Tuyển tập 10 bài Số 134 thơ Mặc Giang Từ bài số 1331 đến số 1340
Tuyển tập 10 bài Số 134 - thơ Mặc Giang (Từ bài số 1331 đến số 1340)

Tuyển tập 10 bài Số 134 - thơ Mặc Giang (Từ bài số 1331 đến số 1340)


1. Trao lại cho em

Có những người em biết hướng về nguồn cội

Nghe trong lòng sung sướng quá đi thôi

Tre già măng mọc, sợ gì giữa đất trời

Khóe mắt khô hoen mi mờ lệ sử

Cha Quốc Tổ trên ngôi cao thờ tự

Mẹ Âu Cơ trên đỉnh núi kiêu sa

Năm ngàn năm sừng sững mái quê nhà

Mảnh dư đồ thiêng liêng thêu gấm vóc

Sóng Biển Đông triều triều dâng hồn nước

Gió Trường Sơn lồng lộng ngát hương quê

Để tượng trưng son sắt vẹn ước thề

Dòng lịch sử ngân vang trao thế hệ

Có những ngưòi em biết giữ gìn Đất Mẹ

Hoa cội nguồn bừng nở đất Quê Cha

Lòng an vui nghe hai tiếng sơn hà

Đất phương Nam, người phương Nam tọa thị

Ta hát vang trên đầu nguồn của suối

Em reo hò giao tiếp tận cuối sông

Chim Lạc kêu đáp lại tiếng chim Hồng

Tiên cỡi hạc, Rồng hóa thân cất cánh

Ải Nam Quan, đỉnh địa đầu dựng nước

Mũi Cà Mau, điểm cuối mở giang san

Trổi hồn thiêng sông núi của năm ngàn

Truyền trao mãi muôn đời không thay đổi.

Tháng 11 – 2009
 

2. Ân Phụ Mẫu Tiên Rồng

Bông hồng hiếu hạnh thiêng liêng

Lành thay, con cháu thảo hiền nhớ ân

Mẹ Cha, công đức song thân

Ông Bà, dòng họ gốc phần thâm sâu

Băng qua vạn lý nhịp cầu

Dâng lên Tiên Tổ khởi đầu sơ khai

Hùng Vương quốc phụ phương đài

Âu Cơ quốc mẫu ươm ngai Lạc Hồng

Ngàn năm văn hiến núi sông

An nhiên tọa thị giống dòng Việt Nam

Bông hồng hai sắc cưu mang

Cho anh cho chị lên đàng đắp xây

Cho em nâng cánh hoa nầy

Tin yêu sức sống đong đầy trong tim

Ân cha nghĩa mẹ đáp đền

Ân Tiên ân Tổ thênh thênh đất trời

Cùng nhau phụng hiến suốt đời

Băng đèo vượt núi không lời thở than

Dù cho đổi cả trần gian

Ân kia vời vợi muôn ngàn thấm sâu

Dù cho bãi biển nương dâu

Ân kia giữ mãi trong đầu nhớ nghe.

Tháng 11 – 2009
 

3. Thương Người Miền Trung

Bão số 9, tử vong hơn 200 người, tàn phá hơn 10 Tỉnh

Bão số 10, tràn ra phía Bắc, đe dọa phía Nam

Bão số 11, mới một ngày 4-11-09, giết chết gần 100 người chỉ riêng

Phú Yên, Bình Định, Nha Trang. Còn nhiều Tỉnh nữa thì sao ?

Biết nói gì cho Miền Trung và chia sẻ gì cho Miền Trung ?

Nhìn quê hương thiên tai đang ập phủ

Bão lụt gì mà bão lụt triền miên

Nước trào dâng, bão xoáy tốc liền liền

Dân mình ơi, biết làm sao chịu nổi

Tiếng nước cuốn, nước trôi, kêu la ơi ới

Tiếng nhà sập, mái tung, hớt hãi thất thanh

Mắt Mẹ già bỗng tuôn chảy thật nhanh

Đứa con nhỏ nước xoáy chìm biến mất

Trời ơi là trời

Đất ơi là đất

Sao không giết mẹ già mà lại giết con thơ

Lụt năm ngoái đã cướp đi một đứa

Tâm hồn muốn dại khờ

Lụt năm nay, lại cướp thêm đứa nữa

Tấm lòng xé nát tan, còn gì mà than thở

Nước, nước ùn ùn như thác đổ

Bão, bão co giật như điên cuồng

Mẹ sống làm gì, con ơi là con

Phải chi có thang, leo lên hỏi ông trời cho ra lẽ

Ổng ngậm câm, gầm gừ, ngạo nghễ

Chẳng nói chẳng rằng

Đánh sấm đánh sét chớp lòe

Mây đen sì, mây vần vũ phát ghê

Mưa trút nước, trút ào ào phát sợ

Trâu bò chìm lỉm, nói chi đến nghé

Gà vịt nổi trôi, nói chi gia cầm

Làm đất trời mà đày đọa quá thâm

Miền Trung ơi, phải từng cơn gánh chịu

Lúa ngô ngâm mộng chết thúi

Hoa màu rủ mục chết bông

Mì, lang trôi nổi phập phồng

Áo, quần cuốn phăng đây đó

Rồi bàn, rồi ghế

Nào chảo, nào xoong

Vụn vỡ mái tôn

Dập vùi mái lá

Tất cả tơi tả

Tất cả lở bồi

Mền rách đắp trời

Trăng sao đắp chiếu

Đã biết cảnh màn trời chiếu đất thưở sinh ra

Cho đến nay, cũng không cửa không nhà

Sống ủm thủm như cái chuồng mỗi lần vá lại

Biển dâu mấy bãi

Nát cõi tang thương

Đời tôi mấy nẻo

Nát cảnh đoạn trường

Miền Trung ơi Miền Trung

Ôi, thùy dương cát trắng

Đất thì đất đá, khô cằn mùa nắng

Bùn thì quến bùn, nhầy nhụa mùa mưa

Miền Trung ơi, khổ quá biết chưa

Đổ tâm lực, nhũn tàn gai góc

Ai nhớ Miền Trung, đèo cao núi dốc

Ai thương Miền Trung, vũng chéo lưng đồi

Đó là vùng đất quê tôi

Từng năm lũ lụt tơi bời tang thương

Của miền cát trắng thùy dương

Miếng cơm manh áo đoạn trường đắp xây

Hèn chi, " Hoành Sơn nhất đái "

Hèn chi, " Vạn đại dung thân "

Trần thân, cho biết thân trần

Bồ hòn cho biết, lựa lần mô tê

Lại còn răn, rứa nữa hè

Hò khoan đứt nhịp, sao nghe nức lòng

Hèn chi, thế núi đỡ sông

Hải Vân chất ngất, Cù Mông nghiêng đồi

Khi cao, cao vút lưng trời

Khi sâu, sâu thẳm mịt mờ bụi bay

Miền Trung sỏi đá khô cày

Gừng cay muối mặn mới hay nỗi niềm

Dù cho bão lụt triền miên

Dù sao đi nữa cũng miền quê tôi

Khổ đau, mới quý nụ cười

Đọa đày, mới biết thương người Miền Trung.

Tháng 11 – 2009

Mặc Giang

macgiang@y7mail.com
 

4. Cát bụi hoen mờ

Cọp chết để da cũng mịt mù

Người dù để tiếng cũng thiên thu

Tháp đền nhện kéo nhòa tro cốt

Nghĩa địa cỏ giăng sương phủ mờ

Cuộc lữ trăm năm có nghĩa gì

Lợi danh quyền thế lắm như ri

Hòn chồng đá tảng khua tung tóe

Cát đá bờ lau cái mốc xì

Chén sành chén kiểu choãng mà chơi

Châu chấu đá xe đã cuộc đời

Nghiệp dĩ thiêu thân tiêu một kiếp

Cột đèn nhầy nhụa xác tàn phơi

Quân tử tiểu nhân nhiễu loạn mà

Nếu không sao gọi tiếng Ta bà

Trần sa biến mất, buồn phiền não

Tâm địa tịch không, tội quỷ ma

Cái đầu có sạn bủa tan hoang

Động não mới rêm cái sắt son

Đã gọi là vàng cần thử lửa

Xát xây cho biết mặt vuông tròn

Sắt, kẽm, thau, chì, đồng, thép, gang

Ngọc ngà, châu báu, trộn kim ngân

Cao lương, mỹ vị hay cơm cháo

Khéo đọa đày cho nát ngã nhân

Tài, trí, dại, khôn, tật, tánh đa

Cái mâu, cái thuẫn thở không ra

Một mai quẳng gánh ra nhà gió

Cát bụi mù bay sương trắng pha.

Tháng 11- 2009

Mặc Giang

macgiang@y7mail.com
 

5.Thế à !!!

Vào đống tro tàn tìm thoáng xưa

Có còn đóm lửa nhỏ dây dưa

Đẳng đeo gai góc thềm hoang lạnh

Hay tắt ngúm theo bụi gió lùa

Chiếc bóng thời gian lặng lẽ trôi

Kìa trông núi ngã ngủ lưng dồi

Đèo heo hút gió vi vu mãi

Quá khứ qua rồi cũng thế thôi

Vó câu cửa sổ thoáng đưa vèo

Gió cuốn mịt mờ mất hút theo

Rêu phủ bên đường nhòa dấu vết

Hoàng hôn buông xuống bé tèo teo

Huy hoàng một thuở lại hoàng huy

Có thịnh, đương nhiên phải có suy

Bỉ cực thái lai, lai bỉ cực

Thế thời thời thế, phải như ri

Phướng lọng cờ bay rợp hí trường

Đã mang dáng dấp của phong sương

Chưa qua ẩn hiện hồn thu thảo

Ngó lại điêu tàn bóng tịch dương

Nền cũ chênh vênh ngã ngửa nghiêng

Lâu đài loang lở đổ lưng triền

Cheo leo ghềnh ráng đeo bờ dốc

Thung lũng núi đồi đứng lặng yên

Lịch thì sử tích phải can qua

Đối đáp, đẩy đưa, hã, thế à

Vật đổi sao dời trêu nghiệt ngã

Trần lao kham nhẫn cợt ta bà.

Tháng 11 – 2009

Mặc Giang

macgiang@y7mail.com
 

6. Quán Âm Thị Kính Việt Nam 1

Đêm khuya lạnh giữa núi rừng Bình Phước

Tiếng con ai sao khóc trước cổng chùa

Già Lam nghèo xuyên vách lá đong đưa

Tiếng trẻ khóc từng hồi khua thét gió

Thầy Chiếu Pháp cầm đèn dầu nho nhỏ

Cùng vài Chú Điệu, cất bước ra soi

Không bóng dáng ai, sao lạ hỡ trời

Chỉ thấy em bé, trùm khăn khóc ré

Hình như mới sinh, em còn nhỏ quá

Hai mắt nhắm nghiền, da thịt đỏ au

Sao lạ thế nầy, cha mẹ em đâu

Không lẽ ở dưới đất chui lên, hay trên trời rớt xuống

Rừng núi hoang vu, chùa quê thanh vắng

Nợ phong trần sao lại nặng duyên vương

Em bé ơi, ôi giấc mộng nghê thường

Thầy đành phải cưu mang ru giấc điệp

Đêm đầu tiên Thầy không sao ngủ được

Tiếng trẻ thơ khát sữa khóc oa oa

Đun nước sôi, pha sữa hộp, chứ biết sao bây giờ

Bàn tay Thầy sần sùi không đủ ấm

Ru bé ngủ, cất tiếng à ơ vịt rống

Nghe sao mà trầm bỗng giống tiếng tụng kinh

Em bé nghe, hình như không phải tiếng của mẹ, giật mình

Thầy chẳng biết bế bồng ra sao, nhìn em mà ứa nước mắt

Bản thân Thầy mở ra một khúc ngoặc

Khúc ngoặc hai năm, trải qua biết mấy khúc ngoèo

Ngoèo như núi rừng, hoang vắng cheo leo

Ngoặc như đồi dốc, Thầy âm thầm gánh chịu

Rừng khuya hỡi, có nghe không tiếng núi

Trăng sao ơi, le lói chi khung trời

Lòng dạ Thầy heo hút đỉnh chơi vơi

Là đàn ông, mà phải thành Thị Kính

Nhân gian có câu :

Người tính không bằng trời tính

Thị Kính xưa có pháp danh Kỉnh Tâm

Tên của Thầy lại là tên Minh Tâm

Hiệu của Thầy lại còn mang Chiếu Pháp

Quê ở Vĩnh Long, tìm lên Bình Phước

Xây dựng chùa, đặt danh hiệu Thanh Tâm

Núi rừng khuya, vằng vặc ánh trăng rằm

Sáng và tròn đầy hơn trăng mười sáu

Nhớ chuyện xưa, có Quán Âm Thị Kính

Thì chuyện nay, cũng có Thị Kính Quán Âm

Không phải chuyện của người, mà là chuyện của Việt Nam

Ta ca hát đi khắp cùng nhân thế.

Viết ngay, khi đã gởi Câu chuyện này đi cùng khắp,

và không đầy một tiếng đồng hồ sau, đã có bài này.

7 giờ tối Thứ Hai ngày 23-11-2009

TNT Mặc Giang

macgiang@y7mail.com
 

7. Quán Âm Thị Kính Việt Nam 2

Thầy Chiếu Pháp sớm hồi đầu, quy y cửa Phật

Mộng thư sinh, xin trả lại sân trường

Ba năm đại học, bụi phấn không vương

Khoác áo nâu sồng, tương chao dưa muối

Tỉnh Vĩnh Long của Miền Nam bạt ngàn ruộng lúa

Sợ chim ngàn lỡ gãy cánh sa chân

Nên Thầy tìm lên tận gió núi mưa rừng

Đèo heo hút giữa hoang vu Bình Phưóc

Trên dưới mười năm, bần hàn đạm bạc

Kiến tạo ngôi chùa, tên tự Thanh Tâm

Thầy trò trong lành, như tiếng chuông ngân

Nhưng bỗng một hôm, đất bằng dậy sóng

Vào giữa đêm khuya, núi rừng hoang vắng

Có tiếng khóc gào, như tiếng bé thơ

Tiếng khóc ngoài cổng, theo gió bay vô

Xuyên kẽ lá vách chùa che sao nổi

Thầy Trò thắp đèn, lần mò ra cổng

Tiếng khóc trẻ thơ càng rõ ràng hơn

Con của nhà ai, khóc giữa đêm hôm

Cha mẹ em đâu, mà em nằm ngo ngoe đỏ hỏn

Thầy Trò cùng kêu, mà chẳng nghe ai lên tiếng

Duyên nghiệp thế này, biết đành đoạn sao cam

Thầy không nói không rằng, đưa hai tay bồng em lên

Đem vào phòng, châm thêm dầu, thức trắng

Cứ một hai tiếng, em cục cựa, khóc rống

Thầy lại đun nước sôi, pha thêm sữa cho em

Em oe oe, rồi nhắm mắt ngủ yên

Thầy ngồi đó, tâm can như lửa cháy

Ngày lại ngày qua, cha mẹ em đâu không có thấy

Tháng lần năm lựa, bão bùng sóng gió thị phi

Nghiệp cảnh nghiệp duyên, tột đỉnh tư nghì

Ập phủ lên Thầy, như Núi Bà Đen, cuối Trường Sơn hùng vĩ

Rồi Tỉnh, rồi Huyện, mọi Ban Ngành, đem ra cân ký

Rồi dân, rồi quân, ai cũng mổ xẻ tường tận li ti

Ngậm miệng cũng mắc quai, đừng nói há miệng, biết nói năng gì

Thầy cam phận, cam lòng, mang thân Thị Kính

Thị Kính xưa, vẫn diễm phúc hơn Thầy, nhờ giới tính

Còn Thầy thì, mang cái kiếp đàn ông

Khổ gì hơn, bằng cảnh gà trống nuôi con

Hai vai rộng, nhiều khi thua đôi cánh nhỏ

Chỉ bú, mớm, dỗ dành, hát ru, thay tả

Mà khó lòng hơn vượt núi băng đèo

Năm ba tháng đầu, ghềnh đá đẳng đeo

Đành chấp nhận như ba hồi kinh dị

Ngày tháng dần qua, em dần hơi lớn

Khi em biết đi, Thầy sung sướng quá đi thôi

Khi em biết nói những tiếng bập bẹ đầu đời

Thầy diễm phúc như đường tu chứng ngộ

Bởi thuyền khổ ải đã vượt qua biển khổ

Bởi bây giờ, em cười, em khóc, còn biết tại sao

Chứ trước đây, dù Thầy biết Bắc Đẩu, Nam Tào

Nhưng em bé khóc cười, Thầy không sao hiểu nổi

Gần hai năm sau, cha mẹ của em, lương tâm mòn mỏi

Không có nỗi đau nào, bằng nỗi đau cắn rứt lương tâm

Nên cha mẹ của em, chân thành sám hối ăn năn

Xin nhận lại đứa con thơ, khúc ruột núm nhau, ôi là da là thịt

Thầy từ mẫn nhưng nghe lòng xa xót

Không công sinh, công dưỡng cũng lắm tơ vương

Nhưng Thầy chỉ mang tạm một đoạn trường

Cuộc đày ải trả cho người nhân thế

Câu chuyện thời xưa, có Quán Âm Thị Kính

Câu chuyện thời nay, có Thị Kính Quán Âm

Trời xanh xanh, mà cây lá cũng xanh xanh

Trăng sáng tỏ trăng rằm, trăng thanh trăng mười sáu

Tôi xin hát bản trường ca hợp tấu

Chuyện Quán Âm Thị Kính của Việt Nam

Truyền cho nhau và đi khắp nhân gian

Việt Nam ta, cũng có những con người siêu xuất.

11 giờ đêm Thứ Hai, ngày 23-11-2009

Dành thêm một tiếng hồ và có thêm một bài nữa.

TNT Mặc Giang

macgiang@y7mail.com
 

8.Mấy cuộc phù sinh

Anh một anh hai anh ba

Ba anh cộng lại hơn năm trăm à

Anh một không cửa thì nhà

Anh hai cỡi gió xông pha bụi trần

Anh ba cột trụ tương phần

Đội trời đáp đất phù vân sá gì

Đường trường phỉ sức ngựa phi

Trùng dương đạp sóng kình ngư vẫy vùng

Chân mây, không có điểm cùng

Góc biển, không có điểm chung xô bờ

Mở toang cánh cửa hư vô

Thử xem vũ trụ trổi cờ ra sao

Tiên du mơ cảnh bồng đào

Thiên thần gãy cánh lộn nhào trần gian

Nghe rằng bốn biển dọc ngang

Năm châu vỗ mặt ngỡ ngàng thế nhân

Đọa đày cát đá phong trần

Xéo giày sĩ nhục cơ cần chi ai

Lão làng chưa thỏa cân đai

Thùng thình loạng choạng chân tay lều khều

Đeo mang vân cẩu tranh thêu

Ảo danh phù tướng mốc meo đã nhiều

Một mai về chốn cô liêu

Xác xơ cát bụi tiêu điều thế thôi !!!

Tháng 11 – 2009
 

9. Con tàu quê hương

Quê hương nặng mấy con tàu

Sân ga mấy bến sắc màu thời gian

Biết bao nhiêu cuộc ly tan

Biết bao nhiêu cuộc điêu tàn xát xây

Chìm trong tận đáy đọa đày

Sức cùng lực kiệt mặt mày tiêu sơ

Khổ đau tận đáy dại khờ

Đường hầm thăm thẳm mịt mờ chưa ra

Đêm thời hết nỗi sương pha

Ngày thời hết nỗi trầm kha bãi sầu

Quê hương nặng mấy con tàu

Dòng sông mấy khúc, nhịp cầu mấy phen

Canh khuya heo hút bên thềm

Trời đen như mực bóng đêm còn dài

Sao Hôm chi nữa Sao Mai

Gom bong bóng nước phơi đài giá băng

Ba mươi chi nữa còn trăng

Vành khuyên khuyết nguyệt, vành khăn khắn tì

Hòn chồng, đá tảng đen sì

Lâu đài, thành quách nguyên xi thủ thừa

Thời gian, mưa giập gió lùa

Lại qua, lên xuống, bốn mùa kéo nhau

Quê hương nặng mấy con tàu

Ai hay bãi biển bờ dâu bẽ bàng.

Tháng 11 – 2009
 

10. Con tàu tha phương

Tha phương từ bước lên tàu

Đoạn đành chấp nhận một màu ly tan

Biển khơi sóng bạc phũ phàng

Đẩy xô vận nước ngỡ ngàng chia xa

Chắp tay từ tạ quê nhà

Rầu rầu biển gọi mặn mà thùy dương

Chắp tay từ tạ quê hương

Lưu đày biệt xứ tha phương vọng về

Một năm chưa dám ước thề

Ba mươi năm đã, ước thề còn đi

Nào ngờ một chuyến ra đi

Kéo dài nửa kiếp bờ mi héo mòn

Núi kia còn đứng trông non

Nước kia còn đợi chờ con nước về

Người đi, bến đã xa bờ

Nửa đời lưu lạc dại khờ hồn đau

Tha phương từ vượt con tàu

Nương dâu bãi biển một màu xanh xanh

Nào em nào chị nào anh

Nghe không sóng vỗ kêu quanh ghế ngồi

Nào anh nào chị cùng tôi

Kéo tay em với vạn lời tình quê

Rằng non rằng nước chưa về

Rằng thương rằng nhớ vẹn thề có nhau

Tha phương từ vượt con tàu

Nào hay cố quận một màu biệt ly

Tha phương từ bước ra đi

Con tàu đi mãi cũng vì quê hương.

Tháng 11 – 2009
 


Về Menu

tuyển tập 10 bài số 134 thơ mặc giang (từ bài số 1331 đến số 1340) tuyen tap 10 bai so 134 tho mac giang tu bai so 1331 den so 1340 tin tuc phat giao hoc phat

栃木県寺院数 Ăn Khổ dang sau cau chuyen vi dai gia ngay nao cung トo dương ón phat phap sứ 佛教与生命教育有关的短语 結藥界陀羅尼 学习计划范文 phần 自悟得度先度人 phản 閩南語俗語 無事不動三寶 phóng ä å ½ä½ åº 四大皆空 首座 凡所有相皆是虛妄 若見諸相非相 ปฏ จจสม Tăng tam yen khong phai la vo cam 礼佛大忏悔文 phap ngu cua thien su hu van 激安仏壇店 คนเก ยจคร าน van phap co sinh at se co diet 一念心性 Tinh vi cõi sạch ai quyet dinh cuoc doi ban Ăn đậu giúp giảm cholesterol 曹洞宗 盛岡 多い理由 Thiên tiêu mot thoi de nho chốn 法事案内 テンプレート Thần 尽一切恶得须陀洹 然后布施远离诸苦 明月几时有 Thất Tiếng Thanh dựng Quả nho có nhiều công dụng tốt cho sữa