Toát yếu Kinh Trung Bộ

 

Ni sư Thích Nữ Trí Hải  tóm tắt & chú giải

---o0o---

[15]

TRUNG BỘ KINH - BÀI KINH SỐ 141

Ðế phân biệt tâm kinh
(Saccavibhangacittasuttam)

I. TOÁT YẾU

The Exposition of the Truths.

The venerable Sariputta gives a detailed analysis of the Four Noble Truths.

Trình bày về những sự thật.

Tôn giả Xá Lợi Phất phân tích chi tiết về Bốn chân lý vi diệu.

II. TÓM TẮT

Phật gọi các tỷ kheo và dạy rằng, sự khai thị bốn thánh đế Khổ, Tập, Diệt, Ðạo là Pháp luân vô thượng đã được Như lai chuyển vận tại vườn Lộc uyển. Không ai có thể nói ngược lại sự tuyên thuyết này. Và Ngài khuyên chư tỷ kheo hãy thân cận hai vị thượng thủ là Xá Lợi Phất và Mục kiền liên, vì tôn giả Xá Lợi Phất có thể giảng giải, khai triển bốn thánh đế, hướng dẫn tu tập chứng quả Dự lưu, còn tôn giả Mục kiền liên có thể hướng dẫn tu tập đến quả vị A la hán. Nói xong Phật đi vào tinh xá.

Sau đó tôn giả Xá Lợi Phất giảng rộng về bốn chân lý như sau:

Thánh đế về khổ: Sanh là khổ, già là khổ, bệnh là khổ, chết là khổ, sầu bi khổ ưu não là khổ, cầu không được là khổ. Tóm lại năm thủ uẩn là khổ. Sanh là sự tái sanh của mỗi loài chúng sinh, sự xuất hiện các uẩn, sự có ra các căn. Già là trạng thái các căn hủy hoại, tuổi thọ bị rút ngắn. Chết là sự tận diệt các uẩn, sự quăng bỏ tử thi. Sầu là cảm thọ đau khổ khi bị tai nạn này khác. Bi là khóc lóc than van khi gặp tai nạn, đau khổ. Khổ là sự không sảng khoái về thân, do thân cảm thọ. Ưu là sự đau đớn về tâm, sự không sảng khoái trong lòng, do tâm cảm thọ. Não là sự tuyệt vọng não nề nơi những ai gặp tai nạn, đau khổ. Cầu không được là khi chúng sinh bị những khổ về sanh, già chết sầu bi khổ ưu não… chi phối, mong rằng mình không còn bị những khổ ấy chi phối nhưng lời mong cầu đó không được thành tựu. Tóm lại, năm thủ uẩn là sắc thọ tưởng hành thức đều khổ.

Tập thánh đế là tham ái đưa đến tái sanh, đi kèm hỷ và tham. Khổ diệt thánh đế là sự diệt tận tham ái ấy, sự giải thoát khỏi tham ái ấy. Khổ diệt đạo thánh đế là thánh đạo tám ngành, đó là: Chánh kiến tức thấy như thật về bốn chân lý. Chánh tư duy là tư duy vô sân, ly dục, bất hại. Chánh ngữ là tự chế bốn kiểu nói láo là nói dối, hai lưỡi, ác khẩu, nói phù phiếm. Chánh nghiệp là không sát sinh, trộm cắp, tà dâm. Chánh mạng là từ bỏ tà mạng. Chánh tinh tiến là đối với các bất thiện chưa sanh, nỗ lực khởi lên ý muốn không cho sanh khởi; với ác đã sanh, khởi lên quyết tâm trừ diệt; với thiện pháp chưa sanh, nỗ lực khiến cho sanh khởi, với thiện pháp đã sanh, nỗ lực khiến cho tăng trưởng, phát triển đi đến viên mãn. Chánh niệm là ngay trên thân tâm này mà quán thân, thọ, tâm, pháp, tinh cần tỉnh giác để diệt tham ưu về thế gian này. Chánh định là ly dục ly bất thiện pháp, chứng trú thiền thứ nhất một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh có tầm có tứ; thiền thứ hai với hỷ lạc do định sanh không tầm tứ; thiền thứ ba không còn hỷ gọi là xả niệm lạc trú; thiền thứ tư không khổ không lạc, có niệm thanh tịnh nhờ xả. Ðấy là thánh đế về con đường diệt khổ. Chúng tỷ kheo hoan hỷ tín thọ lời thuyết giảng của tôn giả Xá lợi Phất.

III. CHÚ GIẢI

Một cách giảng tứ diệu đế theo ngôn ngữ ngày nay là: Khổ là hậu quả của một lối sống vô ý thức về nhiều mặt; Tập là lối sống vô ý thức ấy; Diệt là sự hết khổ nhờ lối sống hoàn toàn được thắp sáng với ý thức hay chánh niệm tỉnh giác trong mọi lúc; đạo là lối sống có chánh niệm, có ý thức vào mọi lúc. Hay nói cách khác, đạo là cách sống có ý thức ở tám phương diện: thấy có ý thức, suy nghĩ có ý thức, nói có ý thức, làm có ý thức, sinh nhai có ý thức, siêng năng có ý thức, nhớ có ý thức, tập trung có ý thức. Chỉ khi vô ý thức thì ta mới đau khổ vì thấy những gì không đáng thấy, nghĩ những cái không đáng nghĩ, nhớ những gì không đáng nhớ, làm những gì không đáng làm, vân vân.

IV. PHÁP SỐ
V. KỆ TỤNG

    Phật dạy các tỷ kheo:
    Sự khai thị bốn đế
    Về Khổ, Tập Diệt
    Ðạo
    Là Pháp luân vô thượng
    Ðược Như lai chuyển vận
    Ðầu tiên tại vườn Nai
    Trên cả thế gian này
    Với chư thiên, ma, phạm
    Không ai chặn đứng được
    Hay l
    à quay ngược lại.
    Tỳ kheo hãy thân cận
    Xá lợi và Mục liên
    Những trí giả, hiền giả
    Sách tấn đồng phạm hạnh.
    Xá Lợi Phất Mẹ sanh
    Khai diễn bốn thánh đế
    Hướng dẫn cho tu tập
    Chứng đến quả Dự lưu
    Mục kiền li
    ên Mẹ dưỡng
    Dẫn đến quả La hán.
    Sau khi Phật v
    ào nghỉ
    Tôn giả Xá Lợi Phất
    Giảng cho chúng tỷ kheo
    Bốn chân lý vi diệu.
    Một thánh đế về khổ:
    Sanh, Gi
    à, Bệnh, Chết khổ,
    Sầu Bi Khổ Não Ưu
    Cầu không được là khổ.
    Tóm lại năm thủ uẩn
    Tức có thân l
    à khổ.
    Sanh là sự tái sanh
    Của mỗi loài chúng sinh,
    Sự xuất hiện các uẩn,
    Sự có ra các căn.
    Gi
    à là căn hủy hoại
    Tuổi thọ bị rút ngắn.
    Chết l
    à diệt các uẩn,
    Sự quăng bỏ tử thi.
    Sầu l
    à nỗi đau khổ
    Bị tai nạn n
    ày khác.
    Bi khóc lóc thở than
    Mỗi khi gặp khổ nàn.
    Khổ là nỗi đau nhức
    Do thân xác cảm thọ.
    Ưu l
    à tâm đau đớn
    Không sảng khoái trong l
    òng.
    Não tuyệt vọng não nề
    Khi gặp các tai ương.
    Khổ về Cầu không được
    L
    à khi chúng sinh khổ
    Về nỗi sanh, già chết
    Sầu bi khổ não ưu…
    Cứ mong sao hết bị
    Những khổ này chi phối
    Nhưng cầu có được đâu.
    Tóm lại năm thủ uẩn
    Sắc thọ tưởng h
    ành thức
    Bị nhiễm vì chấp thủ
    Chính là một đống khổ.
    Thứ hai Tập thánh đế:
    Tham ái khiến tái sanh
    Ði kèm hỷ và tham
    Tái hiện ở ba cõi
    Dục sắc và vô sắc.
    Ba Khổ diệt thánh đế
    Sự diệt tận tham ái
    Giải thoát nó ho
    àn toàn.
    Khổ diệt đạo thánh đế
    L
    à thánh đạo tám ngành:
    Chánh kiến thấy như thật
    Bốn chân lý nói trên
    Chánh tư duy suy nghĩ
    Không kèm dục, sân, hại.
    Chánh ngữ là tự chế
    Không nói dối, hai lưỡi,
    Nói ác khẩu, phù phiếm.
    Chánh nghiệp không sát sinh
    Trộm cắp và dâm dục.
    Chánh mạng bỏ tà mạng,
    (Sinh nhai hại mình, người.)
    Chánh tinh tiến bốn siêng:
    Các bất thiện chưa sanh
    Siêng khiến không sanh khởi;
    Các bất thiện đã sanh
    Siêng quyết tâm trừ diệt;
    Với thiện pháp chưa sanh,
    Siêng làm cho sanh khởi,
    Với thiện pháp đã sanh,
    Siêng làm chúng tăng lên.
    Chánh niệm là luôn luôn
    Quán thân, thọ, tâm, pháp,
    Ngay nơi thân tâm này
    Luôn tinh cần tỉnh giác
    Diệt tham ưu sự đời.
    Chánh định l
    à ly dục
    Và ly bất thiện pháp,
    Chứng trú thiền thứ nhất
    Hỷ lạc ly dục sanh
    Còn có tầm có tứ;
    Nhị thiền không tầm tứ
    Hỷ lạc do định sanh;
    Tam thiền không c
    òn hỷ
    Chỉ còn xả với lạc
    Gọi xả niệm lạc trú,
    Tứ thiền không khổ lạc,
    Chỉ còn duy nhất xả
    Gọi Xả niệm thanh tịnh.
    Ðấy chính là thánh đế
    Về con đường diệt khổ
    M
    à Thế tôn tuyên thuyết
    Không ai quay ngược được
    Pháp luân vô thượng n
    ày.

TRUNG BỘ KINH - BÀI KINH SỐ 142

Cúng dường phân biệt
(Dakkhinavibhanga Sutta)

I. TOÁT YẾU

The Exposition of Offerings.

The Buddha enumerates fourteen kinds of personal offerings and seven kinds of offerings made to the Sangha.

Trình bày về các sự cúng dường.

Phật kể ra 14 loại cúng dường cá nhân và bảy loại cúng dường cho tập thể.

II. TÓM TẮT

Một hôm bà di mẫu của Phật đến cúng dường Ngài một cặp y mới do chính tay bà dệt đặc biệt cho Thế tôn. Phật dạy bà hãy đem cúng dường Tăng chúng, thì cũng như cúng dường cả Phật và Tăng. Bà năn nỉ ba lần, Phật vẫn dạy như trên.

Thấy thế tôn giả A Nan xin Phật nhận cặp y vì bà Di mẫu có ơn nuôi dưỡng Ngài từ lúc sơ sinh sau khi Ma gia hoàng hậu từ trần. Và chính Phật cũng đã giúp bà quy y Tam bảo, giữ năm giới, có lòng tin bất động đối với Phật Pháp Tăng và Giới. Chính nhờ đức Thế tôn mà bà hết hoài nghi đối với bốn thánh đế Khổ Tập Diệt Ðạo. Ðức Thế Tôn xác nhận đúng như thế, và dạy nếu ai nhờ một người nào mà được quy y Tam bảo, giữ năm giới, có tịnh tín đối với Tam bảo và giới luật, hết nghi ngờ về bốn chân lý, thì không có sự đền ơn nào cho tương xứng.

Kế tiếp Phật dạy có 14 loại bố thí: Trên hết là cúng dường đức Như Lai, Ứng cúng Chánh đẳng giác, kế đến tuần tự: 2/ Ðộc giác; 3/ Các vị đã chứng quả A la hán; 4/ Các vị trên đạo lộ A la hán; 5/ Bất hoàn quả; 6/ Bất hoàn đạo; 7/ Nhất lai quả; 8/ Nhất lai đạo; 9/ Dự lưu quả; 10/ Dự lưu đạo; 11/ Vị ngoại học (bàhiraka) ly tham; 12/ phàm phu giữ giới; 13/ phàm phu phá giới; 14/ các loại bàng sanh. Trong đó, bố thí cho bàng sanh đem lại một trăm công đức (lợi ích), cho phàm phu phá giới một ngàn công đức, cho phàm phu giữ giới một trăm ngàn công đức, cho ngoại học ly tham một trăm ngàn ức công đức. Bố thí cho các vị ở Dự lưu đạo có hy vọng đem lại vô số công đức, huống hồ các vị đã chứng Dự lưu quả và trên nữa cho đến cúng dường Phật?

Lại nữa, đối với tăng chúng có bảy loại cúng dường: Một là cúng Phật tại thế và hai bộ tăng là nhất. Thứ đến là sau khi Phật niết bàn, cúng dường cả hai bộ tăng. Thứ ba là cúng dường Tăng bộ. Thứ tư là cúng dường Ni bộ. Thứ năm là cúng một số tăng và một số ni theo chỉ định của tăng. Thứ sáu là cúng riêng một số ni theo chỉ định. Trong tương lai có những hạng ác tăng khoác áo ca sa nhưng mặc dù vậy, sự bố thí cho họ cũng được công đức vô lượng khi người bố thí muốn qua họ mà cúng dường tăng bảo.

Cuối cùng Phật dạy về bốn sự thanh tịnh do bố thí: Một là thanh tịnh bởi người cho; là người cho giữ giới, theo thiện pháp, người nhận phá giới theo ác pháp. Hai là thanh tịnh do người nhận; là người nhận giữ giới theo thiện pháp còn người cho thì ngược lại. Ba là cả người cho lẫn người nhận đều thanh tịnh, là cả hai bên đều có giới. Bốn là cả người cho lẫn người nhận đều không thanh tịnh; là cả hai bên đều phá giới.

Và sự bố thí thanh tịnh nhất là khi người cho người nhận đều có giới; vật thí đúng pháp; cho với tâm hoan hỷ vững tin vào nghiệp quả.

III. CHÚ GIẢI

Kinh này dễ hiểu.

IV. PHÁP SỐ
V. KỆ TỤNG

    Một hôm bà di mẫu
    Ðến cúng dường đức Phật
    Một cặp y đặc biệt
    B
    à dệt cho Thế tôn.
    Phật dạy nên cúng dường
    Cho toàn thể chúng tăng
    Với Phật vị dẫn đầu
    Hơn l
    à riêng cúng Phật.
    Sau ba lần năn nỉ,
    Phật vẫn dạy như tr
    ên.
    Tôn giả Ananda
    Thương tình bèn can thiệp
    Xin Ngài nhận cặp y
    Bởi vì bà Di mẫu
    Có ơn cho bú mớm
    Có công lao nuôi dưỡng
    Lúc sanh mẫu mệnh chung
    Và cũng nhờ Thế tôn
    Mà bà theo Tam Bảo,
    Thọ trì năm cấm giới,
    Có l
    òng tin bất động
    Ở Phật Pháp Tăng Giới.
    Chính nhờ đức Thế tôn
    M
    à bà hết hoài nghi
    Về Khổ Tập Diệt Ðạo
    Bốn chân lý cao cả.
    Phật xác nhận đúng thế,
    Nếu ai nhờ người n
    ào
    Ðược quy y Tam bảo,
    Thọ trì năm cấm giới
    Tịnh tín, hết nghi ngờ
    Bốn chân lý cao cả,
    Th
    ì cái ơn lớn ấy
    Khó tương xứng đáp đền.
    Kế tiếp Thế tôn dạy
    Mười bốn loại bố thí
    Tr
    ên hết là cúng Phật
    Như Lai Chánh đẳng giác,
    Tuần tự tiếp theo đó:
    Ðộc giác rồi La hán;
    Trên đường chứng La hán;
    Bất ho
    àn quả và đạo;
    Nhất lai quả v
    à đường;
    Dự lưu quả v
    à đạo;
    Vị ngoại học ly tham;
    Ph
    àm phu có giữ giới;
    Phàm phu không giữ giới;
    Ðến các loại bàng sanh.
    Trong mười bốn loại ấy
    Bố thí cho bàng sanh
    Cũng có trăm công đức
    Cho ph
    àm phu phá giới
    Ðược một ngàn công đức,
    Cho ph
    àm phu giữ giới
    Một trăm ngàn công đức,
    Cho ngoại học ly tham
    Trăm ng
    àn ức công đức.
    Cho vị Dự lưu đạo
    Có vô số công đức,
    Huống l
    à Dự lưu quả
    Cho đến cúng Như lai?
    Lại đối với tăng chúng
    Có bảy loại cúng dường:
    Phật v
    à hai bộ tăng
    Lúc c
    òn sinh tiền Phật
    Là cúng dường bậc nhất.
    Ðến cúng hai bộ tăng
    Sau khi Phật niết b
    àn,
    Rồi đến cúng Tăng bộ
    Thứ tư, cúng Ni bộ.
    Thứ năm, xin đại chúng
    Chỉ định ít tăng, ni,
    Sáu, cúng một số tăng
    Theo tăng chúng chỉ định.
    Bảy, cúng một số ni.
    Trong tương lai sẽ có
    Ác tăng khoác ca sa
    Nhưng cúng dường tăng chúng
    Công đức vẫn to lớn
    Hơn phân loại cá nhân.
    V
    à cuối cùng Phật dạy
    Về bốn kiểu thanh tịnh
    Trong hành vi bố thí:
    Một, sạch bởi người cho
    Giữ giới, theo thiện pháp,
    Còn người nhận phá giới.
    Hai, sạch do người nhận
    Khi người nhận giữ giới
    Người cho thì ngược lại.
    Ba là sạch hai chiều
    Người cho lẫn kẻ nhận
    Bốn, cả hai không sạch.
    Sự bố thí sạch nhất
    Khi người cho kẻ nhận
    Ðều có giới, theo thiện;
    Vật bố thí đúng pháp;
    Cho với tâm hoan hỷ;
    Vững tin v
    ào nghiệp quả.
    Một bố thí như vậy
    Là quảng đại tài thí.

TRUNG BỘ KINH - BÀI KINH SỐ 143

Giáo giới Cấp cô độc
(Anathapindikovada Sutta)

I. TOÁT YẾU

Advice to Anathapindika.

The venerable Sariputta is called to Anathapindika’s deathbed and gives him a stirring sermon on non-attachment.

Lời khuyên trưởng giả Cấp cô độc.

Tôn giả Xá Lợi Phất được mời đến bên tử sàng của trưởng giả. Ngài nói cho ông một pháp thoại gây nhiều cảm hứng về sự không chấp thủ.

II. TÓM TẮT

Trưởng giả Cấp cô độc bệnh nặng, sai người nhân danh ông đến đảnh lễ đức Thế tôn và đến cầu thỉnh tôn giả Xá Lợi Phất về trú xứ mình. Tôn giả cùng đi với tôn giả A Nan đến thăm và thuyết pháp cho ông. Tôn giả dạy ông hãy tu tập như sau: Ta sẽ không chấp thủ mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý, và sẽ không có thức y cứ vào sáu căn; Ta sẽ không chấp thủ sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp và sẽ không có thức y cứ vào sáu trần. Ta sẽ không chấp thủ nhãn thức, nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý thức và sẽ không có thức y cứ vào sáu cái biết ấy. Ta sẽ không chấp thủ nhãn xúc đến ý xúc (sáu xúc) và sẽ không có thức y cứ vào sáu xúc; Ta sẽ không chấp thủ sáu thọ (do sáu xúc sanh) và sẽ không có thức y cứ sáu thọ. Ta sẽ không chấp thủ sáu đại (giới: địa thủy hỏa phong không thức) và sẽ không có thức y cứ sáu đại. Ta sẽ không chấp thủ 5 uẩn và sẽ không có thức y cứ năm uẩn. Ta sẽ không chấp thủ bốn không và sẽ không có thức y cứ bốn không (Không vô biên, Thức vô biên, Vô sở hữu và Phi tưởng phi phi tưởng). Ta sẽ không chấp thủ thế giới này hay thế giới khác và sẽ không có thức y cứ vào thế giới này hay thế giới khác. Ta sẽ không chấp thủ những gì được thấy, nghe, cảm thọ, nhận thức, mong cầu, suy xét, và sẽ không có thức y cứ vào những pháp ấy.

Nghe xong bài Pháp vi diệu, cư sĩ Cấp cô độc sa nước mắt. Khi tôn giả hỏi ông có sao không, ông đáp dù đã hầu hạ đức Phật và chư tăng lâu ngày, ông chưa từng nghe một thời pháp nào như thế. Khi ấy tôn giả cho ông biết rằng pháp này thường không nói cho cư sĩ mà chỉ nói cho hàng xuất gia. Trưởng giả Cấp cô độc xin tôn giả hãy thuyết pháp như vậy cho hàng cư sĩ, vì có những người ít nhiễm ô có thể hiểu được Pháp mà nếu không được nghe, họ sẽ bị rơi rụng.

Sau khi hai vị tôn giả ra về, trưởng giả mệnh chung và sinh lên cõi trời Ðâu suất. Thiên tử Cấp cô độc khi đêm gần tàn, với dung sắc chói sáng toàn cảnh vườn Kỳ viên, đi đến đảnh lễ Thế tôn và nói lên một bài kệ ca ngợi Phật và pháp do Phật thuyết đã giúp chúng sinh đạt đến thanh tịnh, giải thoát.

III. CHÚ GIẢI

Kinh này cho thấy chương trình giảng dạy của Phật và các vị thánh đệ tử đương thời đối với hàng cư sĩ tại gia. Một người như trưởng giả Cấp cô độc mà đến chết mới được nghe giáo lý vô ngã (tánh không) vi diệu thì đủ biết, giáo lý ấy không thể được truyền một cách không chọn lựa cho bất cứ ai. Chỉ có những người căn tánh và lòng tin đã thuần thục mới nên nghe pháp ấy; nếu không, sẽ rất nguy hiểm cho họ.

Vô ngã ở đây được giảng dạy là không chấp thủ, nghĩa là ý thức không mắc dính vào bất cứ gì thuộc ngoại giới hay nội tâm. Câu không chấp thủ, không có thức y cứ vào… có thể hiểu như là không xem đấy là ta, của ta, trong kinh 140.

IV. PHÁP SỐ
V. KỆ TỤNG

    Trưởng giả Cấp cô độc
    Lâm bệnh sắp mệnh chung
    Sai người nhân danh ông
    Ðến đảnh lễ đức Phật.
    Lại chuyển lời cầu thỉnh
    Tôn giả Xá Lợi Phất
    Ði đến trú xứ mình.
    Tôn giả cùng A Nan
    Ðến thăm và thuyết pháp
    Dạy ông hãy tu tập:
    Ta sẽ không chấp thủ
    Vào mắt, tai, mũi, lưỡi,
    Thân và ý (sáu căn)
    V
    à sẽ không có thức
    Y cứ vào sáu căn;
    Ta sẽ không chấp thủ
    V
    ào sắc, thanh, hương, vị,
    Xúc và pháp (sáu trần)
    Và sẽ không có thức
    Y cứ vào sáu trần.
    Ta sẽ không chấp thủ
    Vào các thức: nhĩ, tỉ,
    Thiệt, thân, và ý thức
    Và sẽ không có thức
    Y cứ sáu cái biết.
    Ta sẽ không chấp thủ
    Nhãn xúc đến ý xúc
    V
    à sẽ không có thức
    Y cứ vào sáu xúc;
    Ta sẽ không chấp thủ
    Sáu thọ do xúc sanh
    Và sẽ không có thức
    Y cứ vào sáu thọ.
    Ta sẽ không chấp thủ
    Sáu đại: địa thủy hỏa
    Phong không v
    à thức đại
    V
    à sẽ không có thức
    Y cứ sáu đại này.
    Ta sẽ không chấp thủ
    Sắc thọ tưởng hành thức
    Và sẽ không có thức
    Y cứ vào năm uẩn.
    Ta sẽ không chấp thủ
    V
    ào Không vô biên xứ…
    Vào Thức vô biên xứ
    Vào Vô sở hữu xứ
    Vào Phi tưởng phi phi
    Và sẽ không có thức
    Y cứ vào bốn không.
    Ta sẽ không chấp thủ
    Thế giới này hay khác
    Và sẽ không có thức
    Y cứ đời này khác.
    Ta sẽ không chấp thủ
    Những gì được thấy, nghe,
    Cảm thọ hoặc nhận thức,
    Mong cầu hay suy xét,
    V
    à sẽ không có thức
    Y cứ những pháp này.
    Nghe xong Pháp vi diệu,
    Trưởng giả Cấp cô độc
    Ðột nhiên sa nước mắt:
    Dù con đã hầu hạ
    Phật và tỷ kheo tăng
    Trong một thời gian d
    ài
    Con chưa từng được nghe
    Thời pháp n
    ào như thế.
    Tôn giả bảo ông rằng
    Pháp này chỉ được nói
    Cho những vị xuất gia.
    Trưởng giả Cấp cô độc
    Xin tôn giả từ nay
    H
    ãy thuyết pháp như vậy
    Cho cư sĩ tại gia,
    Vì cũng có những người
    Chỉ vướng ít bụi đời
    Sẽ hiểu được chánh pháp
    V
    à khỏi bị rụng rơi.
    Sau trưởng giả mệnh chung
    Sinh lên trời Ðâu suất
    Khi đêm đã gần tàn,
    Với dung sắc chói sáng
    Toàn cảnh vườn Kỳ viên,
    Ðến đảnh lễ Thế tôn
    Nói l
    ên một bài kệ
    Ca ngợi Phật và Pháp
    Ðã giúp nhiều chúng sinh
    Ðạt thanh tịnh, giải thoát.

TRUNG BỘ KINH - BÀI KINH SỐ 144

Giáo giới Channa
(Channovada Sutta)

I. TOÁT YẾU

Advice to Channa.

The venerable Channa, gravely ill, takes his own life despite the attempts of two brother-monks to dissuade him.

Lời khuyên Channa.

Tôn giả Channa ốm nặng, đã tự kết liễu mạng sống mặc dù hai vị tỷ kheo huynh đệ đã cố can ngăn.

II. TÓM TẮT

Tôn giả Channa bị bệnh nặng, hai tôn giả Sàriputta và Mahàcunda đến thăm. Channa bày tỏ ý định sẽ tự đâm cổ vì quá đau đớn không muốn sống nữa. Tôn giả Sàriputta khuyên can, hứa cung cấp thực phẩm, dược phẩm và người hầu hạ nhưng Channa không cần vì chỉ muốn chết, viện cớ rằng mình đã sống đời tu hành một cách trọn vẹn, đã hầu hạ đức Thế tôn, làm Ngài đẹp lòng, nên chết sẽ không phạm tội.

Khi ấy tôn giả Sàriputta hỏi thái độ của Channa đối với mắt, nhãn thức, các pháp được mắt nhận thức… cho đến ý, ý thức và các pháp do ý nhận thức (18 giới: sáu căn sáu trần sáu thức). Channa đáp tất cả tôi đều xem không phải là tôi, của tôi hay tự ngã của tôi; do vì đã thấy đã chứng tri sự diệt trong các pháp ấy.

Khi nghe vậy, tôn giả Mahàcunda nhắc tôn giả Channa nên thường tác ý lời dạy của Thế tôn rằng: Ai có chấp trước là có giao động, không chấp trước thì có khinh an. Có khinh an thì không hi cầu; không hi cầu thì không khứ lai; không khứ lai thì không sống chết; không sống chết thì không có đời này, đời sau và đời chặng giữa, và như vậy là đoạn tận khổ đau.

Sau khi hai tôn giả thăm bệnh ra về, Channa tự sát bằng con dao. Sàriputta bèn hỏi Phật về chỗ tái sanh của vị ấy. Phật hỏi có phải tỷ kheo Channa tuyên bố trước Sàriputta rằng mình đã không phạm tội hay không? Sàriputta tỏ vẻ hoài nghi, bạch Phật rằng lúc sinh thời, Channa thường lui tới những gia đình đáng chê trách trong làng Pubbajira của dòng họ Vajji. Phật dạy việc đó không khiến ông ta phạm tội. Ai quăng bỏ thân này chấp thủ thân khác mới là có phạm tội. Tỷ kheo Channa không vậy, nên dù có tự sát cũng không sao.

III. CHÚ GIẢI

Kinh này là một kinh hiếm có nhất cho ta thấy quan niệm của Phật về tự sát. Phật có lên án việc tự sát hay không? Ðiều này không thể trả lời dứt khoát mà cần phân tích. Cái nhìn của Phật ở đây rất rộng rãi, đầy trí tuệ. Vị tỷ kheo Channa vì quá đau đớn không chịu nổi, đã tự sát với con dao. Khi Xá Lợi Phất hỏi Phật việc làm ấy có phạm tội không, Phật cho biết vì ông ta trước khi chết không ham có một cái thân khác, nên không phạm. Khi dùng con dao là ông ấy muốn chấm dứt cái khổ hiện tại là cơn đau, vì ông đã chấm dứt khổ vĩnh viễn luân hồi sinh tử, không hướng đến một đời sống khác. Và ai tự sát kiểu ấy thì vô tội. Ða số người tự sát là vì ham sống một đời sống tốt đẹp hơn nhưng chưa thỏa mãn, nên họ tự sát trong tâm trạng ấm ức và đương nhiên không thoát khỏi nhập thai trở lại, vì tái sinh là để thỏa mãn những mong cầu ham muốn chưa được thỏa mãn.

IV. PHÁP SỐ
V. KỆ TỤNG

    Channa lâm trọng bệnh
    Xá lợi Phất, Thuần Ðà
    Hai tôn giả đến thăm.
    V
    ì đau không chịu nổi
    Không c
    òn ham muốn sống
    Ông bày tỏ ý định
    Tự sát bằng dao đâm
    Hai tôn giả khuy
    ên can
    Hứa đem lại đồ ăn
    Dược phẩm v
    à người hầu
    Nhưng Channa thoái thác:
    Tôn đã chọn đường tu
    Ðã hầu hạ đức Phật,
    L
    àm Thế tôn đẹp lòng
    Nên tự sát không lỗi.
    Tôn giả Xá Lợi Phất
    Hỏi tỷ kheo Channa
    Về con mắt, nhãn thức,
    Các pháp mắt nhận thức
    Cho đến ý, ý thức
    Những g
    ì ý nhận thức
    (tức là mười tám giới
    thuộc căn trần và thức)
    Ông thấy như thế nào
    Tôn giả Channa đáp
    Chúng không phải của tôi,
    Cũng không phải l
    à tôi
    Hay tự ngã của tôi.
    Do đâu mà thấy thế
    Do vì đã chứng tri
    Sự diệt ở trong đấy.
    Khi nghe nói như vậy
    Tôn giả
    Ðại Thuần đà
    Bèn nhắc nhở Channa
    Nên thường xuyên tác ý
    Lời dạy của Thế tôn:
    Ai còn có chấp trước
    Là còn có giao động
    Không chấp có khinh an.
    Có khinh an, không cầu;
    Không cầu, hết khứ lai,
    V
    à không còn sống chết,
    Khi không còn sống chết
    Thì không có đời này,
    Ðời sau, đời chặng giữa,
    Như vậy dứt khổ đau.
    Hai tôn giả ra về,
    Channa liền tự sát
    Xá Lợi Phất hỏi Phật
    Vị ấy sinh về đâu.
    Phật hỏi Xá lợi Phất
    Phải chăng l
    à Channa
    Ðã tuyên bố với ông
    Rằng mình không phạm tội?
    Xá Lợi Phất bạch Phật:
    Ông ấy thường giao du
    Với tục gia cư sĩ
    Thuộc giòng họ Bạt kỳ.
    Phật dạy không hề gì
    Không phải vì việc đó
    Khiến ông ta phạm tội.
    Ai quăng bỏ thân n
    ày
    Và chấp thủ thân khác
    Mới là có phạm tội.
    Channa không như vậy,
    Nên dù có tự sát
    Cũng không phạm tội gì.

TRUNG BỘ KINH - BÀI KINH SỐ 145

Giáo giới Phú Lâu Na
(Punnovada Sutta)

I. TOÁT YẾU

Advice to Punna.

The bhikkhu Punna receives a short exhortation from the Buddha and decides to go live among the fierce people of a remote territory.

Lời khuyên Punna.

Tỷ kheo Punna nhận một lời khích lệ của Phật và quyết định đến sống giữa dân chúng dữ dằn tại một xứ xa xôi.

II. TÓM TẮT

Tôn giả Phú Lâu Na đến xin Phật giáo giới vắn tắt trước khi ông đi nhập thất tu hành. Phật dạy có các sắc do mắt nhận thức có liên hệ đến dục, hấp dẫn; nếu tỷ kheo hoan hỷ, tán thưởng, chấp thủ, tham đắm trong ấy, hân hoan sanh. Từ sự tập khởi của hân hoan, có tập khởi của khổ. Nếu không hoan hỷ, tán thưởng… thì hân hoan diệt. Từ sự diệt tận của hân hoan có sự diệt tận của khổ. Ðối với thanh hương vị xúc pháp cũng thế.

Sau khi giáo giới vắn tắt như vậy, đức Thế tôn hỏi tôn giả sẽ đi đâu. Tôn giả thưa, sẽ đến xứ Du na (Sunàparanta) ở phía tây.

Phật dạy, dân xứ đó rất thô ác hung bạo, nếu họ mắng nhiếc nhục mạ ông thì sao. Phú Lâu Na đáp: Con sẽ nghĩ rằng họ vẫn còn hiền, vì họ không dùng tay đánh đập con.

Nếu họ dùng tay đánh ông thì sao? Bạch Thế tôn, con sẽ nghĩ họ còn tốt, vì dùng tay đánh chứ không ném đất vào con.

Nếu họ lại ném đất vào ngươi? Dạ con sẽ nghĩ họ vẫn còn tốt vì không dùng gậy mà đánh con.

Nếu họ đánh cả gậy? Thì con sẽ nghĩ họ còn tốt vì chưa dùng dao mà đánh.

Nếu họ đánh con bằng dao, con sẽ nghĩ họ vẫn còn tốt vì chỉ đánh chứ chưa dùng dao sắc để đoạt mạng con.

Nếu họ lấy dao sắc bén đoạt mạng con, con sẽ nghĩ rằng có những đệ tử của Thế tôn nhàm chán thân thể và sinh mạng nên đã tìm con dao tự sát. Nay con không cần tìm mà vẫn được con dao.

Phật dạy Phú Lâu Na, nếu có đầy đủ sự nhiếp phục và an tịnh ấy, tôn giả có thể đến sống tại xứ kia. Sau khi đến đấy chỉ trong một mùa an cư, tôn giả đã hóa độ cho nhiều cư dân và chứng ba minh. Khi nghe tôn giả mệnh chung, chúng tỷ kheo đến hỏi Phật chỗ tái sanh của tôn giả. Phật dạy vị ấy đã nhập niết bàn.

III. CHÚ GIẢI

Do có hân hoan mới có khổ; không hân hoan thì không khổ. Thái độ không hân hoan này không phải chán đời mà là hỷ túc: vui với bất cứ hoàn cảnh nào gặp phải; giải thoát mọi ham muốn.

IV. PHÁP SỐ
V. KỆ TỤNG

    Tôn giả Phú Lâu Na
    Ðến xin thỉnh giáo Phật
    Trước khi đi tha phương
    Ðể du hành du hóa.
    Phật giáo giới vắn tắt:
    Các sắc mắt nhận thức
    Có liên hệ đến dục,
    Khả ái v
    à hấp dẫn;
    Nếu tỷ kheo hoan hỷ,
    Tán thưởng và chấp thủ
    Tham đắm trong sắc ấy,
    Th
    ì hân hoan sinh ra.
    Do hân hoan, có khổ.
    Không đam mê trong đó
    Th
    ì hân hoan cũng diệt
    Do vui diệt, khổ diệt.
    Với thanh hương vị xúc
    Và pháp cũng như vậy.
    Rồi đức Thế tôn hỏi
    Tôn giả sẽ đi đâu?
    Con đến xứ Du na
    V
    à sẽ sống tại đấy.
    N
    ày hỡi Phú Lâu Na
    Dân xứ đó hung ác
    Nếu lỡ chúng mắng nhiếc
    Nhục mạ ông th
    ì sao?
    Bạch Thế tôn, con nghĩ
    Họ vẫn còn hiền thiện,
    Vì không dùng tay đánh
    Nếu họ lại đánh ông?
    Con thấy họ c
    òn tốt,
    Vì chỉ dùng tay đánh
    Không ném đất v
    ào con.
    Nếu ngươi bị ném đất?
    Con nghĩ họ c
    òn tốt
    Vì không đánh bằng gậy
    Nếu họ d
    ùng gậy đánh?
    Con sẽ thấy họ tốt
    V
    ì chưa dùng đến dao
    Nếu họ đánh bằng dao,
    Con nghĩ họ vẫn tốt
    V
    ì không dùng dao bén
    Ðến nỗi đoạt mạng con.
    Nếu họ lấy dao bén
    Ðoạt mạng sống của con,
    Thì con sẽ nghĩ rằng
    Có những đệ tử Phật
    V
    ì nhàm chán thân thể
    Tìm con dao tự sát.
    Nay con không cần tìm
    Mà vẫn được con dao…
    Phật dạy Phú Lâu Na,
    Ðầy đủ sự nhiếp phục
    V
    à an tịnh như thế,
    Tôn giả có thể đi
    Ðến sống tại xứ kia.
    Sau một mùa an cư,
    Tại xứ Du na ấy
    Tôn giả đã hóa độ
    Cho rất nhiều cư dân
    V
    à đã chứng ba minh.
    Khi tôn giả mệnh chung,
    Chúng tỷ kheo hỏi Phật
    Chỗ tái sanh tôn giả.
    Phật dạy: Phú Lâu Na
    Là một bậc hiền giả
    Thực hành Pháp, tùy Pháp
    Không phiền nhiễu Thế tôn
    Vị thiện nam tử ấy
    Nay đã nhập Niết bàn.

TRUNG BỘ KINH - BÀI KINH SỐ 146

Giáo giới Nandaka
(Nandakovada Sutta)

I. TOÁT YẾU

Advice from Nandaka.

The venerable Nandaka gives the nuns a discourse on impermanence.

Lời khuyên dạy của tôn giả Nandaka.

Tôn giả giảng cho ni chúng một bài pháp về vô thường.

II. TÓM TẮT

Bà di mẫu đến nơi Phật để cầu giáo thọ. Phật hỏi tôn giả A Nan nay là phiên ai đi giáo giới cho tỷ kheo ni. Tôn giả A Nan đáp, là phiên của tôn giả Nandaka nhưng tôn giả không chịu đi. Phật cho gọi tôn giả buộc phải đi giáo giới cho ni. Tôn giả vâng lời.

Sau khi khất thực về, ăn xong, Ngài đến trú xứ của ni chúng. Ngài dặn trước thủ tục nói Pháp là vấn đáp và cho phép đặt câu hỏi. Ni chúng tán đồng với đề nghị ấy.

Rồi tôn giả hỏi: Con mắt là thường hay vô thường? Cái gì là vô thường thì khổ hay vui? Cái gì đã vô thường, khổ, bị biến hoại, thì có nên xem đấy là tôi và tự ngã của tôi không? Hỏi như vậy về 6 nội xứ, 6 ngoại xứ, 6 thức. Các tỷ kheo ni đều đáp là vô thường, khổ, không nên xem là tôi và của tôi. Tôn giả bảo, như vậy là cái thấy đúng với chánh trí tuệ của thánh đệ tử.

Rồi Ngài lấy ví dụ một ngọn đèn dầu cháy với dầu, bấc, ngọn lửa, ánh sáng đều vô thường, biến hoại. Nếu có ai bảo ánh sáng ngọn đèn ấy là thường trú thì có đúng không? Các ni đáp không, bởi vì ánh sáng ấy xuất phát từ những thứ vô thường là dầu, bấc, ngọn lửa. Tôn giả dạy: Cũng vậy, cảm thọ do duyên sáu nội xứ, mà 6 nội xứ đã vô thường, biến hoại nên cảm thọ cũng không thường hằng.

Ví dụ 2: Cây cổ thụ với rễ, thân, cành đều vô thường. Nếu ai bảo tuy vậy cái bóng cây thì thường, nói vậy có đúng không? Không đúng. Cũng vậy, sáu ngoại xứ là vô thường, nên ai nói các cảm thọ duyên sáu ngoại xứ là thường thì không đúng.

Ví dụ 3: Như một con bò đã bị cắt mọi dây gân, khớp bên trong, da bị lột và phủ trùm lại trên thân nó. Có thể bảo con bò còn nguyên vẹn được chăng? Không được. Tôn giả bảo: Thịt ám chỉ 6 nội xứ, da chỉ 6 ngoại xứ. Dây thịt dây gân và khớp bên trong là hỷ và tham. Con dao đồ tể là thánh trí tuệ. Với thánh trí tuệ này có thể cắt đứt phiền não, nội kết.

Rồi tôn giả dạy tu bảy giác chi (niệm, trạch pháp, tinh tấn, hỷ, khinh an, định, xả) hướng đến ly tham, đoạn tận. Khi sung mãn bảy giác chi thì sẽ tự chứng vô lậu tâm giải thoát và tuệ giải thoát.

Sau thời pháp, chúng ni đảnh lễ tôn giả xong, đi đến yết kiến Phật. Phật biết tâm họ chưa thỏa mãn nên sai tôn giả Nandaka đến giáo giới lần thứ hai. Sau lần thứ hai, họ đến lễ Phật, và Phật biết tất cả họ đều đã đắc quả, người tối thiểu cũng đắc quả Dự lưu không còn bị đọa lạc, và chắc chắn sẽ được giải thoát.

III. CHÚ GIẢI

Kinh này dạy hai cách quán vô ngã:

- Một là nêu lên tính vô thường của mọi sự, nhất là năm uẩn thân tâm; rồi đặt câu hỏi vô thường là khổ hay vui; một cái gì đã vô thường, khổ thì có nên xem là ta hay của ta không? Ðương nhiên là không nên.

- Cách thứ hai là phân tích sáu nội xứ (mắt tai mũi lưỡi thân ý), sáu ngoại xứ (sắc thanh hương vị xúc pháp) và sáu thức liên hệ, tất cả đều vô thường, nên cảm thọ hay cái tôi phát sinh từ đấy cũng không thể là thường. Như từ ngọn đèn mà dầu, bấc, ngọn lửa đều vô thường thì ánh sáng cũng vô thường. Thấy như vậy là thấy với chánh trí để đoạn tận khổ đau.

IV. PHÁP SỐ
V. KỆ TỤNG

    Bà di mẫu bạch Phật
    Ðể thỉnh cầu giáo thọ.
    Phật hỏi phiên vị nào
    Ði giáo giới cho ni.
    Tôn giả A Nan thưa,
    Phiên tôn giả Nanda
    Nhưng vị ấy từ khước.
    Phật cho gọi tôn giả
    Dạy hãy đi giáo giới.
    Tôn giả phải vâng lời
    Ðến trú xứ ni chúng
    Dùng cách thức hỏi đáp
    Ðể trình bày diệu pháp
    Và cho đặt câu hỏi
    Ni chúng rất tán đồng.
    Trước hỏi về sáu căn:
    Con mắt thường, vô thường?
    Cái g
    ì đã vô thường
    Vậy là khổ hay vui?
    Cái gì vô thường, khổ,
    Bị biến hoại, hủy diệt
    Có nên xem của tôi
    Là tôi, tự ngã tôi?
    (Tai, mũi, lưỡi, thân, ý
    Sáu ngoại xứ, sáu thức
    Cũng hỏi đáp như vậy.)
    Các tỷ kheo ni đáp
    Tất cả mười tám thứ
    Ðều vô thường, khổ, không
    Chẳng nên xem của tôi
    Là tôi, tự ngã tôi.
    Các chị thấy như vậy
    Là thấy đúng chánh trí
    Của bậc thánh đệ tử.
    Rồi tôn giả ví dụ
    Ngọn đ
    èn cháy với dầu,
    Bấc, ngọn lửa, ánh sáng
    Ðều vô thường, biến hoại.
    Nếu có ai bảo rằng
    Ánh sáng đèn là thường
    Thì có đúng hay không?
    Thưa không, ánh sáng ấy
    Xuất phát từ vô thường
    L
    à dầu, bấc, ngọn lửa.
    Cũng vậy, các cảm thọ
    Do duyên sáu nội xứ,
    Luôn thay đổi biến hoại
    N
    ên thọ cũng không thường
    Hoặc như cây cổ thụ
    Với rễ, thân, cành lá
    Ðều luôn luôn thay đổi
    Nếu ai bảo tuy vậy
    Cái bóng cây l
    à thường,
    Nói vậy có đúng không?
    Ni đáp l
    à không đúng.
    Cũng vậy, sáu ngoại xứ
    Sắc thanh… vốn vô thường
    Thọ từ đấy sinh ra
    L
    àm sao thường hằng được?
    Như đồ tể mổ b
    ò
    Trong cắt hết gân khớp
    Ngoài lột hết bộ da
    Trùm lại trên thân nó
    Còn nguyên chăng thân bò?
    Ni chúng đáp rằng không.
    Thịt chỉ 6 nội xứ,
    Da l
    à sáu ngoại xứ.
    Gân và khớp bên trong
    Dụ cho hỷ và tham.
    Con dao của đồ tể
    Ví như thánh trí tuệ
    Cắt đứt các phiền n
    ão
    Những trói buộc trong tâm.
    Các chị hãy tu tập
    Niệm, trạch pháp, tinh tấn,
    Hỷ, khinh an, định, xả
    Bảy chi phần giác ngộ
    Hướng ly tham, đoạn diệt.
    Bảy giác chi sung m
    ãn
    Sẽ tự chứng vô lậu
    Tâm và tuệ giải thoát.
    Thể theo lời Phật dạy
    Tôn giả Nandaka
    Giáo giới ni hai lần
    Ai nghe đều đắc quả,
    Tối thiểu l
    à Dự lưu
    Không còn bị đọa lạc,
    Chắc chắn sẽ giải thoát.

TRUNG BỘ KINH - BÀI KINH SỐ 147

Giáo giới Rahula tiểu kinh
(Cularahulovada Sutta)

I. TOÁT YẾU

The Shorter Discourse of Advice to Ràhula.

The Buddha gives Ràhula a discourse that leads him to the attainment of arahantship.

Bài kinh ngắn giảng cho La hầu la.

Phật giảng cho La hầu la một pháp thoại đưa Ngài đến chứng quả A la hán.

II. TÓM TẮT

Một hôm Phật nghĩ đã đến lúc huấn luyện thêm cho tôn giả Rahula trong việc đoạn tận các lậu hoặc, vì tôn giả đã thuần thục trong 15 pháp đem lại giải thoát [tức là tín, tấn, niệm, định, tuệ; 5 tuệ quán vô thường, khổ, vô ngã, từ bỏ, đoạn tận; và năm pháp: bạn lành, giới, thảo luận, tinh tấn, và tuệ.]

Sau bữa ngọ trai, Ngài dạy tôn giả hãy đem theo tọa cụ, cùng với Ngài đi vào rừng Andha. Sau khi tôn giả đảnh lễ Phật và ngồi trên tọa cụ, Phật tuần tự hỏi tôn giả: Mắt, sắc, nhãn thức là thường hay vô thường? Cái gì vô thường là khổ hay vui? Cái gì đã vô thường, đau khổ, thì có hợp lý để xem nó là của tôi, là tôi, hay tự ngã của tôi không? Tôn giả đều thưa không.

Với tai, mũi, lưỡi, thân, ý (căn); thanh, hương, vị, xúc, pháp (trần); nhĩ thức, cho đến ý thức (thức) cũng vậy (18 giới). Kế tiếp Ngài hỏi tương tự như trên về nhãn xúc cho đến ý xúc, và tôn giả cũng đáp như trên. Do xúc khởi lên thọ, tưởng, hành, thức, các pháp được khởi lên đều vô thường, khổ, không nên xem là của tôi, là tôi, là tự ngã của tôi.

Thế tôn kết luận: Do thấy biết như vậy, đa văn thánh đệ tử yểm ly căn trần thức, yểm ly xúc thọ tưởng hành. Do yểm ly, vị ấy ly dục; do ly dục, vị ấy giải thoát. Khi giải thoát vị ấy biết tâm đã giải thoát. Sanh đã tận, phạm hạnh đã thành, các việc nên làm đã làm, không còn trở lui trạng thái này nữa.

Tôn giả Rahula hoan hỷ tín thọ lời Thế tôn dạy, tâm tôn giả giải thoát các lậu hoặc, không còn chấp thủ. Hàng ngàn chư thiên đã đi theo đức Phật cũng khởi lên Pháp nhãn ly trần vô cấu, thấy rằng: Tất cả những gì được khởi lên đều phải bị hoại diệt.

III. CHÚ GIẢI

Khổ là do xem là tôi và của tôi, một cái vốn dĩ rất vô thường, đau khổ là cái thân xác này với những thọ, tưởng, hành, thức khởi lên từ đấy. Nhưng tất cả cái gì có khởi lên là có chấm dứt, nhờ thấy rõ như vậy mà khởi tâm chán lìa, ly tham, giải thoát. Trí này dường như được gọi là sinh diệt trí.

IV. PHÁP SỐ
V. KỆ TỤNG

    Phật thấy Rahula
    Ðã thuần thục các pháp
    Giúp đem lại giải thoát
    - Tín, tấn, niệm, định, tuệ -
    Một hôm ngọ trai xong,
    Ng
    ài cho theo vào rừng.
    Tại ngôi rừng Andha
    Sau khi cùng an tọa
    Phật hỏi tôn giả rằng
    Con mắt, sắc, nhãn thức
    Là thường hay vô thường?
    Vô thường khổ hay vui?
    Cái gì vô thường, khổ,
    Thì có hợp lý chăng
    Xem l
    à tôi, của tôi,
    Hay tự ngã của tôi?
    Tôn giả đều thưa không.
    Với tai, mũi, lưỡi, thân,
    Ý; v
    à đối tượng chúng
    (thanh, hương, vị, xúc, pháp);
    Nhĩ thức, cho đến ý thức
    Tức 18 giới đều vậy.
    Kế tiếp Ng
    ài lại hỏi
    Nhãn xúc đến ý xúc,
    Tôn giả đáp như tr
    ên.
    Do xúc khởi lên thọ,
    Tưởng, hành, và thức,
    Các pháp được khởi lên
    Ðều vô thường, đau khổ,
    Không n
    ên xem của tôi,
    Là tôi, tự ngã tôi.
    Thế tôn bèn kết luận:
    Do thấy biết như vậy,
    Ða văn thánh đệ tử
    Yểm ly căn trần thức,
    Chán xúc thọ tưởng h
    ành.
    Do yểm ly, lìa dục;
    Do lìa dục, giải thoát.
    Và vị ấy biết được:
    Tâm n
    ày đã giải thoát
    Sanh tận, phạm hạnh thành
    Việc nên làm đã làm
    Không còn trở lui lại.
    Ðức Thế tôn giảng xong
    Tôn giả Rahula
    Liền hoan hỷ tín thọ
    Tâm giải thoát lậu hoặc
    Hàng ngàn vị thiên nhân
    Cùng theo họ vào rừng
    Cùng khởi lên Pháp nhãn
    Thấy tất cả những gì
    Ðược sinh đều hoại diệt.

TRUNG BỘ KINH - BÀI KINH SỐ 148

Kinh sáu sáu
(Chachakka Sutta)

I. TOÁT YẾU

The Six Sets of Six.

An especially profound and penetrating discourse on the contemplation of all the factors of sense experience as not-self.

Sáu bộ sáu.

Một bản kinh hết sức thâm thúy sâu xa dạy cách quán mọi yếu tố thuộc kinh nghiệm giác quan đều là phi ngã.

II. TÓM TẮT

Phật gọi các tỷ kheo giảng về 6 nội xứ, 6 ngoại xứ, 6 thức, 6 xúc, 6 thọ, 6 ái. Thức do duyên căn và trần. Sự gặp gỡ của căn trần thức gọi là xúc. Do 6 xúc có 6 thọ. Do 6 thọ có 6 ái. Nói mắt, sắc hay nhãn thức là tự ngã là không hợp lý vì sự sinh diệt của chúng đã được thấy rõ. Phải đi đến kết luận rằng tự ngã sinh và diệt ở nơi tôi. Mắt, sắc và nhãn thức đều vô ngã, nên nhãn xúc cũng vậy. Cũng vậy là thọ và ái từ đấy sinh ra. Với tai mũi lưỡi thân ý (6 căn) cho đến 6 trần, 6 thức, 6 xúc, 6 thọ, 6 ái cũng thế, đều vô ngã. Ai thấy những pháp ấy là của tôi, là tôi, là tự ngã của tôi, thì đấy là sự tập khởi của thân kiến. Ai quán các pháp ấy không phải của tôi, không là tôi hay tự ngã của tôi, thì đấy là sự đoạn diệt của thân kiến.

Do duyên xúc giữa ba pháp căn trần thức, khởi lên các cảm thọ. Do cảm xúc lạc thọ, một người hoan hỷ, tán thán, ái trước, và tham tùy miên tăng. Do xúc khổ thọ, vị ấy sầu muộn, than khóc, và sân tùy miên tăng. Do cảm xúc bất khổ bất lạc, không như thật biết sự tập khởi, đoạn diệt, vị ngọt, nguy hiểm và giải thoát khỏi cảm thọ ấy, vô minh tùy miên tăng. Chính do không đoạn tận tham tùy miên đối với lạc thọ, không xả trừ sân tùy miên đối với khổ thọ, không đoạn tận vô minh tùy miên đối với bất khổ bất lạc thọ, không làm cho minh sanh khởi, nên vị ấy không thể chấm dứt khổ đau. Nếu khi lạc thọ khởi lên vị ấy không ái trước tham đắm, khổ thọ khởi lên vị ấy không sầu muộn than van, và khi bất khổ bất lạc khởi lên vị ấy như thật biết sự tập khởi, đoạn diệt, vị ngọt, nguy hiểm và giải thoát khỏi cảm thọ ấy, thì tham sân si tùy miên nơi vị ấy không tăng thêm. Do đoạn tận tham sân si tùy miên đối với cả ba thọ, vị ấy có thể ngay trong hiện tại, chấm dứt khổ đau. Do vậy, thánh đệ tử yểm ly căn trần thức xúc thọ ái. Do yểm ly, ly tham. Do ly tham, được giải thoát, và biết được tâm đã giải thoát. Sanh đã tận, phạm hạnh đã thành, việc nên làm đã làm, không còn trở lui trạng thái này.

Sau khi Thế tôn giảng như vậy, có sáu mươi tỷ kheo được giải thoát khỏi các lậu hoặc, không còn chấp thủ.

III. CHÚ GIẢI

Mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý là sáu nội xứ, tiếp xúc với sáu ngoại xứ là sắc thanh hương vị xúc pháp, khởi lên sáu loại nhận thức. Do xúc giữa căn trần thức khởi lên 6 loại cảm thọ, do 6 loại thọ khởi sáu loại ái, gọi là sáu bộ sáu. Phật phân tích như thế để cho thấy trong đó không có một bản ngã cố định bất biến, nhờ thấy vậy nên không có những khuynh hướng thầm kín (tùy miên) tham, sân, si đối với loại thọ. Nhờ ly tham nên giải thoát. Kinh này cũng gần giống kinh 149 Ðại lục xứ, chỉ trình bày hơi khác.

IV. PHÁP SỐ
V. KỆ TỤNG

    Phật gọi các tỷ kheo
    Giảng 6 nội ngoại xứ
    Thức, xúc, thọ, và ái
    Mỗi thứ đều gồm sáu.
    Thức do duy
    ên căn trần,
    Căn trần thức gặp gỡ
    Th
    ành ra có sáu xúc.
    Từ xúc sinh thọ, ái.
    Mắt, sắc và nhãn thức
    Ðều không phải tự ngã
    Vì sinh diệt của chúng
    Ðã được thấy rõ ràng.
    Phải đi đến kết luận:
    Tự ng
    ã sinh và diệt
    Ngay chính ở nơi tôi.
    Mắt, sắc và nhãn thức
    Quả thực đều vô ngã,
    Nên nhãn xúc cũng vậy.
    Cũng vậy thọ và ái
    Từ xúc mà sinh ra.
    Tai mũi lưỡi thân ý
    Năm căn kia cũng vậy
    Cũng vậy l
    à 6 trần,
    6 thức và 6 xúc,
    6 thọ cùng 6 ái
    Tất cả đều vô ngã.
    Ai thấy những pháp ấy
    Là của tôi, là tôi
    Là tự ngã của tôi:
    Thì thân kiến tập khởi.
    Ai quán các pháp ấy
    Không của tôi, không tôi
    Hay tự ngã của tôi:
    Thân kiến ấy đoạn diệt.
    Căn trần thức xúc tiếp,
    Khởi l
    ên các cảm thọ.
    Do đắm trước lạc thọ,
    Tham t
    ùy miên tăng lên.
    Do sầu than khổ thọ,
    Sân tùy miên tăng lên.
    Cảm súc không khổ lạc:
    Vô minh tùy miên tăng,
    V
    ì không như thật biết
    Sự tập khởi, đoạn diệt,
    Vị ngọt v
    à nguy hiểm
    Cùng với sự giải thoát
    Khỏi các cảm thọ ấy.
    Chính do không đoạn tận
    Tham t
    ùy miên lạc thọ,
    Không trừ sân tùy miên
    Ðối với các khổ thọ,
    Không đoạn si tùy miên
    Bất khổ bất lạc thọ,
    Không làm minh sanh khởi,
    Nên vị ấy không thể
    Dứt khổ đến tận cùng.
    Nếu không tham lạc thọ
    Không buồn sầu khổ thọ
    Và khi không khổ lạc
    Như thật biết sinh diệt,
    Vị ngọt cùng nguy hiểm
    Và giải thoát cảm thọ,
    Tham sân si tùy miên
    Nơi vị ấy không tăng.
    Do đoạn tận t
    ùy miên
    Ðối với cả ba thọ,
    Vị ấy ngay hiện tại,
    Chấm dứt được khổ sầu.
    Do vậy, thánh đệ tử
    Yểm ly căn trần thức
    Cho đến xúc thọ ái.
    Do yểm ly, ly tham.
    Do ly tham, giải thoát,
    V
    à tự mình biết được
    Tâm đ
    ã được giải thoát.
    Sanh tận, phạm hạnh th
    ành,
    Việc nên làm đã làm,
    Một đi không trở lại.
    Sau khi Thế tôn giảng
    Có sáu mươi tỷ kheo
    Giải thoát không chấp thủ
    Th
    ành lậu tận La hán.

TRUNG BỘ KINH - BÀI KINH SỐ 149

Ðại lục xứ
(Mahasalayatanika Sutta)

I. TOÁT YẾU

The Great Sixfold Base.

How wrong view abou the six kinds of sense experience leads to future bondage, while right view about them leads to liberation.

Sáu xứ lớn lao.

Thế nào là tà kiến về sáu loại kinh nghiệm giác quan sẽ đưa đến trói buộc và chánh kiến về chúng sẽ đưa đến giải thoát.

II. TÓM TẮT

Phật dạy các tỷ kheo: Vì không như thật tuệ tri về 6 căn, 6 trần, 6 thức, 6 xúc và 3 cảm thọ khởi lên do căn trần thức tiếp xúc, nên người ta ái trước lạc thọ, đưa đến sự tích chứa năm thủ uẩn tương lai, tăng trưởng ái đi kèm hỷ và tham, tìm cầu hoan lạc khắp chốn, khiến vị ấy cảm thọ thêm thân khổ và tâm ưu.

Nếu như thật tuệ tri về mắt, sắc và nhãn thức (cũng vậy với 5 căn, trần thức kia, thành 18 giới) thì không ái trước lạc thọ do xúc khởi lên. Do không ái trước nên 5 thủ uẩn đi đến tàn diệt trong tương lai, ái đưa đến tái sanh bị đoạn tận nơi vị ấy, nên không còn cảm thọ các khổ về thân tâm, vị ấy cảm được lạc thọ.

Một người như vậy thấy như thật các pháp, gọi là chánh kiến, suy nghĩ nơi vị ấy là chánh tư duy, tinh tấn nơi vị ấy là chánh tinh tấn, niệm nơi vị ấy là chánh niệm, định nơi vị ấy là chánh định, còn thân nghiệp ngữ nghiệp và cách sống của vị ấy đều đã thanh tịnh từ trước. Nhờ tu tập vị ấy viên mãn 8 thánh đạo, 4 niệm xứ, 4 chánh cần, 4 như ý túc, 5 căn, 5 lực, 7 giác chi. Nơi vị ấy hai pháp được song hành là chỉ và quán. Vị ấy với thượng trí hiểu biết 5 uẩn, đoạn tận vô minh, hữu ái, tu tập chỉ quán, chứng ngộ vô minh và giải thoát.

Ðức Thế tôn giảng xong, các tỷ kheo hoan hỷ tín thọ lời Ngài.

III. CHÚ GIẢI

Sau khi đã làm sạch thân nghiệp (trừ sát đạo dâm), ngữ nghiệp (không nói dối, hai lưỡi, nói thô tục, nói vô ích) và cách sinh nhai (không hành nghề ; khất thực đúng pháp), tỳ kheo nên biết như thật nguyên nhân của đau khổ để diệt khổ. Nguyên nhân ấy là dục lạc (vui với thanh sắc), vì có vui mới tham đắm, mất cảnh giác. Vì tham đắm nên bôn ba đi tìm, vì đi tìm nên tái sinh chỗ nọ chỗ kia, mãi mãi nhập thai không giải thoát đau khổ. Thấy rõ sắc là vô thường thì thoát ly dục lạc, không còn các khổ thân tâm; đây gọi là ly dục lạc của thiền định. Nhờ biết lạc này cũng vô thường nên không đắm say thiền định. Nơi vị ấy luôn song hành hai pháp là chỉ (đình chỉ các ham muốn) và quán (tuệ thấy rõ sinh diệt của các pháp) nên không đam mê các lạc thọ do xúc khởi lên. Tất cả các thiện pháp trong 37 pháp trợ đạo (4 niệm xứ, 4 chánh cần, 5 căn, 5 lực, 7 giác chi và 8 thánh đạo) đều bắt nguồn từ chính niệm tỉnh giác đối với dục lạc.

IV. PHÁP SỐ
V. KỆ TỤNG

    Phật dạy các tỷ kheo:
    Vì không thấy như thật
    Về căn, trần, thức, xúc
    (mỗi thứ đều gồm sáu)
    V
    à ba cảm thọ sinh
    Do căn trần thức xúc,
    Người ta tham lạc thọ,
    Ðưa đến sự chứa nhóm
    Năm thủ uẩn tương lai,
    Tăng trưởng ái hỷ tham,
    T
    ìm hoan lạc khắp chốn,
    Cho thân khổ tâm sầu.
    Nếu như thật tuệ tri
    Về căn trần và thức
    (tất cả 18 giới)
    Thì không ái trước lạc
    Do xúc mà khởi lên.
    Do vì không ái trước
    Năm thủ uẩn tương lai
    Sẽ đi đến t
    àn diệt,
    Ái đưa đến tái sanh
    Cũng dứt nơi vị ấy,
    Thân tâm không c
    òn khổ
    Vị ấy sống an vui.
    Người ấy thấy như chân
    Nên gọi là chánh kiến,
    Nghĩ đúng: chánh tư duy
    Si
    êng đúng: chánh tinh tấn,
    Nhớ đúng l
    à chánh niệm,
    Tập trung đúng: chánh định.
    C
    òn thân nghiệp ngữ nghiệp
    Và cách sống vị ấy
    (ba chánh: ngữ, nghiệp, mạng)
    Phải thanh tịnh từ trước.
    Nhờ tu mà thành tựu
    Ðược thánh đạo tám ngành
    Cùng với 4 niệm xứ,
    4 chánh cần, thần túc,
    Căn lực và giác chi.
    Chỉ quán nơi vị ấy
    Luôn luôn được song hành
    Với thượng trí hiểu biết
    5 uẩn là vô ngã,
    Ðoạn vô minh, hữu ái,
    Tu tập chỉ và quán,
    Chứng ngộ minh giải thoát.
    Ðức Thế tôn giảng xong,
    Ðại chúng đều hoan hỷ.

TRUNG BỘ KINH - BÀI KINH SỐ 150

Nói cho dân chúng Nagaravinda
(Nagaravindeyya Sutta)

I. TOÁT YẾU

To the Nagaravindans.

The Buddha explains to a group of brahmin householders what kind of recluses and brahmins should be venerated.

[Phật giảng cho một nhóm gia chủ bà la môn biết hạng sa môn bà la môn nào đáng cung kính.]

II. TÓM TẮT

Khi du hành trong làng Nagaravinda của những người bà la môn tại xứ Kosala, Phật bày cho các gia chủ bà la môn cách trả lời các câu hỏi. Nếu được hỏi Sa môn bà la môn nào không đáng tôn kính, cần phải đáp sa môn bà la môn nào không lìa tham sân si đối với sắc thanh hương vị xúc pháp, ba nghiệp thân ngữ ý khi vầy khi khác (khi ma khi Phật). Vì như vậy thì không khác gì thế tục. Sao biết một sa môn hay bà la môn đã lìa tham sân hay đang trên đường ly dục? Vì thấy họ sống tại các nơi không có sắc thanh hương vị xúc đáng ưa để khởi lòng tham. Các gia chủ bà la môn hoan hỷ tín thọ và xin trọn đời quy y Phật.

III. CHÚ GIẢI

Kinh này có vẻ mâu thuẫn với kinh 152, Tu tập căn, trong đó Phật cốt nhấn mạnh ô nhiễm là do tâm không do căn (mắt tai) hay cảnh (thanh sắc). Nhưng muốn đạt đến trình độ căn tu tập cao nhất của kinh 152, trước hết cũng phải qua giai đoạn đầu là ở rừng, tránh né những nơi dễ kích động tham dục.

IV. PHÁP SỐ
V. KỆ TỤNG

    Khi du hành trong làng
    Na-ga-ra-vin-da
    Của người bà la môn
    Tại xứ Ko-sa-la,
    Phật bày các gia chủ
    Cách trả lời câu hỏi:
    Sa môn bà la môn nào
    Là không đáng tôn kính?
    Cần đáp ai chưa l
    ìa
    Tham sân và si mê
    Sắc thanh hương vị xúc;
    Ba nghiệp thân ngữ ý
    Khi thì vầy khi khác
    (tức khi ma khi Phật).
    Vì như vậy không khác
    Những tục gia đệ tử.
    L
    àm sao mà biết được
    Sa môn b
    à la môn
    Ðã lìa tham sân si
    Hoặc đang lìa bỏ dục?
    Vì thấy họ thường sống
    Tại các nơi cư trú
    Không có sắc thanh hương
    Hay vị xúc đáng ưa
    Ðể khởi lòng tham ái.
    Các gia chủ làng này
    Rất hoan hỷ tín thọ
    Xin trọn đời quy y.

TRUNG BỘ KINH - BÀI KINH SỐ 151

Khất thực thanh tịnh
(Pindapataparisuddhi Sutta)

I. TOÁT YẾU

The Purification of Almsfood.

The Buddha teaches Sariputta how a bikkhu should review himself to make himself worthy of almsfood.

Sự làm sạch đồ ăn khất thực.

Phật dạy Xá lợi Phất một tỷ kheo nên quán xét như thế nào để làm cho mình xứng đáng với thực phẩm xin được.

II. TÓM TẮT

Khi đức Thế tôn ở Trúc lâm thuộc thành Vương xá, một hôm tôn giả Xá Lợi Phất xuất khỏi thiền định độc cư, đến hầu Phật. Phật khen các căn của tôn giả thanh tịnh, làn da trong sáng; và hỏi nay tôn giả phần lớn an trú tâm như thế nào. Tôn giả bạch Phật, con an trú vào KHÔNG. Phật dạy rất tốt, đấy là sự an trú của bậc đại nhân, tức là an trú Tánh không.

Rồi Ngài giảng dạy cách an trú Không:

1. Trên đường đi khất thực và trở về, nên tự hỏi mình có khởi lên dục tham, sân, si, hận đối với sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp do sáu căn nhận thức hay không. Nếu có, phải tinh tấn đoạn trừ. Nếu không, nên hoan hỷ ngày đêm tu học các thiện pháp.

2. Lại nên thường tự xét đã đoạn hay chưa năm dục trưởng dưỡng, năm triền cái?

3. Hiểu thấu đáo năm uẩn chưa?

4. Ðã tu tập hay chưa: bốn niệm xứ, bốn chánh cần, bốn thần túc, năm căn, năm lực, bảy giác chi, tám thánh đạo, chỉ và quán?

5. Ta đã chứng minh và giải thoát hay chưa? Tự xét như vậy nếu thấy mình chưa thực hành các pháp ấy thì nên tinh tấn tu tập. Nếu thấy mình có tu tập các pháp ấy thì hãy hoan hỷ tiến tu. Như vậy là cách làm cho sự khất thực của mình được thanh tịnh. Ðấy cũng là cách nghĩ của các sa môn bà la môn trong quá khứ, hiện tại, vị lai để làm thanh tịnh sự khất thực.

III. CHÚ GIẢI

Muốn xứng đáng với sự cung ứng về các nhu cầu ăn mặc ở bệnh do xã hội mang lại, một người tu cần ý thức tỉnh giác về các ô nhiễm khởi lên để đoạn trừ, hoặc không khởi lên thì hân hoan tu học các thiện pháp.

IV. PHÁP SỐ
V. KỆ TỤNG

    Khi đức Thế tôn
    Ở vườn Trúc lâm
    Thuộc th
    ành Vương xá,
    Vào một buổi chiều
    Ngài Xá Lợi Phất
    Ra khỏi thiền tịnh
    Ði đến hầu Phật.
    Phật khen tôn giả
    Các căn thanh tịnh,
    L
    àn da trong sáng;
    Và hỏi tôn giả
    Trú tâm thế nào.
    Tôn giả bạch Phật,
    Con trú vào KHÔNG.
    Phật dạy rất tốt,
    Ðấy là chỗ trú
    Của bậc đại nhân,
    Tức trú Tánh không.
    Rồi Ng
    ài giảng dạy
    Cách an trú Không:
    Trên đường khất thực
    V
    à đi trở về,
    N
    ên thường tự hỏi
    Mình có khởi lên
    Dục tham, sân, hận
    Ðối với các sắc,
    Thanh hương vị xúc
    Do năm căn nhận
    V
    à đối các pháp
    Do ý nhận thức?
    Nếu có, đoạn liền.
    Lại thường tự xét
    Ðã đoạn hay chưa
    Năm dục trưởng dưỡng,
    V
    à năm triền cái?
    Ðã hiểu thấu đáo
    Về năm uẩn chưa?
    Ðã tu tập chưa:
    Bốn pháp niệm xứ,
    Chánh cần, thần túc,
    Năm căn, năm lực,
    Bảy pháp giác chi,
    V
    à tám thánh đạo,
    Chỉ quán tu chưa?
    Ðã chứng hay chưa
    Minh và giải thoát?
    Tự xét nếu chưa
    Thì nên tinh tấn
    Tu các pháp này
    Nếu mình đã tu
    Thì nên hoan hỷ
    Tiến đến thành tựu.
    Tự xét như vậy
    Chính là cách làm
    Cho sự khất thực
    Trở thành sạch sẽ
    đấy cũng là
    Ðường lối tư duy
    Của các sa môn
    Và bà la môn
    Trong cả ba thời
    Quá, hiện, vị lai
    Ðể làm thanh tịnh
    Phẩm vật xin ăn.

TRUNG BỘ KINH - BÀI KINH SỐ 152

Tu tập căn
(Indriyabhavana Sutta)

I. TOÁT YẾU

The Development of the Faculties.

The Buddha explains the supreme development of the control over the sense faculties and the arahants’ mastery over his perceptions.

Sự tu tập các giác quan.

Phật giải thích cách tu tập tối thượng là kiểm soát các giác quan và làm chủ các tưởng (nhận thức) nơi vị A la hán.

II. TÓM TẮT

Thanh niên Uttara đệ tử của bà la môn Pàsàriya đi đến hầu thăm Phật. Phật hỏi thầy anh dạy đệ tử tu tập căn như thế nào. Thanh niên đáp, mắt đừng thấy sắc, tai đừng nghe tiếng… Bà la môn thuyết giảng về tu tập căn như vậy. Phật dạy nếu thế thì hóa ra mù và điếc là những người tu tập căn cả sao. Thanh niên cúi đầu hổ thẹn vì không trả lời được.

Khi ấy Phật gọi tôn giả A Nan mà dạy rằng, trong giới luật của các bậc thánh, vô thượng căn tu tập không phải như vậy. Tôn giả xin Phật thuyết giảng.

Phật dạy vô thượng căn tu tập là khi mắt thấy sắc, ý khởi lên hoặc vui, khổ, hoặc khổ, hoặc dửng dưng vị ấy đều biết rõ nhưng cũng biết thêm rằng, cái gì có khởi lên vì là hữu vi nên thô. Chỉ có cái này là thực, thù diệu, đó là xả. Cho nên dù khởi lên bất cứ cảm thọ nào trong ba loại ấy, tất cả đều đoạn diệt chỉ tồn tại xả. Khi tai nghe, mũi ngửi, lưỡi nếm, thân xúc, ý nhận thức cũng đều như vậy, tất cả cảm thọ đều đoạn diệt nơi vị ấy, chỉ còn lại xả, như nước không đọng trên lá sen chúc xuống.

Ðạo lộ của bậc hữu học là, mỗi khi các căn xúc tiếp với trần cảnh tự thấy mình còn khởi một trong ba loại cảm thọ ấy mà không xả bỏ, thì lấy làm hổ thẹn. Còn bậc thánh thì, khi muốn an trú tưởng yểm ly (đối với vật khả ái) hoặc tưởng không yểm ly (như khởi tâm từ trước sự vật đáng chán ghét) hoặc tưởng xả, đều có thể làm được như ý muốn. Ðây là sự tu tập căn đối với bậc thánh.

Vậy, này A Nan, Ta đã giảng thế nào là vô thượng căn tu tập trong giới luật bậc thánh, thế nào là đạo lộ bậc hữu học, thế nào là các căn đã được tu tập nơi bậc thánh. Ðây là những gốc cây, chỗ trống, các người hãy thiền tư chớ phóng dật mà phải hối hận về sau.

III. CHÚ GIẢI

Kinh này phân biệt giữa lối tu tập còn chấp tướng và lối tu vô tướng. Chấp tướng là lối tu nhắm mắt bưng tai, không dám tiếp xúc với đời vì sợ nổi tham, sân… vì quan niệm nhiễm ô là do ngoại cảnh. Phật dạy kinh này cốt cho thấy cách ấy sai. Vì ô nhiễm là ở tâm, không phải ở nơi con mắt hay sắc đẹp. Cho nên Phật nhấn mạnh lối tu có trí tuệ, là khi mắt thấy sắc, phải ý thức sự ưa, ghét, hay dửng dưng đang khởi lên, lại rõ biết ba loại cảm thọ ấy vô thường vì sẽ thay đổi, chấm dứt. Như vậy thì không đến nỗi yêu mê man tàn tật hay ghét cay ghét đắng. Thái độ quá khích này là do vô ý thức. Khi có ý thức thì chỉ chứng kiến tất cả nhưng cái tôi không can dự. Ấy gọi là giải thoát nhờ tuệ, không cần tránh né sắc thanh, không cần trốn đời để vào trong núi. Ðấy là tu tập giác quan cách cao nhất. Bất cứ gì cũng không thể khuấy động người ấy, như nước không đọng lại trên lá sen lá môn.

Tu tập theo kiểu ấy khi chưa thành tựu (có khi cũng còn nổi ưa ghét) thì gọi là hữu học, vì còn phải tự chế, tự tri. Khi đã thành tựu, hoàn toàn làm chủ yêu ghét thì gọi là tự tại, thái độ của một bậc A la hán vô học. Khi cần yêu, vị ấy yêu. Như gặp ai làm hại mình, đánh giết mình, vị ấy có thể khởi lên niềm thương yêu lai láng, như thái độ của chúa Giê su khi bị đóng đinh. Khi cần chán ghét, vị ấy chán ghét. Ấy là khi sắc đẹp tiếng hay muốn đến dẫn dụ mình, thì khởi chán ghét để dù thấy nghe cũng như không.

IV. PHÁP SỐ
V. KỆ TỤNG

    Phật hỏi Uttara
    Ðệ tử bà la môn
    Thầy anh dạy những gì
    Về các căn tu tập.
    Thanh ni
    ên đáp lời rằng
    Con mắt chớ thấy sắc,
    Tai đừng nghe âm thanh…
    Tu tập căn l
    à vậy.
    Phật dạy nếu thế thì
    Hóa ra mù và điếc
    Lại chính l
    à những người
    Tu tập căn tối thượng?
    Thanh ni
    ên không đáp được
    Phật b
    èn gọi A Nan
    Dạy cách tu tập căn
    Trong giới luật bậc thánh:
    Khi con mắt thấy sắc,
    Ý có thể khởi l
    ên
    Vui, khổ, hoặc dửng dưng
    Vị ấy đều biết rõ.
    Nhưng cũng biết thêm rằng,
    Cái gì có khởi lên
    Vì hữu vi nên thô.
    Chỉ là xả thù diệu.
    Cho nên dù khởi lên
    Bất cứ cảm thọ nào
    Tất cả đều đoạn diệt
    Chỉ tồn tại tâm xả.
    Khi tai nghe, mũi ngửi,
    Lưỡi nếm, thân xúc giác,
    Ý nhận thức các pháp
    Cũng đều như vậy cả
    Ðoạn diệt mọi cảm thọ
    Chỉ còn duy nhất xả,
    Như nước không đọng lại
    Tr
    ên lá sen chúc xuống.
    Một vị hữu học đạo
    Mỗi khi căn xúc cảnh
    Tự thấy m
    ình còn khởi
    Một trong ba cảm thọ
    Mà không xả bỏ liền,
    Thì lấy làm hổ thẹn.
    Còn đối với bậc thánh
    Th
    ì có thể tùy nghi:
    Hoặc trú tưởng yểm ly
    (đối với vật khả ái)
    Hoặc tưởng không yểm ly
    (như l
    à khởi tâm từ
    trước sự vật đáng chán)
    Hoặc ý tưởng xả bỏ,
    Không g
    ì không thể làm.
    Ðây là tu tập căn
    Ở nơi một bậc thánh.
    Vậy, n
    ày hỡi A Nan,
    Vô thượng căn tu tập
    Trong giới luật bậc thánh,
    Ðã được Ta giảng dạy
    Đạo lộ tu tập căn
    Hữu học v
    à vô học,
    Ta cũng đã nói xong.
    Hãy đến nơi gốc cây,
    Hoặc chỗ n
    ào vắng vẻ,
    Mà tư duy tu tập
    Chớ phóng dật buông lung
    Ðể về sau hối hận.

 

 

---o0o---

 

[Mục Lục] [01] [02] [03] [04] [05] [06] [07]

[08] [09] [10] [11] [12] [13] [14] [15]

 

---o0o---

Nguồn: www.nigioingaynay.com

Trình bày: Nhị Tường

Cập nhật: 1-12-2007

Nguồn: www.quangduc.com

Về danh mục

Thu c phan ii tinh thien thu thích chuong iv vua a duc va dai thien ï¾ ï½ khi bi nguoi khac hieu lam thi phai lam nhu the Gánh nặng của nghiệp Xuân có đi có đến toàn bộ đời sống của mình chỉ là tứ thập nhị chương mot coi di ve vị nữ tiến sỹ quy y cửa phật để Ăn chay ón Tu Ç Suy nghĩ hay la mot pho buÓn cảm niệm ngày phật thành đạo suc manh cua su tha thu dung bao gio de nan au dam giet chet giac mo cua tuoi tre oi xin hay song mot doi y nghia ô Steve Jobs long tu nghiem ve nhan quatu viet chi va viet muc Chí xuất trần của Trưởng lão Ni Đại vị bác sĩ thay đổi quan niệm về thiền tuoi tre phÃÆp Hạnh phúc Ngày càng có nhiều người bị viêm khớp y nghia chuyen ba lao cung den thoi duc phat Tại sao nên nuôi con bằng sữa mẹ Lòng khoan dung của mẹ chùa tứ kỳ Ùng di hai phu van Bánh xèo chay nhã æ xin cùng nhau bảo vệ truyền thông chân kho dau va con duong quan niem Những món chay bổ dưỡng trong mùa Vu Lan quang nam truong lao ht thich chon phat vien tich chua nhat tru Thêm đường vào thức uống sẽ gây tăng sám hối như thế nào là đúng đạo bụt qua nhận thức mới