Thái Tông luôn muốn giúp dân
gian được bày tỏ nhiều hơn những nỗi niềm oan trái của mình. Chính vì thế nên
năm 1052 ông đã cho đúc chuông lớn để tại trước thềm rồng Long Trì ở điện Thiên
An để cho những ai có gì không bày tỏ được thì đánh chuông ấy để tâu lên. Thực
ra, ngay từ tháng 6 năm Kỷ Tị (1029), gần một năm sau khi lên ngôi, Lý Thái
Tông đã cho xây ở đó hai lầu chuông đối diện nhau ở hai bên tả hữu để dân chúng
ai có việc khiếu kiện oan uổng thì đánh chuông tâu lên.
Tháng 8 năm Quý Dậu (1033), ông lại xuống chiếu đúc quả
chuông một vạn cân để ở lầu chuông Long Trì. Sách sử không ghi rõ mục đích của
việc đúc quả chuông này nhưng có lẽ không loại trừ rằng nó cũng được sử dụng
vào việc giúp dân gióng lên những hồi báo động oan khuất…
Không ai toàn vẹn
Lý Thái Tông là người chuộng đạo Phật nên trong hành xử, đôi
khi bị người đời sau chê, như sử thần Ngô Sĩ Liên chẳng hạn, là bị mê hoặc bởi
thuyết từ ái nên tha tội cho cả bề tôi phản nghịch, “khiến lòng nhân ấy thành
ra nhu nhược”. Nhưng cũng chính nhờ mê đạo Phật nên Lý Thái Tông đã khởi đầu cho
việc xây dựng chùa Một Cột năm 1049. Tương truyền khi đó, ông đã nằm mơ thấy
Phật Bà Quan Âm dắt ông lên toà sen. Khi nhà vua kể lại chuyện đó với bầy tôi
thì có người lại bảo đấy chưa chắc đã là điềm lành và khuyên vua làm chùa và
dựng cột đá ở giữa đất, làm toà sen đặt lên trên cột đá như đã thấy trong mộng.
Rồi cho các nhà sư đi vòng lượn xung quanh tụng kinh cầu vua sống lâu. Chùa ấy
được mang tên Diên Hựu (kéo dài cõi phúc) là vì thế…
Lý Thái Tông qua đời vào mùa đông năm Giáp Ngọ (1054), ở ngôi 27 năm, thọ 55 tuổi. Sử thần Ngô Sĩ Liên khen “vua là người nhân triết, thông tuệ, có đại lược văn võ, lục nghệ không gì không tinh tường. Vì tài đức ấy nên có thể làm mọi việc…”
(Theo ANTG)
Ngọc Sương (Tuvien.com)